(Nguồn ảnh: Internet) |
LAN MAN LẦN CUỐI VỀ CHUYỆN BÌNH LUẬN THƠ VĂN
Kính các bác!
Tôi tách riêng những dòng viết này ra
chỉ để thưa riêng với mấy bác mà tôi thấy rất thân thiết và rất cảm mến dù đã
được gặp gỡ ở ngoài đời hay
chỉ được gặp nhau trên mạng.
1.
Thư cho tôi, anh Phạm Đức Nhì
viết: “Một trong những nhiệm vụ
của việc bình thơ là nâng tầm
thưởng thức của người đọc thơ. Có tý hiểu biết về kỹ thuật, kinh nghiệm bếp
núc, các tiêu chí thẩm định giá trị thơ ca”
(Tác giả Nguyễn Bàng) |
Anh Nhì nói rất đúng. Không nói một
bài thơ, lại là một bài thơ hay mà chỉ nói một câu thơ hay thôi cũng là cả một
lao động nghệ thuật đáng khâm phục của nhà thơ.
Chẳng hạn như bài Nguyệt Cầm của Xuân Diệu (lúc đầu đặt tên là Đàn trong trăng sáng). Trước
khi trở thành một thi phẩm tuyệt tác mà ta đều biết, trong một cuốn vở mà Xuân
Diệu giữ lại được, bài thơ đã trải qua nhiều bản nháp, dập dập xoá xoá, viết
đi, viết lại, trong đó có những câu còn rất thô sơ vụng về. Chỉ riêng câu kết, có tơi bốn lần nháp khác nhau: … Đàn ơi, người đẹp đến tê mê … / Thôi mà! âm nhạc giết tôi đi! …/
Dịu dàng âm nhạc giết tôi đi!… / Đàn ơi! Âm nhạc giết ta đi! Cuối cùng mới tới được câu kết tuyệt vời này:Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê. Nay
có thêm người bình đúng và hay nữa thì quả thật là vô cùng tốt cho người đọc.
Nhưng tôi nghĩ, cái việc bình
thơ là việc của các nhà
chuyên môn thôi, nếu nó có nâng tầm thưởng thức cho người đọc thì người đọc đó
cũng phải là người “có dân trí”, tất nhiên trước hết phải là người yêu thơ!
Dân ta , nhiều người thích nghe bình
thơ văn lắm. Bởi thế đầu thế kỷ 20 mới có câu:
Kỳ bình văn khách tới như mưa"
Theo các tài liệu,năm 1924, Hội Khai
Trí Tiến Đức tổ chức lễ kỷ niệm Nguyễn Du vào dịp giỗ mồng mười tháng tám ta
(8-9-1924). Hội gửi hơn một nghìn giấy mời đến khắp cả hội viên; còn thông báo
cho nhân dân biết. Tối hôm ấy, tám giờ, cửa hội mới mở được vài phút, đã có đến
hơn hai nghìn người vào chật khắp trong sân, ngoài vườn, dưới nhà, trên gác, đâu
đâu cũng chật ních những người. Hội viên các tỉnh về dự cũng đông. Các bà, các
cô trong thành phố Hà Nội đến cũng nhiều. Hội viên là người Pháp và các bà vợ
ước chừng ba bốn chục người. Có cả mấy bà giáo mới ở Pháp sang, cứ khẩn khoản
xin được dự để tận mắt thấy “người An Nam
tôn trọng một bậc danh sĩ trong nước thế nào”
Trong buổi lễ, cụ Phạm Quỳnh đọc hai
bài diễn văn. Một tiếng ta, một tiếng Pháp. Rồi cụ Trần Trọng Kim “diễn
thuyết về lịch sử Cụ Tiên Điền và văn chương TruyệnKiều”. Kế đó là phần biểu diễn của kép Thịnh và đào Tuất, thuộc
rạp Sán Nhiên Đài, nổi tiếng đương thời là người kể Truyện
Kiều hay. Cuối cùng là một cô đào đứng hát Bài ca
kỷ niệm do Nguyễn Đôn Phục soạn.
