(Nguồn ảnh: internet) |
VÒNG THÁI TUẾ CHI PHỐI MỆNH, THÂN
QUA CÁC
CUNG NHỊ HỢP,
TAM HỢP và
XUNG CHIẾU
Trước
tiên, ta cần ghi nhận là Tử-vi được hình thành trong cơ cấu của Dịch Lý; qua
hai động lực căn bản: âm Dương và Ngũ Hành. Do đó cần tìm về nguồn qua tương
quan Lý Học, để từ đó có thể dò dẫm ra bước đường sáng tạo của cổ nhân
Sau khi
nguồn căn bản đã có, việc kế tiếp cần nêu lên cho chúng ta là phải giản dị hóa
khi áp dụng một các trực tiếp từ Dịch Học sang khoa Tử-vi. Muốn vậy ta không
thể quá lệ thuộc vào những câu Phú, để rồi nhiều khi mâu thuẫn nhau, vào những
lối giải đoán qúa phức tạp. Nói một cách khác, chúng ta phải dựa vào các ngành
học hiện đại vì chúng có tính cách khoa học hơn, để diễn đạt ngôn từ, sự việc
hơn.
Hai giải
pháp này đòi hỏi chúng ta phải xây dựng một kiến trúc từ nền tảng theo từng
điểm một. Đây không phải là một việc một sớm một chiều có thể vạch ra một lúc,
mà phải là trong trường kỳ và liên tục. Nó cũng không phải là của một cá nhân,
mà phải là sự hợp tác của nhiều khối óc, nhiều bàn tay. Một tiếng chuông đã
đánh lên, cần nhiều tiếng chuông khác phụ lực để vun bồi cho khoa Tử-vi mỗi
ngày một chính xác hơn trong tinh thần huyền bí của nó. Đạt được như vậy, chúng
ta vẫn duy trì tính cách Triết-Lý Đông-Phương mà vẫn không kém phần gãy gọn khi
phô diễn ngôn từ.
Đề cập
tới vấn đề này, tức là kẻ viết bài này đã gián tiếp hướng về giải thích khoa Tử
Vi theo một quan niệm trung dung nêu trên, gọi là một tiếng chuông tiếp nối
công trình của các bậc đàn anh đã làm.
Trong
phạm vi đề tài này, tôi xin khai triển tiếp nối kinh nghiệm của cụ Thiên Lương
về vòng Thái-Tuế, dưới một nhãn quan dị biệt.
Một cách
khách quan, chúng ta thử nhìn trên những dữ kiện thực tế, và những trường hợp
thành bại điển hình quanh ta. Càng cụ thể hơn nữa chúng ta thu hẹp nhãn quan
vào chính bản thân mình, gia đình mình. Chúng ta sẽ thấy những yếu tố cấu tạo
sự thành bại, luôn luôn bao gồm trong mỗi tương quan tính tình, đưa đến một lối
xử thế tế nhị khôn khéo hoặc lỗ mãng, bốc đồng. Và từ đó, dĩ nhiên là trong
cuộc sống hằng ngày, sự chung đụng giữa những mối tương quan từng cá nhân trong
xã hội, chưa kể liên hệ gia đình, từ bạn bè, người trên kẻ dưới, cho tới hoàn
cảnh trở lực, hàng xóm … sẽ tạo ra biết bao hậu quả ít nhiều quan trọng đến đời
sống của ta. Hẳn chúng ta cũng thấy nhiều người chỉ với ba tấc lưỡi Tô-Tần mà
được cất nhắc lên tột bực, có người khác luôn luôn được bè bạn giúp đỡ. Ngược
lại, có người lại bị đè ép không cho vươn lên, có người lại vô phúc hơn thường
bị đàn em lường gạt hoặc qua mặt mình … Và trong phạm vi thu hẹp hơn là trong
mái ấm gia đình, có người được sự đùm bọc, thương yêu, lại được anh em nể
trọng, và ngược lại cũng có người phải hy sinh gánh vác việc trong gia đình.
Tất cả
mối tương quan xã hội gia tộc đều xếp đặt một cách hợp lý qua các cung số quanh
cung Mệnh. Từ nhỏ môi trường sinh hoạt còn đâu ngoài gia đình với cung Phụ Mẫu
và cung Huynh Đệ (Bào) cho tới khi vào đời là chịu những mối tương quan phức
tạp hơn được biểu tượng qua các cung số : Phối (Thê Thiếp hoặc Phu Quân), Nô
Bộc, Thiên Di, Tử Tức … Những mối tương quan này được cô đọng trong một trạng
thái từ Tĩnh cho đến Động; “Tĩnh” khi mang tính chất cá biệt của nội tâm người.
Nhưng khi cá tính ấy bộc lộ qua hành động nó lại tạo ra một thế “Động” làm “Then
chuyền” chuyển động những trạng thái của người xung quanh, ảnh hưởng đối với
người ấy.
Chúng ta
đã phác họa qua về sự quan trọng của tính tình học, thu gọn trong khoa Tâm Lý
Học, trong mức sống cao thấp của một con người. Thực vậy, để diễn tả trong một
phạm vi nêu trên cho linh động hơn, tiền nhân đã gán cho mỗi cá tính “một ông
sao” tùy theo ý nghĩa của từ ngữ sao đó hoặc lối Ngũ Hành âm Dương, lối chiết
tự. Mỗi “ông sao” thực ra là một dụng cụ phối trí của tương quan lý học, để
diễn tả vị thế con người là một “Tiểu Thiên Địa” có đủ cơ cấu âm-Dương Ngũ Hành
trong một vũ trụ bao la vô tận.
