TỨ VÀ CẤU TỨ
TRONG THƠ
Trong bình luận văn chương, nhất là trong lĩnh vực thơ ca, nhiều người đã
sử dụng khái niệm "tứ thơ" nên mới nói đến chuyện "cấu tứ",
"siêu cấu tứ", "cấu tứ lỏng"...Nhưng "tứ" là gì,
"ý" khác "tứ" ở chỗ nào thì còn rất ít người chính thức bàn
tới. Vì thế mà nhiều người yêu thơ, muốn tìm hiểu thơ ca thường nảy sinh thắc
mắc. Có lần một bạn đọc đã hỏi trên báo chí và được một nhà thơ giải đáp đại ý
"tứ là một dạng tồn tại cụ thể của ý". Đây là một gợi ý rất tốt để
chúng ta có thể phân biệt giữa ý và tứ. Như vậy thì "ý" có tầm khái
quát và trừu tượng hơn tứ. Nó chỉ tồn tại trong ý niệm con người. Còn
"tứ" thì đã được hiện hình trong một hình ảnh, một biểu tượng có vai
trò như một sinh thể. Hiểu thế thì có thể xem những câu "nước chảy đá
mòn", "mài sắt nên kim"... là những "tứ" vì nó đều là
những dạng tồn tại cụ thể của cái ý chung "lòng bền bỉ phấn đấu của con
người có thể dẫn đến những thành công khác thường"; những câu " gần
mực thì đen, gần đèn thì rạng", "ở bầu thì tròn, ở ống thì
dài"... là những tứ của cái ý chung "hoàn cảnh và môi trường sống có
ảnh hưởng đến con người"
(Tác giả Đỗ Đình Tuân) |
Từ đây có thể suy ra cấu tạo của một "tứ thơ" bắt buộc phải có
một "ruột ý" có vai trò như một "linh hồn" được gói trong
một hình ảnh cụ thể làm thân xác và thực chất của việc làm thơ chính là quá
trình hình thành và sáng tạo ra những "tứ thơ" chứ không phải chỉ
thuần túy là việc diễn ý hay kể việc... Cái phần "thân xác" của tứ
thơ thường cũng là những sự kiện, những hình ảnh của cuộc đời mà nhà thơ từng
chứng kiến (hoặc do cuộc sống gợi ý mà tưởng tượng ra) và cái phần "linh
hồn" cũng thường là những tâm sự, những nỗi niềm được tích tụ trong quá
trình sống mà nhà thơ có nhu cầu muốn giãi bày chia sẻ.
Đọc một số bài thơ tình của Hoàng Cầm cũng có thể gỡ mở thêm được chút ít.
Hoàng Cầm vốn là một thi sĩ vừa đa tài vừa đa tình. Khi còn rất ít tuổi đã dính
vào một mối tình trái khoáy: yêu đơn phương một người con gái lớn hơn mình
nhiều tuổi. Trong hồi ký của mình Hoàng Cầm viết: "Chị ấy tên là Vinh. Bố
mất sớm, nhà rất nghèo. Chị ở cùng mẹ và một đứa em lên năm tuổi. Họ cất một
gian nhà ở phố để bán hàng kiếm ăn. Suốt từ năm 8 đến 12, 13 tuổi, lúc nào đi
theo chị được là tôi đi ngay, không rời nửa bước. Cũng nhờ đi theo chị, tôi mới
có những kỉ niệm để sau này trở thành Lá diêu bông. Trong một buổi tối thanh
niên, trai gái ở làng tụ họp nhau để hát đối, chị vịn lấy vai tôi mà hát. Rồi
chị bảo bọn trẻ chúng tôi: "Đứa nào
tìm được lá diêu bông, ta sẽ gọi là chồng". Nghe thấy thế, mặt tôi đỏ
lên. Rồi một hôm nắng vàng giời lạnh, buổi chiều tha thẩn ra sân, tôi thấy chị
đi ra phía cánh đồng liền cũng đi theo. Giữa đồng, chị một mình mê mải vạch
từng cái lá, cành cây như đang tìm một cái gì đó. Tôi liền hỏi: "Chị Vinh ơi, chị tìm cái gì đấy?".
