(Nguồn ảnh: Internet) |
QUAN HỆ GIỮA
NGŨ HÀNH VỚI CON NGƯỜI
Vốn có thể chất, lại sinh khắc chế hóa lẫn nhau, tạo nên sự suy hủy và phát
triển nên nói tới Ngũ hành là nói đến cách hành xử của con người thế tục, nói
tới 2 khí Âm (-) và Dương (+) là nói tới hành xử của con người thoát
tục.
Chính vì lẽ đó mà cổ nhân đã căn cứ vào Âm Dương, Ngũ hành để
“tiên liệu”
diện mạo, vóc dáng và bản tính của con người. Chẳng hạn, trong tướng thuật, cổ
nhân quan niệm: Hai mặt Âm, Dương kết hợp với nhau thành một thể
thống nhất không thể tách rời. Trong Âm có Dương và trong Dương cũng có
Âm. Ví dụ:
(Tác giả Đặng Xuân Xuyến) |
- Đàn ông là Dương, đàn bà là Âm.
- Xương là Dương, còn thịt là Âm.
- Mặt phía bên trái là Dương, mặt phía bên phải là Âm; nửa mặt bên trên là
Dương, nửa mặt phía dưới là Âm; phần lồi của khuôn mặt là Dương, còn phần lõm
là Âm.
- Thân trước là Dương, thân sau là Âm; mặt trái là Dương mặt phải là Âm.
* Các dạng của Âm và Dương:
- Dương hòa: Đó là tình trạng người có Dương mạnh mẽ
nhưng được tiết chế đúng mức. Dương hòa được biểu hiện với các đặc điểm như:
- Đầu tròn, có góc cạnh (mắt dài, có tụ thần), mặt hơi vuông, trán có xương
tròn nổi rõ và đỉnh đầu bằng phẳng. Sắc diện hài hòa, đi đứng oai nghiêm, tự
nhiên. Nói năng có ngữ điệu phù hợp với câu chuyện. Có tính quyết đoán và tư
tưởng khoáng đạt.
- Lông mày xếch, cao, có hình chữ nhân, sợi lông mày hướng lên phía trên.
Ngũ nhạc nổi rõ nhưng không lộ liễu, sơn căn nổi cao gần như ăn thẳng lên ấn
đường.
- Kháng Dương: Ngược lại với Dương hòa, Kháng Dương là
người có tính Dương quá mạnh nhưng lại không có sự tiết chế đúng mức. Kháng
Dương được biểu hiện với các đặc điểm như sau:
- Đầu tròn, đỉnh đầu nhọn, mắt lồi, tia mắt sáng, lông mày ngắn, cong và
mọc lên trên, tai nhọn và dựng đứng. Tiếng nói lớn và giọng điệu thô
kệch, khàn rè. Ngũ nhạc nổi tròn và đầu có dạng tròn nhỏ.
- Mặt có những bộ vị nổi tròn thành từng cục. Tính tình thô lỗ, nóng nảy,
không nghĩ trước nghĩ sau.
- Âm thuận: Người có tính Âm rõ ràng nhưng không
quá uỷ mị, hèn yếu, được biểu hiện với các đặc điểm sau:
- Đầu tròn, ấn đường bằng phẳng và rộng. Lông mày hơi cong, mắt dài, mặt
hơi vuông, nhưng nét tròn vẫn là cơ bản. Ngũ nhạc có dáng hình tròn nhưng không
nổi bật.
- Tiếng nói nhỏ, từ tốn, ngữ điệu vừa phải và âm thanh trong trẻo, rõ ràng.
Sắc diện hoà nhã, cách cư xử khéo léo, ôn hoà...
- Cô Âm: Người tính Âm thuần tuý, không có tính
Dương. Người Cô Âm được biểu hiện với các đặc điểm sau:
- Đầu và mặt có hình vuông hoặc thiên lệch về hình vuông; Đầu lớn mà khuôn
mặt lại quá nhỏ, nếu nhìn chính diện khuôn mặt thì thấy bằng phẳng, nhưng khi
nhìn nghiêng lại thấy phần giữa lõm xuống. Sắc diện lúc nào trông cũng u uất.
- Lông mày đậm, ngắn, thô và mọc lan rộng xuống tận bờ mắt; mắt sâu; tóc ít
trong khi râu ria thì quá rậm rạp.
- Giọng điệu chậm rãi mà lại có xen kẽ những âm thanh chói tai hoặc nói
nhanh mà lại bị đứt đoạn. Cư xử luôn thể hiện cho người khác thấy sự tính toán,
vụ lợi ở trong đó.