Vận mệnh
Trời được được phối trí qua người Cha và người Mẹ để tạo nên cái TA, trong môi
trường Gia tộc và Xã hội. Thành tố Gia tộc bao gồm thêm 3 yếu tố: Cha-Mẹ-TA, được
biểu tượng qua Thiên Can, Địa Chi, và nạp âm Can, Chi ra bản Mệnh (TA). Thành
tố xã hội rồi bao quát chi phối Mệnh qua trạng thái của cuộc đời, qua vai trò
của Cục (tức cuộc, tức cuộc đời). Nắm được hai thành tố với 4 yếu tố trên qua
sắc thái: Can tuổi, Chi tuổi, bản Mệnh và Cục là ta có thể giải đoán toàn bộ
cuộc đời, có thể xuống tới các Đại-Hạn.
Trở lại
vấn đề, ta thấy cha cho hình hài, mẹ nuôi dưỡng cưu mang lâu dài. Người cha,
theo quan niệm xưa, đi tìm sinh kế lo no ấm cho gia đình (vì thế được biểu
tượng qua vòng Thiên Can, tức vòng Lộc-Tồn). Trong khi ấy, người mẹ lãnh một
vai trò “khiêm tốn” hơn đối với xã hội, nhưng trong gia đình người mẹ nổi bật
lên, đôi lúc còn lấn át cả người cha. Đó trách nhiệm tinh thần, giáo huấn con
cái, đào tạo cho thành người hữu dụng trong gia đình, trong xã hội. Tiền nhân
ta cũng đã sớm ý thức các điều này và đã để lại nhiều câu tục ngữ nói lên thực
trạng này:
Nào là:
“Con không cha như nhà không nóc”;
Hoặc:
“Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”.
Như vậy
vai trò người cha, tượng trưng qua Thiên-Can mà căn bản là vòng Lộc-Tồn với ý
nghĩa Phúc, Họa đi đôi với vật chất tiền tài. Đối nghịch là vai trò người mẹ
qua Địa-Chi mà trọng tâm là vòng Thái-Tuế, mang cá tính của người con với các
điểm liên hệ về tính tình, về tinh thần.
Tương
quan tâm lý học được chứng giải qua vòng Thái-Tuế. Nhưng trong mối liên hệ này
có những ràng buộc nào từ gia đình cho tới xã hội ? Một cách đại cương, chúng
ta có thể vạch ra vài nét chính:
- Cung
Bào và cung Phụ Mẫu: Là mối dây liên hệ huyết thống chặt chẽ đầu tiên của mọi
người, mà ai cũng phải có từ nhỏ cho tới khi khôn lớn. Qua vị trí cố định lần
lượt của 12 cung số thì Mệnh luôn được xếp ở giữa hai cung Bào và Phụ Mẫu, nói
cách khác hai cung này giáp biên của Mệnh.
- Cung
Nhị Hợp: Là lân phương là kế cận, hàng xóm của bản cung nói chung và của Mệnh
nói riêng. Ý nghĩa cung Nhị Hợp cũng không kém phần trọng yếu. Nó nói lên mặt
trái của vấn đề. Nó là bên trong, là sự tiềm ẩn là cứu cánh của sự việc, là cái
khuynh hướng (tendance) tiến đến sự việc liên hệ cung số Nhị-Hợp.
- Cung
Tam Hợp: Là trạng thái vào đời, có gặp được may mắn không, tùy thế của chiều đi
Âm Dương hoặc tùy chiều sinh của hai cung Tam-Hợp so với bản cung. Để giản
lược, ở đây trong Tam Hợp Mệnh, Tài, Quan, ta biết trạng thái thực tại của ta
khi vào đời và được ưu đãi về phương diện nào: Tài hay Quan ?.
- Cung
Chính Chiếu: Không nên quan niệm cung Chính Chiếu (Thiên Di) là đối phương của
mình một cách đơn thuần như vậy; mà nên nới rộng phạm vi để quan niệm đó là
hoàn cảnh gây nên cho mỗi số phần, nếu có thì mức độ trở ngại ấy có thể vượt
qua hay không ?
Chúng ta
sẽ lần lượt xét các mối tương quan xã hội, gia tộc qua sự phân tích ảnh hưởng
của tâm lý vào cuộc đời với các dụng cụ sử dụng là các cung số:
Tương
quan vòng Thái-Tuế qua cung Mệnh, cung Nhị Hợp và cung Xung chiếu.
Tương
quan vòng Thái-Tuế qua cung Thân, cung Nhị Hợp và cung Xung chiếu.
Tam hợp
Mệnh Tài Quan phối hợp qua vòng Thái-Tuế.
I/ TƯƠNG
QUAN MỆNH, NHỊ HỢP, XUNG CHIẾU
Để bàn
về phạm vi này, cần đề cập tới mối liên hệ biểu kiến và nội tại cũng như xét
qua lại vòng Thái Tuế ứng dụng vào sự tìm hiểu mặt trái ở đời so với cung
Nhị-Hợp, cung Chính chiếu. Ngoài ra để dễ áp dụng hơn, tôi xin đan cử vài thí
dụ điển hình.
A- TíNH
TìNH BIỂU KIẾN Và NỘI TẠI
Không
phải ai cũng “ruột liền da”, “da liền ruột”, mà trái lại phần lớn chúng ta lại
gặp nhiều hạng người như ruột gà. Nói rõ ra là, tính tình mà chúng ta nhận thấy
ở họ qua sự biểu lộ hằng ngày, không hẳn là đích thực tình trạng bên trong của
họ. Đó cũng là một hiện tượng ý nghĩ tương phản với lời nói. Hai trạng thái
hướng ngoại biểu hay Biểu kiến (Apparence) và Nội Tại (Interieur), sẽ được phơi
trần ra trước ánh sáng của Vòng Thái Tuế và cung Nhị Hợp, Chính chiếu. Nhờ vậy,
cũng cùng một lời nói ta có thể phân biệt hai hạng người: “Khẩu Phật Tâm Xà”
hoặc “Khẩu Xà Tâm Phật”.