Giờ, ta thử điểm xem, khách
đến như mưa hôm ấy có bác nông phu, có anh thợ mỏ, có anh xe kéo, có
u già, con sen, thằng ở…nào đến nghe và xem. Có không?Cho nên khi anh Nhì nói “nếu
chỉ đọc thơ bằng hồn, không có sự soi sáng của kiến thức thì sẽ như chị giúp
việc suốt đời“tự sướng”. sướng mà không biết vì sao mình sướng, miệng ngâm nga
những vần thơ “cả đẩn” mà mắt cứ sáng long lanh, mặt rạng rỡ như đóa hoa xuân”, thì xin
thưa thật lòng, tôi thích cách đọc thơ, yêu thơ “cả đẫn” ấy. Vì nó chân chất
như hạt thóc củ khoai được sinh ra từ đồng đất.
Ấy là kiểu yêu thơ của các bà các chị
nhà quê trong đó có người mẹ thuở thiếu thời của tôi. Các bà các chị không biết
chữ, ngồi bệt ngay đầu hè, lấy gấu quần quệt những giọt mồ hôi để chờ con cháu
hay ai đó biết chữ đọc cho nghe những truyện Thạch Sanh, Hoàng Trừu, Tống Trân
Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa…bán rất rẻ của Nhà xuất bản Cây Thông ở phố Hàng
Gai. Họ im lặng nghe và đôi lúc lại lấy gấu quần lau vài ba giọt nước mắt rồi
ngậm ngùi nói: Trời ơi! Sao nàng Cúc Hoa lại khổ thế, sao thằng Lý Thông nó ác
thế, sao mà thương nàng Ngọc Hoa thế…
Tôi được gia đình gửi tiền gửi gạo cho
ra tỉnh học. Nghỉ hè thường về quê khoảng hai tuần. Một hôm, đọc xong cuốn Đoạn
Tuyệt, tôi buồn buồn ngâm khẽ 4 câu thơ mở đầu “Giây phút chạnh lòng” :
Anh đi đường anh, tôi đường tôi,
Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.
Đã quyết không mong xum họp mãi.
Bận lòng chi nữa lúc chia phôi?
U tôi đang sàng gạo dưới nhà ngang
nghe thấy liền hỏi vọng lên, truyện gì mà thơ hay thế hả con? Tôi xuống bên u,
kể lại mối tình của Loan và Dũng cho bà nghe và nói về bài thơ của ông Thế Lữ
tặng ông Nhất Linh tác giả Đoạn Tuyệt. U tôi bảo, buồn thật đấy nhưng phải dứt
khoát đi cho nó nhẹ lòng, còn hơn là dở đục dở trong / Lờ lờ nước hến.
Đừng nghĩ, những người như các bà các
chị dân quê trong đó có u tôi chỉ thích những truyện thơ nôm khuyết danh; họ
cũng rất yêu thích Truyện Kiều bác học mặc dù họ mù ngay cả chữ Quốc ngữ chứ
đừng nói tới chữ Hán chữ Nôm. Không cần biết Mộng Liên đường chủ nhân là ai và
ông ta viết về Truyện Kiều ra sao, không được nghe các bài Vịnh
Kiều của các danh nho như Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Chu
Mạnh Trinh…Và nếu còn được sống trên cõi hồng trần cho đến hôm nay, họ cũng
chẳng cần biết đến Thi pháp Truyện Kiều của Trần
Đình Sử viết ăn theo theo sự triển khai hệ thống lý thuyết của trường phải thi
pháp học Xô viết qua các tác giả lớn như Likhachov và Baktin ở tận nước Nga của
ông Lê Nin…, họ vẫn thuộc làu làu Truyện Kiều dù chỉ nghe lỏm hoặc được con
cháu đọc cho nghe.
Thơ, như Xuân Diệu nói: “Thơ –
cám dỗ của mơ màng ” Thơ càng hay thì sự cám dỗ càng lớn. Cũng Xuân Diệu nói: “Cái
gì rồi cũng qua đi. Đế quốc Lamã, đế quốc Charlemagne. Nhưng cái chết không
diệt được cái gì không phải là vật chất. Mà cái đầu tiên không phải là vật chất
chẳng phải là thơ sao? . Đúng vậy, thơ hay không cần ai bình cũng vẫn sẽ sống mãi
với đời, sống mãi trong tâm hồn người yêu thơ.
Còn những lời bình dù hay đến đâu,
giỏi lắm cũng nằm im trong một cuốn sách nào đó trên giá sách thư viện, chỉ khi
ai đó cần dùng mới mượn xuống. Chính vì thế, khi biết nhà văn Nguyên Hồng cũng chết một cách đột ngột giống nhà phê bình Như Phong, Xuân
Diệu bảo: -“Không, Nguyên Hồng chết rồi, nhưng cái văn của anh ấy vẫn còn rên rỉ. Còn
Như Phong, chết là không còn dấu vết gì nữa. Mấy bài phê bình, ai đọc!”.
Thử xem lại Mấy bài
phê bình, ai đọc của Như
Phong nó “nâng tầm thưởng thức của người đọc” như anh Nhì nói ra sao?
Năm 1957, Phong Lê còn đang ngồi trên ghế Đại học viết về
cuốn tiểu thuyết Mười Năm của Tô Hoài, bài văn viết ra rất thật nhưng “gặp” ngay
bài phê bình của Như Phong trên báo Nhân
Dân quất cho Mười
Năm một roi đau điếng. Những gì Phong Lê khen được nhiều
người cho là đúng đều bị
Như Phong “đả”, chỗ đả đau nhất là đoạn Tô Hoài tả Lạp gặp lại người yêu sau
mấy năm xa cách. Lúc này, nạn đói khủng khiếp năm 1945 đang diễn ra ở các làng
quê xứ Bắc trong đó có cái làng Hạ thợ dệt của Lạp. Người yêu của Lạp nằm lả
đợi chết. Lạp về, cũng đang đói vàng mắt, nhưng may thay, ngoài những đường lối
chính sách cách mạng mà anh đã được giác ngộ trong đầu, vai anh còn vác theo
vài ki-lô gạo. Anh vội lấy gạo ra nấu cháo bón cho người yêu từng miếng, rồi
khi đã hơi hồi sức, họ say đắm nhìn nhau cho thỏa nỗi nhớ mong trong bấy nhiêu
năm biệt tích. Và rồi không kìm nổi chuyện đòi hỏi ái ân vụt bật lên, họ ghì
lấy nhau , để ngay sau đó, phần vì cú “sốc” yêu đương quá mạnh, phần vì sức đã
lụi, người yêu của Lạp lịm đi mà chết. Như Phong nghiêm khắc phê phán đấy là
chỗ ngòi bút tác giả sa vào tự nhiên chủ nghĩa, trong khi Phong Lê khen rằng Tô
Hoài đã phản ánh đúng một cao trào tình cảm thực sự có tính chất “người”.
2.
Thơ Xuân Diệu sau 1945, phải gọi là
rất dở, gò gẫm và giả tạo mà người viết cố làm cho bằng được, ai cũng thấy thật không xứng đáng với
tầm vóc con người đã viết những Nguyệt
cầm, Thơ duyên, Lời kỹ nữ. Rất
khó lọc ra từ Thơ Xuân Diệu sau 1945 được mấy câu tự nhiên hồn hậu chứ đừng nói
đến những câu Thơ – Cám dỗ của mơ màng. Có lần Tế Hanh hỏi:
- Diệu ơi! Sao anh làm những Tặng
làng Còng, với Bà cụ mù loà, lục cục thế?
Thì Xuân Diệu đáp:
- Tế Hanh phải có lúc nghĩ tới những
người trả lương cho mình nữa chứ!
Sau kháng chiến chống Pháp, về Hà Nội,
Xuân Diệu còn là một người rất say bình thơ mà nếu nhà nước có danh hiệu chắc
chắn sẽ được phong tặng là Nghệ sĩ Nhân dân. Ngày
ba buổi nói chuyện thơ với ông không phải là quá. Ở những chỗ ông chưa nói
chuyện bao giờ, mà chỉ bố trí ngày có hai lần là ông giận.
Ông chăm chỉ đi nói chuyện thơ như
thế, một phần vì như ông nói: “Phải khẩntrương khai thác mình đi chứ!”, một phần để được đãi đằng ăn uống sinh hoạt. Nguyễn Đăng
Mạnh kể: “Hồi khoa văn Đại học sư phạm Việt Bắc đưa sinh viên về Hà
Nội (đóng ở Cổ Nhuế) để mời các nhà văn đến nói chuyện, tôi có được nhờ tiếp
khách hộ.Tôi thấy Xuân Diệu rất thích uống bia và húp trứng sống. Anh còn nói,
tối nào, cần viết một cái gì thì buổi chiều thế nào cũng phải mua ba lạng thịt
chó để bồi dưỡng. Có thế mới có sức viết”; và một
lý do nữa là chấp nhận sự nhẫn nhịn ở Xuân Diệu. Cái nhẫn nhịn vốn bình thường
thì rất đáng quý nhưng nhiều khi Xuân Diệu đã đẩy nó đi quá xa, biến thành một
cách sống cầu an, chiều đời, tự hạ thấp nhu cầu nghệ thuật và chất lượng sáng
tác của mình khi chấp nhận những buổi bình
thơ Tố Hữu, Thơ Hồ Chủ tịch…
Sau này, không khí chính trị có một
chút gió mới, Xuân Diệu đã nói thẳng và gay gắt với Nguyễn Đăng Mạnh, khi Mạnh
được nhờ mời ông
tới dự một cuộc hội thảo về giảng thơ Hồ Chủ Tịch do Hoàng Dung tổ chức: “Còn có gì mà nói nữa về thơ Cụ Hồ? Mình không đi đâu! Bây giờ mà
còn bình với giảng về thơ Cụ Hồ là nhảm nhí! nhảm nhí!”
Nhẫn nhịn, nên có một thời,
Xuân Diệu nói, không muốn nói chuyện Thơ mới:Mệt
– Ngại lắm. Hãy dồn tinh lực cho hiện tại, làm thơ chống Mỹ. Nhưng rồi có dịp ông lại nói sôi nổi về Thơ mới và ông rất tự hào
vì người ta vẫn chép thơ của ông. Ông hớn hở khoe, đi bơm xe đạp, có một anh
bơm cho rất kỹ, rồi gạ chép Thơ Thơ.
Không tính đến vô số lời bình
thơ của các lãnh tụ như Chế Lan Viên bình bốc thơm thơ Sóng Hồng (Trường Chinh)
mà chỉ điểm riêng một Xuân Diệu bình thơ trong mấy chục năm ở miền Bắc, Miền
Bắc thiên đường của các con tôi như thơ
ông Tố Hữu, liệu ta có tin những lời bình của Xuân Diệu hay và thật được bao
nhiêu phần?
Nay Xuân Diệu cũng đã về dưới kia cùng
với Như Phong mà ông đãnói: -“CònNhư Phong, chết là không còn dấu vết gì nữa. Mấy bài phê bình, ai đọc.”.
Xuân Diệu nói đúng, sẽ không ai đọc Như Phong
nhưng Xuân Diệu chưa nói ra được rằng, cũng không mấy ai còn đọc những bình thơ
của chính ông. Ngay ngày hôm nay, hàng triệu người, kể cả những người trẻ tuổi
bằng cấp đầy mình, chưa từng được biết mặt những cuốn tiểu luận như Hồ Xuân Hương bà chúa thơ Nôm(1961), Thơ Trần Tế Xương (1970) , Đọc thơ Nguyễn Khuyến (1971)… của Xuân Diệu,
họ cũng đã biết và thuộc thơ của Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Nguyễn Khuyến! Và
trước họ, khi Xuân Diệu chưa viết những tập tiểu luận ấy, cha anh họ cũng đã
yêu thích thuộc nhiều thơ của Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Nguyễn Khuyến!
Nhưng, rất may cho Xuân Diệu là ông không chỉ
có những buổi nói chuyện thơ và những tập tiểu luận rất xa cách với người đọc
bình dân ấy mà ông còn có thơ, không phải là thơ sau 1945 mà là Thơ Thơ xuất bản năm 1938.
Người yêu thơ Xuân Diệu sẽ không bao
giờ trách ông khi ông bình thơ vì những lý do kể trên, bởi con người ông, như
Tô Hoài nói: “Mỗi khi nhớ, chuyện về Xuân Diệu buồn thương, buồn cười
và đáng yêu, chỉ đáng yêu…” (Cát bụi chân ai)
3.
Anh Hoàng Đức Doanh nói: ”Tôi rất ngạc nhiên
Phạm Đức Nhì sinh trưởng trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa mà sao rất giống những
nhà Bình thơ ăn lương cộng sản?”
Tôi không dám nói anh Doanh đúng hay
chưa đúng nhưng câu nói của anh Doanh làm tôi nhớ ra câu vè được truyền tụng
một thời ở cái nước mình: "Mồm Phạm Hổ, cổ
Hoài Thanh, nanh Đức Phúc".
Đức Phúc tức Vũ Đức Phúc là
một nhà lý luận, phê bình văn học, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (từ 1971), hội viên Hội Nhà báo
Việt Nam, nguyên Phó Viện trưởng Viện Văn học kiêm Tổng biên tập Tạp chí Văn học (nay là Tạp
chí Nghiên cứu văn học) giai đoạn 1970-1984; học hàm Phó Giáo sư ngữ
văn (từ 1980); đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Xuân Diệu từng gắn cho nhà phê bình
này cái nhãn “xe tăng mù”! Lại Nguyên Ân cho rằng Vũ Đức Phúc
từng có giai đoạn là người mà chất tuyên huấn vượt trội chất nghiên cứu.
Vũ Đức Phúc đã từng gào lên rằng "văn
học dân gian là phản động"!
Và nói về Thiếu quê hương của Nguyễn Tuân thì thế này: “Sao
lại kêu “thiếu quê hương”! Lại còn đòi đi Mỹ theo đám múa Xuân Phả và định cho
em đi lính thợ sang Tây. Yêu nước gì Nguyễn Tuân! Nguyễn Tuân là absence
d‘humanisme. Ghét gia đình. Đối với những đàn bà hiền dịu lại ghét. Không
thương vợ con. Chơi bời như thế nhất định làm khổ vợ con. Nói Nguyễn Tuân kênh
kiệu chưa đủ. Phải nói là không nhân đạo, không yêu nước gì cả. Còn vì sao ông
ấy đi theo Cách mạng thì là vấn đề phải suy xét. Vang bóng một thời tả Huế, mỹ hoá bọn bịp bợm
trên Sông Hương. Bọn ấy là lũ bóc lột, lừa đảo, truỵ lạc, không đẹp, không tao
nhã như Nguyễn Tuân viết đâu.”
Đồng thời lên án tác giả Giông tố và Số
đỏ: ” Vũ Trọng Phụng là chống cộng, là phản động. Còn Chủ
nghĩa duy vật của Vũ là duy vật hưởng lạc, là Freud”.
Vậy thì, như anh Phạm Đức Nhì nói: “ việc
bình thơ là nâng tầm thưởng thức
của người đọc thơ. Có tý hiểu biết về kỹ thuật, kinh nghiệm bếp núc, các tiêu
chí thẩm định giá trị thơ ca, người đọc sẽ không còn ù ù cạc cạc khi nghe hoặc
ngâm nga những vần thơ ưa thích như chị giúp việc kia mà sẽ tự tin hơn, sảng
khoái hơn khi thả hồn vào dòng thơ”.
Nếu đọc Vũ Đức Phúc, cái “ù ù cạc cạc”
kia sẽ được khai trí đến đâu và sẽ được dẫn dắt đến tầm cao nào? Với anh Nhì,
anh có tự tin hơn, sảng khoái hơn?
Khi Hoàng Cầm chê tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu là thiếu chất sống thực tế,
hời hợt nhạt nhẽo và không đột phá vào được một khía cạnh nào của tâm hồn thì
Nguyễn Đình Thi cùng với Hoài Thanh ,Hoàng Trung Thông ca ngợi Việt Bắc hết
lời.
Sau đó, khi Hoàng Cầm cùng tất cả
những người trong vụ Nhân Văn - Giai Phẩm đều bị cất bút, nằm tù hoặc bị cải
tạo lao động ở các nông trường hoặc công trường thì Nguyễn Đình Thi thở thành
một ông quan lớn "văn nghệ đỏ, hàng ngày đều dặn đi xe hơi đến nhà riêng
Tố Hữu nhận kế hoạch "trấn áp tư tưởng "lũ" văn nghệ sỹ chống
đảng.
Chỉ đến khi tác giả Vỡ Bờ bị thầy trò Vũ Đức Phúc – Phong Lê ra
sức “dìm hàng” thì ông tổng thư ký Nguyễn Đình Thi mới ngán ngẩm kêu lên: “nhà
văn đưa ra một con ngựa thanh thú, sao nhà phê bình lại đòi nó phải có cặp sừng
hùng dũng của con trâu? “
Xem ra phê bình văn học nói chung và
bình tán thơ nói riêng ở cái nước mình là phải tùy theo vai vế của người sáng
tác mà phán cho đúng với tư tưởng của đảng. Với cấp trên thì chỉ có một lối phê
bình của một thằng nịnh bợ như câu thơ Xuân Sách:
Vị nghệ thuật nửa đời người
Nửa đời còn lại vị người cấp trên.
4.
Để kết thúc những dòng lan man về bình
luận thơ văn ở cái nước mình, tôi xin mời các bác đọc lại một đoạn viết của
Vương Trí Nhàn về cái tình người trong hàng ngũ văn nghệ sĩ nước ta:
Năm đó, đã là 1985, cái năm về sau
sẽ được xem là năm cuối cùng trong cuộc đời Xuân Diệu, nhưng hình như cả ông,
cả chúng tôi, đều không ai tính tới chuyện đó. Xảy ra việc làm tuyển tập thơ
Việt Nam 1945-1985, loại sách giống như một thứ “chiếu giữa làng” nên đã biến
thành chỗ xếp hạng, cũng là chỗ mặc cả rất quyết liệt: Ai sẽ được vào, câu hỏi đó đặt ra với
đông đảo mọi người chưa giải quyết xong, thì ai
sẽ được lấy sáu bài, ai bốn bài, ai hai bài lại
được đặt ra và câu hỏi này mới thật khó phân xử vì toàn động chạm tới các “đầu
lĩnh” cỡ lớn trong giới!...
Đứng về mặt số lượng bài đưa vào
trong tập thì Xuân Diệu đã thuộc loại nhất, tức là được chọn sáu bài. Tuy
nhiên, lúc xem cả tập thì Xuân Diệu vẫn không bằng lòng. Câu hỏi của ông nằm ở
sự so sánh: tại sao Xuân Diệu sáu bài, mà loại như người này được những bốn
bài, loại người kia được ba bài?!
Theo Xuân Diệu, hình như những người
soạn tuyển tập đã quên mất rằng: chỉ sau Tố Hữu thôi, chứ ông đứng ở một thế
cao vòi vọi, không một nhà thơ lớp sau nào dám so sánh.
Nói tới người nọ người kia, song lần
ấy mũi nhọn công kích của Xuân Diệu tập trung dồn về Xuân Quỳnh, người phụ nữ
được in bốn bài.
Nhưng những người giống nhau lại hay
kỵ nhau. Trong nghề làm thơ, Xuân Quỳnh tìm tòi học nghề ở Chế Lan Viên chứ
không ở Xuân Diệu. Ngược lại, Xuân Diệu thấy loại như Phạm Tiến Duật là lạ, chứ
Xuân Quỳnh không lạ. Sự không bằng lòng nhau ngấm ngầm đã có từ lâu, đến lúc
này mới có dịp bùng nổ.
Cậy tuổi già, Xuân Diệu đi khắp nơi
rêu rao, cho là Xuân Quỳnh không đáng như thế, chẳng qua đây là một nhà thơ phụ
nữ xinh đẹp, nên chài được mọi người (chữ chài là
của Xuân Diệu) khiến cho tuyển thơ chẳng còn thể thống gì nữa.
Xuân Quỳnh cũng chẳng phải người
vừa. Thấy Xuân Diệu công khai nói mình ngay cả trong các buổi họp mà bản thân
mình không dự, Xuân Quỳnh cho là bị xúc phạm, và nghĩ chuyện trả thù bằng cách
viết thư thẳng cho Xuân Diệu.
Lịch sử đã biết tới nhiều ca “điên”
của phụ nữ, câu chuyện tôi kể ở đây, chẳng qua là con sóng vỗ trong cái cốc
nhỏ, nhưng nó không phải là không ghê gớm. Trong thư gửi Xuân Diệu, Xuân Quỳnh
dùng tới những lời lẽ đáo để nhất, cốt có thể làm cho Xuân Diệu đau đến chết
điếng đi, mà không sao cự lại nổi. Xuân Quỳnh nhắc đến quá khứ của Xuân Diệu.
Xuân Quỳnh đặt câu hỏi về những thay đổi trong mấy chục năm cuối đời của Xuân
Diệu và tự trả lời: Chẳng qua Xuân Diệu chỉ muốn xây dựng uy tín riêng cho
mình. Chứ thực ra Xuân Diệu không tài cán gì, thơ Xuân Diệu đã hỏng hẳn rồi,
mất hết sự sinh động và tự nhiên rồi.
Đi đến cùng trên con đường triệt hạ
nhà thơ lớp trước đã nói xấu mình, chê bai làm nhục mình, Xuân Quỳnh nói tới
tình trạng đơn độc của Xuân Diệu và cho rằng chỉ những người thất đức mới bị
trời đày như vậy.
Bức thư như một mũi tên tẩm thuốc
độc, chắc chắn làm cho Xuân Diệu giãy giụa trong đau đớn. Nhưng còn một việc
nữa làm cho Xuân Diệu chết đi sống lại - tôi đoán thế - do một ác ý, mà nhiều
bạn bè của Xuân Quỳnh, trong đó có người viết bài này, xúi bẩy Xuân Quỳnh làm:
Đó là không chỉ gửi riêng lá thư cho Xuân Diệu, vì làm thế, có thể tạo cơ hội
cho Xuân Diệu tránh đòn tức là giấu biệt thư đi không cho ai biết. Mà, muốn để
Xuân Diệu thảm bại, Xuân Diệu gục ngã ngay trước mặt mọi người, Xuân Quỳnh sao
lá thư này làm vài ba bản, gửi đi vài ba nơi cần thiết.
Không cần phải nói, cũng có thể đoán
Xuân Diệu đã đau đớn như thế nào!
Đọc mẩu chuyện trên, người ta không
khỏi không nhớ ra: Hoài Thanh đã
tự phủ nhận Thi nhân
Việt Nam (Nhìn lại
phong trào Thơ mới và cuốn Thi nhân Việt Nam ) đến mức Trần Huy Liệu cho là quá đáng,
và Tố Hữu thì nói: “Hoài Thanhđã tát mình đau quá”
Và câu chuyện tiếu lâm "thời
sự" về Nhà Năm Tầng khi những ngôi nhà cao tầng đầu
tiên được xây dựng ở Hà Nội (trước 1975)
Nhà Năm Tầng kể rằng :"Ngôi nhà 5 tầng đầu tiên sau khi hoàn thành, bộ trưởng
kiến trúc cùng giám đốc sở kiến trúc Hà-nội và kỹ sư trưởng của công trình tổ
chức họp báo và giới thiệu về tòa nhà. Sau khi tham quan xong, chủ khách trà
nước, thuốc lá, bánh kẹo lai rai, các nhà báo đều thắc mắc rằng : tòa nhà rất
đẹp nhưng mọi người không hiểu sao cả 5 tầng đều không có nhà vệ sinh. Viên kỹ
sư trưởng đứng dậy trả lời đại ý : theo chủ trương của bộ và sở…
Không nhắc lại về các tầng 1,2,3 vì sợ
mất thì giờ. Về tầng 4 được kỹ sư trưởng giải thích như sau:
Tầng bốn giành cho văn nghệ sỹ. Mà
văn nghệ sỹ vốn từ khi có vụ đàn áp "bọn" Nhân Văn - Giai Phẩm, có
thói quen "ỉa vào mồm của nhau" nên cũng không cần nhà vệ sinh.
Nhưng rất may là, không chỉ có những
chuyện đau đớn xót xa hay tiếu lâm nực cười đó mà vẫn còn sót lại những chuyện
rất cảm động:
Ấy là chuyện về nhà thơ Tú Mỡ. Năm
1934, Tú Mỡ cho ra đời tập thơ Giòng
Nước Ngược với lời đề tặng
Nhất Linh rất trân trọng:
Ít lời lẽ ngang phè
Mấy vần thơ lỗ mỗ
Tặng anh Nguyễn Tường Tam
Đáp tấm ơn tri ngộ
Sau Cách Mạng Tháng 8, Nguyễn Công Hoan nói về Tú Mỡ:
“ Giữa đám người cầm bút đông đảo
"đa ngôn đa sự", ông có vẻ như sống riêng ra, lấy sự siêng năng cần
mẫn làm trọng, lấy cảnh gia đình yên ấm làm vui, không phiêu lưu không mơ tưởng
hão huyền, tin rằng thiên đường chỉ có ở trên trần thế, được sống khỏe mạnh,
lại có công việc ưa thích đã là tiên cảnh lắm rồi, còn như có gì khó chịu trước
sự đời, thì đã có nụ cười hóa giải giúp!"
Năm 1975, lúc Tú Mỡ nằm dưỡng bệnh
"chờ chết" ở Quảng Bá (Hà Nội) khi nghe tin trên đài báo "Miền
Nam đã hoàn toàn được giải phóng" đã nói với mọi người rằng "Nhờ
Nhất Linh và anh em trong Tự Lực Văn Đoàn mà trở thành nhà thơ trào phúng" và thường buồn bã kể lại những kỷ niệm đẹp của thời sống
với Tự Lực Văn Đoàn v.v..., không thèm hé răng nói gì đến Bác Hồ với đảng hoặc
cái Hội Nhà Văn Việt Nam do Nguyễn Đình Thi làm tổng thư ký!
VĂN CHƯƠNG LÀ THẾ BỞI ĐỜI LÀ THẾ!
*.
NGUYỄN BÀNG
........................................................................................
- ©
Tác giả giữ bản quyền.
- Nhà thơ Nguyễn Khôi gửi đăng qua email: khoidinhbang@gmail.com ngày 16.03.2016
- Vui
lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét