Luận giải về phú
TỬ VI BIỆT CÁCH
1. Tử Vi cách cục
tối trọng âm dương
Cách cục trong khoa Tử Vi hầu hết
dựa trên lẽ biến dịch của âm dương, ngũ hành chỉ là phụ mà thôi. Vì nền tảng
của khoa Tử Vi gồm cả âm dương lẫn ngũ hành, khi dụng ngũ hành để luận cách
cục của Tử Vi, học giả rất cần nắm vững dịch lý để khỏi bị sai lầm.
2. Học giả yếu
tường quá hư cùng biến
Người học Tử Vi do đó cần am
tường lẽ “quá hư cùng biến” của dịch. “Quá Hư” là cái tốt quá độ trở thành hư
hỏng. “Cùng Biến” là đang
rất tốt nếu biến xấu thành rất xấu, đang
rất xấu nếu biến tốt thành rất tốt. Thường được gọi là lý “cùng tắc biến”, một
lý lớn của dịch.
3. Nữ tinh
phú, hiểm úy kỵ đào hoa
Nữ tinh ám chỉ Thái Âm (đế tinh,
tượng sự cực âm) và bốn sao ứng với bốn quái hậu thiên âm của
dịch là Tham Lang (ứng với quái Tốn), Liêm Trinh (ứng với quái Li), Thiên Đồng
(ứng với quái Đoài), Thiên Lương (ứng với quái Khôn). Các sao này hàm chứa tính
âm, nên nếu phong phú (tức miếu vượng lại hóa lộc) hoặc trong cảnh nguy hiểm
(hãm địa không hóa Khoa Quyền Lộc, hay là hội
họp nhiều sát, bại tinh không được không vong hóa giải); thêm các cách đào hoa
tất ứng với sự sa đọa hoặc tai nạn.
4. Tĩnh tú sát
đa toàn vi bất hảo
Các sao nhóm tĩnh (Cự Cơ Nguyệt
Đồng Lương) hợp với cảnh an bình hơn xung
động, gặp nhiều sát tinh chắc chắn không tốt. Chú ý rằng Nhật là ngoại lệ vì là
đế tinh dương mạnh mẽ.
5. Chính tinh hãm
đáo Quyền Lộc quang vinh
Chính tinh hãm rất xấu, nhưng nếu
hóa Lộc hoặc hóa Quyền lại trở thành tốt hơn cả chính tinh miếu vượng hóa Lộc
hóa Quyền.
Chú ý: Ý nghĩa “hóa Lộc” và “hóa
Quyền” khác với có Hóa Lộc, Hóa Quyền cùng cung hoặc hợp chiếu. Thí dụ, năm
Giáp Liêm Trinh hóa Lộc. Nếu Tham Lang cùng cung Liêm Trinh (hãm) thì phải phân
định như sau: “Liêm Trinh hóa Lộc” và “Tham Lang có hóa
Lộc cùng cung”. Ngược lại, năm Mậu Tham Lang hóa Lộc phải phân định là “Tham Lang hóa Lộc” và “Liêm Trinh có Hóa
Lộc cùng cung”; mặc dù cả hai trường hợp đều được gọi vắn tắt là “Liêm Tham
Lộc”.
6. Miếu vượng Kỵ
sinh phản vi bất thiện
Chính tinh miếu
vượng rất tốt, nhưng nếu hóa Kỵ lại trở thành xấu xa hơn chính tinh hãm địa hóa
Kỵ. Cái xấu này không phải là cái xấu của kẻ không thể thành tựu, mà ví như cái
xấu của kẻ trèo cao té nặng. Nếu tu tâm chịu nhịn thua cuộc đời thì có thể
tránh được tai họa; chỉ tiếc là kẻ được cách tốt
của chính tinh dễ có ai chịu thua cuộc đời!
7. Chủ hiền
khách hiểm quân tử oan khiên
Chính cung đa số là sao hiền (cát
tinh), nhưng các cung hợp chiếu, đặc biệt là cung xung chiếu, đa số là sao hiểm
(sát và bại tinh) ví như người quân tử bị hàm oan. Dù
đắc cách cũng rất mong manh, dễ bị phá hỏng.
Áp dụng: Sao ở hai cung Mệnh và
Thân đa số là cát tinh, nhưng sao ở các cung hợp chiếu - nhất là cung xung
chiếu - đa số là sát, bại tinh xấu xa; nghĩa là nền tảng tốt mà hoàn cảnh bất
thuận, dễ gặp xui xẻo, tai họa.
8. Chủ hiểm khách
hiền tiểu nhân đắc chí
Chính cung đa số là sao hiểm (sát
và bại tinh), nhưng các cung hợp chiếu, đặc biệt là cung xung chiếu, đa số là
sao hiền (cát tinh), ví như kẻ tiểu nhân gặp cảnh đắc chí, dù căn
bản chẳng ra gì vẫn dễ thành tựu.
Áp dụng: Sao
ở hai cung Mệnh và Thân đa số là sát và bại tinh xấu xa, nhưng sao ở các cung
hợp chiếu - nhất là cung xung chiếu - đa số là cát tinh, nghĩa là mình nền tảng
xấu mà hoàn cảnh thuận lợi nên dễ thành công, lại
hay đóng kịch là người tốt.
9. Kình Dương Ngọ
vị yểu chiết hình thương
Tuổi Bính, Mậu có Kình Dương ở
Ngọ. Kình tượng thanh gươm, Ngọ tượng con ngựa nên gọi là cách “mã đầu đới
kiếm” (gươm treo đầu ngựa). Ngọ là hãm địa của Kình Dương lại thuộc hỏa khắc
tính kim của Kình nên cách này hết sức nguy hiểm. Phú có câu “Mã đầu đới kiếm
phi yểu chiết nhi hình thương” nghĩa là có cách “mã đầu đới kiếm” cư mệnh không
chết yểu cũng khó thoát cảnh thương tật.
Nhưng vì lý “cùng tắc biến” lại
có ba kỳ cách như sau.
10. Nhược hãm Lộc
Quyền danh phương viễn lý
Theo lý “cùng tắc biến” của dịch,
một hoàn cảnh cực xấu biến tốt sẽ trở thành cực tốt.
Mệnh có Kình Dương cự Ngọ (hãm
địa), cùng cung với Đồng Âm (hãm địa), tuổi Bính Thiên Đồng hóa Lộc có Thiên Cơ hóa
Quyền tam hợp (đắc Lộc Quyền), tuổi Mậu Thái Âm hóa Quyền có Thiên Cơ Hóa Kỵ
tam hợp (đắc Quyền Kỵ) là hai kỳ cách tốt đẹp “mã đầu đới kiếm trấn ngự biên
cương”, tạo nên sự nghiệp trong cảnh dầu sôi lửa bỏng, danh tiếng lẫy lừng.
Kình Dương cư Ngọ (hãm
địa) cùng cung với Tham Lang (hãm địa), tuổi Mậu Tham Lang hóa Lộc, cũng là kỳ
cách “mã đầu đới kiếm trấn ngự biên cương”. (Trái lại tuổi Bính mà gặp cách này
là hoạn họa trùng trùng vì không được cát hóa).
Chú ý: Tuổi Bính Thiên Cơ cư Ngọ
(hóa Quyền) không hợp cách vì Thiên Cơ không
hãm địa ở Ngọ; nên - mặc dù Thiên Cơ khá tốt ở Ngọ - nếu gặp Kình Dương cùng
cung thì “phi yểu chiết phi hình thương”, rất cần cẩn thận đề phòng.
11. Cơ Lương Quang
Quý Hình Lộc danh y
Thiên Cơ và Thiên Lương là hai
sao tĩnh,
gặp Thiên Hình hết sức nguy hiểm, khó tránh khỏi tai họa. Nhưng Ân Quang và
Thiên Quý biến được cái ác của Hình thành hành động quyết liệt mà xây dựng.
Hình luôn luôn có Riêu tam hợp. Trong cảnh này Riêu tượng trưng thuốc đắng giã
tật, thêm Lộc Tồn (bảo thủ, cẩn trọng) hoặc hóa Lộc
(thuận lợi, may mắn) trở thành kỳ cách. Cơ Lương (không nhất thiết đồng cung,
nhưng phải hội họp với nhau) bản chất vốn đã thích phục vụ, được cách này theo
đuổi ngành y dược rất dễ thành tựu lớn. Nếu Cơ hoặc Lương ở Sửu Mùi, có
Tả Hữu giáp hai bên lại càng hoàn mỹ (xem thêm cách 12). Chú ý rằng Sửu Mùi là
hãm địa của Thiên Cơ, nhưng trong trường hợp này vì thành cách mà vẫn tốt đẹp
như thường.
Các chính tinh khác gặp Hình Riêu Lộc Quang Quý cũng
thích hợp ít nhiều với ngành
y dược.
Xác
suất càng cao nếu cư Quan Lộc thay vì Mệnh.
12. Thế cục
chuyển di Lộc Hình Tử Phá
Tử Phá Sửu Mùi là cách chính tà
tranh thắng, lẽ thường rất cần Tả Hữu phù tá Tử Vi để Tử Vi đắc thế, chế ngự
bớt tính phá hoại của Phá Quân. Trái lại gặp đối thủ
của Tả Hữu là Thiên Hình thì Hình tất sẽ về cùng phe với Phá Quân, buộc Tử Vi
lùi bước. Đây là số người đòi thắng thiên mệnh, gặp cảnh khó khăn dễ thiên về
tà hoặc bá đạo hơn là chính đạo. Nhưng nếu có thêm Lộc Tồn (bảo thủ, cẩn trọng)
hoặc hóa Lộc (may mắn) lại dễ thành công trong
cảnh tranh tối tranh sáng giữa chính và tà. Do đó Phá Quân hóa Lộc hoặc Tử Phá
được Lộc Tồn hội họp gặp thêm Thiên Hình là một kỳ cách hết sức tốt đẹp, ví như
kẻ anh hùng (hoặc gian hùng, tùy theo cái nhìn của mỗi người) có bản
lãnh đổi thay thời cuộc, tạo nên sự nghiệp phi thường trong cảnh trúc chẻ ngói
tan.
Lý tưởng nhất là Tử Phá có Tả Hữu
giáp hai bên. Gồm có Tử Phá cư Sửu sinh tháng 9 (Hình tam hợp), tháng 11 (Hình
xung chiếu); hoặc Tử Phá cư Mùi sinh tháng 3 (Hình tam
hợp), tháng 5 (Hình xung chiếu). Bốn cách này Hình hội họp mà không cư cùng Tử
Phá nên giảm sát khí, đỡ lo tai họa.
Chú ý: Tử
Phá không cùng cung không kể!
13. Tử Vi Quyền
Phủ diệu sử Kỵ Hình
Tử Vi ở cung dương luôn luôn tam
hợp với Phủ Tướng nên gọi là cách “Tử Phủ Vũ Tướng”, nếu
không có Tả hoặc Hữu hội họp là cách “cô quân”, ví như vua không có cận thần,
thiếu hẳn hiệu quả. Trong hoàn cảnh này lại gặp đối thủ của Tả Hữu là Thiên
Hình lại càng bất lợi (mặc dù không nguy hiểm, đây Hình ví như kẻ phù tá
hung dữ lộng quyền, khiến chủ Tử Vi mang tai tiếng bất nhân).
Nhưng nếu Tử Phủ Vũ Tướng có hóa Quyền hội họp thì uy lực
mạnh mẽ, khắc phục biến Hình thành phù tá đắc lực, là một kỳ cách, dễ thành tựu
trong cảnh đấu tranh nguy hiểm. Lưu Huyền Đức, vua nước
Thục đời Tam Quốc có cách này (“Lưu Huyền Đức đạt thừa Hán nghiệp thi ư Tử Phủ
Vũ Tướng Khoa Quyền Hình Ấn Hồng Khôi mệnh thân”).
Cũng cách Tử Phủ Vũ Tướng, gặp cả
Hình lẫn Kỵ rất khó thành công. Nhưng nếu có Quyền ở chính cung, hoặc Quyền Kỵ
hội chiếu (nghĩa là Kỵ không ở chính cung)
thì vẫn dễ thành công hiển hách, nhưng phải bận tâm tính toán nhiều hơn cách
không có hóa Kỵ; nên cũng dễ trở thành kẻ gian hùng.