1- Biểu
kiến (Apparence)
Qua Vòng
Thái Tuế ở cung Mệnh, cá tính một người hiện ra một cách ngoại biểu đối với
người coi số cũng như trên thực tế mọi người cũng nhận ra cá tính thường nhật
của người ấy. Ngoài ra, Vòng Thái Tuế còn có tác dụng mang lại thêm các dữ kiện
mới khi nó phối hợp với cung chính chiếu. Thực vậy thế Tam-Hợp của bản cung khi
so sánh với thế Tam-Hợp của đối cung, cho ta nhận rõ ra tinh thần một người có
lạc quan hay bi quan trước cuộc sống, trước hoàn cảnh ở đời.
Trong
bản số của Vua Quang Trung Đại Đế, Vòng Thái Tuế đã chứng giải tinh thần tự tôn
của ngài tự coi mình có trách nhiệm “Thế Thiên Hành Đạo” đem lại an bình cho
đất nước, đánh đuổi ngoại xâm (Thái Tuế đóng ở Mệnh). Ngoài ra thái độ dũng
mãnh, xem thường đối phương cũng như bách chiến bách thắng của ngài cũng phần
nào được biểu lộ qua thế Thủy của Tam Hợp Mệnh thắng thế Hỏa của Tam Hợp Thiên
Di (Mệnh lập tại cung Thân thuộc Tam Hợp Thân Tý Thìn tức thế Thủy; Thiên Di
ở Dần tức thế Hỏa do Tam Hợp Dần Ngọ Tuất).
2- Tính
tình tiềm ẩn (Virtuel)
Sự ngoại
biểu do vòng Thái Tuế, là nguồn căn cho mọi việc. Ở đây cung Nhị-Hợp cung Mệnh
sẽ đóng vai trò tinh thần, dù là tiềm ẩn hay nội tại của tình trạng của vòng
Thái Tuế ở Mệnh nó là nội tâm của một người, là nỗi lòng thầm kín là khuynh
hướng về một mục tiêu nào. Không những chỉ ghi nhận điều trên, cung Nhị Hợp còn
cho biết mức độ cũng như sự thiệt thòi, hy sinh hay sự được giúp đỡ, bị người
khác hại. Và cũng do định luật Tam Hợp với thế Ngũ Hành giữa hai cung Mệnh và
cung Nhị-Hợp mà dàn ra thế trận. Sinh xuất hay sinh nhập cung Mệnh, luôn luôn
theo theo nguyên tắc “Mệnh vi chủ”, cung Mệnh luôn luôn là chủ, các cung khác
nói chung và cung Nhị-Hợp nói riêng phải là khách. Do đó, Mệnh được sinh nhập
mới được điều phúc lợi.
Thí dụ:
Mệnh ở cung Tý có Quan Phù, thủ Mệnh, cung Nhị-Hợp là phụ-Mẫu ở cung Sửu. Ta
thấy về phương diện nội tại hàng xóm, thân cận, đương số được cha mẹ bao bọc,
cưng chiều, giúp đỡ. Do bởi căn nguyên là sự khôn ngoan, lời nói lễ phép dè dặt
(đặc tính của Quan Phù) mà được hưởng phúc này.
Trong
phần A này, tôi chỉ nói phớt qua khi đề cập thế Tam Hợp Mệnh và Di cũng như thế
Tam Hợp Mệnh và Nhị Hợp, bởi vì cụ Thiên Lương đã giảng rõ về điểm này. Những
điểm trọng yếu chính là sự ngoại biểu (biểu kiến) và nội tại (tiềm ẩn), chưa
được ai đề cập tới, đó mới là mẫu chốt của phần A mà đã trình bày ở trên. Tiếp
dưới đây vì khái niệm vòng Thái-Tuế chưa được khai triển rộng ra theo khoa Tâm
Lý Học, nên tôi xin mạn phép được nêu ra, mặc dầu cụ Thiên Lương đã tiên phong
nêu ra trong vấn đề này
B- VÒNG
THÁI TUẾ Và TíNH TìNH MỖI Cá NHâN
Cần ghi
rằng sao của vòng Thái-Tuế chỉ luận giải về phương diện tư tưởng ngay chính hay
không, đối với cung Mệnh mà thôi. Còn ở các cung số khác, kể cả cung Thân. Đây
là một điểm cần nhấn mạnh để khỏi lầm lẫn khi phân tích chiều sâu của một
người. Theo thiển ý vòng Thái-Tuế cần phân tích ra hai trạng thái từ Tĩnh tới
Động, Tĩnh trong Động, Động trong Tĩnh. Phương diện Tĩnh trạng tượng trưng cho
tư tưởng, tính tình hoặc tinh thần qua vòng Thái-Tuế ở Mệnh. Động trạng là bình
diện cần an bài đúng vị thế Thân là hành động. Do đó, theo kẻ viết bài này,
vòng Thái-Tuế ở Mệnh nói lên riêng về tư tưởng (Tĩnh trạng chứa thế Tĩnh nguyên
thủy) và trong nguyên lý dịch học thì Tĩnh mà Động, vì thế tư tưởng là Tĩnh
thuần được diễn tả qua thế Động là lời nói, thái độ, hành động. Xin được sắp
xếp 12 sao của vòng Thái-Tuế theo tiêu chuẩn vừa nêu:
1- Thái
Tuế
Người có
tư tưởng tự tôn, theo lý tưởng ngay chính, nghiêm nghị, tự cho mình cả Thiên
Mệnh để thi hành. Do đó thường cảm thấy không ai xứng với mình về phương diện
tư cách, hoài bão.