- Âm thác: Người có tính Âm nhưng lại có pha trộn
quá nhiều tính Dương, làm cho Âm tính bị suy yếu. Người Âm thác được biểu hiện
bằng những đặc điểm sau:
- Đầu vuông, mặt tròn, trung nhạc nổi lên cao trong khi 4 nhạc trũng xuống.
- Người nhiều thịt xương nhỏ; lông mày rậm lan xuống tận bờ mắt; chân tóc
mọc thấp xuống trán; Đàn ông có nhiều râu ria và giọng nói khô khan. Nếu là nữ
giới thì có cử chỉ, hành động mạnh bạo như nam giới.
- Dương sai: Người có tính Dương quá yếu và bị tính
Âm lấn át, được biểu hiện với các đặc điểm sau:
- Đầu to, mắt nhỏ; phía trước lớn, phía sau nhỏ. Trung nhạc trũng xuống
trong khi những nhạc khác lại nẩy nở, cao ráo.
- Người nhiều xương ít thịt; mặt lộ mà không có lông mày; Người to mà giọng
thì nhỏ.
- Mắt to, sắc mặt ảm đạm; thân hình cứng cỏi, nam tính mà bước đi lại ẻo lả
như con gái.
Đó là nhân dạng con người theo Âm - Dương, còn Ngũ hành thì sao?
Cổ nhân chia ra làm năm loại nhân dạng người theo Kim - Mộc - Thủy - Hỏa -
Thổ. Tất nhiên, chúng ta không thể tin vào những điều “tiên liệu” này, bởi sự
phi lý khi cổ nhân đưa ra khái quát về diện mạo, tính cách, nghề nghiệp, bệnh
tật ... của nhân loại “gói ghém” qua 5 mẫu người. Dù sao, khi tìm hiểu về
nguyên lý Âm Dương Ngũ hành của văn hóa dân gian, chúng ta cũng nên tìm hiểu
qua về vấn đề này.
Vậy cổ nhân quan niệm như thế nào về mối quan hệ giữa Ngũ hành với con
người? Qua Ngũ hành, nhân loại có hình dáng, tính tình, sức khỏe và cuộc sống
ra sao? Chúng tôi xin lược soạn để bạn đọc tham khảo.
1. Người thuộc Mộc:
Theo sách tướng Á Đông thì người thuộc Mộc có nước da hơi xanh, hai bàn tay
dày, ngón tay ngón chân dài, mũi dài, thân mình cao vừa phải và hơi gầy; chân
mày thưa, râu cũng thưa; cằm vuông, miệng vuông; môi hơi dày, răng bằng và hai
răng cửa hơi lớn; đi đứng nhanh nhẹn, cử chỉ lanh lẹ, tiếng nói đều đều nhưng
âm lượng hơi cao. Nhìn chung, người thuộc Mộc ít gặp những bất trắc lớn trong
cuộc đời, dẫu sống trong cảnh nghèo đói vẫn được yên ổn.
Người Mộc vượng thường có tầm vóc cao, tay chân dài, khoé miệng tươi, sắc
mặt sáng, da trắng đẹp. Là người thanh cao, khảng khái, có lòng bác ái. Tuy
nhiên, nếu Mộc quá vượng thường hay mắc bệnh về gan, mật, thần kinh hoặc xương
khớp.
Người Mộc suy thì tóc thưa, vóc người gầy, tính cách hẹp hòi, đố kỵ, bất
nhân, bất nghĩa. Nếu người Mộc quá suy thì cũng hay mắc các bệnh như người Mộc
quá vượng, nhưng thường dễ mắc các bệnh về gan, mật hơn người Mộc quá vượng.
Người mà Mộc khí tử tuyệt thì lông mày không ngay ngắn, cổ dài, yết hầu lộ,
da thịt kém tươi, tính cách biển lận, hay lừa dối.
Nhìn chung, người thuộc Mộc hợp với phương Đông, làm về các nghề mộc, giấy,
trồng hoa, cây giống, hương liệu, đồ tế lễ hoặc kinh doanh về các nghề trên thì
thường dễ dàng, may mắn.
2. Người thuộc Hỏa:
Theo sách tướng Á Đông thì người thuộc Hỏa có nước da vàng, râu vàng, mũi
lộ; lông mày thưa, ngực nổi, bàn tay nhọn, trán dô; môi cong, răng lộ và nhỏ
nhọn; đầu bằng và đỉnh đầu bằng; tay chân gầy khẳng, gân guốc; điệu bộ nhanh
nhẹn; tai nhọn, tròng mắt khô; lưỡng quyền cao và tiếng nói mau.