Chị nhìn tôi đáp lời: "Ờ, chị đi tìm
cái lá... (chị nói tên một cái lá gì như là lá thuốc)".
Câu chuyện tình ấy đã được Hoàng Cầm "thâm canh" trong nhiều bài
thơ tình nổi tiếng của ông. Đầu tiên đó là bài Cây Tam cúc:
Cỗ bài tam cúc mép
cong cong
Rút trộm rơm nhà đi
trải ổ
Chị gọi đôi cây
Trầu cay má
đỏ
Kết xe hồng đưa Chị
đến quê Em.
Nghé cây bài tìm
hơi tóc ấm
Em đừng lớn nữa Chị
đừng đi
Tướng sĩ đỏ đen
chui sấp ngửa
Ổ rơm thơm đọng
tuổi đương thì.
Đứa được
Chinh chuyền xủng
xoẻng
Đứa thua
Đáo gỡ ngoài
thềm
Em đi đêm tướng điều
sĩ đỏ
Đổi xe hồng đưa Chị
đến quê Em.
Năm sau giặc
giã
Quan Đốc đồng áo
đen nẹp đỏ
Thả tịnh vàng cưới
Chị võng mây trôi
Em đứng nhìn theo
Em gọi đôi.
Những kỷ niệm của Em về Chị còn tươi nguyên và ấm áp, cho dù kết thúc có
xót xa. Ở đây Em vẫn còn dõi theo và tiếc chị. Nhưng đến Quả Vườn ổi thì câu chuyện kể khác:
Em mười hai tuổi
tìm theo Chị
Qua cầu bà Sấm, bến
cô Mưa
Đi...
ngày tháng
lụi
tìm không
thấy
Giải yếm lòng trai
mải phất cờ
Cách nhau ba bước
vào vườn ổi
Chị xoạc cành
ngang
Em gốc cây
- Xin chị một quả
chín!
- Quả chín..
quá tầm tay
- Xin chị một quả
ương
- Quả ương
chim khoét
thủng
Lẽo đẽo Em đi vườn
mai sau
Cúi nhặt chiều mưa
dăm quả rụng.
Điểm nhấn của bài thơ không còn là những kỷ niệm tình yêu nữa mà đã là vị
trí và thân phận khác nhau giữa Em và Chị. Chị vào vườn ổi trước, chị đỏng đảnh
leo cao và xài những quả ngon. Còn Em thì chỉ được "Cúi nhặt chiều mưa dăm quả rụng". Đến Lá Diêu bông thì chuyện kể lại càng khác:
Váy Đình Bảng buông
chùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều
Cuống rạ
Chị bảo
Đứa nào tìm được Lá
Diêu bông
Từ nay ta gọi là
chồng
Hai ngày Em tìm
thấy Lá
Chị chau mày
Đâu phải Lá Diêu
bông
Mùa đông sau Em tìm
thấy Lá
Chị lắc đầu
trông nắng vãn bên
sông
Ngày cưới Chị
Em tìm thấy
Lá
Chị cười xe chỉ ấm
trôn kim
Chị ba con
Em tìm thấy
Lá
Xòe tay phủ mặt Chị
không nhìn
Từ thuở ấy
Em cầm chiếc
Lá
đi đầu non cuối
bể
Gió quê vi vút
gọi
Diêu bông
hời...
... ới Diêu
bông...!