Ý nghĩa
trên phát xuất từ, từ ngữ “ngôi Thái-Tuế”, tượng trưng cho ngôi vua, là bậc cao
cả, là Thiên Tử, là con Trời, thay Trời cai trị muôn dân. Vua ở xa dân, ngay cả
quần Thần cũng vậy, vua cũng có lối sống riêng biệt do lễ nghi quan cách. Vì
vậy người có Thái Tuế ở Mệnh, thường cảm thấy cô độc, ít kẻ tri kỷ tri bỉ.
2- Bạch
Hổ
Tính
tình có vẻ sắt đá, nóng nảy, gan lì với hậu thuẫn là phải chính nghĩa của mình.
Người có Bạch Hổ tọa thủ tại Mệnh, thường dễ làm mất lòng người khác, vì “lời
thật mất lòng”. Nhưng nếu miếu địa “Hổ khiếu Tây Phương” (Bạch Hổ ở Dậu) thì dù
lời nói thẳng nhưng rất có uy tín, làm kẻ khác nể sợ.
3- Quan
Phù
Tính
chất Quan Phù ở Mệnh, mang lại cho người có nó, một sự khôn khéo, biết tiến
thoái đúng thời, đúng lúc mà vẫn không mất tư cách ngay thẳng chính trực của
mình. Đó mới là điểm khó khăn, ít người dung hòa được. Người có Quan Phù thủ
Mệnh, rất giỏi lý luận, “biết người biết ta”; nên rất tế nhị, thích chinh phục
người khác bằng tư tưởng chính phái của mình.
4- Thiếu
Dương
Thiếu
Dương là “Tùy tinh”, mang tính chất của sự biến dịch của Tứ Tượng, Bát Quái.
Cho nên vị thế của nó rất đặc biệt, tuy sáng suốt nhưng là một thứ sáng suốt dễ
sa chân vào hố sâu, cần có nghị lực của bậc siêu phàm mới sử dụng được nó.
Trước
tiên nếu nó đồng cung hay chính chiếu với Hồng Loan, như các cụ Hoàng Hạc,
Thiên Lương đã lập đi, lập lại nhiều lần trên Báo KHHB, tôi chỉ xin thu gọn
lại, nó có đặc tính vị tha, quên mình, bỏ cái Ta đi để gánh vác việc đời (Xem
lại lá số Đức Phật Thích Ca trong quyển Tử Vi Nghiệm Lý của cụ Thiên Lương đã
bình giải).
Ngược
lại, nếu nó đi với Đào Hoa thì trở nên vị kỷ, thường chỉ nghĩ đến mình, vì mình
tất cả. Còn vị trí Thiếu Dương, Thiên Không ở Tứ Mộ thì phần lớn hay ít dở
nhiều, tuy nhiên cũng có vài trường hợp ngoại lệ (sẽ đề cập trong một phần
khác).
Tóm lại
người mang cá tính của Thiếu Dương dù vị kỷ hay vị tha do ảnh hưởng của Đào,
Hồng cũng là là người rất sáng suốt hơn người, thích được hơn người, vượt lên
trên mọi người. Đặc tính này cũng không dành riêng cho ai, dù vị tha như Đức
Phật, cũng là một ý chí muốn khác hẳn mọi người thế tục. Chẳng thế mà Ngài đã
từng thốt ra câu : “Thiên Thượng Địa Hạ, vô ngã độc tôn” đấy ư !!!
5- Phúc
Đức
Cũng nằm
trong Thế Tam Hợp của Thiếu Dương, nên âm hưởng của sao này đem lại cho người
mang nó một sự sáng suốt hơn người nhưng dù sao tính tình vẫn giữ chứ Đức làm
đầu.
Người có
sao Phúc-Đức là người thích vươn lên với đời, trong sự sòng phẳng tương quan
đổi chác, song phương hưởng lợi, không bán cây sống, trồng cây chết.
6- Tử-Phù
Không
như hai sao Thiếu-Dương, Phúc-Đức, vì thế sao Tử-Phù tuy cũng sáng suốt nhưng
là thứ sáng suốt để lừa lọc người với tính tình ma mãnh, dám làm điều sai quấy
nếu có dịp vì từ lời nói tư tưởng tới hành động đối với hạng người này cách
nhau không xa.
7- Trực
Phù
Do tính
chất của Địa Chi, thế vòng Trực Phù này bị sinh xuất hoặc khắc xuất. Do đó nhóm
Trực Phù, Long Đức, Thiếu âm là nhóm chịu nhiều thua thiệt ở đời (sẽ xin trình
bày rõ hơn trong bài sử dụng 4 chữ: Can, Chi, Mệnh, cục), vì thế trong tương
quan của thế Tam Hợp thì phải chịu nhiều thiệt thòi, nhưng riêng về vị thế Trực
Phù thì cá biệt mà nói, người mang tư cách này thường trong công việc không
được đãi ngộ tương xứng với khả năng của mình.
8- Long
Đức
Tùy cùng
chi phái với Trực Phù nhưng cũng như Phúc Đức, vị thế Long Đức còn chịu sự chi
phối của nhóm Tứ Đức. Vì vậy, dù thua thiệt, người Long Đức thường hiền hậu, an
phận không thích mạo hiểm bon chen, đôi lúc cũng thụ động quá mức mà đưa đến bi
quan.
9- Thiếu
âm
Là vị
thế chót của vòng Trực Phù, nhưng cũng nằm trong chu trình tiến hóa của Dịch lý
và tương phản với thế Thiếu Dương. Bởi vậy, người Thiếu âm thường bị thiệt
thòi, do quan niệm chủ quan, lắm lúc tự lừa dối mình. Quá hiền hậu, hoặc hào
phóng quá, dễ tin lời người khác nên trở nên khờ dại (đối nghịch với Thiếu
Dương là sáng suốt).
