ĐÓNG GÓP - Truyện ngắn Nguyễn Anh Tuấn (Hưng Yên)

Leave a Comment
(Nguồn ảnh: internet)
ĐÓNG GÓP
*
(Tác giả Nguyễn Anh Tuấn)
Xóm Đồn như cái búp đa cong cán, nổi lềnh bềnh giữa một bên là ao làng (Dấu tích của sự đổi dòng), một bên là sông Nghĩa Trụ. Xưa kia Nghĩa quân Bãi Sậy đã lập đồn trú ở đây để lại những rặng tre hóa gai mọc ken dầy thành lũy dọc theo doi đất chừng nửa dặm.
Vợ chồng lão Thỉn sống trong túp lều xiêu vẹo dưới những khóm tre nơi đầu doi đất. Túc tích ở đây hơn bốn mươi năm rồi. Con cái chưa có. Chồng đóng khố bện, cởi trần, suốt ngày kín nước, gánh phân thuê, ngày mưa gió khoáy cái rế kiếm được năm ba chinh thêm thắt mua khoai mua sắn. Vợ mắt toét nhoèn, quanh năm đỏ mọng vì lông quặm, chả làm được gì ngoài việc ra đồng quờ quạng bắt con cua, con ốc, hái nắm rau tập tàng ăn qua quéo hằng ngày. Chợ Chè chỉ cách cây cầu mà chưa bao giờ thấy vợ chồng lão có mặt. Những ngày hội hè ngoài đình lão vẫn gánh phân. Hình như những tiếng mõ rao “Chiềng làng! Chiềng chạ!..” lão bỏ ngoài tai. Riêng khoản “thuế thân” khi tuần đinh tới tróc, lão chỉ trông cậy vào Bá Trại (chủ lúc còn bé đi ở) lấy tiền nộp rồi xin làm công trừ nợ để được yên thân.
Tre xòa xuống ao, tre phủ kín mái lều nhưng không ai tơ hào được một cái vè bừa, một cái roi trâu. Cả xóm chẳng ai  thích chơi với người độc vãi máu. Cũng nhiều người thấy hoàn cảnh “Cây khô không lộc, người độc không con” mà thông cảm cho vợ chồng có:  “Một mái lều tranh, hai trái tim vàng”.
Những đêm có sao, có trăng, người làng Mãn ở bờ ao bên này thấy tiếng bì bũng, sóng lăn tăn truyền ra trong đám ngọn tre nhà lão xòa xưống ao làng là họ lại thì thào:“Vợ chồng lão Thỉn đang tắm đấy!”. Tối nào cũng thế, hai vợ chồng lão đều tụt xuống rệ ao kỳ lưng cho nhau.Vợ rũ cái váy đụp cho hết bùn đất, chồng vò cái khố đay bện cho sạch phân gio. Tắm xong, phơi lên cái duỗi trước của lều cho ráo nước ngày mai lại mặc. Cánh thợ cầy gợi chuyện:
-  Sao vợ chồng bác đêm nào cũng tắm!
- Các bác thấy đấy, tôi mồ hôi dầu, bà ấy hôi lách. Tắm xong còn phải quạt hàng trăm nhát cho khô, chứ cứ lên chõng ngay có mà nồng nặc, muỗi rãn cũng không bay được!   
- Thảo nào người ta đồn bác là người, cẩn thận nhất làng!
- Thế mà Trời Phật đã thấu cho đâu!?
Chuyện lão Thỉn cẩn thận thì ai cũng biết! Riêng chuyện mỗi lần bỏ một chinh vào hũ thì đến vợ lão cũng không hay! Làm thuê được mấy chinh tối về lão bớt lại một  chinh. Vợ kỳ kèo lão bảo: “Phải dành dụm để sau này nuôi con và phòng khi trái gió, giở giời”. Lão tìm nhặt được cái hũ sứt miệng ở bờ tre nhà Bá Trại mang về, úp cái bát đàn mẻ lên trên, đào chôn xuống nền lều, đè thêm hòn gạch rồi đặt chân chõng lão vẫn nằm lên. Lão nghĩ: “Dùng ngô hay đỗ dễ bị mối mọt, hay mục nát lại khó dấu vợ! Lão bằng lòng với cách “tích của” cẩn thận của mình.”
Ngày độc lập đầu tiên dân làng nhà nào cũng đi dự mít tinh, tổ chức ăn mừng. Lão Thỉn bóc được vài vỏ đay từ mấy hôm trước, mang về cạo vỏ, luộc kỹ cho mềm, xe thành sợi dây thật săn, thật dài. Từ sáng sớm lão đã giục vợ ra đồng: “Đi quá mái trưa đừng về. Cơm nước ở nhà đã có tôi”. Vợ đi rồi lão đóng cửa lều, ngó ngang, ngó dọc rồi mới  quay vào moi cái hũ lên. Gần 50 năm vợ chồng ăn ở với nhau tích lại cũng gần đầy hũ…! Lão Sáng mắt cẩn thận đếm đếm, xâu xâu…Cứ 10 chinh lại thắt một nút (một xu). Đủ 10 lần thắt một nút, lão thắt 2 nút (một hào). 10 lần thắt 2 nút lão thắt 3 nút là được một đồng. Cả thẩy có 18 lần thắt 3 nút còn dư ra 7 chinh. Chưa được một phần ba quan tiền mà sợi dây đã thấy dài dằng dặc. Lão nhẹ nhàng cho xâu tiền vào hũ... Tiền đầy đến miệng. Lão cũng không quên xâu nốt mấy chinh lẻ vào đầu dây. Nhìn hũ tiền Lão mơ … Một ngày kia con lão được học hành tử tế…Vợ lão được ở trong cái nhà gỗ có cửa bức bàn…được mặc cái váy không còn vá chằng, vá đụp…Lão thiêm thiếp đi…
Vợ lão về nhà nhìn qua khe liếp thấy lão đang ngáy khồng khộc trên cái chõng kê xộc xệch, chân co chân duỗi, hai tay ôm lấy cái hũ sứt miệng, lòi ra sợi dây…Thị liền quay ra lên tiếng bằng cách đổ ốc ra sóc. Thấy động, lão bật dậy, cất vội cái hũ tiền vào chỗ cũ, rồi mới mở cửa
- Chết rồi! Nắng xiên khoai mà tôi còn chưa cơm nước gì!
- Không sao! Mát giời chợp mắt được một giấc càng khỏe quân. Tôi đã vặt được quả bầu đèo bên cổng bà Phó Tạn, ông nhặt nắm tép đi rồi nấu canh mà chan.
Hai tháng sau, ngày nào lão đi thì chớ, hễ về nhà lại soi xem có mất dấu hòn gạch kê chân chõng không? Vẫn y nguyên! Lão tự nhủ: “Mình có phúc lấy được cô vợ tuy chậm đường đẻ đái nhưng lại hiền lành lúc nào cũng tin yêu chồng!”
Chiều ngày áp tết, Bá Trại trả công cho lão gánh phân bằng thứ tiền giấy! Lão trợn tròn mắt. Chủ giải thích tai này lão nghe sang tai khác:
- Độc lập rồi. Tiền “bảo vệ” mới thay cho tiền Bảo Đại cũ. Bây giờ không ai tiêu thứ tiền chinh nữa đâu!
Lão im lặng đi về. Tức bực! Nghi ngờ! lão gieo mình. Cái chõng tre kêu cọt kẹt. Vợ lão nằm ở cái chõng đầu bên này sốt ruột nhưng vẫn nhỏ nhẹ:
- Từ ngày làm bạn với nhau, tôi chưa thấy ông nhắc nhở gì tới giỗ tết cả. có lẽ vì thế mà Tổ Tiên phạt vợ chồng mình chăng? Gần ngày giỗ cụ rồi, lại tết nhất chẳng còn mấy nữa đâu!    
- Còn ba chinh bán rế tháng trước bà sang chợ mua quả trứng về thắp hương!
- Tiền ấy của ông ma nó lấy!
Lão bật dậy nhìn chân cái chõng đang nằm. Hòn gạch kê chân mất dấu? Mở cái bát đậy, chỉ còn hũ không. Lão rít lên từng tiếng qua kẽ răng:
- Bà phá hết cơ nghiệp của tôi rồi
- Chính ông mới là người phá! Người ta gánh tiền Cụ Hồ đi đổi từ 1-12-1945! Ông cứ chúi đầu vào phân gio có biết gì đâu! Sáng nay đã là mồng 5. Hết hạn rồi! Tôi vào nhìn hũ tiền vẫn còn đầy ắp. Điên tiết, tôi đổ hết đi rồi!
- Bà đổ ở đâu? Bảo tôi? cho tôi xin lại!
- Lấy lại để làm gì?
- Tôi …t…ôi…
- Ở cái nồi hông đầu nhà trùm gio lên đấy!
Lão chạy vội ra chỗ cái nồi hông vẫn đựng nước đái, thục tay vào lôi dây tiền lên. Nước tiểu với gio làm dây tiền sáng ánh đồng, hết xỉn. Lão mừng, run run, lí nhí trong cuống họng, dằn từng tiếng “Người… đâu…lại…có…cái…thứ…người…!”… Lão xách từng lọ nước lên thau cho hết gio trấu và bớt mùi khai, lão thấy càng thau  tiền càng sáng lên! Ôm dây tiền vào trong nhà kiểm lại. Lão lẩm nhẩm: “Cộng với 13 chinh mới xiên vào là hai mươi chinh. Tức là hai xu. Vị chi ta có 18 đồng không hào hai xu.”