- Rét 1959 -
Vẫn là câu chuyện tình giữa Em và Chị, nhưng điểm nhấn ở Lá Diêu bông hình
như lại là những "chiêu lừa" của Chị. Lợi dụng tình yêu của người Em
chị đưa ra một lời hứa "Đứa nào tìm
được Lá Diêu bông / Từ nay ta gọi la chồng". Nhưng đó chỉ là một lời
hứa suông bởi trong thâm tâm người Chị vẫn coi như không có lời hứa ấy. Chị vẫn
mặc nhiên đi lấy chồng và sinh con đẻ cái với người khác. Chỉ tội nghiệp cho
người Em, vì yêu chị mà suốt đời lận đận thực hiện cho bằng được yêu cầu của
Chị. Nhưng chả lần nào được người Chị chấp nhận. Lần thì Chị chau mày gắt gỏng,
lần thì Chị lắc đầu lạnh nhạt, có lần Chị lại bật cười đến khó hiểu và cuối
cùng thì Chị phủ nhận thẳng thừng và sạch trơn "Xòe tay phủ mặt Chị không nhìn". Đến đây thì người Em đã hoàn
toàn tuyệt vọng, thất thểu như dở điên dở dại, tay cầm chiếc Lá đi khắp đầu non
cuối bể cất tiếng gọi cùng gió quê "Diêu
bông hời... ới Diêu bông...!". Cái tiếng gọi ấy nghe như một tiếng kêu
cầu cứu mà vô vọng. Có lẽ vì thế mà nó khá ám ảnh và vang động mãi trong tâm
tưởng người đọc chăng?
Trong thực tế thơ ca ta thấy có rất nhiều những tứ thơ gần như diễn tả cùng
một ý, chẳng hạn những câu:
- Yêu thì củ ấu
cũng tròn
Không yêu thì quả
bồ hòn cũng vuông
- Yêu nhau nghèo
khó chẳng chê
Một trăm chỗ lệch
cũng kê cho bằng
- Không ưa thì dưa
có ròi
- Lỗ mũi mười tám
gánh lông
Chồng yêu chồng bảo
tơ hồng trời cho...
Cái "ý trần" của cấc tứ này là "Yêu thì nên tốt, ghét thì
nên xấu". Như vậy có nghĩa là từ một ý có thể sáng tạo ra nhiều tứ nếu như
tìm được những hình ảnh mới thích hợp để diễn tả nó. Có thể gọi cách này là
cách "Rượu cũ, bình mới". Không thiếu những tứ thơ đã được sáng tạo
ra theo cách này. Chẳng hạn để diễn tả cái hiện tượng "những người thân
quen, gần gũi dễ xem thường nhau hơn nên khó ảnh hưởng đến nhau", tục ngữ
đúc kết bằng những câu "Dao sắc
không gọt được chuôi", "Bụt
chùa nhà không thiêng". Đến thơ Trần Đăng Khoa ta lại thấy xuất hiện
một tứ thơ mới trong bài Ghi
chép về cây đèn dầu:
Lặng lẽ trên bàn mà
cháy
Mà soi sáng xung
quanh
Chỉ thương cây đèn
ấy
Không sáng nổi chân
mình.
Ngược lại ta cũng thấy trong thực tế thơ ca có rất nhiều những tứ thơ khác
nhau nhưng vẫn có cái thân hình giống nhau. Chẳng hạn cùng một hình ảnh tằm với
tơ, ca dao viết:
Dã sinh ra kiếp con
tằm
Dẫu không nhả kén
cũng nằm trong tơ
Những Truyện Kiều thì lại viết
Dù cho sông cạn đá
mòn
Con tằm đến thác
hãy còn vương tơ
Những tứ thơ này chỉ khác nhau trong nội dung ý nghĩa. Có thể gọi nó là
kiểu "Bình cũ rượu mới". Theo cách này thì từ một hình ảnh quen thuộc
vẫn có thể sáng tạo ra những tứ thơ mới nếu như ta biết thổi vào trong đó những
ý nghĩa mới và mang sinh khí mới. Trong Chí Linh phong vật chí có giới thiệu
một giai thoại kể về một cuộc xướng họa giữa sứ Tầu Mao Bá Ôn và quan trạng
Giáp Trung. Mượn đề tài đám bèo Mao Bá Ôn thì viết:
Mọc theo ruộng nước
dáng như kim
Từ trước chơi vơi
gốc chẳng im
Không có củ thân
không có lá
Dám sinh chi tiết
dám sinh tim
Biết đâu tụ lại
không khi tán
Chắc hẳn nổi lên có
lúc chìm
Gặp lúc trời chiều
cơn gió táp
Sớm vô hồ bể biết
đâu tìm.