10- Tang
Môn
Có người
cho rằng thế Tang Môn phải ghép đôi với thế Bạch Hổ và ngược lại, vì đó là cặp
trong Lục Bại. Thực ra nếu luận theo lẽ biến dịch Ngũ Hành giữa 12 cung số với
ý nghĩa của các cung Nhị Hợp, Tam Hợp, Chính Chiếu, hoặc Giáp cung thì sẽ không
lạ gì có sự phân cách riêng biệt từng cặp sao, dù là một bộ. Chẳng hạn như bộ
Tang-Hổ, bộ Song Hao, bộ Tướng-Binh, bộ Lưỡng Thế …. Cụ Thiên Lương đã giải
thích rõ về vấn đề cung Thiên Di, không hẳn thuộc về mình mà tùy vị thế của nó.
Đồng mà Dị là cụ Hoàng Hạc cũng quan niệm cung Thiên Di không là của mình,
nhưng là hoàn cảnh, là sự xung xát, sự cọ nhau mà thành theo tương quan lý học.
Là hậu sinh, nhưng kẻ này xin sẽ có bài nối tiếp về vấn đề này để có tầm áp
dụng rõ hơn về âm Dương Ngũ Hành của Lý Học vào Tử Vi.
Trở lại
vị thế Tam Hợp của vòng Tang Môn, Điếu Khách, Tuế Phá là vị thế đối nghịch hoàn
toàn của Tam Hợp tuổi. Chính đây là một điểm xung sát mà tạo thành. Thời thế
tạo Anh Hùng hoặc Anh Hùng gây dựng nên thời cuộc, là do sự biến ảo ở mấu chốt
này.
Cá biệt về
sao Tang Môn cho thấy người có sao này, thường gánh nhiều mối ưu tư, phiền
toái, nhiều mối bận tâm (Xem lại số Khổng Tử mà KHHB đã đăng). Nếu diễn giảng
ra theo lối suy luận, thì dù bất cứ việc lớn, việc nhỏ vì sự lo lắng của mình,
người này không thích đùa giỡn cũng như không thích ai bỡn cợt với mình. Và
trong tâm trạng “suy bụng ta ra bụng người đó” hay nói cho đúng hơn là trong
tâm trạng “điều gì mình không muốn người khác làm cho mình thì mình không nên
làm đối với người khác” người này trở nên tế nhị, dè dặt.
11- Điếu
Khách
Khoác
lên mình một gánh nặng chống đối mọi việc ở đời, người có Điếu Khách, thường
thích đả kích người khác, thích tranh luận, bàn cãi, thích thuyết phục người
khác. Vì thế mà nhiều sách đã không ngần ngại khi đem gán cho những người có
sao Điếu Khách (Mã Khốc Khách) là sẽ làm nghề ngoại giao, môi giới, luật sư …
cũng không ngại ngùng gì mà gán cho những Thẩm Phán, Luật Sư là những người có
sao Quan Phù thủ Mệnh, Thân. Đành rằng sự gán ép này có những căn bản riêng của
nó nhưng về nghề nghiệp là cả một sự phức tạp, còn lệ thuộc vào nhiều yếu tố,
không phải chỉ đơn thuần ở vòng sao Thái Tuế mà thôi.
12- Tuế
Phá
Cũng
tương tự đặc tính của Điếu Khách, nhưng ở đây người Tuế Phá là một nét dị biệt,
một trạng thái của một sự đối lập, một sự chống đối, thích đi ngược người khác.
Có thể làm những việc phi thường nếu được thêm vài yếu tố ở hành động (Thân).
C- VÀI
VÍ DỤ ÁP DỤNG THỰC TẾ
1- Người
có Bạch Hổ ở Mệnh, tại Dậu, Nhị Hợp là cung ách ở Thìn, Thiên Di ở cung Mão.
Chỉ cần biết được vài yếu tố nhỏ như trên, chúng ta có thể phác họa ra bề mặt
và bề sâu của tâm hồn một người. Như đã trình bày ở trên (qua hai yếu tố biểu
kiến và nội tại mà ta gọi giản dị hơn là bề ngoài và bên trong tiềm ẩn) ta có
thể lược giải khái quát về tánh tình của đương số như sau :
a- Bên
trong: Người lúc nào trong lòng thường lo lắng nhiều về những bất trắc ở đời.
Nhiều khi quá bận tâm về hậu quả của một việc mình làm dù việc này không có gì
đáng để tâm. Mệnh sinh xuất cho ách về vấn đề Nhị Hợp này xin coi lại Kinh nghiệm
cung Nhị Hợp của cụ Thiên Lương trong cuốn Tử Vi nghiệm lý. Người viết chỉ xin
đề cập vài ý kiến mới chưa ai đề cập tới mà thôi.
b- Bên
ngoài: Bề ngoài tính tình có vẻ sắt đá, nóng nảy, gan lì với hậu thuẫn là chính
nghĩa, lẽ phải của mình, coi thường đối phương.
Tổng kết
lại, dù bên trong có e dè nhưng khi giới hạn e dè đã bị vượt qua thì người này
dám làm bất cứ việc gì, bất chấp hậu quả với niềm tin vào lẽ phải của mình, coi
thường đối phương.
2- Mệnh
có Tang Môn ở cung Tuất, Nhị Hợp là Nô Bộc ở cung Mão, Thiên Di ở cung Thìn thì
sơ lược khát quát như sau :
a- Bên
trong: Đương số thích được bạn bè hiểu mình, thích được người khác chiều chuộng
mình, vị nể mình.
b- Bên
ngoài: Mang tâm trạng tế nhị, người nặng mối lo, có nhiều mối bận tâm, không
thích những trò đùa rắn mắc. Do đó đương số dễ mang nét ưu sầu trên gương mặt.