Người mà Hỏa vượng thì đầu nhỏ, chân dài, mày rậm, tai nhỏ, vóc người trên
nhọn dưới nở, tinh thần hoạt bát, tính nóng gấp nhưng lễ độ với mọi người. Tuy
nhiên, nếu người Hỏa quá vượng thì dễ mắc các bệnh về hệ tiêu hoá, tuần hoà,
hoặc bệnh phần mặt, răng, lưỡi.
Người mà Hỏa suy thì dáng người góc nhọn, tướng gầy, da vàng, nói
năng ề à, dối trá, bản tính cay độc, làm việc thường chỉ nhiệt tình, hăng hái
được lúc đầu, sau đó bỏ bê, có đầu mà không có cuối. Người Hỏa quá suy, cũng
thường dễ mắc các bệnh như người Hoả quá vượng, tuy nhiên, dễ mắc những bệnh
liên quan tới hệ tiêu hoá hơn.
Nhìn chung, người thuộc Hỏa hợp với phương Nam . Thích hợp với các nghề có liên
quan tới văn hóa, nghệ thuật hoặc công việc kinh doanh những mặt hàng đó, chẳng
hạn như ánh sáng, cắt tóc, thực phẩm, giáo viên, xuất bản, văn phòng phẩm...
3. Người thuộc Thổ:
Theo sách tướng Á Đông thì người thuộc Thổ có nước da hơi vàng đen, bụng
tròn lớn, lưng rộng, rốn sâu, cổ ngắn, mắt dài, bàn chân nhiều thịt, chân mày
rậm; tướng thịt nhiều nhưng không quá béo; đầu vuông, mũi cao dày, cằm hơi
vuông và hơi triều lên; răng nhọn, tay nhọn, lưỡng quyền cao; đi đứng vững
vàng, tiếng nói trầm có âm hậu.
Người mà Thổ vượng thì thắt lưng tròn, mũi nở, lông mày thanh tú, mắt đẹp,
nói năng lưu loát và tiếng nói âm vang. Người thổ vượng thường là người độ
lượng, trung tín, chân thành và hành động rất chắc chắn, có kết quả. Người mà
Thổ quá vượng, quá mạnh thì đầu óc cứng nhắc, chậm hiểu biết, tính tình hướng
nội, sống trầm lặng và khá bảo thủ. Tuy nhiên, nếu người thuộc Thổ mà quá vượng
thì thường hay mắc các bệnh về lá lách, dạ dày, hoặc vùng bụng, lưng, ngực,
phổi...
Người mà Thổ suy, thể khí không đủ nên sắc mặt thường ủ rũ, mặt mỏng, mũi
ngắn, lòng dạ độc ác, là kẻ vô tình, bất tài. Người mà Thổ quá suy cũng thường
hay mắc các bệnh về lá lách, dạ dày, hoặc vùng bụng, lưng, ngực, phổi như người
Thổ quá vượng.
Nhìn chung, người thuộc Thổ hợp với vùng giữa hoặc có thể thích ứng với tất
cả các phương. Người thuộc Thổ về nghê nghiệp cũng có thể thích hợp với nhiều
ngành, nhiều nghề của tất cả những người thuộc hành khác. Tuy nhiên, người
thuộc Thổ thường không được nổi trội thật đặc biệt trong nghề nghiệp như những
người thuộc hành khác.
4. Người thuộc Kim:
Theo sách tướng Á Đông thì người thuộc Kim có nước da trắng hồng, đầu, trán
và gương mặt cân đối, tai trắng, răng trắng; môi và lưỡi đỏ, cằm vuông, nhân
trung sâu; tóc thưa, sợi nhỏ và xanh mướt; tay tròn trịa, hai bàn chân không
khuyết, da lưng bàn tay đầy đặn, cứng dẽ; lưng tròn, bụng tròn, rốn sâu, tiếng
nói thanh tao.
Nhìn chung người thuộc Kim có số phận khá tốt, dù có đang gặp cảnh cơ hàn
vẫn tin tưởng vào một tương lai sáng lạn.
Người mà thuộc Kim thịnh là người có vóc dáng không gầy, cũng không béo,
mắt sâu, lông mày cao, da trắng và đẹp, tác phong quyết đoán, trọng nghĩa khinh
tài, giàu lòng tự trọng.
Người mà Kim quá vượng thường là kẻ hữu dũng vô mưu nhưng lại tham lam, bất
nhân bất nghĩa. Người mà Kim quá vượng thường dễ mắc các bệnh về đại tràng,
phổi, gan, trĩ, vùng rốn hoặc các bệnh về da, mũi, khí quản...
Người mà Kim suy thì vóc dáng gầy, nhỏ, tư cách vô tình, có khi nham hiểm,
tham dâm, háo sát. Đặc biệt, đây là mẫu người tham lam vô bờ bến và biển lận.
Người mà Kim quá suy cũng dễ mắc những bệnh như người thuộc Kim quá vượng.
Nhìn chung, người thuộc Kim hợp với phương Tây, có thể theo nghề kinh doanh
hoặc các nghề có liên quan tới kim loại, có tính cứng rắn, quyết đoán, võ
thuật, giám định, khai thác...
5. Người thuộc Thuỷ:
Theo sách tướng Á Đông thì người thuộc Thủy có nước da ngăm ngăm đen, hơi
béo, thịt nhiều; bụng tròn, chân mày rậm; miệng rộng, ngón tay mập tròn; thần
mắt lộ; bàn tay bàn chân lớn nhưng trông không thô kệch; đi đứng chậm chạp và
ăn uống cũng chậm chạp; tính ý giản dị và tiếng nói hơi khàn. Nhìn chung người
thuộc Thủy mà hợp tướng như vậy là rất tốt, trước khổ sau sướng, con cái
an hòa, gia đình hưng vượng.
Người mà Thủy vượng có sắc mặt hơi đen, nói năng nhỏ nhẹ, rành mạch,
túc trí đa mưu, giàu lòng bác ái và trí tuệ thông minh, học nhanh hơn người.
Người mà Thủy quá vượng là người tính hay cáu gắt, hay cãi cọ, tính tình
thay đổi thất thường. Những người mà Thủy quá vượng thường dễ mắc các bệnh về
thận, bàng quang, bắp đùi, chân, đầu, gan, tiết niệu, thắt lưng, tử cung, âm
hộ...
Người mà Thủy suy là người có vóc dáng thấp bé, tính tình bất nhất, thay
đổi thất thường, tính nhát gan, không có mưu mẹo, hành động cũng bất nhất,
không có thứ tự. Người mà Thủy quá suy cũng dễ mắc những bệnh như người
thuộc Thủy quá vượng.
Nhìn chung, người thuộc Thủy hợp với phương Bắc. Và có thể thích hợp với
khá nhiều nghề, đặc biệt là những ngành nghề liên quan tới chất lỏng, như: dầu
khí, rượu, nước....
Không chỉ dùng Âm Dương - Ngũ hành để miêu tả hình dáng, tính cách và số
phận của con người, tín ngưỡng dân gian cũng rất coi trọng việc áp dụng Âm
Dương - Ngũ hành trong cuộc sống, chẳng hạn như: chọn ngày, giờ cho các công
việc, chọn người xông đất ngày đầu năm, chọn người cộng sự, giúp việc .....
Theo tác giả Hoàng Tuấn (Cuốn: NGUYÊN LÝ CHỌN NGÀY THEO LỊCH CAN CHI,
trang 216, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, 2005) thì: Khi có việc cần kíp
cần phải tiến hành một việc nào đó, không thể trì hoãn mà gặp ngày giờ xấu, ta
có thể dùng các phép “hóa giải” sau đây:
1. Dùng
cơ chế “Chế sát”: Tức dùng “tương khắc” của Ngũ hành để chế sát. Ví
dụ: Ngày “hung” thuộc Thủy thì dùng giờ Thổ để hóa giải (Thổ khắc Thủy);
ngày “hung” thuộc Hỏa thì dùng giờ Thủy để hóa giải (Thuỷ khắc
Hỏa); ngày “hung” thuộc Mộc thì dùng giờ Kim để chế sát (Kim khắc
Mộc)..v.v....
2. Dùng
cơ chế “Hóa Sinh”: Tức dùng “tương sinh” của Ngũ hành để hóa giải. Ví
dụ: Ngày “hung” thuộc Kim thì dùng Thổ để hóa giải (Thổ sinh
Kim); ngày “hung” thuộc Thủy thì dùng giờ Kim để hóa giải (Kim sinh
Thủy); ngày “hung” thuộc Hỏa thì dùng giờ Mộc để hóa giải (Mộc snh
Hỏa)...
3. Dùng
cơ chế “Tị hòa”: Tức dùng “tỵ hòa” của Ngũ hành để hóa giải. Ví dụ:
Ngày “hung” thuộc Âm Mộc thì dùng giờ Dương Mộc để hóa giải; ngày “hung” thuộc
Âm Kim thì dùng giờ Dương Kim để hóa giải.....
4. Thay
đổi người chủ trì: Có thể tìm người khác trong gia đình hay họ hàng,
bè bạn hợp với tuổi tác, ngày giờ tiến hành công việc để thay Mệnh chủ trong
công việc đang làm. Tất nhiên, người được “mượn tuổi” phải có Mệnh tương sinh
với ngày, giờ được chọn để khởi đầu cho công việc.
Trong bốn phép “Hóa giải” mà Tiến sỹ Hoàng Tuấn đưa ra, theo thiển nghĩ của
chúng tôi, khi công việc cần kíp không thể trì hoãn, bạn đọc có thể dùng cơ chế
“Chế sát” là tốt nhất để hóa giải sự hung - sát của ngày xấu. Còn nếu không
chọn được giờ khắc với ngày xấu, lúc bấy giờ ta mới dùng cơ chế “Hóa Sinh”, sau
cùng mới đến dùng người khác thay Mệnh chủ trong công việc hoặc dùng cơ chế “Tị
hòa” để hóa giải.
Người Việt Nam cũng
rất chú trọng việc chọn người xông đất (nhà) đầu năm. Người ta thực hiện theo
nguyên tắc: chọn mệnh sinh, kỵ mệnh khắc. Nhưng trong “tương sinh” Ngũ
hành ấy, người ta thường chọn thế sinh nhập, nghĩa là mệnh mình được mệnh khách
sinh. Ví dụ: Chủ nhà mệnh Thủy thì người xông nhà phải là
mệnh Kim để Kim sinh Thủy; chủ nhà
mệnh Kim thì người xông nhà phải có mệnh là Thổ để Kim được Thổ sinh;
chủ nhà mệnh Hỏa thì chọn người xông nhà có bản mệnh
là Mộc để Hỏa được Mộc sinh... Tất nhiên, việc
chọn người dù ở thế sinh nhập vẫn phải tuân thủ theo nguyên tắc: Âm - Dương,
chứ không thể cùng Âm hoặc cùng Dương. Chẳng hạn, người chủ mệnh là Âm Kim sẽ
chọn người có mệnh là Dương Thổ đến xông nhà, như vậy mới hoàn mỹ...
Người xưa quan niệm, người xông nhà có bản mệnh sinh cho bản mệnh của gia
chủ thì cả năm mới, gia chủ sẽ được phát tài, phát lộc, gặp nhiều may mắn. Nếu
trong trường hợp không chọn được người có bản mệnh sinh cho bản mệnh của mình
thì người ta thường chọn người ở thế tương hòa. Trường hợp vẫn chưa chọn được
tuổi của người xông nhà ở thế tương hòa thì bấy giờ người ta mới chọn ở thế
sinh xuất, có nghĩa là bản mệnh của mình sinh cho bản mệnh của người xông nhà.
Ví dụ: Chủ nhà mệnh Thủy, người xông nhà là mệnh Mộc; chủ nhà
mệnh Kim, người xông nhà mệnh Thủy; chủ nhà mệnh Thổ,
người xông nhà mệnh Kim; chủ nhà mệnh Hỏa, người xông nhà
mệnh Thổ... Tuy năm mới có vất vả, lận đận vì bản mệnh của mình bị
“hao mòn” do sinh xuất cho bản mệnh của người xông nhà nhưng công việc làm ăn
vẫn được ổn định, hạnh phúc cũng được vẹn toàn.
Còn với mối quan hệ “tương khắc” của Ngũ hành thì sao? Tại sao người xưa
lại kiêng kỵ chọn người xông nhà có bản mệnh tương khắc với bản mệnh của mình?
Theo lý giải của thuyết Âm Dương Ngũ hành thì dù ở thế “khắc xuất” hay “khắc
nhập” sẽ đều bất lợi cho gia chủ: Cả năm làm ăn không được xuôi chèo mát mái,
hay gặp những chuyện rủi ro, hạnh phúc gia đạo không được vẹn toàn...
Với việc chọn người xông nhà, mở hàng đầu năm, dân gian thường chỉ chú
trọng tới sự sinh - khắc về đặc tính và Âm Dương của Ngũ hành làm căn bản,
nhưng trong một số công việc quan trọng như kết hợp làm ăn, cưới vợ gả chồng
thì dân gian lại chú trọng thêm yếu tố lý tính của Ngũ hành.
(Xem thêm:
*.
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
…………………………………………………………………………
- © Tác giả giữ bản quyền.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
0 comments:
Đăng nhận xét