(Chưa rõ người dịch)
Còn Giáp Trung thì lại viết:
Vẩy gấm ken dầy khó
lọt kim
Kết liền lá rễ vững
và im
Thường cùng mây
trắng tranh làn nước
Há để trăng thanh
lọt đáy tim
Sóng đánh ngàn tầng
mà chẳng vỡ
Gió đưa muôn trận
vẫn không chìm
Cá rồng nhiều ít
nương trong đó
Lã Vọng buông câu
hết kế tìm.
(chưa rõ người dịch)
Thế là cùng một hình ảnh đám bèo nhưng sứ Tầu Mao Bá Ôn thì thổi vào đó cái
thái độ ngạo mạn coi thường dân tộc việt và hàm chứa cả một lời đe dọa. Còn
quan trạng Giáp Trung thì lại thổi vào đó cái khí phách kiên cường bất khuất,
tinh thần đại đoàn kết dân tộc của con người Việt nam trước mọi cuộc xâm lăng.
Cũng là cánh bèo, có lần Nguyễn Du đã mượn để diễn tả cuộc đời trôi nổi của
Thúy Kiều sau mười lăm năm lưu lạc với một tâm trạng mệt mỏi muốn yên thân:
Nghĩ mình mặt nước
cánh bèo
Đã nhiều lưu lạc
lại nhiều gian truân
Bằng nay chịu tiếng
vương thần
Thênh thang đường
cái thanh vân hẹp gì.
Nhưng đến Phùng Cung thì nó còn lênh đênh ngay cả khi đã dạt vào ao cạn ?
Chính sự phi lý này mới diễn tả một cách kỳ diệu cái nỗi đau cùng cực của phận
người:
Lênh đênh muôn dặm
nước non
Dạt vào ao cạn vẫn
còn lênh đênh
Từ một hình ảnh mà có thể sáng tạo ra nhiều tứ thơ hoàn toàn khác nhau là
như vậy.
Nhưng quan trọng hơn vẫn là việc sáng tạo ra những tứ thơ hoàn toàn mới cả
về ý vẫn về hình, nghĩa là "Rượu mới và bình cũng mới". Chỉ xin dẫn
ra đây vài ví dụ nhỏ. Chẳng hạn như trong Bài Ca Vỡ Đất, Hoàng
Trung Thông đã sáng tạo ra một tứ thơ ca ngợi sức lao động của con người rất
đặc sắc:
Bàn tay ta làm nên
tất cả
Có sức người sỏi đá
cũng thành cơm.
Trong ca dao xưa cũng từng có những tứ thơ nói về lao động: "Dẻo thơm
một hạt, đắng cay muôn phần" nói lên giá trị của hạt gạo và sự vất vả của
nghề nông sản xuất ra hạt gạo; hoặc "Đừng than phận khó ai ơi / Còn da
lông mọc còn chồi nảy lông" nói niểm hy vọng lạc quan của con người lao
động. Nhưng dù sao thì về sự bừng sáng và độ hàm súc vẫn khó sánh được với cái
tứ thơ "sỏi đá cũng thành cơm".
Đọc thơ ca dân gian xưa thấy những tứ thơ nói về tình cảm vợ chồng thường
chưa tương xứng với thực tế cuộc đời "Sống
gửi thịt, thác gửi xương". Tình cảm của người chồng đối với người vợ
thì chỉ là "nắng quái chiều hôm".