Người bi quan trước cuộc sống, thường thấy mình dễ đầu hàng hoàn cảnh (thế Di
lấn lướt thế Mệnh).
Những
dòng ghi trên, đó chỉ là tạm thời vạch ra nét tương quan Mệnh, Nhị Hợp, Xung chiếu.
Nhưng cần đề cập đến vai trò của THÂN trong sự sắp xếp vòng Thái Tuế. Đó là
Phần II của bài này, mà tôi trình bày dưới đây.
II/
TƯƠNG QUAN THÂN, NHỊ HỢP, XUNG CHIẾU
Mối
tương quan này cũng giống như Phần I, nhưng nếu xét kỹ thì có một điểm khác biệt
duy nhất (mà ta đã xét khái lược ở trên) đó là : Vòng Thái-Tuế ở MỆNH chỉ tư
tưởng tinh thần thì ngược lại ở THÂN nó chỉ về hành động vật chất.
Nội dung
của Phần II, đã vạch sẵn. Như vậy ta có thể xét theo từng mục : hành vi biểu
kiến và tiềm ẩn, mặt trái ở đời, những trường hợp điển hình.
A- HàNH
ĐỘNG BIỂU KIẾN Và TIỀM ẨN
1- Hành
vi tiềm ẩn
Ở đây
phương cách lý luận cũng như Phần I, nhưng đổi vị thế lại một đằng là cung MỆNH
và cung Nhị Hợp của nó thì đăng này là cung an THÂN và cung Nhị Hợp của nó. Một
đằng khác là hành động tiềm ẩn tức là cứu cánh khác với phạm vi nội tâm. Cứu
cánh sau cùng của hành vi là do cung Nhị Hợp sinh nhập hay sinh xuất với cung
an THÂN và cung an THÂN phải được sinh nhập mới tốt. Cần ghi nhận vai trò cung
số của Nhị Hợp ở Thân so với cung số của cung an Thân cần được phối hợp chặt
chẽ với nhau (xem lại về cung Nhị Hợp của cụ Thiên Lương).
Thí dụ:
Thân cư Quan Lộc ở Sửu có Điền Trạch, cung Nhị Hợp ở Tý. Thì hành động cứu cánh
của đương số, chính thực là lo về nhà đất, hay nói bao quát hơn là lo việc nhà,
việc gia đình.
2- Hành
vi ngoại biểu
Cần phối
hợp cung số mà THÂN cư với vị thế vòng Thái Tuế thì mới hiểu rõ hành động bên
ngoài chịu ảnh hưởng điều gì và với đặc điểm gì. Trước tiên ta phải xét THÂN cư
cung nào trong các cung số, MỆNH (THÂN, MỆNH đồng cung), Phúc, Quan, Di, Tài,
Phối để từ đó ta có thể biết được hành động bên ngoài ảnh hưởng bởi vấn đề gì
trong 6 cung nêu trên. Về điểm này không xa lạ gì các sách tử vi đều có nêu ra,
tôi xin thông qua điểm này sau khi đã ra nguyên tắc ở trên.
Sau khi
đã định vị trí cung an THÂN, ta mới so sánh với cung số Nhị Hợp xem sinh nhập
hay sinh xuất cho cung an THÂN. Cần phân biệt rằng hành vi biểu kiến hay ngoại
biểu là phương tiện, còn hành vi tiềm ẩn là cứu cánh. Có thể nói cho dễ hiểu là
“cứu cánh biện minh cho phương tiện”.
Thí dụ:
THÂN cư Quan Lộc ở cung Sửu có Thái Tuế, Nhị Hợp ở cung Tý là cung Điền-Trạch,
Chính chiếu ở Mùi. Ta có thể phối hợp cả dữ kiện bên ngoài và bên trong để xét
hành vi một người.
a- Bên
ngoài: THÂN
có Thái Tuế, Chính chiếu thuộc thế Mộc thua thế Tam Hợp của THÂN (thế Kim, vì
Thân cư Quan Lộc ở Sửu trong tam hợp Tỵ Dậu Sửu). Do đó, hành động bề ngoài của
đương số có vẻ tự đại, tự hào. Nếu có thêm những sao quá khích như Hỏa, Linh,
Kình, Đà …. thì dễ biến ra kiêu căng, kênh kiệu bề ngoài. Khi bắt tay vào làm
việc, đương số dễ dàng thắng hoàn cảnh, vượt qua trở ngại để đạt mục tiêu tiến
tới cứu cánh.
b- Bên
trong: Thế
Tam Hợp của THÂN là Kim bị sinh nhập cho Thế Thủy ở Điền Trạch (cung Tý). Do đó
đương số là người biết lo cho gia đình, chuyện nhà cửa.
Tổng kết
lại ta có thể phối hợp như sau:
Người
này hành động thường tỏ ra tự tôn, không có bạn tri kỷ, tri bỉ, thường hành
động riêng một mình trong mọi vấn đề liên quan tới Quan Lộc, và thường gặp
thắng lợi trong Khoa cử, hoạn lộ. Đó là phạm vi biểu kiến có vẻ háo danh (cố
tìm phương tiện) nhưng tất cả chỉ nhằm tới hành động sau cùng (cứu cánh) là đem
thịnh vượng cho việc nhà việc đất, việc gia đình mình.
B- VÒNG
THÁI TUẾ Và HÀNH ĐỘNG MỖI CÁ NHâN
12 sao
vòng Thái Tuế được ghi nhận ở cung an THÂN như là một thế Động. Động mà Tĩnh,
ứng với nguyên lý âm Dương của Biến Dịch. Trong phần B số 1, tôi đã liệt kê
vòng Thái Tuế trong trạng thái Tĩnh. Do đó trong phần này xin được miễn lập lại
vì cũng gần như vậy. Do đó các bạn chỉ đổi từ ngữ lại là xong ngay trong phạm
vi Động.