Không thiếu một chinh! Lão thở phào nhẹ nhõm. Dù chưa biết phải làm gì nhưng lão vẫn cất hũ tiền vào chân chõng rồi đi ra
- Ông ở nhà ăn cơm rồi còn đi tắm?
- Tôi đến Ký Lãng để hỏi binh tình đã!
- Rõ “Mất bò mới lo chuồng”! Vợ lão trách thế nhưng lại thương!
Tháng 8-2946 cán bộ Nguyễn Công Chỉnh (Quê Trà Bồ, nhà ở trên đất làng Mãn) dẫn mấy người công binh ở chiến khu về bằng một chiếc thuyền đinh theo dòng Nghĩa Trụ. Thuyền được ém sát đất nhà thờ họ Nguyễn Đình ven sông. Phủ bèo ngụy trang rồi mà Bếp Nhự bên Trà Bồ vẫn tăm được. Lính Cao Xá lên. Làng Mãn đã phá cầu, rào làng nên giặc không giám lội sông sang. Từ chỗ Văn Chỉ bên kia, bắn súng đại liên và mooc - chê vào thuyền đến khi đầu máy bốc cháy, mạn bẹp rúm, vỡ toác mới thôi.
Kế hoạch chở đồng lên chiến khu phải chuyển hướng. Mọi người dân đều góp sức, góp công. Người nào cũng hồ hởi ủng hộ kháng chiến. Giàu như Bá Sủng góp vài cái nồi, thau, mâm (cũ hỏng). Bá Trại có cái nồi 12 thủng toang đáy vì nấu cám khê. Nghèo như Nhiêu Thử, Nhiêu Hảo cũng góp cái nồi đồng điếu…đang dùng thổi cơm.
Trăng chưa vượt ngọn tre mà các vật dụng của dân đã chất đầy lều Nhiêu Hảo ở Đa Quán. Tự vệ khênh vác chuông, đồ thờ: hạc, đài nến, cây đèn… ở Đình, chùa, nhà thờ đạo ra. Cả tượng bằng đồng đen tạc “Thành Hoàng làng” ở Đình cũ cũng được huy động cho bằng hết.
Lão Thỉn tìm khắp nhà không có cái gì bằng đồng, toàn là niêu đất, bát đàn.Vợ lão gợi ý: “Hay ông mang góp cái hũ của ông…”
Lão như bừng tỉnh, ôm hũ tiền chạy một mạch. Đến nơi, mọi người đang chuẩn bị đưa các thứ quyên góp được lên hàng Đoàn Khi (giáp cánh đồng làng Vươn). Anh em quân khí dùng bễ lò rèn thổi chẩy đồng thành thỏi cho việc vận chuyển dễ dàng
Lão vừa thở vừa nói:
- Cho tôi góp với! Cho tôi đóng góp!
Có người ngăn lão lại: “Không nhận đồ sành!”
- Tiền đấy! 18 đồng hai xu chẵn! Nói rồi lão lôi cả một dây tiền từ trong hũ ra... Ánh đồng vàng lấp lánh dưới trăng, tiếng va đập kêu xủng xoảng làm cho mọi người tưởng lão có phép tiên.
Anh quân giới cắt dây dồn những đồng chinh lại, cân lên và xướng: “Năm cân bốn lạng mốt! Đây là người Làng Phú Mãn đóng góp nhiều nhất cho chiến khu”.
Cả làng vỗ tay!
Lão Thỉn run lên! Không hiểu tai mình đã nghe được những gì?!

Mời thư giãn với nhạc phẩm ĐƯỜNG VỀ QUÊ HƯƠNG
của Lam Phương, qua tiếng hát Đan Nguyên:
             
*
NGUYỄN ANH TUẤN
(Bút hiệu Đồ Cóc)
Địa chỉ: 63 K2 thị trấn Trần Cao
huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên.
Email: nguyenanhtuanhydc@gmail.com
.Điện thoại: 0167.832.17.75
.





…………………………………………………………………………
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 18.08.2018.
-  Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến. 
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.

0 comments:

Đăng nhận xét