14. Tử Phủ
Nhật Kình hùng tâm giảo ngữ
Tử, Phủ, Nhật (Thái Dương) là ba
đế tinh mạnh mẽ, có bản lãnh biến Kình Dương (cùng
cung) thành của mình, cư mệnh là kẻ có hùng tâm và chịu tính toán. Nếu mệnh cư
ở Thìn Tuất Sửu Mùi thì đắc cách “Kình Dương nhập miếu” nên bản lãnh cao lại
thêm liều lĩnh; Tử, Phủ cùng cung theo đuổi kinh doanh dễ có cơ thành
tựu lớn; do đó có cách “Tử Phủ Kình Dương tại cự thương”.
Chú ý 1: Một trong ba đế tinh Tử,
Phủ, Nhật cùng cung với Kình thì kiêu ngạo, rất
khó chịu khi thua người. Nếu đế tinh ở vị trí tương đối yếu tất sẵn sàng dối
trá để bảo vệ vị trí của mình. Các vị trí tương đối yếu gồm
có: Tử Vi cư Tý Mão Dậu Thìn Tuất, Phủ cư âm cung, Thái Dương cư Tuất Tý Sửu
Mùi (Thái Dương rất yếu ở Hợi nhưng không thể gặp Kình ở đây nên không kể).
Chú ý 2: Thái Âm cũng là đế tinh,
nhưng yếu hơn Tử Phủ Nhật, không vận
dụng nổi Kình Dương nên chỉ có cách này khi đồng cư với Thái Dương ở Sửu Mùi.
Chú ý 3: Thay vì Kình mà là Đà lý
tính vẫn tương tự, nhưng giảm phần liều lĩnh mà tăng phần tính toán; khó thoát
khỏi tâm lý “cứu cánh biện minh cho phương tiện”.
15. Tàng hung Tử
Phủ Vũ Tướng không vong
Tử Phủ Vũ Tướng (chỉ xảy ra ở
cung dương) ứng với cộng hưởng giữa hai nhóm Tử Liêm Vũ và Phủ Tướng nên rất
tốt đẹp, nhưng nếu gặp Không Vong (tức Tuần, Triệt, hoặc Thiên Không, Địa Không
đúng vị đóng cùng cung) thì ví như tòa
lâu đài xây trên bãi cát, dù có các cách tốt khác hội họp đi nữa cũng gặp nhiều
hung hiểm; sự nghiệp dù huy hoàng cũng khó lâu bền.
Tuần Triệt đúng vị không vong khi
ở cung cùng lý với năm sinh nên cách Tuần Triệt chỉ ứng với người sinh năm
dương. Sinh năm âm ảnh hưởng không đáng kể.
Thiên Không đúng vị không vong ở
Dần Thân Tỵ Hợi, nên cách Thiên Không chỉ ứng với hai cung Dần Thân.
Địa Không Địa Kiếp đúng vị không
vong ở Thìn Tuất Sửu Mùi Tí Mão nên cách Địa Không, Địa Kiếp chỉ ứng với ba
cung Thìn Tuất Tý.
Chú ý: Cách này vẫn có thể thành
công to tát, nhưng nếu thế thì phải trả giá cao. Không thành công lại dễ bình
ổn hơn. Đây là lẽ bù trừ của thuyết âm dương.
16. Mão Dậu Kiếp
Không Tử Tham thoát tục
Ngược lại với cách 15, khi Tử Vi
hội họp với Sát Phá Tham thay vì Phủ Tướng
thì thành cách Sát Phá Liêm Tham, là cảnh chính tà tranh thắng. Vị trí kém nhất
của Tử Vi trong hoàn cảnh này là cư Mão Dậu cùng với sao “chính đào hoa” Tham
Lang, ứng với sự sa đọa, dâm đãng; vì vậy sách có câu “Đào Hoa phạm chủ
vi chí dâm”. Nhưng nếu Tử Tham cư Mão gặp Địa Kiếp hoặc Địa Không cùng cung lại
là vô vi thoát tục; tu hành ắt có thành tựu. Cư Dậu xác xuất thành tựu thấp hơn. Không hoặc Kiếp
chỉ hội họp thay vì cùng cung xác xuất thành tựu cũng thấp hơn.
Chú ý: Nếu
mệnh cung nguyên thủy có Tử Tham gặp Tuần Triệt án ngữ hoặc cùng cung Thiên
Không không thể nhất luật bàn như trên mà phải xét xem các cường cung (tức mệnh
tài quan, quan di thê) có Địa Không, Địa Kiếp hoặc cả hai sao hội họp hay
không. Nếu thay vì Không Kiếp mà lại là Xương Khúc hội
họp thì tâm muốn tu hành giải thoát nhưng vẫn khó thoát nợ
trần.
17. Liêm Trinh vô
lực ngộ Hổ nguy nan
Liêm Trinh ứng với quái Li rực rỡ
quá độ ví như cô tiểu thư nhà giàu; tốt thì chủ công danh, xấu dễ gặp tai họa.
Liêm
Trinh cùng cung với Phá Quân hoặc Tham Lang thì lạc hãm nên vô lực. Bạch Hổ
(thuộc vòng Thái Tuế) tượng kẻ nhất định dùng quyền lực để bảo vệ quyền lợi của
mình. Vô lực mà đòi dùng lực tất gặp nguy hiểm, tai ương; nên Liêm Trinh lạc
hãm cùng cung Bạch Hổ khó tránh tai họa.
Liêm Trinh độc thủ Dần Thân được
hội họp với Phủ Tướng nhưng lại bị Tham Lang (hãm) xung chiếu, đồng cung Bạch
Hổ cũng nguy hiểm nhưng đỡ hơn Liêm Phá, Liêm Tham. Có sao tốt giải cứu thì
không đáng lo ngại.
Chú ý: Bạch
Hổ có Thanh Long (thuộc vòng Lộc Tồn) cùng cung
thì thành cách “Thanh Long Bạch Hổ” hoặc “Long Hổ tương phùng”. Trong trường
hợp này Bạch Hổ không còn tác họa nữa, mà hợp tác với Thanh Long để tăng xác
xuất thành công.
18. Liêm Phá Liêm
Tham Khúc Xương đại họa
Liêm Trinh
ứng với quái Li, ví như cô tiểu thư đài các, có Khúc Xương càng thêm vẻ kiêu
sa. Nhưng Xương Khúc, mặc dù là cận thần của Tử Phủ Âm Dương, bản chất vốn yếu
đuối. Liêm Trinh cùng cung Phá Quân hoặc Tham Lang là lạc hãm, ví như cảnh thân
gái dặm trường, vẻ đài các kiêu sa của Xương Khúc
càng khiến kẻ bất lương nhòm ngó, biến thành tai họa. Phú có câu “Liêm Trinh
phùng Văn Quế cánh bôn ba” (Liêm Trinh phùng Văn Khúc càng bôn ba) có lẽ ám chỉ
trường hợp này.