Thí dụ:
- MỆNH có Bạch Hổ thì “Tính tình” có vẻ sắt đá, nóng
nảy … dễ làm mất lòng người khác …
Thì nay
đổi lại là :
- THÂN có Bạch Hổ thì “Hành Động” có vẻ cứng rắn, dũng mãnh
… đôi lúc hành động thiệt hại, làm sợ sệt cho người khác vì hành vi ngang tàng
của mình…
C- VàI
ÁP DỤNG THỰC TẾ
1- Thân có Tuế Phá ở Ngọ cư Quan Lộc, Nô Bộc ở Mùi,
Phối cung ở Tý. Mệnh ở Dần có Tang Môn, Nhị Hợp là Tử Tức ở Hợi, Di ở Thân.
Ở trường
hợp này ta phối hợp hai phần I và II lại để tổng luận:
Đương số
là người hay lo lắng bất cứ việc gì nhưng trong thâm tâm rất thương yêu con
cái. Ngoài ra đương số ở trong môi trường chống đối mới tạo lập được cuộc đời,
với bản tính tế nhị, chăm sóc con cái mình cẩn thận, lúc nào cũng nghĩ tới đàn
con dại (thì có thể là khôn lớn nhưng đối với đương số thì vẫn còn bé bỏng, cần
được lo lắng nhiều). Nhưng bề ngoài đương số lại đối đầu với hoàn cảnh trong
một thế yếu. Do đó đã hay lo, đương số mắc thêm một khuyết điểm là nhút nhát
đầu hàng hoàn cảnh (cần ghi rõ rằng các thế Nhị Hợp, Chính chiếu, vòng Thái Tuế
có thể bị suy giảm ý nghĩa do Tuần Triệt hoặc hung tinh … Nhưng dù thế nào ý
nghĩa chính vẫn tựu trung bao gồm trong những điểm bao quát trên).
Đổi lại
đối với đương số, là một dịp may “gỡ gạc”, khi Thân đương số lại ở Quan Lộc với
Tuế Phá lại được Nô Bộc sinh nhập. Tuy rằng thế cung Phối có lấn lướt nhưng
cũng giảm nhẹ phần nào. Thật vậy Mệnh, Thân cùng một phía, lý thuyết đi đôi với
thực hành, còn gì tốt cho bằng ! Đương số khi bắt tay vào việc, do tính tình tế
nhị của mình và hành động đả phá, tuy rằng không đạt đến tột đỉnh, hơi muộn
màng nhưng cũng đã thành công trên đường đời. Sự thành công này bắt nguồn từ
yếu tố bạn bè, người dưới giúp đỡ (Nô Bộc sinh nhập ờ cung Quan). Đây là một
điều chứng giải quan niệm vòng Thái Tuế quan trọng nhất với cá tính, nhờ cá
tính mà đi đến thành công.
2- Mệnh, Thân đồng cung tại Ngọ với Bạch Hổ, Nhị Hợp
là Phụ Mẫu ở Mùi, Di ở Tý. (Lá số Hàn Tín_Hàn Tín: sinh ngày 5 tháng 11 năm
Giáp Tuất, giờ Ngọ)
Đương số
là người lời nói đi đôi với việc làm, có nhiều hoài bão to lớn, tính tình lỳ
lợm, hành vi cũng không kém phần dũng cảm. Hành động “lòn trôn” trước một tên
côn đồ ngoài chợ; đó là một hành động dũng cảm mà chỉ người trí dũng ôm ấp
nhiều giấc mộng, đạp đất xé trời mới dám làm. Để từ đó tìm cơ hội cho thời cơ
mà dựng nên nghiệp lớn, thái độ và hành động đầy chính nghĩa (dù là ôm ấp có
đôi chút vị kỷ do sao Hóa Lộc thủ Mệnh hội cùng Đẩu Quân) đã được bậc đáng là
mẹ hiền như bà Phiếu Mẫu hiểu thấu và tận tình bao bọc trong lúc cơ hàn (Được
Phụ Mẫu Nhị hợp sinh Nhập cung Mệnh!). Tiếc thay trời đã dành cho Hàn Tín một
tài ba hiếm có, mà lại xếp so với thế Thiên Di thua sút (thế Di thuộc Thủy khắc
thế Mệnh thuộc Hỏa). Cho nên sinh ra đời là đã gặp hoàn cảnh lắm thử thách rồi,
may là THÂN, MỆNH đồng cung mới đủ sức chống chọi để vươn lên với đời. Nhưng
rồi chung cuộc vùng vẫy chí anh hùng cho lắm để rồi thất bại với hoàn cảnh
(chết về tay bà Lã Hậu).
Vai trò
vòng Thái Tuế đã được chiêm nghiệm qua MỆNH, THÂN nhưng cần ghi nhận lại cho kỹ
trường hợp MỆNH, THÂN cùng nằm trong vòng Thái Tuế. Hay nói một cách khác MỆNH,
THÂN đều nằm trong một thế Tam Hợp Mệnh-Tài-Quan.
