TÌM HIỂU VỀ
NGŨ HÀNH TƯƠNG KHẮC
Nói đến Ngũ hành tương khắc là nói đến sự xung khắc
giữa các hành với nhau, hay gọi đúng tên bản chất của sự tương khắc là hành này
khống chế và làm cho hành kia bị suy yếu, hủy diệt.
Nếu Ngũ hành tương sinh được hiểu là sự nuôi dưỡng,
bồi đắp của hành này cho hành kia phát triển và lớn mạnh, được coi như là tốt
giữa 2 hành đó, thì Ngũ hành tương khắc lại được coi là xấu giữa 2 hành. Ví dụ:
Kim khắc Mộc, có nghĩa Kim khống chế, làm cho Mộc bị suy yếu, hủy diệt; Thủy
khắc Hỏa, Thổ khắc Thủy ... cũng tương tự như vậy.
Vậy Ngũ hành tương khắc có nghĩa như thế nào? Hiểu
đơn giản, có quy luật tương khắc vì:
1. Mộc khắc Thổ: Cây cối cắm rễ
vào đất, hút chất màu mỡ của đất, làm khô nẻ đất đá nên mới nói Mộc khắc Thổ.
2. Thổ khắc Thủy: Đất hút cạn nước,
hoặc ngăn chặn dòng chảy của nước nên nói Thổ khắc Thủy.
3. Thủy khắc Hỏa: Nước dập tắt lửa
hoặc làm suy yếu cường độ của lửa nên mới nói Thủy khắc Hỏa.
4. Hỏa khắc Kim: Lửa nóng làm cho
kim loại biến dạng, suy yếu, hoặc tan chảy nên mới nói Hỏa khắc Kim.
5. Kim khắc Mộc: Kim loại làm đổ
cây cối, chế tác cây cối thành vật dụng nên mới nói Kim khắc Mộc.
Quan hệ tương khắc của Ngũ hành được mô tả theo sơ đồ sau:
Không giống như Ngũ hành tương sinh, cơ bản như là
tốt cho cả 2 hành vì không có sự khắc, đặc biệt tốt cho hành được
sinh (tình trạng sinh nhập) và tốt ít, hoặc không xấu cho hành bị
sinh (tình trạng sinh xuất). Trong mối quan hệ tương khắc của Ngũ
hành thì dù khắc xuất hay khắc nhập đều xấu, sự xấu ít hay xấu nhiều, phụ thuộc
vào hành đó ở trong tình trạng khắc xuất hay bị khắc nhập.
Khắc xuất hiểu nôm na là mình khống chế được người
khác, làm cho người đó bị suy yếu, hủy diệt. Còn khắc nhập là mình là người yếu
thế, bị người khác khống chế, làm cho mình bị suy sụp, hủy diệt. Dù ở tình
trạng khắc xuất thì sự hao tổn, suy kiệt vẫn sảy ra. Ví dụ, muốn dập tắt được lửa
buộc phải tiêu hao lượng nước nhất định, muốn ngăn được nước buộc phải có lượng
đất đủ để đắp đập, ngăn bờ, thấm hút... Như vậy, dù ở tình trạng khắc xuất hay
khắc nhập thì sự suy yếu cho bản thân vẫn sảy ra, đặc biệt là xấu nhất khi ở
tình trạng khắc nhập, vì đó là tình trạng bị đối phương làm cho suy yếu, rất dễ
dẫn đến bị huỷ diệt.
Vì Ngũ hành được biến sinh từ 2 khí Âm - Dương nên
khi tìm hiểu về Ngũ hành tương khắc, nguyên tắc chú ý đến tính Âm (-), Dương
(+) của Ngũ hành không thể bỏ qua.
Chúng ta đều biết, hai hành có cùng Âm (-) hoặc
cùng Dương (+) thì sẽ không sinh cũng như không khắc vì hai hành này có tính
đối kháng, sẽ đẩy nhau ra xa, mỗi hành lại ở một vị trí nên không thể có chuyện
sinh, khắc.
Ví vụ: Dương Thổ không sinh Dương Mộc
Âm Kim không khắc Âm Mộc
Mối tương quan sinh - khắc của Ngũ hành được hiểu
như vậy nên trong khoa Tử vi mới có sự lưu ý đặc biệt:
4 cung Thìn - Tuất - Sửu - Mùi đều thuộc Thổ và
chia ra 2 cặp cùng khí Dương (+) là Thìn - Tuất và cùng khí Âm (-) là Sửu -
Mùi. Nên sẽ không có sự đối kháng giữa Thìn và Tuất, Sửu và Mùi như các cặp còn
lại như: Tý - Ngọ, Mão - Dậu, Tỵ - Hợi, Dần - Thân.
Tại sao vậy? Vì Thìn - Tuất đều là Dương Thổ, Sửu -
Mùi đều là Âm Thổ nên không có sự đối kháng. Nhưng các cặp còn lại Tý (Dương
Thủy) - Ngọ (Dương Hỏa), Mão (Âm Mộc) - Dậu (Âm Kim), Tỵ (Âm Hỏa) - Hợi
(Âm Thủy) và Dần (Dương Mộc) - Thân (Dương Kim). Tuy các cặp này đều
cùng thể chất khí (cùng Âm hoặc cùng Dương) nhưng đặc tính của hành lại
khắc nhau nên mới có sự đối kháng (Thủy >< Hỏa, Kim >< Mộc) như
vậy.