Chú ý: Liêm Trinh là sao đào hoa
lại chủ quan lộc, hình ngục nên sao phù tá tốt
đẹp nhất là Lộc Tồn (may mắn, bảo thủ, cẩn trọng). Có Lộc Tồn cùng cung thì dễ
thành đạt và đỡ lo tai họa, nhất là tai họa do Xương Khúc và các sao đào hoa
gây ra; hội họp tương tự nhưng không tốt bằng. Ngược lại Liêm Trinh gặp
những phản đề của Lộc Tồn như sau đây thì rất đáng lo ngại:
Thiên Phúc cùng cung dễ xui xẻo
Kình hoặc Đà cùng cung dễ gặp tai
họa
Đại hoặc Tiểu Hao cùng cung thiếu
chí hướng, khó thành tựu
19. Mệnh lâm hiểm
tọa Đà Vũ Xương Linh
Đây là một trường hợp mà
lý ngũ hành hoàn toàn phù hợp với lý âm dương, và dễ áp dụng hơn.
Vũ Khúc ở cung dương hoặc cùng
Tham Lang ở Sửu Mùi hội họp Văn Xương tương đối tốt đẹp, nhưng vì hai sao cùng
thuộc kim có tính sát nên hàm chứa nguy hiểm. Đà Linh là hai sao sát có tính
âm hàn (Đà là sao âm của cặp Kình Đà, Linh là sao âm của cặp Hỏa Linh). Đà
thuộc kim, Linh thuộc hỏa nhưng đới thêm tính kim. Cái đẹp mong manh gặp tính
sát âm hàn đã kém đi nhiều; cả bốn sao lại đều mang tính sát của kim nên hội
họp trở thành cực xấu, ứng với nguy hiểm hoặc khó khăn
to lớn.
Vũ Phá Tỵ Hợi, Vũ Sát Mão Dậu vốn
đã không hợp với Xương Khúc nên càng xấu hơn nữa.
Theo lý ngũ hành, kim quá dư tất
phải sinh thủy để lấy lại quân bình. Thủy ứng với nước nên phú để lại có câu
“Linh Xương Đà Vũ hạn đáo đầu hà” nghĩa là đến hạn
Linh Xương Đà Vũ tất gieo mình xuống sông tự tử, ý nói là gặp quá nhiều khó
khăn bế tắc, chỉ còn cách chết cho rảnh nợ. Sự thật gặp hạn Linh Xương Đà Vũ
không nhất thiết tự tử, nhưng chắc chắn có sự bất xứng ý. Linh Xương Đà Vũ ở
phúc đức cũng luận tương tự.
Chú ý: Vũ Khúc bản chất lạnh lẽo,
bất cận nhân tình.
20. Vũ Phủ Kiếp
Kình ác nhân quý hiển
Vũ Phủ Tí Ngọ là một cộng hưởng
vô cùng tốt đẹp vì cả hai sao đều là tài tinh; Phủ lại là đế tinh nên uy lực
mạnh mẽ. Kiếp Kình là hai sát tinh ác độc, Phủ bản
chất dung hòa nên thu dụng làm tay chân của mình, trở thành cách gian tham
nhưng quý hiển. Có cách này cư mệnh, độc ác thì khá giả, hợp cách gian
thương tạo ra tài sản trên máu mủ thiên hạ. Ngược lại quyết giữ thiện tâm
thì như chủ tốt gặp đầy tớ bất
lương, tất phải chịu một số oan nghiệp rồi mới tốt đẹp được.
Vũ không được đồng cung với Phủ thì uy lực kém hơn. Cũng
cách Kiếp Kình, thêm nhiều sao tốt hội họp cũng ác độc hoặc tàn nhẫn, nhưng
tương đối khó thành tựu; thêm nhiều
sao xấu hội họp tất vì tiền bạc mà mang họa vào thân. Cư mệnh nên đi tu là hơn
cả.
21. Dậu cung
bất miễn Thiên Tướng đa đoan
Thiên Tướng là quý tinh nên cư
mệnh không phải lo cơm áo, nhưng bản chất nhu nhược nên không vượt nổi tính
"bại" của cung Dậu. Tướng kém cỏi nhất ở Dậu (kém
hơn Mão vì hai đế tinh Âm Dương cư ở Tử Tức và Huynh Đệ đều hãm địa), lại bị
Liêm Tham Phá hãm địa ở Mão xung chiếu, nên gặp rất nhiều phiền toái rắc rối .
Mệnh cung của nhiều cô gái giang
hồ nhan sắc được khách làng chơi chu
cấp như vợ bé có cách này.
22. Phản Hũu Hồng
Loan sắc Không giác ngộ
Cũng
là Thiên Tướng cư Dậu , tuổi Ngọ có Hồng Loan cùng cung nên thanh sạch, Đào Hỉ
ở Mão xung chiếu, thành thử đắc cách tam minh Đào Hồng Hỉ, ví như kẻ lạc giữa
bụi trần nhơ nhuốc mà tâm tư sáng suốt, bình lặng
như không, ngộ ra mọi sắc hương đều là giả dối.
Thiên Tướng cùng cung Hồng Loan tại Mão luận tương tự
nhưng xác suất thấp hơn .
Luật chung về Thiên Tướng cho tất
cả mọi cung: Thiên Tướng ứng với hình thức bề ngoài, nếu hội họp
với cả hai loại sao sắc (Đào Hồng Hỉ) và Không (Tuần Triệt Thiên Không Địa
Không) lại biến thành cảnh sắc sắc không không, thường có duyên với cảnh tu
hành).
23. Quý tinh
Tướng Phủ Tuần Triệt lao đao
Phủ Tướng là hai quý tinh có tính
dung hòa nên nói chung khi độc thủ không ngại
tứ sát Kình Đà Hỏa Linh lắm. Cư mệnh vẫn dễ phú quý, chỉ tăng thêm tính gian
xảo. Thế nhưng là thế "có" nên gặp Tuần Triệt coi như mất hết. Cách
tốt bao nhiêu cũng thành vô dụng. Gặp Thiên Không, Địa Không đúng vị không vong
cũng luận như trên.
