(Nữ sĩ Trần Thị Huyền Trang, thứ 3 từ bìa phải vào) |
BÀI THƠ KHÔNG CHỈ
ĐỌC MỘT LẦN
Bên hoa phù dung
Hầu chuyện một nhà giáo
Kính tặng
Nhà giáo ưu tú Trương Tham
Ông đã đi qua nhiều năm tháng
Hay nhiều năm tháng đã đi
qua ông
Ký ức
Tươi ròng những chú dế mỡ ven
sông
Đu cành xanh soi mình xuống
nước
Tươi ròng mái tóc một nữ du kích cùng làng
Xe thù kéo sàn sạt trên đường
sỏi
Chú dế mỡ và mái tóc dài của
người chị cùng làng
thành bài học quê hương
Học trò ông xếp nghiên bút lên
đường
“Thưa thầy con đi,
Bài bình văn Nguyễn Du con sẽ
trở về
nghe thầy giảng lại…”
Từ đó trái tim người thầy trong
ông luôn chờ đợi
Dù hòa bình đã ba mươi năm
Ba mươi năm
Năm nào ông cũng về bên bờ
tháng Chạp
Nghe mùi hương thiên lý dậy bên
đường
Nghe bật tóc từng bụi cây từng
đàn dế mỡ
Lại tươi ròng khuôn mặt quê
hương
Tinh tế nỗi người như sành vị
cà phê
Đôi khi bị người ta bẹo vai
vẫn
đàng hoàng đi tới
Sách và hoa từ nhiều phương
trời đến nhà ông ở lại
Hoa phù dung nghiêng bóng xuống
trang thơ
Sau lưng ông rất nhiều năm
tháng
Mọi hư vinh vô nghĩa trước mặt
trời
Chỉ còn lại đóa phù dung thảng thốt
Biến ảo và trung thực tận cùng
thôi.
*
TRẦN THỊ HUYỀN TRANG
LỜI BÌNH:
Có người gặp lần đầu ít nhiều thú vị nhưng nếu gặp lần nữa có khi lại chán.
Thơ cũng thế. Có bài thơ đọc một lần còn muốn đọc đi đọc lại để cùng suy ngẫm,
chiêm nghiệm, rút ra ý nghĩa nào đó cho cuộc sống cũng như cho nghệ thuật. Bên
hoa phù dung hầu chuyện một nhà giáo của nữ thi sĩ Trần Thị Huyền Trang
với lời đề từ “Kinh tặng Nhà giáo ưu tú
Trương Tham” là một bài thơ như thế.
(Tác giả Trần Thanh Phương) |
1. Bài thơ mở đầu (theo kiểu Đặt vấn đề) bằng hai câu. Câu vào đề: “Ông đã đi qua nhiều năm tháng” chưa thấy
có gì mới, vẫn là một cách nói xuôi bình thường thế thôi. Nhưng câu tiếp theo
láy ngược lại: “Hay nhiều năm tháng đã đi
qua ông” thì không bình thường nữa rồi. Nó bắt người đọc phải chú ý chứ
không được lười, phải động tâm động trí tìm cho ra cái “ý tại ngôn ngoại” mà người làm thơ muốn gửi gắm vào trong câu, chữ
- Thì tôi đang viết về một ông nhà giáo đã lớn tuổi (về hưu lâu rồi), đã được
Nhà nước tôn vinh là Nhà giáo ưu tú vì nổi tiếng với thành tích bồi dưỡng học
sinh giỏi và viết những bài bình thơ tinh tế, sắc sảo, được đăng tải suốt mấy
chục năm trên các phương tiện thông tin đại chúng mà ai cũng biết, chứ có phải
viết về một anh thầy giáo đương chức nào đó đâu? Tôi gọi bằng “ông” chứ không gọi “thầy” là để tránh những tình cảm réo rắt ký sinh, “những luồng run rẩy” của một thời thơ
Mới ngự trị nhằm đưa ra những đánh giá khách quan, trung thực nhất về ông - Việc xác định cách xưng hô đã giúp Huyền
Trang tạo lập được tâm thế đối thoại bình đẳng, một trong những biểu hiện kiểu
tư duy con người hiện đại.
2. Quy luật người lớn tuổi thường hay nhìn ngắm quá khứ, thích sống với quá
khứ: Có người nuối tiếc; Có người giật mình phản tỉnh; Có người hãnh diện tự
hào…Riêng với Nhà giáo Trương Tham thì:
Ký ức
Tươi ròng
những chú dế mỡ ven sông
Đu cành
xanh soi mình xuống nước
Tươi ròng
mái tóc một nữ du kích cùng làng
Xe thù kéo
sàn sạt trên đường sói
Chú dế mỡ
và mái tóc dài của người chị cùng làng
thành bài học quê hương
“Bài học quê hương” của Nhà giáo Trương Tham là bài học nhận từ cuộc sống
gắn với tình yêu động vật (những chú dế mỡ) và tình yêu con người (một nữ du
kích cùng làng). Tấm lòng thật quý hóa biết bao nhưng để trở thành một thầy
giáo dạy văn tương lai chỉ có tấm lòng thôi chưa đủ, còn cần một tố chất nữa.
Đó là một tâm hồn nhạy cảm thiết tha yêu cái Đẹp. Chú bé Tham say mê ngắm nhìn
không biết chán vẻ đẹp của “những chú dế
mỡ ven sông” đang “đu cành xanh soi
mình xuống nước” kia. Và nỗi ám ảnh nhức buốt đối với ông là “mái tóc dài” của người “nữ du kích cùng làng” đang bị kẻ thù
hành hạ chà đạp - Mà mái tóc dài hay suối tóc là biểu tượng cho vẻ đẹp của người
phụ nữ Việt Nam truyền thống - Cái Đẹp bị hành quyết gây chấn thương tâm hồn
ghê gớm lắm, người bình thường khó mà hiểu hết được!
Nói ký ức một đời dạy học kéo dài suốt từ chiến tranh sang hòa bình, từ
thời hậu chiến đến thời đổi mới của một nhà giáo nổi tiếng thì nhiều lắm. Trong
rất nhiều câu chuyện được nghe kể lại, Huyền Trang lảy ra được một chi tiết
thật đắt, thật đắc địa:
Học trò ông
xếp nghiên bút lên đường
“Thưa thầy
con đi,
Bài bình văn
Nguyễn Du con sẽ trở về
nghe thầy giảng lại…”
Từ đó trái
tim người thầy
trong ông luôn chờ đợi
Dù hòa bình đã ba mươi năm
Dấu ba chấm (…) xác nhận rằng không chỉ có một câu chuyện này. Nhưng chỉ
cần một câu chuyện này thôi đã đủ nói lên Trái - Tim - Người - Thầy của ông vẫn
đau đáu một nỗi niềm chờ mong đứa học trò trở về suốt ba mươi năm qua chưa lúc
nào nguôi ngoai, dù biết chắc nỗi đợi chờ chỉ là vô vọng! Chiến tranh quả là
khắc nghiệt đã để lại vết xước trong trái tim người thầy không thể nào thành
sẹo được! Nỗi niềm ấy chỉ có thể ví với tấm lòng người mẹ dành cho con - Có lẽ
Nhà giáo ưu tú Trương Tham không vợ không con nên ông lấy đám học trò làm con
ruột của mình? (Thì học trò vẫn xưng “con”
với ông đấy thôi).
Những câu thơ tiếp theo vẫn đi theo lối thuật kể, không bình phẩm hoặc nêu
ra bài học giáo huấn lộ liễu mà cứ để cho sự việc tự nói lên ý nghĩa của nó:
Ba mươi năm
Năm nào ông
cũng về bên bờ tháng Chạp
Nghe mùi
hương thiên lý dậy bên đường
Nghe bật
tóc từng bụi cây từng đàn dế mỡ
Lại tươi
ròng khuôn mặt quê hương
Nhà giáo Trương Tham vừa lớn lên đã xa lìa quê hương tập kết ra miền Bắc.
Sau khi đất nước thống nhất ông trở về dạy học ở Trường THPT Trưng Vương cho
tới ngày nghỉ hưu, vẫn cách nơi ông sinh ra cả trăm cây số. Ba mẹ và các chị em
ông đều đã hy sinh hoặc đã mất. Nhà cửa ruộng vườn cũng không còn. Nhưng suốt
ba mươi năm qua năm nào đến tháng Chạp ông cũng hành hương về làng để sống lại
với những ký ức thời trẻ đã lặn vào tim óc ông. Viết đến đây tôi lại nhớ đến
hai câu thơ của Đỗ Trung Quân: “Quê hương nếu ai không nhớ/ Sẽ không lớn nổi
thành người” (Bài học đầu cho con).
Từ bút pháp thuật kể Huyền Trang lại chuyển sang bút pháp chấm phá, khắc
họa chân dung. Này là tính cách: “Tinh tế
nỗi người như sành vị cà phê”. Nhà
giáo Trương Tham không chỉ tinh tế trong bình thơ mà còn tinh tế trong đối nhân
xử thế. (Ông xuất thân trong một gia đình trí thức và lớn lên được hấp thu
nhiều vùng văn hóa của đất nước). Ông không biết nhậu nhẹt và không hề đụng đến
một giọt bia rượu nhưng rất khoái thú uống cà phê và hút thuốc lá thơm. Ông
sành sỏi hương vị cà phê như từng trải vị đời. Còn đây là bản lĩnh: “Đôi khi bị người ta bẹo vai vẫn đàng hoàng
đi tới”. Niềm đam mê lớn nhất của đời ông là sách và hoa: “Sách và hoa từ nhiều phương trời đến nhà ông
ở lại/ Hoa phù dung nghiêng bóng xuống trang thơ”. Ngày còn dạy học ở ngoài
Bắc chiều chiều ông hay tha thẩn lên chùa để được ngắm hoa chùa. Trở về Quy
Nhơn gia tài của ông chỉ có độc một chiếc xe đạp Phượng Hoàng được Nhà nước
phân phối, còn toàn những sách cóp nhặt trong suốt quãng đời dạy học (ông từng
phải nhịn ăn mặc để có tiền mua sách). Trước cửa phòng ông có khoảng mươi mét
vuông đất chật hẹp mà đủ các loại hoa quý hiếm từ Bắc - Trung - Nam
hội tụ, chen chúc, đua nhau nở. Ông xin giống phù dung mãi tận thành phố Đà Lạt
mang về trồng rồi chăm sóc như báu vật. Những loài hoa trong tác phẩm văn
chương luôn hiện hữu quanh ông, trở thành giáo cụ trực quan khi ông giảng văn
cho các học trò. - Có lẽ chưa có người nào yêu hoa nồng nàn mãnh liệt và tinh
tế sâu sắc như ông?
3. Bốn câu thơ kết bài đúc lại như một bài thơ tứ tuyệt:
Sau lưng
ông rất nhiều năm tháng
Mọi hư vinh
vô nghĩa trước mặt trời
Chỉ còn lại đóa phù dung thảng thốt
Biến ảo và
trung thực tận cùng thôi.
Đến đây thì ngòi bút văn xuôi tỉnh táo đã phải nhường chỗ cho cảm xúc thơ
dâng trào với bút pháp trữ tình sâu lắng. Tôi đã đọc nhiều bài thơ viết về nhà
giáo, về nghề giáo, nhưng chưa bao giờ có một tâm trạng khó tả như khi đọc bài
thơ này, nhất là ở đoạn kết. Đây không chỉ là sự tôn vinh một nhà giáo cụ thể,
mà là sự tôn vinh Con Người đích thực đã mang ánh sáng trí tuệ, tâm hồn soi
sáng cho bao thế hệ học trò: “Mọi hư vinh
vô nghĩa trước mặt trời”. (Xin nói thêm là hồ sơ đề nghị phong Nhà giáo
nhân dân cho nhà giáo Trương Tham đã bị “dìm
hàng” nhiều lần nên rút cuộc vẫn không bao giờ được nữa). Các thế hệ học
trò của Nhà giáo ưu tú Trương Tham có rất nhiều người thành đạt: Nhiều vị đã
trở thành cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước, là Giáo sư Tiến sĩ, Nhà văn, Nhà
báo, Nhà khoa học…, đọc bài thơ này có lẽ các vị cũng sẵn lòng đồng cảm với
tôi.
4. Tuy nhiên sẽ rất là thiếu sót nếu không nói thêm về nhan đề bài thơ. Từ
những chất liệu thực tế (Hoa phù dung và cuộc chuyện trò văn chương với thầy
giáo cũ) Huyền Trang đã phát hiện ra một tứ thơ hay. Hoa phù dung có vẻ đẹp rực
rỡ, biến ảo từng được lấy làm chuẩn cho gương mặt đẹp của người thiếu nữ: “Phù dung như diện liễu như mi”. Nhưng
loài hoa ấy còn có đặc tính là rất khó trồng và sớm nở tối tàn, thường được đem
ra ví với cái Đẹp mong manh ngắn ngủi như ý của hai câu thơ cổ: “Mỹ nhân tự cổ như danh tướng/ Bất hứa nhân
gian kiến bạch đầu”. Cuộc đời dài ngắn đâu có quan trọng mà cái quan trọng
là đã để lại cho đời được cái gì. Với một số người nào đó, cuộc sống ngắn ngủi
của họ đã làm cho cuộc đời này đẹp lên, có ý nghĩa lên rất nhiều cũng như dóa
hoa phù dung kia - Hoa và người chiếu ứng lẫn nhau. Nhấn mạnh các chữ Bên
hoa phù dung bằng cách đặt lên trước, đưa Hầu chuyện một nhà giáo
xuống vế sau, bài thơ đã thoát khỏi lối thơ tụng ca sáo mòn để tăng thêm tính
triết lý, chiêm nghiệm, tạo ra sự đa nghĩa, hư ảo cho thơ. Đó cũng là sự cao
tay của nữ sĩ Trần Thị Huyền Trang vậy!
*
TRẦN THANH PHƯƠNG
Giảng viên Khoa Ngữ Văn Trường Đại học Quy Nhơn
Địa chỉ: 170 An Dương Vương, Tp Quy Nhơn, tỉnh Bình
Định.
Email: rolanphuongnd@gmail.com
…………………………………………………………………………
- © Tác giả giữ bản quyền.
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 05.12.2016
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
0 comments:
Đăng nhận xét