Trong mối quan hệ vợ chồng, nếu tuổi vợ và chồng ở
thế tương khắc thì trường hợp tuổi chồng khắc tuổi vợ còn khả dĩ chấp nhận phần
nào, nhưng nếu tuổi vợ lại khắc tuổi chồng (ví dụ tuổi vợ là Bính Thìn
khắc tuổi chồng là Bính Ngọ) thì quả thật trường hợp này đúng là “nghi bại
nghi vong” - Người vợ sẽ đem lại những bất hạnh, đắng cay cho người chồng. Đây
là điều tối kỵ trong việc kết duyên đôi lứa theo thuyết Âm Dương Ngũ hành.
Nghiên cứu về sự tương khắc của Ngũ hành, thì
nguyên tắc căn cứ vào Ngũ hành của nạp âm thủ tựơng nhất quyết phải được chú
trọng. Đây là yếu tố quan trọng để lý giải tại sao tương sinh mà lại không
tương sinh, tương khắc mà thực chất lại không tương khắc.
Chẳng hạn, tuổi Bính Ngọ và Bính Thìn
Xét về đặc tính của Ngũ hành thì tuổi Bính Ngọ có
bản mệnh là Thủy, còn tuổi Bính Thìn có bản mệnh là Thổ, sẽ xung khắc vì: Thổ
làm cho Thủy (Thổ khắc Thủy) bị hao kiệt, suy yếu, thậm chí bị hủy
diệt. Xét đến âm dương của nạp âm ngũ hành thì Bính Thìn là dương Thổ,
Bính Ngọ là dương Thủy, thì hai tuổi này cũng sẽ không có sự tương khắc mà chỉ
đối kháng nhau, đẩy nhau ra xa và không thể có sự hủy diệt nhau vì đều là Dương
(+), nhưng nếu xét về bản chất lý tính (nạp âm Ngũ hành) thì Sa Trung
Thổ (đất bồi bờ biển, còn gọi đất trong cát) không thể làm hại được
Thiên Hà Thủy (nước sông trên trời, còn gọi nước trời mưa) vì các
loại Thổ (đất) không thể hút được nước trên trời, ngược lại còn bị nước sông
trời (nếu nhiều) sẽ làm cho tan rã, hư hại.
Như vậy, tuổi Bính Thìn và Bính Ngọ về cơ bản không
có sự xung khắc gay gắt, không dẫn đến cảnh “hủy diệt” lẫn nhau, nhưng vì đều
là khí dương (+) nên sẽ không hợp nhau, không làm tốt cho nhau mà luôn đẩy nhau
ra xa, cản trở nhau trong mọi công việc.
Lưu ý: Đây là xét về Âm
Dương Ngũ hành thì là vậy nhưng không thể cứ là nữ Mệnh Bính Thìn (Thổ) và nam
Mệnh Bính Ngọ (Thủy) sẽ đều như vậy. Sự gia giảm về hệ quả của sự kết hợp vợ
chồng phần lớn phụ thuộc vào lá số của mỗi người trong mỗi cặp vợ chồng, vì thế
mới có sự khác biệt khi so sánh hạnh phúc giữa các cặp vợ chồng có bản Mệnh
giống nhau. Tuy nhiên, tất cả các cặp vợ chồng trong trường hợp này đều gặp
trục trặc, không ít thì nhiều trong cuộc sống lứa đôi, chứ không thể thuận hòa
như những cặp vợ chồng các tuổi khác được.
Hay như tuổi Nhâm Tuất, Quý Hợi có bản mệnh là Đại
Hải Thủy (nước biển rộng mênh mông), đặt cạnh Thiên Thượng Hỏa (nạp
âm thủ tượng của tuổi Mậu Ngọ, Kỷ Mùi) thì lại tốt bởi Đại Hải Thủy dung
nạp tất cả nước sông ngòi đổ xuống nên rất cần có Thiên Thượng Hỏa chiếu xuống
làm thành cách thủy bổ dương quang. Như vậy, trong trường hợp này tưởng
như khắc mà lại không xung khắc.
Luận bàn về Ngũ hành tương khắc, cổ nhân có 3 cách
như sau:
Cách 1: Lấy đặc
tính Ngũ hành và Âm Dương Ngũ hành làm căn bản.
Cách 2: Lấy lý tính
của Ngũ hành làm căn bản (nạp âm Ngũ hành).
Cách 3: Kết hợp cả
2 cách trên.
Theo kinh nghiệm, chúng tôi chọn cách 3 làm cơ sở
cho việc luận giải. Thực tế, sự tương sinh - tương khắc - tương hòa của Ngũ
hành không đơn giản. Để lý giải được mối quan hệ tương sinh - tương khắc -
tương hòa nào đó, nếu chỉ lấy đặc tính của Ngũ hành và Âm - Dương Ngũ hành làm
căn bản sẽ dễ dẫn đến kết luận phiếm diện. Nếu chỉ lấy lý tính của Ngũ hành làm
căn bản sẽ có nhiều trường hợp người đoán giải đành chịu bó tay. Vì vậy, khi
xét về Âm Dương Ngũ hành bạn đọc nên lưu ý nguyên tắc:
- Lấy đặc tính của Ngũ
hành làm căn bản.
- Lấy Âm Dương Ngũ hành
làm căn bản.
- Lấy lý tính của nạp âm
Ngũ hành làm căn bản.
Cần lưu ý, khi luận giải về tương sinh - tương khắc - tương hòa hoặc quy luật chế hóa của Ngũ hành, người đoán giải phải phải linh hoạt, không được tuân thủ một cách máy móc, tùy theo từng trường hợp, mà có sự linh hoạt, không vì quá coi trọng một yếu tố nào mà đưa ra lời kết luận phiến diện, dẫn đến lời luận giải thiếu chính xác, thậm chí còn bế tắc.
(Trích từ: TỬ VI
KIẾN GIẢI của Đặng Xuân Xuyến
Nhà Xuất bản Thanh Hóa, xuất bản năm 2009)
0 comments:
Đăng nhận xét