Thậm chí còn chỉ là "cơm nguội đỡ
khi đói lòng". Tình cảm của người vợ đối với người chồng cảm động hơn
những cũng chỉ là mảnh chăn tấm áo của nhau thôi: "Áo xông hương của chàng vắt mắc / Đêm em nằm em đắp lấy hơi"...Nhưng
đến Đôi Dép của Nguyễn Trung Kiên thì tình vợ chồng đã
được gói ghém trong một tứ thơ mới lạ và tương xứng. Khai thác từ đặc điểm của
đôi dép: tuy khác nhau "mỗi chiếc ở
một bên phải trái", nhưng lại gắn bó bên nhau: "chẳng rời nhau nửa bước", cùng đồng
cam cộng khổ "...sánh bước những néo
đường xuôi ngược / Lên thảm nhung xuống cát bụi cùng nhau"... Chúng
bình đẳng và phụ thuộc lẫn nhau để cùng tồn tại : "Số phận chiếc này phụ thuộc chiếc kia":
Hai mảnh đời thầm
lặng bước song song
Sẽ dừng lại khi chỉ
còn một chiếc
Chỉ còn một là
không còn gì hết
Nếu không tìm được
chiếc thứ hai kia...
Những đặc điểm ấy sao mà tương đồng với tình cảm vợ chồng đến vậy:
Giống như mình
trong những lúc vắng nhau
Bước hụt hẫng cứ
nghiêng về một phía
Dẫu bên cạnh sẽ có
người thay thế
Mà trong lòng nỗi
nhớ cứ chênh vênh
Tóm lại, một câu chuyện, một cử chỉ, một hình ảnh, một mùi hương... có ngụ
tình và ngụ ý ở bên trong thì đều có thể tạo ra một tứ thơ mới. Chẳng hạn ở Hương Thầm, Phan Thị
Thanh Nhàn đã khéo léo ngụ vào trong mùi thơm hoa bưởi một câu chuyện tình rất
Việt Nam và rất thời chống Mỹ. Ngay từ đầu, cái "ngan ngát hương đưa" dường như cũng đã nhiễm một chút tình ý
rồi:
Cửa sổ hai nhà cuối
phố
Không hiểu vì sao
không khép bao giờ
Đôi bạn ngày xưa
học cùng một lớp
Cây bưởi sau nhà
ngan ngát hương đưa
Rồi đến ngày người con trai ra trận. Người con gái thấy mình không thể vắng
mặt và đã gửi lòng mình vào một chùm hoa bưởi:
Dấu một chùm hoa
trong chiếc khăn tay
Cô gái ngập ngừng
sang nhà hàng xóm
Bên ấy có người
ngày mai ra trận.
Không vắng mặt, nhưng tình yêu thì vẫn ủ kín không bộc lộ:
Nào ai đã một lần
dám nói
Hoa bưởi thơm cho
lòng bối rối
Anh không dám
xin
Cô gái chẳng dám
trao
Chỉ mùi hương đầm
ấm thanh tao
Không dấu
được
Cứ bay dịu nhẹ.
Nhưng hình như càng dấu diếm nhau thì họ lại càng nhận ra nhau đến tận cùng
hơi thở:
Rồi theo cùng hơi
thở của anh
Hương thơm ấy
thấm sâu vào lồng
ngực
Anh lên đường
hương sẽ theo đi
khắp
Thế là lời thì chưa ngỏ, nhưng tình thì đã trao và đã nhận:
Họ chia tay, vẫn
chẳng nói điều chi
Mà hương thầm theo
mãi bước người đi.
Hương thầm nhưng chính là tình thầm. Tình thầm nhưng lại vô cùng ngào ngạt,
lan tỏa và thấm sâu...Tứ thơ Hương thầm
cứ man mác khắp bài thơ y như sự lan tỏa của hương thơm hoa bưởi vậy, vừa độc
đáo, vừa kỳ diệu, giầu thi vị đến lạ lùng. Thơ là sự thăng hoa của cuộc sống,
của tình đời, tình người có lẽ là như vậy đây chăng?
Cũng là kể chuyện, nhưng trong Viếng
Chồng Trần Ninh Hồ lại cô đúc tứ thơ
vào trong một chi tiết. Bài thơ kể chuyện một người vợ liệt sĩ đi viếng mộ
chồng. Chị mang từ quê đi một vòng hoa. Cố nhiên là định để dặt lên mộ chồng.
Nhưng đến nơi thì bên cạnh mộ anh lại có mộ một đồng đội nữa. Tình huống này đã
đặt ra trong chị một sự lựa chọn "đặt
vòng hoa trên nấm mộ nào cho đẹp?". Và chị đã đặt vòng hoa lên mộ
người đồng đội nằm bên cạnh mộ chồng. Cử chỉ này của chị đã khiến anh chiến sĩ
đưa đường tưởng chị đặt nhầm nên mới nhắc nhở:
Mộ anh ấy ở bên tay
trái
Chỉ có một vòng hoa
chị mang từ quê lại
Hoa viếng mộ bên
này đã có chúng tôi.
Nhưng chị đã giải thích ngay:
- Chị hiểu ý em
rồi
Xin cho chị đặt hoa
trên mộ đó
Cả cánh rừng chỉ có
hai ngôi mộ
Viếng mộ anh có chị
đến đây rồi.
Đến đây thì người đọc vụt nhận ra tấm lòng nhân ái giàu sẻ chia của chị.
Không ít người đã rưng rưng nước mắt vì xúc động và cảm phục. Sau cử chỉ này
chị bỗng biến thành HOA, không chỉ là bông hoa riêng viếng mộ chồng mà còn là
bông hoa lung linh trong tâm trí người đọc.
Trên đây chỉ là loáng thoáng vài ví dụ về những cách cấu tứ đã từng thấy
trong thơ. Cố nhiên là không thể nào đầy đủ được. Nhưng điều quan trọng là nó
gợi ý ra một số cách tìm tòi, gỡ mở các tứ thơ khi thưởng lãm. Còn với người
làm thơ, thì cái "cú hích" ban đầu để họ làm thơ chỉ là cảm hứng. Nói
như Huy Cận thì "Trước hết là một
nỗi niềm, ùn ùn trước ngực, rạo rực tâm hồn". Lúc ấy chính là những cơ
hội để "ý" có thể gặp "hình" mà hình thành ra tứ thơ. Rồi
sau đó tứ sẽ tìm lời, tìm chữ. Tức là "câu
chữ đến sau, lời sẽ đến sau" (Huy Cận). Cảm hứng có thể là kết quả của
một quá trình tích lũy dần dà, đến một lúc nào đó đủ độ chín thì nó xuất hiện.
Cũng có thể chỉ do một gặp gỡ ngẫu nhiên nào đó mà tức thời bùng phát. Nó cũng
giống như tình yêu trai gái vậy. Có những mối tình thì phát sinh theo kiểu
"lửa gần rơm lâu ngày cũng bén".
Nhưng cũng có không ít những mối tình lại chỉ qua một ánh nhìn thoát kiến là
lập tức đã thành bền chặt không rời nhau được nữa.
*.
ĐỖ ĐÌNH TUÂN
Địa chỉ: nhà số 9, ngõ 4, phố Tôn Đức Thắng,
KDC Nguyễn Trãi 2, phường Sao Đỏ,
thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương
…………………………………………………………………………
- © Tác giả giữ bản quyền.
- Cập nhật từ email: dovantuyenbk@yahoo.com.vn ngày 01.05.2017
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
0 comments:
Đăng nhận xét