Chú ý: Cách này ứng với khi Phủ
Tướng ở cung âm. Ở cung dương là cách 15 đã kể trên.
24. Hình Tướng,
Phủ Hao đồng vi phá cách
Thiên Tướng là sao yếu đuối nên
có Tả Hữu phù tá thì rất tốt đẹp, ngược lại gặp đối thủ của Tả Hữu là Thiên
Hình cùng cung thì hết sức nguy hiểm. Thiên Hình là sát tinh nên Thiên Tướng
khó thoát khỏi tai họa.
Thiên
Phủ cũng cần Tả Hữu và kỵ Thiên Hình, nhưng
vì là đế tinh có uy lực mạnh nên gặp Thiên Hình không đáng lo ngại. Nhưng Phủ
là tài tinh, cùng cung Đại Tiểu Hao là phá cách, ứng với sự túng thiếu. Đại
Tiểu Hao đắc địa đi nữa cũng chỉ có những thoáng huy hoàng mà thôi.
25. Phát hiềm
Xương Khúc, phản hợ Kiếp Không
Phá Quân bản chất phá hoại, Xương
Khúc lại nho nhã dung hòa, nên Phá Quân có Xương Khúc phò tá không thể làm ra
chuyện (trừ trường hợp có thêm sao của cả hai nhóm Tả Hữu, Khôi Việt hội họp).
Phú có câu "Phá Quân Xương Khúc vi bần nho". Ngược
lại Phá gặp Kiếp Không là hai sao chuyên phá hoại thì đúng là chủ gặp tớ, dễ
thành đại sự.
26. Hao Phá
bần cùng, Lộc quân đại phát
Đại Tiểu Hao là hai sao thiếu chí
hướng, khiến Phá Quân không thể chuyên nhất phát huy ưu điểm xung phá của mình.
Đại Tiểu
Hao bản chất lại là phí phạm, hư hao; dễ đẩy Phá Quân vào cảnh bần cùng. Ngược
lại Phá Quân gặp Lộc Tồn (cẩn trọng nhưng khá giả) hoặc hóa Lộc (thuận lợi, may
mắn) tất đại phát .
Chú ý: Lộc và Không Kiếp cùng phù
hợp Phá Quân nên gặp Phá Quân thay vì phá hoại nhau lại cùng giúp Phá
thành tốt đẹp.
27. Thanh liêm
Hình Sát, hiển đạt Sát Kình
Thất Sát có Tả Hữu phù tá thì tốt
đẹp. Nhưng mang tính sát nên đồng thời phù hợp với đối thủ của Tả Hữu là Thiên
Hình; do đó gặp Thiên Hình không bất lợi, chỉ thể hiện
một chiều hướng khác. Thất Sát miếu vượng thì thanh liêm, nghiêm khắc, hãm thì
tàn nhẫn.
Sao Sát phù hợp nhất với tính
dũng cảm của Thất Sát là Kình Dương, tức sao dương của cặp Kình Đà, Thất Sát
gặp Kình Dương như chủ can đảm gặp tớ liều lĩnh, chỉ cần
một trong hai sao đắc vị là có thể thành công to lớn. Nhưng đây là một kết hợp
đầy sát khí nên rất nguy hiểm, bạo phát thường đi liền với bạo tàn, nhất là một
trong hai sao hãm địa thì rất khó lòng thoát khỏi tai họa. (Hai sao cùng hãm
thành cảnh "kẻ dùng gươm chết vì gươm",
chính là đại họa).
Thất Sát gặp Đà La ý nghĩa tương tự Kình Dương, nhưng mức
thành đạt và xác suất thành đạt thấp
hơn, vì Đà La là sao âm phát triển không nhanh bằng Kình Dương là sao dương.
28. Nạn đáo
trùng phùng Sát Dương Ngọ vị
Kình cư
Ngọ là cách "Mã đầu đới kiếm". Ngọ thuộc Hỏa, Kình thuộc Kim, Hỏa
khắc Kim nên đây là vị hãm địa xấu nhất của Kình Dương. Thất Sát ở Ngọ miếu địa
cùng cung với Kình tất có thành tựu, nhưng khó lòng tránh khỏi tai họa khủng
khiếp; hợp với số kẻ làm tướng chết oanh liệt ở
trận tiền.
Phá Quân cư Ngọ (miếu địa) đồng
cung Kình Dương cũng luận tương tự.
29. Đào Hoa chính
thị Tuần tự Tham Liêm
Tham Lang ứng với quái Tốn, tượng
là con gái trưởng, nhu nhược thành thử dễ bị cuốn hút vào chuyện trăng
hoa, nên gọi là "chính đào hoa". Liêm Trinh ứng với quái Li, tượng là
con gái thứ, xinh đẹp kiêu sa. Nhan sắc là lợi điểm mà cũng có thể là tai họa,
nên gọi là "thứ đào hoa".
30. Đa Sát,
bại, dâm phát sinh đại họa
Sát tinh hoặc phá hoại hoặc cuốn
hút
người ta vào đường phá hoại. Bại tinh gây ra bất hạnh. Dâm tinh, tức các cách
đào hoa thiếu đứng đắn, gây sự sa ngã. Tham Liêm bản chất đã mang sẵn tính đào
hoa gặp nhiều sao của các nhóm này tụ tập rất nguy hiểm, cần đề phòng tai họa
hoặc trụy lạc .
31. Tham Linh
thành tựu, Tham Hổ tai ương
Hổ là một bại tinh bản tính quyết
liệt, nên Tham Lang hãm địa thiếu uy lực gặp Hổ cùng cung khó lòng tránh khỏi
tai nạn, miếu vượng cũng phiền toái. Lý tương tự như trường hợp Liêm Trinh.
Chú ý: Có Thanh Long hội họp
thì thành cách "Thanh Long Bạch Hổ" .
Trong trường hợp này Bạch Hổ không còn tác họa nữa mà biến thành một yếu tố
thành công.
Tham Lang là một trong bộ ba Sát
Phá Tham tất phải có sát tinh phù hợp . Lục
sát có Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp . Ta
đã biết Phá Quân hợp Không Kiếp, Thất
Sát hợp Kình Đà; suy ra Tham Lang hợp Hỏa Linh .
Linh là sao âm của cặp Hỏa Linh,
ví như ngọn lửa âm thầm, giúp Tham Lang thuộc mộc được nung nóng, thành tựu
nhưng không phải là đột phát.
32. Tham Hỏa
anh hùng, Tham Xương nhiễu sự
Hỏa Tinh thuộc dương, ví như ngọn
lửa lớn khiến Tham Lang thuộc mộc cháy bùng, nên Tham Hỏa là cách anh hùng, ứng
với sự thành công đột phát.
Xương là sao dương của cặp Xương
Khúc, mang tính đào hoa nhưng đồng thời thuộc kim khắc hành mộc của Tham.
Tham Lang mang tính đào hoa gặp Xương ví như cảnh "bỏ thì thương vương thì
tội" chẳng ra gì, mập mờ rất phiền toái. Tham Xương cư Mệnh do đó là kẻ
hay gây rắc rối cho đời. Tệ nhất là có đủ bộ Xương Khúc hội họp; phú có câu
"Tham Lang Xương Khúc chính sự
phiền hà".
Chú ý: Nếu
có nhiều cát tinh như Tả Hữu Khôi Việt Lộc Tồn tam Hóa, hoặc sao phù tá đúng bộ
là Linh Hỏa thì giải được, không kể là xấu nữa.
33. Âm Dương vạn
sự Xương Khúc Kiếp Không
Muốn luận tốt xấu cho cặp đế tinh
Âm Dương cần nhất là xét bốn sao Xương Khúc và Không
Kiếp. Âm Dương hội họp với Xương Khúc là đắc cách dễ phát triển tiềm năng, với
Không Kiếp là phá cách, nhẹ sinh ra cảnh đầu voi đuôi chuột, nặng thì nhiều tai
họa.
34. Hỉ ngộ Tam
Minh, ố hiềm Tam Ám
Âm Dương tượng trưng ánh sáng
của mặt trăng mặt trời nên gặp bộ tam minh Đào Hồng Hỉ (tượng vẻ tươi sáng của
một cô gái xuân thì) rất đẹp đẽ. Trái lại gặp bộ tam ám Riêu Đà Kỵ (tượng ba
hoàn cảnh u ám) thì giảm uy lực. Ngoại lệ là kỳ cách Âm Dương Sửu Mùi tiếp theo
đây.
35. Sửu Mùi ảm đạm
Nhật Nguyệt vô quang
Sửu Mùi Nhật Nguyệt cùng cung ví
như mặt trời mặt trăng cùng dành ánh sáng, là cảnh âm dương hỗn độn, tranh tối
tranh sáng, nói chung là phá cách. Vì Âm Dương cùng là đế tinh, cư mệnh thích
làm đàn anh thiên hạ nhưng lại không
chịu hoặc không biết lo lắng cho thuộc hạ, gây ra những cảnh đầu voi đuôi
chuột.
36. Gia Kỵ
Triệt Tuần phả vi đại cát
Cũng Nhật Nguyệt Sửu Mùi nhưng có
Tuần hoặc Triệt án ngữ thì cảnh hỗn độn bị phá hủy, khiến Nhật Nguyệt cùng có
cơ hội phát huy tiềm năng to lớn của mình, là một kỳ
cách tốt đẹp. Địa Không cư ở đây cũng tương tự.
Sửu Mùi là đắc địa của Hóa Kỵ,
lại gặp không vong thì chỉ còn sót lại tính cẩn trọng, rất cần thiết để hai đế
tinh có thể cộng tác với nhau. Thế nên Âm Dương Sửu Mùi gặp không
vong đã tốt, thêm Hóa Kỵ trở thành hoàn mỹ.
Là một kỳ cách rất đáng ghi nhớ
vì Nhật Nguyệt lẽ thường rất hiềm Hóa Kỵ và không vong.
37. Âm Dương
hãm đắc kỳ cách vinh xương
Thái Âm cực xấu ở Thìn Ngọ (khí
dương thịnh lại là cung dương), Thái Dương cực xấu
ở Hợi (khí âm thịnh lại là cung âm), nhưng là đế tinh nên có tiềm năng mạnh mẽ.
Do đó nếu đắc kỳ cách lại thành tựu hết sức to lớn.
38. Nhật phát
văn chương, Nguyệt thăng vũ chức
Thái Dương vốn thuộc dương khi
lạc hãm đắc kỳ cách theo luật "cùng tắc
biến" lại nhuốm tính âm nên dễ phát về văn chương .
Cùng lý Thái Âm vốn thuộc âm, lạc
hãm đắc kỳ cách lại nhuốm tính dương nên dễ phát về võ nghiệp.
Kỳ cách quan trọng nhất là Âm
Dương hóa Lộc hoặc hóa Quyền, thêm Xương Khúc phù tá. (Tưởng Giới Thạch tung
hoành ở lục địa Trung Hoa, bị thua chạy ra Đài Loan rồi biến Đài Loan thành một
cường quốc có cách Thái Âm hãm địa cư Thìn hóa Lộc, được thêm Khoa Quyền chiếu,
lại có Khúc Xương phù tá).
39. Nhật Lương
Xương Lộc Quyền Lực hạch tâm
Thiên Lương thuộc quái
Khôn (âm) lại vĩnh viễn tam hợp với Thái Âm (âm) ,
được hội họp với Thái Dương (dương) thành cảnh âm dương quân bình nên rất đẹp
đẽ. Nhật vượng ở Mão thành cách Nhật Lương cùng cung, được Nguyệt miếu ở Hợi
tam hợp, nếu hội họp có thêm sao phù tá lý tưởng
của Thái Dương là Văn Xương và sao đại biểu may mắn là hóa Lộc hoặc Lộc Tồn là
lý tưởng. Nhật Nguyệt là hai đế tinh, thêm Lương là bầy tôi lương đống, cung
mệnh được cách này dễ trở thành nhân vật có quyền lực. Nhật ở Dậu hãm địa nên
thành tựu kém hơn nhưng vẫn là cách tốt đẹp. Đặc
biệt nếu Nhật hoặc Lương hóa Lộc hoặc hóa Quyền thì theo lý "cùng tắc
biến" lại thành kỳ cách, tốt hơn cả Nhật Lương cư Mão.
Lương cư Tý Ngọ cũng đắc cả hai
sao Nhật Nguyệt, nhưng không được tọa cùng đế vị nên kém hơn Nhật Lương
Mão Dậu, ứng với quyền lực ở vị trí thấp hơn, cư mệnh đắc phụ tinh tốt đẹp có
thể là nhân sĩ địa phương hoặc làm thầy giáo (số vạn thế sư biểu Khổng Phu Tử
có Thiên Lương cư Tý).
