(Tác giả Trần Mỹ Giống) |
NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LÊ
TRỌNG HÀM
TRONG LĨNH VỰC THƯ MỤC HỌC
TRONG LĨNH VỰC THƯ MỤC HỌC
Lê Trọng Hàm tự Quốc Ninh, hiệu
Đông Giang, Nam Á Dư Phu, Nam Sử Thị, tục gọi Nhì Hàm, sinh năm Nhâm Thân
(1872) (có tài liệu viết ông sinh ngày 12 - 6 năm Quý Dậu 1873), mất ngày 2
tháng 9 năm Tân Mùi (1931), quê làng Hội Khê Ngoại, huyện Giao Thuỷ nay thuộc
xã Hải Vân, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.
Ông là một nhà nho yêu nước,
cần cù sưu tầm tài liệu, biên soạn sách và sáng tác thơ ca tuyên truyền lòng
yêu nước trong nhân dân. Tính ông rất hào hiệp, thường chu cấp tiền gạo cho học
sinh nghèo ăn học và nuôi các nhà nho trong nhà viết sách.
Khoảng năm Nhâm Tuất Khải Định
(1922), ông thành lập và đứng ra làm Hội chủ Nam Việt Đồng Thiên hội. Hội thu hút được nhiều nhà nho địa
phương tham gia. Hoạt động chủ yếu của hội là biên soạn bộ Minh Đô sử. Sau 10 năm làm việc chuyên cần, hội đã hoàn
thành bộ Minh Đô sử.
Thư viện gia đình của Lê Trọng
Hàm có trên 2.000 sách xếp trong 20 tủ gỗ có cánh. Sách được đóng dấu “Xuân Hội
- Lê Thị Gia Tàng”. Thư viện này hai lần bị tịch thu trong thời gian Kháng
chiến chống Pháp và trong Cải cách ruộng đất. Con cháu Lê Trọng Hàm cất dấu
được một số cuốn sách quý, sau giao lại cho Viện sử học, đích thân ông Nguyễn
Đổng Chi nhận, trong đó có bộ Minh Đô sử và bộ Đại Việt sử ký
toàn thư (bản khắc đời Cảnh Thịnh).
(Tác giả Trần Mỹ Giống cùng các Thủ thư Thư viện tỉnh Nam Định) |
Theo thống kê chưa đầy đủ của
Thư viện tỉnh Nam Định, Lê Trọng Hàm có trên ba mươi tác phẩm viết về sử học,
địa chí, ngôn ngữ, khoa học tự nhiên, sách giáo khoa, văn học nghệ thuật...
như: Á châu tôn giáo (3
quyển), Bách
niên nhân vật kỷ, Bảo Hán châu liên (10 quyển), Bùi gia huấn hài chú thích (giáo khoa), Cường dư (20 quyển, tóm tắt tri thức khoa
học tự nhiên và xã hội), Di quyết văn (2 quyển, giáo khoa, những bài văn hay), Đại số học đại biên, Đàm Hoa pháp
tự, Đăng khoa bị khảo, Đông cầu văn hoá sơ giải, Hải Nam văn chiến (20 quyển), Hán tự phong giao (Sưu tầm Ca dao sáng tác bằng chữ
Hán), Hoàn hải
kính đài (3
quyển, địa lý các nước), Hội Khê địa bạ, Kinh học chính tôn, Lê gia tộc phổ (2 quyển), Nam học tinh hoa (10 quyển), Ngũ truyện văn thông (15 quyển, tìm hiểu 5 nhà bác học
Trung Quốc), Phạm
Chỉ Trai văn tập (3 quyển, sưu tầm các tác phẩm của Phạm Thế Lịch), Phần hương chính yếu (Phong tục, lễ hội của làng Hội
Khê Ngoại), Quảng tiếu lâm thư (sưu tầm truyện cười dân gianViệt
Nam), Quế Hải
văn kỳ (10
quyển, Các tác phẩm cổ văn chữ Hán của vùng đất Nam Định), Quốc sử quy tôn (50 quyển bản
thảo), Quốc
văn (7 quyển,
tập hợp văn thơ Nôm hay), Thi gia tương độ (10 quyển), Thổ âm chính biên, Ty vô cao sử (3 quyển ), Vạn tự liên châu (2 quyển, giáo khoa)... Ngoài ra, ông còn
nhiều thơ, ca dao có giá trị nuôi dưỡng và khích lệ lòng yêu nước được lưu
truyền trong dân gian.
Trong việc biên soạn bộ Minh
Đô sử, Lê Trọng Hàm đóng góp nhiều công sức và trí tuệ. Ông vừa là người chủ
trì, lo kinh phí cho hội hoạt động, vừa làm công việc trực tiếp biên soạn của
một soạn giả. Một số tác phẩm của ông đã được đưa vào trong Minh Đô sử như: Hán văn Nam kỵ khảo (Sách
1), Mạc Kính thao truyện dịch thuật (Sách 46), Thuỷ tử ca (Sách 20)...
Minh Đô sử gồm
93 quyển chính và 7 quyển phụ được chia làm 48 sách. Sách chép tay trên giấy
bản thường, khổ 28 cm x 16 cm. Bản Minh
Đô sử hiện còn lưu tại Thư viện Viện
Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu HV285 thiếu 4 sách (số 32, 43, 44, 47). Tổng cộng
44 sách hiện còn gồm 3856 tờ, tờ 2 trang, trang 8 dòng, dòng 26 chữ. Chữ viết
đá thảo, không đẹp nhưng dễ coi.
Tên sách đầy đủ là Tân
đính Nam Á Đại Minh đô đế quốc, quốc sử vựng toản xuân thu đại toàn.
Như vậy, Minh Đô sử chỉ là tên gọi tắt của bộ sách. Theo cụ Đoàn Ngọc Phan viết
trong cuốn Tác giả thơ văn Hán Nôm Hải
Hậu (Hội Văn học Nghệ thuật Nam Định xuất
bản năm 2001), Minh Đô là tên gọi cũ của quận Giao Chỉ, tức nước ta thời Bắc
thuộc. Nhưng trong Tìm hiểu kho sách Hán
Nôm - Nguồn tư liệu văn học sử Việt nam (Nhà
xuất bản Văn hoá, 1984, tập 1), cụ Trần Văn Giáp - Nhà Thư mục học Việt Nam
giải thích rằng Minh Đô là một danh từ cổ, nghĩa là vùng đất ở phía Nam. Tác
giả Lê Trọng Hàm đã theo nghĩa đó đặt tên cho sách của mình, ý muốn nói Minh Đô
là sử nước Nam .
Nội dung sách chép đủ 4 mục: Quốc sử, Liệt
truyện, Địa chí, Văn tuyển. Phần Quốc sử được coi là phần chính, các phần còn
lại (liệt truyện, địa chí, văn tuyển) chỉ là phụ thêm vào.
Giá trị cơ bản của Minh
Đô sử :
1- Liên hệ đối chiếu lịch sử
Việt Nam với lịch sử Đông Tây trong tiểu mục Trung Tây liệt sử. Điều này góp phần làm rõ bối cảnh lịch
sử Việt Nam trong lịch sử thế giới nói chung, giúp bạn đọc sáng tỏ thêm
các vấn đề lịch sử nêu trong sách.
2- Nhiều tài liệu được rút ra
trong dã sử, gia phả, thi văn tập, truyền thuyết, văn Nôm về nhiều môn loại...
không có trong chính sử và ít người còn nhớ, làm cho tư liệu phong phú và minh
hoạ cho lịch sử sáng tỏ hơn.
3- Lịch sử Tây Sơn được chép
thành một kỷ riêng gọi là Tây Sơn kỷ (Quyển 46 - 47, Sách 21 - 27), chứng tỏ tác giả đã nhận
thức đúng và coi trọng vai trò của Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam.
Các tác giả Minh
đô sử đã biến tính chất sử sách của mình
thành một bộ bách khoa không đầy đủ, lưu tàng được nhiều tài liệu văn sử quý
báu, góp phần gìn giữ cho đời sau các giá trị văn hoá của dân tộc.
Đặc biệt, trong Minh Đô sử có
hai bản thư mục của Lê Trọng Hàm rất có giá trị trong bối cảnh lịch sử thư mục
học Việt Nam đương thời phát triển khá chậm so với thế giới và chịu ảnh hưởng
sâu sắc kiểu phân loại “Tứ bộ” (Kinh - Sử - Tử - Tập) của Trung Quốc. Mãi đến
thế kỷ 18, Việt Nam mới xuất hiện công trình thư mục Nghệ văn chí của Lê
Quý Đôn và Văn tịch chí của Phan Huy Chú. Hai công trình thư mục tiêu biểu của nước
ta thời kỳ đầu hình thành và phát triển thư mục học Việt Nam có hình thức theo
kiểu Tứ bộ của Trung Quốc, nhưng đã thể hiện được ý thức bảo tồn di
sản văn hoá và tinh thần tự hào dân tộc; Nội dung và phương pháp phân loại
sách, miêu tả các yếu tố thư mục hoàn toàn khác với Tứ bộ của Trung Quốc.
Lê Trọng Hàm đã tiếp thu được tinh hoa của hai bản thư mục này, phát triển theo
quan điểm riêng qua việc biên soạn hai bản thư mục Hoàng Lê tứ khố thư mục và Hoàng Nguyễn tứ khố thư mục.
Hoàng Lê tứ khố thư mục là
bản danh mục các sách Việt Nam có từ trước thời Nguyễn, thu thập được 84 bộ sách, chia ra :
1- Hiến chương loại (8 bộ)
2- Kinh sử loại (13 bộ)
3- Thi văn loại (29 bộ)
4- Truyện ký loại (28 bộ)
5- Tạp loại (6 bộ)
Cách phân chia như trên cơ bản
như cách chia trong Văn tịch chí của Phan Huy Chú, lấy căn cứ chủ yếu là nội dung sách,
nhưng đưa Tạp loại thành một đề mục chính thức. Trong Văn tịch chí, mục Tạp loại (toán, đạo Phật,
địa lý...) chỉ là môn loại phụ, gọi là Phương
kỹ loại. Đến Hoàng Lê thứ khố thư mục,
nhóm tác giả Lê Trọng Hàm đã nhận thức rõ giá trị trong đời sống xã hội của các
loại sách trong Tạp loại, đưa Tạp loại thành môn
loại chính thức ngang với các môn loại khác. Đó là một nét mới, tiến bộ trong
nhận thức của các nhà thư mục học Việt Nam ,
góp phần đưa công tác thư mục nước ta phát triển thêm một bước.
Hoàng Nguyễn tứ khố thư mục thu
thập các sách từ đầu triều Nguyễn đến đầu thế kỷ 20. Bản thư mục chia làm 5 đề
mục:
1- Thần kinh (Huế ) 20 bộ
2- Bắc kỳ 70 bộ
3- Trung kỳ 42 bộ
4- Nam kỳ 21 bộ
5- Các nữ sĩ 6 bộ
Cách chia như trên thiếu thống
nhất, trong khi lấy cơ sở chủ yếu là yếu tố địa lý lại có mục chia theo giới
tính. Theo cách chia này, nội dung sách không được tính đến. Tuy vậy, bản thư
mục cũng có những giá trị nhất định:
- Góp phần lưu giữ tài liệu, ấn
phẩm Việt Nam lâu dài.
- Thể hiện sự phát triển văn
hoá, khoa học, nghệ thuật và tình hình các tác giả của từng vùng địa lý riêng.
- Việc đưa các tác giả nữ thành
đề mục riêng thể hiện sự coi trọng vai trò của phụ nữ, là đòn đánh vào tư tưởng
phong kiến trọng nam khinh nữ tồn tại từ lâu trong xã hội phong kiến Việt Nam .
Trên phương diện thư mục học, Hoàng
Lê tứ khố thư mục và Hoàng Nguyễn tứ khố thư mục đã thể hiện được các yếu tố thư mục rất cơ bản như tên tác giả, tên sách, các chi tiết bổ sung cho tên sách,
thời gian xuất bản, tình trạng sách còn hay mất, hình thức in ấn hay chép tay,
tóm tắt nội dung, bình luận về sách... Hai bản thư mục của Lê Trọng Hàm đã kế
thừa tinh hoa từ các công trình thư mục của Lê Quý Đôn và Phan Huy Chú, đồng
thời có chỉnh lý, phát triển, sáng tạo, mang sắc thái riêng, góp phần làm phong
phú và là cơ sở cho công tác lý luận phân loại sách và thư mục học Việt Nam sau
này.
*
TRẦN MỸ GIỐNG
Địa chỉ: Số 13/398, đường Trường
Chinh,
Phường Vị Xuyên, thành phố Nam Định.
Email: tranmygiong@yahoo.com.vn
Điện thoại: 0919811050
...................................................................................................................
- © Tác giả giữ bản quyền.
- Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gửi qua email ngày 24.12.2015
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét