NHỮNG
NGƯỜI MUÔN NĂM CŨ
*
Tất nhiên, không ai
tin việc tập thơ Trần Dần bị “niêm phong” chỉ vì vài cái lỗi về thủ tục. Nhưng
thôi, đó cũng là một lối ra rất đỡ mất mặt. Dù sao, Thơ Trần Dần cũng đã bán
rất chạy, ngay đến cậu con trai tôi, 15 tuổi, cũng tò mò.
Thơ ông đa nghĩa quá.
Chỉ riêng một bài Nhất Định Thắng,
tôi nghĩ, đã có thể vừa quy kết ông là một tên phản động cực kỳ nguy hiểm, vừa
có thể ca ngợi ông như một người yêu nước nồng nàn. Không hiểu sao, cho tới
nay, chưa thấy ai làm một bộ phim truyện dựa trên bài thơ ấy.
Ta ở phố Sinh Từ...
Một giai đoạn lịch sử
buồn đau của đất nước hiện ra mồn một trong mỗi câu thơ của ông. Khi Trần Dần
viết bài thơ ấy, đất nước đang bị phân đôi, ở miền Bắc chiến tranh kết thúc.
Nhưng, cuộc sống của người dân thì không có hòa bình. Trần Dần viết:
Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc
Đất hôm nay tầm tã mưa phùn
Bỗng nhói ngang lưng, máu rỏ xuống bùn
Lưng tôi có tên nào chém trộm?
Không hiểu, hình
tượng “vết chém ngang lưng” ông viết
ở đây là để nói về nỗi đau chia cắt tổ quốc hay chỉ đơn giản nói về cái không
khí ngột ngạt ở miền Bắc, cái không khí mà đến 30 năm sau, Hữu Loan vẫn nhớ: “Thành viên nào (trong cộng đồng) cũng chứa toàn âm mưu đen tối để chủ hại
người bên cạnh”.
Theo Hiệp định
Geneve, người dân có một thời gian dài để chọn cho mình miền Nam hay miền Bắc.
Nhưng lúc ấy, không có ai tự nguyện từ miền Nam chạy ra “Miền Bắc thiên đường của các con tôi”. Trong khi, hàng triệu người
dân đã gồng gánh vào Nam để lại mồ mả ông bà trên đất Bắc. Thoạt đầu, có vẻ như
Trần Dần trách móc, thậm chí ông đã buộc tội “những bạn đi Nam” là Thiếu quả tim bộ óc! Nhưng rồi quan sát kỹ
hơn, ông buột hỏi:
Họ vẫn ra đi
Nhưng sao bước rã rời?
Sao họ khóc?
Họ có gì thất vọng?
Trong những ngày xây
dựng Chủ Nghĩa Xã Hội ấy, tình hình Thế giới được “quán triệt” thành hai “phe”
Xô- Mỹ. Nhưng cái “phe” mà ông quan tâm cũng “căng thẳng” vô cùng:
Gặp em trong mưa
Em đi tìm việc
Mỗi ngày đi lại cúi đầu về
- Anh ạ!/ Họ vẫn bảo chờ...
Ông nghĩ: Trăm cái bận hàng ngày nhay nhắt./ Chúng ta
vẫn làm ăn chiu chắt./ Ta biết đâu bên Mỹ miếc tít mù/ Chúng còn đương bày kế
hại đời ta?
Nhưng “cơm áo” không
phải là những gì ngột ngạt nhất mà những người như ông đã từng nếm trải.
Theo tác giả của Màu Tím Hoa Sim, nhà thơ Hữu Loan:
Trên thực tế, khi ấy, rất hiếm những bí thư, chủ nhiệm, thủ kho, cửa hàng
trưởng tốt, phải nói hầu hết là ăn cắp, thi nhau để ăn cắp, nhưng văn học không
được nói thực mà phải dựng lên toàn là những người lý tưởng. Các văn nghệ sỹ
lúc ấy phải học tập những tài liệu hiện thực xã hội chủ nghĩa, từ Liên Xô đưa
về, rồi tự Diên An (Trung Quốc) đưa sang. Nghĩa là văn nghệ chỉ được nói đến
cái xã hội thiên đường vô cùng đẹp chưa có, chưa biết bao giờ mới có, chứ Không
được nói đến những cảnh trộm cướp áp bức bóc lột đang diễn ra trước mắt.
Theo ông Hữu Loan:
Khi một nhà báo hỏi: “Như vậy là Cách
mạng đã cấm tự do ngôn luận?” Ông Trường Chinh sửng sốt: “Anh nói sao? Các anh được tha hồ tự do chửi
đế quốc đó thôi.” Tố Hữu là một trong những nhà lãnh đạo hăng hái đưa “hiện thực Xã hội Chủ nghĩa” vào văn
nghệ. Trong khi Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm... phản đối đường lối này. Những
người phản đối sau đó, lần lượt dính vào một vụ án gọi là “Nhân Văn Giai Phẩm”.
Phong trào Giai phẩm
và Nhân Văn bắt đầu khi hai nhà thơ Trần Dần, Lê Đạt phê phán tập thơ Việt Bắc
của Tố Hữu là “dòng thơ lục bát không có
gì mới, nội dung vân vê kỷ niệm không lấy gì làm sâu sắc”. Trần Dần là
người phê nặng lời nhất. Tuy nhiều người tán thành với nhận xét này nhưng tập
thơ vẫn giành được giải nhất đầu năm 1956. Về sau, nhóm Nhân Văn còn viết nhiều
bài được coi như là những “Thất Trảm Sớ”,
đặc biệt, bài của Nguyễn Hữu Đang nói về thiết lập nhà nước Pháp quyền.
Ngày nay, nếu đọc lại
những bài viết của nhóm Nhân Văn, phải công nhận là nước ta đã từng có những
nhà trí thức khả kính. Đất nước ra nông nỗi hiện nay là bởi lịch sử đã không
chọn họ. Nguyễn Hữu Đang bị tù 17 năm (sau 7 năm thì được tha); Phùng Cung, tác
giả truyện ngắn “Con ngựa già của chúa
Trịnh”: 7 năm tù giam; Vũ Duy Lân (Bộ Nông lâm, bị nghi là cho Nguyễn
Hữu Đang một áo len khi đang đi tù): bị giam 7 năm mới tha; Giám đốc Nhà xuất
bản Minh Đức: 17 năm... Khi Hoàng Cầm cho in Nhất Định Thắng, Trần Dần bị mất chức và sau đó bị bắt giam.
Nếu Trần Dần không dùng lưỡi lam rạch cổ, có lẽ thời gian “ở trong lao” của ông
không chỉ là 3 tháng. Trong tình cảnh ấy, mấy câu thơ: Những ngày ấy bao nhiêu thương xót/ Tôi bước đi/ không thấy phố/ không
thấy nhà/ Chỉ thấy mưa sa/ trên màu cờ đỏ... không hẳn là không mang ít
nhiều ẩn dụ.
Cho dù phải sau khi
Tố Hữu chết, các ông Hữu Loan, Trần Dần, Lê Đạt... mới được “chiêu tuyết”, vụ
“Nhân Văn” không đơn giản chỉ là những vấn đề giữa các cá nhân với nhau. Một
nhà nghiên cứu viết, ở thời điểm ấy, thay đổi là một quy luật. Người biết và sử
dụng được quy luật thì thăng quyền tiến chức, như Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi;
người biết, nhưng chỉ né tránh thì tồn tại như Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nguyễn Huy
Tưởng; hay xa lánh như Nguyên Hồng. Người không biết, thì đành phải sa hầm sẩy
hố... Kể ra thì, các bác ấy sống quá tử tế, làm thơ quá thơ, tính đa nghĩa
trong thơ của các bác ấy thật dễ để mà suy diễn.
Nếu, 50 năm trước,
các bác ấy cứ theo Tố Hữu, viết huỵch toẹt: Má
thét lớn tụi bay đồ chó/ Cướp nước tao, cắt cổ dân tao...; hay thật xạo: Yêu
biết mấy nghe con tập nói/ Tiếng đầu lòng con gọi Stalin... rồi trơ trẽn
khi nghe tin Stalin chết:
Thương cha, thương mẹ, thương chồng/ Thương mình
thương một, thương Ông thương mười, thì cuộc đời các bác ấy chắc chắn đã không phải
thế.
Viết như thế không
chỉ giúp Tố Hữu leo dần tới Bộ Chính trị, đã từng có lúc ông nhà thơ khẩu hiệu
này lãnh đạo sự nghiệp phát triển kinh tế cho đất nước. Chúng ta không chỉ là
nạn nhân của ông ở góc độ “giá lương tiền”. Suốt gần 30 năm, sách vở ngập tràn
thơ Tổ Hữu. Bài thi nào cũng Tố Hữu. Giải bình thơ hay nào cũng Tố Hữu. Biết
bao thế hệ đã tưởng đấy là thơ. Dân trí đã từng bị đặt trong cái “thênh thang 8 thước” đó. Nay thì Tố Hữu
đã chết. Mới đây, gia đình ông đã bán nốt căn biệt thự ở phố Hồ Xuân Hương với
giá tính bằng đô la cũng hơn 7 triệu.
Trong khi những người
như Tố Hữu được ban những bổng lộc như vậy, những người như Trần Dần, Hữu Loan
lại bị đọa đày. Bà Phạm Thị Nhu, vợ ông Hữu Loan, kể: “Chúng tôi nuôi 10 đứa con thật vô cùng vất vả. Ông nhà tôi đi thồ đá,
tôi làm 2 sào ruộng, lại xay bột làm bánh bán ở chợ. Hôm nào bán ế là gánh về
một gánh nặng, cả nhà ăn trừ bữa. Tôi cứ xào một xoong to toàn các thức rau,
các con đi học về là nhào vào múc ăn thay cơm. Ba đứa trai lớn thì hàng ngày
phải dậy từ 3 giờ sáng, kéo 3 chuyến xe cải tiến chở đá từ trên núi xuống hồ
cách 2 cây số, bán cho các thuyền rồi mới ăn vội bát cơm độn để chạy bộ 7 cây
số đi học”.
Các con của Hữu Loan
gần như không có ai vào được đại học vì lý lịch của một kẻ “Nhân Văn”. Một
người con thi đủ điểm đi học nước ngoài cũng không được đi học. Ông đã bị biết
bao người thân trách cứ. Nhưng, khi quyết định rời bỏ Hà Nội về quê, Hữu Loan
đã nói với vợ: “Thôi thì bà với các con
chịu khổ để cho tôi được sống lương thiện. Tôi mà chịu khó hót thì nhà lầu xe
hơi sung sướng đấy, nhưng tôi không làm được”. Ông giải thích: “Làm nhà văn khó lắm. Viết vừa lòng nhà nước
thì dân chửi, viết vừa lòng dân thì đi tù như chơi. Thôi tôi về đi cày”.
Đôi khi nghĩ, những
người như Hữu Loan, Trần Dần dại thật. Nhưng, Những ngày ấy bao nhiêu thương
xót, làm sao có thể bắt những người như các ông có thể quay lưng lại với nhân
dân!
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Bạn đọc cảm nhận
về thơ của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 2l
Mời nghe Khề Khà Truyện đọc truyện ngắn
“CÔ” SƯỚNG CƯỚI VỢ của Đặng Xuân Xuyến:
Nguyễn Đình Văn giới thiệu
Tác giả: Huy Đức - nguồn: https:/khacbinh.nguyen.3l
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
0 comments:
Đăng nhận xét