40. Tỵ Hợi tà
dâm Đồng Lương Lộc Mã
Lương gốc là quái Khôn tượng mẹ, Đồng
gốc quái Đoài tượng con gái út. Đồng Lương ở Tỵ Hợi thì Âm Dương cùng cung ở
Sửu Mùi là cảnh Nhật Nguyệt tranh huy u ám. Thiên Lương mất ánh sáng của
Nguyệt, lại không được Nhật soi sáng trở thành u tối, như người mẹ quên mất
thiên chức của mình. Tỵ Hợi lại thuộc tứ mã tượng biến
động nên Thiên Lương ở đây hãm địa, ứng với sự buông thả, phóng túng. Đồng như
cô con gái ham chơi được mẹ thả lỏng, nên là cách "vượng địa" bay
nhảy tự do không còn gì kềm hãm nữa.
Hóa Lộc và Thiên Mã (Lộc Mã,
nhưng xem chú ý 1) là một cách rất tốt, biểu
tượng thay đổi may mắn, nhưng chính vì vậy khuynh hướng phóng túng của Thiên
Lương càng có cơ hội bộc phát. Thiên Đồng non dại thiếu sự dạy bảo của người
trên thấy đổi thay may mắn thế nào chẳng ham vui nhảy vào, thiếu kinh nghiệm
tất bị sa ngã. Bởi vậy Đồng Lương Tỵ Hợi gặp Lộc Mã thay vì tốt đẹp lại tà dâm,
bất chính .
Nếu không gặp Lộc Mã nhưng có các
cách đào hoa hội họp cũng luận như trên.
Chú ý 1: Lộc Tồn và Thiên Mã
(cũng gọi là Lộc Mã) không thể luận như Hóa Lộc và Thiên
Mã vì Lộc Tồn có tính bảo thủ, giảm tính vọng động của Đồng Lương Tỵ Hợi.
Chú ý 2: Tham Liêm Tỵ Hợi gặp hóa
Lộc Thiên Mã tương tự, nhưng lý hiển nhiên hơn vì là hai sao chính phụ đào hoa.
41. Cự Môn ám chủ
tối hỉ Nhật minh
Cự Môn là đầu đảng của các
sao ám, tượng sự bất mãn thị phi nên rất cần Thái Dương soi sáng, do đó Cự Nhật
đồng cung là một cách tốt đẹp. Nhưng cần chú ý ở Dần Nhật vượng nên tốt đẹp hơn
ở Thân. Cung Mệnh cư ở Thân có Cự Nhật là hạng người đầu voi đuôi chuột, thích
đảm đương trọng trách nhưng hay bỏ việc giữa
đường. Ngoài ra Cự Môn cũng tốt hơn nếu gặp bộ tam minh Đào Hồng Hỉ. Ngược lại
nếu cùng cung với một trong ba sao thuộc bộ tam ám Riêu Đà Kỵ hoặc hội họp với
hai hoặc cả ba sao này thì rất phiền toái, đa đoan; dù đắc cách Cự Nhật
cũng thế.
42. Cự Ngộ Sát
Tinh nhất sinh tọa nạn
Trong các sao tĩnh thì Cự Môn -
vì bản chất đã hàm tính xấu - sợ lục sát tinh hơn cả, gặp một trong lục sát
cùng cung là phá cách . Nếu
cư mệnh:
Cùng Kình hoặc Đà: Lắm
thị phi.
Cùng Hỏa hoặc Linh: Lắm
tai nạn.
Cùng Không hoặc Kiếp: Thành ít
bại nhiều.
43. Thiên Đồng Dậu
Hãm cát Hóa vinh quang
Thiên Đồng cực hãm ở Dậu (vì cung
xung chiếu có Thái Âm hãm địa), nên theo lý cùng tắc biến nếu cát hóa lại biến
thành kỳ cách, có thể tạo nên sự nghiệp huy
hoàng.
Tuổi Bính Thiên Đồng ở Dậu (hãm)
hoá Lộc, được Thiên Cơ ở Sửu (hãm) hoá Quyền tam hợp, thêm Thiên Việt cùng
cung, Lộc Tồn ở Tỵ hội họp. Hết sức tốt đẹp.
Tuổi Đinh Thiên Đồng ở Dậu (hãm)
hoá Quyền, được Thái Âm ở Mão (hãm) hoá Lộc xung chiếu, Thiên
Cơ hóa Khoa ở Sửu (hãm) và Cự môn hóa Kỵ ở Tỵ (hãm) chiếu về, thêm Thiên Việt
cùng cung. Chính cung hóa Quyền nên đắc cách Quyền Kỵ và gồm thâu cả tứ hóa.
Tốt đẹp e còn hơn cả tuổi Bình.
44. Đồng Cự Đinh
Tân Võng La đại quý
Thìn là vị Thiên La, Tuất là
vị địa võng. Cự ở Thìn xung Đồng ở Tuất đều là lạc hãm rất xấu, nhưng chính vì
thế mà hoá cát lại thành cực tốt .
Tuổi
Đinh Thiên Đồng cư Tuất hóa Quyền, Cự Môn hóa Kỵ thành cách Quyền Kỵ, có khả
năng tạo dựng sự nghiệp trong cảnh khó khăn. Ngoài ra lại
có Thái Âm hóa Lộc ở Dần (hãm), Lộc Tồn ở Ngọ chiếu về, ứng với tài lộc, may
mắn. Thiên Đồng cư Thìn cũng rất tốt, nhưng không bằng Tuất vì thiếu Lộc Tồn
tam hợp, và Thái Âm ở Thân (vượng) hóa Lộc không tốt bằng ở Dần (hãm).
Tuổi Tân Cự Môn cư Thìn (hãm)
hóa Lộc, có Thái Dương ở Tý (hãm) hoá Quyền nên là kỳ cách tốt đẹp. Cự Môn cư
Tuất cũng tốt đẹp, nhưng kém hơn ở Thìn vì Thái Dương ở Ngọ (miếu) hóa Quyền
không bằng Thái Dương ở Tý (hãm).
Chú ý 1: Tuổi Bính Thiên Đồng hóa
Lộc, Thiên Cơ hóa Quyền nên Thiên Đồng ở Thìn Tuất cũng tốt
nhưng không bằng tuổi Đinh vì hai lẽ: Thứ nhất Thiên Cơ uy lực kém hơn Thái Âm,
thứ hai bị Lộc Tồn ở vị nghịch lẽ âm dương.
Chú ý 2: Tuổi Quý Cự Môn ở Thìn
(hãm) hóa Quyền được thêm Lộc Tồn ở Tý chiếu về nên cũng tốt đẹp, nhưng
vẫn không bằng tuổi Tân có Thái Dương hãm cát hóa. Cự Môn ở
Tuất thì kém hẳn.
45. Dần Thân Riêu
Hỉ Cơ Nguyệt lăng loàn
Nguyệt cực âm nên dù là đế tinh
vẫn yếu đuối, Cơ bề ngoài bảo thủ nhưng trong tâm tư biến đổi liền liền, Dần
Thân lại là mã địa tượng xung động. Hai sao đồng
cung ở đây không vững vàng, lại gặp Riêu (quyến rũ) Hỉ (vui tươi) thành cách
đào hoa thì sao khỏi sa ngã. Nên đây là cách dâm đãng. Gặp các cách đào hoa
khác cũng luận tương tự.
Nhưng chú ý: Nếu
Cơ Nguyệt Dần Thân có thêm Không vong trấn giữ (Tuần Triệt hoặc
Thiên Không cùng cung) thì ứng với luật "cùng tắc biến" của dịch, sắc
lại biến thành không; nên càng có nhiều cách đào hoa càng có khuynh hướng tìm
giải thoát trong cảnh tu hành.
46. Thìn Tuất
Không Vong Cơ Lương tăng đạo
Cơ Lương Thìn Tuất là miếu vượng
rất tốt đẹp; cư mệnh là cách của bậc quân sư tài giỏi, gặp sát tinh cùng cung
xâm phạm phải xuống cấp vẫn còn là hạng "nhất nghệ tinh nhất thân
vinh". Nhưng Cơ Lương là hai sao nhu nhược, nên bị một trong các sao không
vong
cùng cung trấn áp (gồm có Tuần Triệt, Địa Không ở vị trí này) tất chẳng còn gì
cả, như người có của báu một lúc trắng tay, lại thiếu bản lãnh quật cường nên
sinh thất chí, cư mệnh là cách của người chán đời đi tu .
47. Cự Cơ Mão
Dậu bất đáo nhân duyên
Cự Cơ Mão Dậu là một kỳ cách của
Tử Vi, nếu gặp Tuần Triệt hoặc Đại Tiểu Hao để thành tựu lớn. Nhưng đây là kỳ
cách do nhiều yếu tố xấu phá hoại nhau mà thành nên theo luật bù trừ được cái
này mất cái kia.
Cự Cơ Mão Dậu cư Mệnh thì Phu thê
ắt là Âm Dương Sửu Mùi như mặt trăng mặt trời
tranh dành ánh sáng, là cảnh âm dương bất thuận; do đó là số tình duyên ngang
trái.
48. Cơ Nhật
Đồng Liêm nữ nhân bất túc
Phái nữ mệnh có Thiên Cơ tất cung
phu có Thái Dương là sao chính ứng với chồng. Thái Dương hãm hoặc
đồng cung Thái Âm là cảnh vợ chồng bất thuận, Thái Dương cư Dần vượng đồng cung
với Cự Môn cũng là mâu thuẫn, chỉ còn lại Thái Dương ở các cung Mão Thìn Tỵ Ngọ
(ứng với mệnh Thiên Cơ tại Tỵ Ngọ Mùi Thân). Nhưng Cơ ở Thân tất đồng cung với
Thái Âm bản chất dễ có sự thiếu đứng đắn, Cơ ở
Mùi là hãm địa; nên Thiên Cơ cư mệnh chỉ có Tỵ Ngọ là tương đối tốt đẹp cho
phái nữ, ngoài ra khó tránh cảnh nhân duyên dang dở.
Phú có câu "nữ mệnh đoan chính Thái Dương tinh, tảo
ngộ hiền phu tín khả bằng", nghĩa là nữ mệnh có Thái Dương là người đoan
chính, sớm gặp chồng hiền. Xét trên dịch lý e rằng câu phú này không đúng; bởi
Thái Dương là sao cực dương cư mệnh phái nữ không
hợp.
Thái Dương càng miếu vượng tính
mâu thuẫn càng cao nên nữ mệnh có Thái Dương cư các cung Dần
Mão Thìn Tỵ Ngọ dễ thành công trên đường sự nghiệp nhưng khó thuận nhân duyên.
Sửu Mùi Âm Dương đồng cung khó tránh đôi lần dang dở, các cung còn lại vì hãm
địa lại hóa ra đỡ xấu, chịu nhẫn nại qua những phút giây bất thuận thì vẫn có
thể được hưởng cảnh bạch đầu giai lão.
Thiên Đồng là phúc tinh cư mệnh
dễ gặp may mắn. Nhưng Thiên Đồng là nữ tinh yếu đuối, bản chất thay đổi vô
chừng nên càng may mắn càng có khuynh hướng tự gây phiền toái cho mình. Nghĩa
là trong cái tốt đã chứa sẵn mầm biến động, khó tìm
hạnh phúc với chồng con; ngay cả Đồng Lương miếu ở Dần Thân cũng thế.
49. Cách tuy họa
phúc chủ yếu thiện tâm
Tử Vi có nhiều cách khác nhau tuy
nhiên họa hay phúc chủ yếu là do lòng từ thiện của mỗi người.
50. Khả dĩ an
nhiên đức năng thắng số
Số mệnh
vốn là xác suất nên họa phúc đều có thể đổi thay . Nếu phát thiện tâm thì có
thể lấy đức thắng số mà được vạn sự an lành .
*
Mời thư giãn với nhạc phẩm ĐÊM GIAO THỪA NGHE MỘT KHÚC DÂN CA
của Võ Đông Điền qua tiếng hát Lưu Ánh Loan:
*.
ĐẰNG SƠN (tên thật: Trần Đằng Sơn)
(bút danh khác: Thanh Y cư sĩ)
Địa chỉ: San Jose, California, Hoa Kỳ
…………………………………………………………………………
- Cập nhật từ email tranchicuong27@yahoo.com.vn gửi ngày 25.06.2017.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang blog Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
0 comments:
Đăng nhận xét