III/ TAM
HỢP MỆNH, TÀI, QUAN PHỐI HỢP QUA VÒNG THÁI TUẾ
Thế Tam
Hợp luôn luôn đóng vị trí chủ yếu trong khoa Tử Vi, thực vậy, từ Tam Hợp kết
hợp ra Ngũ cục: thủy, Mộc, Kim, Thổ, Hỏa cục, cho đến các vị trí Tiểu hạn san
theo từng Tam Hợp tuổi. Và rõ rệt hơn cả, là thế Tam Hợp Mệnh, Tài, Quan là câu
nói đầu tiên của người biết coi Tử Vi. Đó là một bình diện thực hành của yếu tố
địa chi trong bốn yếu tố Can, Chi, Tuổi, Mệnh, Cục của hai thành tố Gia tộc và
Xã hội, tôi sẽ xin viết rõ hơn trong một loạt bài khác về luật Tam Tài: Thiên,
Địa, Nhân của Dịch lý.
Trong
lĩnh vực Tâm lý học với vòng Thái Tuế, vai trò Tam hợp cũng rất quan trọng, nó
đã cho ta các vị thế để biết bề mặt bề trái của vấn đề. Ở đây Mệnh, Thân đồng
vòng Thái Tuế tức đương nhiên ở thế Tam Hợp Mệnh-Tài-Quan. Sự kiện này đặt cho
ta một vài dữ kiện phải giải quyết như trường hợp:
Thân-Mệnh
đồng cung
Thân ở
Tài hoặc Quan
A- THÂN
MỆNH ĐỒNG CUNG
Tư tưởng
cùng hành động đều nhập một, lời nói đi đôi với việc làm. Người Thân Mệnh đồng
cung dù với vị thế nào của vòng Thái Tuế cũng vậy, luôn luôn tự tung tự tác, cố
phấn đấu với hoàn cảnh. Vì vậy, vòng Thái Tuế trong trường hợp này có ý nghĩa:
Trời,
qua cha cho hình hài để hồn nhập vào, mẹ cưu mang những nét đặc thù của mỗi cá
nhân, đặt để ta trong môi trường nào; kể cả từ lúc mới sinh ra cho tới ngày xuôi
đôi tay lìa đời.
Hành
động tức cái TA lúc nào cũng đối kháng môi trường (hoàn cảnh) sẵn có của Ta.
Người quyết tâm chống lại hoàn cảnh dù bại hay thành.
Nếu thế
Tam Hợp Mệnh Thân thắng thế Di thì mới hội nhập được sao tốt ở cung Di.
B- THÂN
AN Ở TÀI HOẶC QUAN LỘC
Ở đây
cũng cùng thế Tam Hợp về mệnh cũng như về vòng Thái Tuế. Có vị thế đặc biệt cần
ghi lại: Nếu thế Tam Hợp Mệnh thua thế cung Di, thì thế Tam Hợp Mệnh hay Thân ở
vị thế lấn lên hay chống đối thì mới đủ khả năng hành động vươn mình lên với
đời.
Về các
điểm này xem các thí dụ thượng dẫn đã nêu, và nên áp dụng một cách linh động
trong tương quan biểu kiến và tiềm ẩn thì mới nắm được yếu quyết của vòng Thái
Tuế.
Thực ra,
quan niệm về vòng Thái Tuế qua các mối liên hệ giữa các cung số nói trên được
dẫn giải bằng đường lối dung hòa hai quan niệm dùng Dịch Lý trở về nguồn khoa
Tử-Vi và khoa học hóa cho dễ diễn đạt thích ứng vào đời sống hiện tại. Triết
học hay bất cứ ngành khoa học nào cũng nhằm nêu lên sự hệ thống hóa toàn bộ
cũng như cũng có tương quan nhân quả của nó và trong thời đại để được mang sắc
thái văn minh, ai ai cũng thích đem danh từ Khoa Học vào để bài bác điều gì họ
không thích. Khoa Tử vi cũng chịu chung số phận đó. Không phải vì Tử vi là một
môn huyền hặc không có căn bản luân lý vững chắc. Chỉ vì nền văn minh Đông
Phương quá cao, chuộng về Đạo, thiên về sự giác ngộ cá nhân, cũng như không có
khuynh hướng đại chúng hóa như các ngành Khoa học hiện đại Tử vi có những định
luật âm Dương Ngũ hành của Kinh Dịch, nhưng vì chưa được chứng giả đúng mức.
Những định luật này không ai có thể bài bác được, vì mới đây Kinh Dịch đã đoạt
giải Nobel. Đó là điểm son của sự phục hồi tính cách Khoa Học của nền Triết học
Đông Phương. Như vậy, tại sao Tử Vi, một phân bộ trong Kinh Dịch, lại không
được ưu đãi đó. Tại vì chúng ta hay tại vì những đàn anh chúng ta quá lơ là
hoặc để giữ kín làm của gia bảo. Để rồi, hôm nay, người viết không ngại tài hèn
kém cố gắng tìm về nguồn bằng những bước đi ngược lại dấu chân người xưa với âm
Dương Ngũ hành, với sự phối hợp của nền Khoa Học mới. Mong rằng sẽ có nhiều bàn
tay, khối óc đồng quan điểm (hoặc dù có quan niệm như thế nào) góp vào những
suy tư của mình cho vườn hoa Tử Vi thêm rực rỡ.
&
Thưa quý bạn đọc!
Bài VÒNG THÁI TUẾ
CHI PHỐI MỆNH, THÂN QUA
CÁC CUNG NHỊ HỢP, TAM HỢP
và XUNG CHIẾU của soạn
giả Trần Nhật Thành vừa được Đỗ Việt Phương giới thiệu, hy vọng sẽ giúp ích cho
bạn đọc trang nhà Đặng Xuân Xuyến nâng cao kiến thức tử vi để ứng dụng thiết
thực vào cuộc sống.
*
ĐỖ VIỆT PHƯƠNG
Địa chỉ: Khu tập thể đóng tàu Bạch Đằng
Ngã tư An Dương, Lê Chân, Hải Phòng.
Email: dovietphuong118@yahoo.com.vn
.
.
.............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 23.11.2017.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang blog Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét