(Huệ Dưỡng Viên và nhà thờ danh thần Trương Đăng Quế ; Nguồn ảnh: internet) |
Danh thần
TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ
MỘT TÂM HỒN
THƠ NẶNG LÒNG VỚI QUÊ HƯƠNG
(Danh nhân Trương Đăng Quế) |
Trương Đăng Quế tự
là Diên Phương, hiệu Đoan Trai, Quảng Khê,
xuất thân trong một gia đình nhà Nho thanh bạch. Ông sinh vào năm 1794
tại làng Mỹ Khê, quận Sơn Tịnh tỉnh Quảng Ngãi (Có tài liệu cho rằng: ông sinh
tại làng Mỹ Lại thuộc huyện Bình Sơn, nhưng chính xác làng Mỹ Khê thuộc xã Tịnh
Khê, quận Sơn Tịnh).
Ông là một người
thông minh, hiếu học. Năm 1819, Gia Long năm thứ 18, Trương Đăng Quế đổ Hương
tiến tại trường thi hương Thừa Thiên. Có thể coi Trương Đăng Quế là người khai
khoa đầu tiên của Quảng Ngãi dưới Triều Nguyễn.
(Tác giả Lê Ngọc Trác) |
Minh Mạng là một vị
vua thông minh, hết lòng chăm lo việc nước, sáng suốt trong việc dùng người.
Dưới thời Minh Mạng những người được bổ nhiệm làm quan đều có thực tài và thực
học (không câu nệ bằng cấp). Trương Đăng Quế là một người tài năng, có tầm hiểu
biết rộng về chính trị, văn hoá và quân sự. Chính vì vậy, tuy Trương Đăng Quế
chỉ thi đậu hương tiến, năm 1820, vua Minh Mạng vẫn mạnh dạn bổ ông vào làm
hành tẩu bộ lễ. Đến năm 1831, bổ nhiệm ông làm việc ở Hàn Lâm Viện và được vua
Minh Mạng phân công dạy các hoàng tử và công chúa. Ông được thăng tiến nhiều
chức vụ quan trọng: Thượng Thư bộ lễ, bộ lại, bộ công và bộ binh. Năm 1833, năm
1835, Trương Đăng Quế lãnh sứ mệnh Khâm mạng kinh lược chỉ huy đánh giặc Thổ
phỉ ở Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng và Thanh Hoá để an dân. Năm
1836, tiếp tục lãnh sứ mệnh Khâm mạng kinh lược Nam Kỳ. Trương Đăng Quế chỉ đạo
việc đạt điền lập địa bạ công điền công thổ ở các tỉnh phía Nam tổ quốc. Và, quy hoạch, phân
chia địa giới từ cấp làng, xã đến tỉnh trong toàn miền Nam , tạo cho nhân dân có cuộc sống
an cư lạc nghiệp. Theo Sử gia Trần Trọng Kim: “Công cuộc kiểm tra lập địa bạ định lại việc đinh điền và thuế khoá ở
Nam Kỳ vào năm 1836 đã tạo cho đất nước có bước phát triển vững chắc về kinh tế
và quốc phòng. Toàn Nam Kỳ sau khi đạt điền, đã tính ra được số ruộng đất đưa
vào sản xuất lên đến trên 630.075 mẫu. Các thứ thuế điền thổ cũng được định lại
một cách tương đối hợp lý”. Năm 1853, ông lãnh sứ mệnh kinh lược xứ Bắc Kỳ
để lãnh đạo việc đắp đê điều lo phát triển kinh tế cho các tỉnh ở phía Bắc.
Trương Đăng Quế
được triều đình giao phụ trách, tổ chức, thực hiện các kỳ thi Hội vào các năm
1835, 1838 và thi Đình vào các năm 1838, 1844,… nhằm tuyển chọn nhân tài cho
đất nước. Dưới triều Minh Mạng, ông là một đại thần của viện Cơ mật, được thăng
Hiệp điện đại học sĩ. Đời vua Thiệu Trị, Trương Đăng Quế là Phụ chánh đại thần,
Văn minh điện đại học sĩ. Sang đời vua Tự Đức, ông được thăng Cần chánh điện
học sĩ và được phong tước Tuy Thạnh Quận công. Trương Đăng Quế được cử làm Tổng
tài ở Quốc sử quán chủ biên các bộ sách
lớn của Triều Nguyễn: Đại Nam thực lực
tiền biên, Đại Nam liệt truyện tiền biên, Đại Nam hội điển toát yếu,…
Dưới thời Tự Đức,
trước tình hình binh lực hùng mạnh và tân tiến của Pháp, nhiều người lo sợ,
muốn giảng hoà với giặc. Trương Đăng Quế là người cầm đầu phe chủ chiến tại
Triều đình, quyết tâm đánh Pháp đến cùng (năm 1861, Pháp chiếm Định Tường,
Thượng thư bộ hộ Nguyễn Bá Nghi làm khâm sai kinh lý ở Nam kỳ. Nguyễn Bá Nghi biết không
thể chống được quân Pháp đã dâng sớ về triều xin nghị hoà với Pháp. Trương Đăng
Quế cực lực phản đối, ra lệnh cho Nguyễn Bá Nghi phải tìm mọi kế để đánh Pháp
bảo vệ đất nước).
Năm Tự Đức thứ 16
(1863), sau nhiều lần xin cáo lão từ quan, Trương Đăng Quế mới được triều đình
đồng ý cho nghỉ hưu. Ông trở về quê hương Quảng Ngãi sống một cuộc sống thanh
bần như một người dân quê bình thường.
Trương Đăng Quế mất
vào ngày 14 tháng 2 năm Ất Sửu (1865), thọ 73 tuổi. Nghe tin ông qua đời, vua
Tự Đức bãi triều 3 ngày tổ chức quốc tang, ban tặng ông hàm Thái sư tên thụy là
Văn Lương.
Trương Đăng Quế là
một nhà thơ lớn của Triều Nguyễn.
XUÂN GIANG KHÚC
Tạc dạ vũ thủy hạ
Xuân giang vi lãng
sinh
Thiếp tâm hữu sở
cảm
Diên ngạn tự vi
hành
Bản dịch của PHẠM
HUỆ:
Đêm qua có mưa nhỏ
Lòng sông sóng gợn
mờ
Lòng em sao xuyến
bấy
Ven sông bước bước
hờ
Bản dịch của
ĐOÀN THUẬN:
Đêm trước mưa rơi
tràn
Sông xuân sóng
nhẹ lan
Lòng thiếp vương
tình cũ
Men theo bờ mênh
mang
Đọc bài ca sông
xuân của Trương Đăng Quế, chúng ta nhận thấy một vị quan đại thần, một nhà
chính trị kiệt xuất của Triều Nguyễn có một tâm hồn rộng mở và cũng đầy lãng
mạng.
Giáo sư Vũ Khiêu đã
có những nhận xét tinh tế về thơ của Trương Đăng Quế: “Thơ của ông sâu sắc về nội dung, chặt chẽ về cấu trúc, tràn đầy tình
yêu và đạo lý làm người, đặc biệt là tấm lòng của ông đối với quê hương Quảng
Ngãi”.
THUYỀN QUÁ QUẢNG
NGÃI CỐ HƯƠNG
Xuân phong tống
chinh nghích
Thuấn tức việt
trùng ba
Lộ chỉ cố hương quá
Tinh huyền du tử đa
Không hoài Tang tử
Kính
Trùng xướng Thử
miêu ca
Khởi lập thuyền đầu
vọng
Dao thôn ẩn nguyệt
la
Bản dịch của Giáo
sư Vũ Khiêu:
Gió xuân đưa nhẹ
thuyền xuôi,
Liếc nhìn theo lớp
sóng dồi xa xa.
Bên đường thấp
thoáng quê nhà,
Tình vương lữ xót
xa can trường
Nỗi niềm Tang tử
mang mang,
Thử miêu ca khúc âm
vang chẳng ngừng.
Dựa đầu thuyền
ngóng mông lung
Nhà thôn dần khuất
theo cùng chồi cây.
Bài thơ trên,
Trương Đăng Quế viết khi nhận lãnh trách nhiệm kinh lược xứ Nam Kỳ. Trương Đăng
Quế và đoàn tùy tùng đi bằng đường biển, thuyền của ông đi sát dọc theo Quảng
Ngãi quê hương ông. Nhưng vì mệnh vua và là một người có trách nhiệm với công
vụ, không thể dừng lại thăm quê nhà, đứng ở đầu thuyền, nhìn về quê nhà, Trương
Đăng Quế xúc động thành thơ với tấm lòng dạt dào thương nhớ quê hương.
Trương Đăng Quế
sáng tác văn học rất nhiều. Những danh sĩ cùng thời với ông như Tùng Thiện
Vương, Tuy Lý Vương, Phan Thanh Giản, Nguyễn Công Trứ đều rất quý mến ông về
tài học và tài thơ. Trương Đăng Quế đã để lại cho đời những tác phẩm sau đây: Thiệu Trị văn giai , Quảng Khê thi văn tập,
Học văn dư tập,…
Sự nghiệp chính trị
của Trương Đăng Quế gắn liền với triều đình Nhà Nguyễn trong suốt thời kỳ đất
nước và triều đình phong kiến Nhà Nguyễn còn tự chủ. Trương Đăng Quế đã có
những đóng góp xuất sắc với lịch sử. Nhất là trên các lĩnh vực: Chính trị, kinh
tế, văn hoá, giáo dục, văn chương và học thuật.
*
Mời thư giãn với nhạc phẩm QUÊ HƯƠNG
của Giáp Văn Thạch, thơ Đỗ Trung Quân qua tiếng hát Tùng Dương:
-----------------
Tài liệu tham khảo:
- Từ ngàn xưa cho đến mai sau của Giáo sư Vũ Khiêu (2005).
- Đất thiêng người tài của Trường Lưu (Văn hiến số 5 – 2005).
- Tịnh khê xã Văn hiến của Cao Chư (VHNT số 7 – 2007).
- Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim.
- Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam của Nguyễn Bá Thế, Nguyễn Quang
Thắng (1999).
*
LÊ NGỌC TRÁC
Địa chỉ: Khu
phố 5, phường Tân An,
thị xã Lagi, tỉnh Bình Thuận
Email: lengoctraclg@yahoo.com.vn
.
…………………………………………………………………………
- © Tác giả giữ bản quyền.
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 05.10.2017
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
0 comments:
Đăng nhận xét