(Nguồn ảnh: internet) |
ĐỌC “NHƯ
HẠT BỤI ĐAM MÊ”
TẬP THƠ
THỤY SƠN
(Tác giả Châu Thạch) |
Tôi và nhà thơ nữ
Thụy Sơn chắc cũng hữu duyên nhưng không năng tương ngộ vì chỉ gặp nhau một lần
trong dịp thầy Kim Tâm Thích Hạnh Niệm mời họp mặt ra mắt tập Đường thi xướng
họa “Giao Khúc Mừng Xuân” tại chùa Pháp Bảo Hội An. Tập thơ “Như Hạt Bụi Đam mê” được trao từ tay
Thụy Sơn qua Tâm Nhiên rồi từ tay Tâm Nhiên trao lại cho tôi. Tập thơ được trao
dưới mái hiên, bên sân chùa, cạnh những luống hoa cao tới ngực có nhiều màu rực
rỡ. Nhìn người phụ nữ duyên dáng với chiếc váy dài bên anh chàng thi nhân bụi
đời tóc dài, mũ rộng, áo thùng thình tôi thấy lạ thay, trong cái đối nghịch ấy
lại thấy một sự hòa hợp diệu kỳ. Về nhà đọc thơ của Thụy Sơn tôi mới phát hiện
họ đều là con Phật. Nếu thơ của Tâm Nhiên khẩu khí ngút trời, âm ba đồng vọng
như tiếng trống chùa động mạnh, lay động cả không trung thì ngược lại, thơ của
Thụy Sơn như tiếng chuông êm đềm len qua ngàn cây cỏ. Nếu có ai đem hòa nhập
tiếng thơ họ lại thì sẽ làm tâm hồn ta dồn dập một nguồn vui an tịnh.
Với tôi cụm chữ “hạt bụi đam mê” của Thụy Sơn không phải
là thứ hạt bụi “hóa kiếp thân tôi” để
rồi một mai than thở “ôi cát bụi phận này /vết mực nào xóa bỏ không hay” của Trịnh Công
Sơn. Hạt bụi của Thụy Sơn là hạt “bụi đam
mê”, là cái nhân của niềm tin. Từ cái hạt bụi Đam mê của Thụy Sơn cho tôi
nhớ đến một câu trong Kinh Thánh: “nếu
đức tin bằng hạt cải thì các ngươi có thể dời non lấp biển”. “Hạt cải đức tin” trong Kinh Thánh và “hạt bụi đam mê” trong thơ Thụy Sơn đều
có một ý nghĩa giống nhau. Nó là sức mạnh của tinh thần. Sức mạnh ấy có thể
diệt khổ trong tâm hồn ta và dời nỗi đau lớn như núi, rộng như biển của ta. Hạt
bụi ây cũng có thể giác ngộ được cả cho tha nhân nếu họ nghe ta, kiến tánh được
niềm tin ấy. Thế nhưng khi hạt bụi đam mê đó chưa đạt sự tinh tuyền thì cửa
thiên đường còn đóng lại, linh hồn sẽ trôi nổi mãi:
Sang sông … lở rớt
lời kinh sám
Gợi giấc…mơ qua sỏi
đá mềm
Hạt bụi đam mê vàng
sợi nắng
Thiên đường cổng
khép một lần thêm
(Hạt Bụi Đam Mê)
“Sang sông” là xuống bến mê qua bài giác
ngộ. “Rớt lời kinh sám” là làm mất
niềm tin chân lý, quên đi sám hối tội lỗi mình. “Gợi giấc” là một phút yếu lòng. “Mơ…qua sỏi đá mềm” là ước vọng những điều phù phiếm của trần gian.
Tất cả điều ấy sẽ làm cho “hạt bụi đam mê
vàng sợi nắng” nghĩa là làm cho yếu đuối đức tin và kết quả là thiên đường
khép cổng thêm một lần nữa trong vạn kiếp luân hồi. Chỉ qua bốn câu trong tám
câu Đường thi mở đầu tập sách, ta cũng thấy được ở thơ của Thụy Sơn, sâu đậm
những suy nghiệm về triết lý Phật giáo và qua những suy nghiệm đó, hình ảnh
sống động của đời, lung linh của đạo được chăm chuốt nở ra những đóa hoa đẹp
trong vườn thơ tịnh độ.
Thơ của Thụy Sơn
diễn đạt định luật vô thường, sắc sắc không không trong Phật giáo một cách
thanh thoát, nhẹ nhàng:
Sương trăng về đậu
trắng sông
Đò ai không ngủ
ngược dòng tịnh bơi
Nước trôi cầu nhẹ
nhàng trôi
Bến bờ cố xứ không
tôi… không đò…
(Đêm)
Đêm trên sông cũng
là đêm của đời người. Hình ảnh đò bơi ngược dòng, hình ảnh nước trôi làm cầu
đứng yên mà cũng như trôi, chứng cho ta hiểu được khi tâm hồn động thì ảnh và
ảo ảnh lẩn trong nhau, đồng một thể. Con người bị mê hoặc trong cái nhìn vào
hiện thực, quên đi tất cả những gì trong quá khứ, không còn tôi mà cũng không
còn con đò năm xưa nữa. Bài thơ chất chứa sự hài hòa trong cõi vô vi của lão
giáo, gởi vào đó ý nghĩa sâu xa tỉnh và động trong triết lý nhà Phật, cọng thêm
hình ảnh đẹp của không gian mà tác giả tả bằng dòng chữ của mình, cho người đọc
thưởng thức phong cách thơ lãng mạn pha thêm một chút thiền vị ấy, nó hóa ra
thi vị là thế nào!
Nói về nghiệp duyên
trong đạo Phật, qua lời thơ của Thụy Sơn, ta không tưởng được nó diễn đạt một
điều sâu xa mà ý vị đến thế:
Hồ Trường cạn một
chung đầy
Uống xong chén tạc
ngây ngây chén thù
Bên trời muộn bóng
vân du
Sương khuê vẫn đợi
nắng từ uyên nguyên
Hồng hoang lạc
xuống trần duyên
Đi tìm một nửa sông
thiền lội qua
Đò ai cuối bến
giang hà
Trăm năm đứng đợi
bóng tà huy trôi
(Nghiệp Duyên)
Bài thơ đề cập đến
một vấn đề mà cho chí những vị thiền sư cũng phải dùng Hán tự để giảng luận lâu
dài. Ở đây Thụy Sơn chỉ dùng hình ảnh vạn vật hiện lên trong cơn say cho ta ngộ
ngay được sợi dây khắn khít của nghiệp duyên như sương đợi nắng, như con đò
trăm năm đứng đợi một bóng tà huy ở cuối một bến sông nào đó. Những chung rượu
của thụy Sơn thật là tuyệt vời, nó không lôi con người vào cõi đam mê trần tục
mà nó thăng hoa con người vào tiền kiếp của mình khi nói “bên trời muộn bóng
vân du”, để từ đó thấy cả được trần duyên của mình từ thuở hồng hoang.Ta tưởng
tượng bóng vân du là bóng của linh hồn ta lang thang từ muôn kiếp trước. Thơ có
thể truyền tâm ấn, thơ có thể trực chỉ nhân tâm là ở chổ nầy đây!
Thụy Sơn cũng rất
tài tình khi viết về niềm vui của đạo pháp:
Chút nắng vàng hanh
của cuối ngày
Vô tình để lại giọt
nồng bay
Ta trong vô thức
ngàn xưa dậy
Mở trái tim hoang
ngập gió đầy…
(Gió)
Khổ thơ không nói
gì về giáo lý, nhưng đọc thơ ta liên tưởng ngay thứ gió mà đạo pháp mang lại
cho con người, nó làm thức tỉnh vô thức tự ngàn xưa, nó làm tràn ngập niềm hoan
lạc trong trái tim ta.
Trong “hạt bụi đam
mê”, ngoài những bài thơ sâu xa về đạo, còn có nhưng bài thơ cho đời, Thụy Sơn
thường viết ngắn gọn nhưng chất chứa, tiềm ẩn, gói gọn một thứ tình trong vắt
của một tâm hồn đa cảm.
Để nhớ về kỷ niệm
một thời, tác giả viết:
Xưa một thời mơ mộng
Đuổi bắt áng mây xa
Nay từng giây tỉnh
thức
Nắng ấm trước hiên
nhà…
(Nắng Ấm)
Để nói về những
điều đọng lại trong ký ức, tác giả viết:
Trời còn nhớ đất lệ
tràn mưa
Trăng nhớ hàn giang
thức trắng mùa
Cỏ nhuộm tương tư
vàng vỏ úa
Lạnh lùng đá cũng
nhớ rêu xưa…
(Rêu Xưa)
Để nói về một cuộc
tình của tuổi học trò tan vỡ tác giả viết:
Đêm nay mây nước
hữu tình
Sao trăng khuya vẫn
một mình đi hoang
Hạ vàng sao vội
sang ngang
Có con bướm trắng
để tang cuộc tình
(Hạ Vàng)
Chỉ đơn cử một vài
khổ thơ viết về đời ta cũng thấy được tiếng thơ viết cho đời của Thụy Sơn cũng
mẫu mực, điềm đạm, lung linh từ trong những câu ngắn gọn một thứ ánh sáng tỏa
ra cho ta liên tưởng và hình dung được ý nghĩa tổng thể mà nhà thơ gởi tâm tình
mình vào đó. Hình ảnh khi “Đuổi bắt áng mây
xa” thì “nắng ấm trước hiên nhà’’
cho ta trọn vẹn sự ấm áp lúc tâm hồn nhớ nhung về quá khứ. Hình ảnh “lạnh lùng đá cũng nhớ rêu xưa” cho ta
trọn vẹn sự thê thiết trong lòng bởi những quá khứ không vui. Và bức tranh “Trăng khuya vẫn một mình đi hoang” cho
con “bướm trắng để tang cuộc tình”
chiếu trọn vẹn bước chân lang thang và niềm đau lặng lẽ trong lòng kẽ thất
tình.
Đọc trọn vẹn tập
thơ “như hạt bui đam mê’ của Thụy Sơn
thú thật tôi không tìm được một bài để chê. Thơ chị cho tôi có cảm tưởng lúc
thì đi vào một vườn hoa thanh tịnh bên một sân chùa, khi thì lại thấy mình như
đứng nơi một thạch động nghe tiếng âm vang từ xa xôi dội lại, khi thì lại thấy
trăng, thấy nước, thấy con thuyền lửng lờ trôi trên một dòng sông yên tịnh. Thơ
Thụy Sơn không có sự cao siêu của thơ thiền, cũng không có sự ôm đồm giáo lý để
dạy đời của thơ đạo, mà chính hiệu nó là nguồn trong trẻo của thơ, thoảng hương
thơm của đạo và tiềm ấn một chút lạc vị của vô vi, khiến cho càng đọc ta còn
bình tịnh tâm hồn, làm cho ta yêu mọi cái quanh ta.
Tôi cũng vài lần
viết cảm nhận thơ của các vị sư. Tôi hình dung các vị cười một nụ cười hiền
hòa, tha thứ cho sự múa riều trước mắt thợ của mình. Tuy thế tôi cũng có nhận
được lời khen khích lệ làm cho tôi vui mừng, an tâm múa tiếp. Hy vọng lần nầy
tôi cũng nhận được nụ cười ấy từ tác giả và từ bạn đọc am tường giáo lý và đạo
pháp.
Mời thư giãn với nhạc phẩm CÁT BỤI
của Trịnh Công Sơn, qua tiếng hát Khánh Ly:
*
CHÂU THẠCH
(Tên thật: Trương Văn Trạn)
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.
ĐT: 0929128967 - 05113894610
Email: truongvantran@hotmail.com
…………………………………………………………………………
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 24.03.2018.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang blog Đặng
Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi
trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét