(Nguồn ảnh: internet) |
NIẾT BÀN:
BẢN CHẤT
VÀ MỤC TIÊU GIÁC NGỘ
*
(Tác giả Thích Nhật Từ) |
Hiểu
niết-bàn bằng các ý niệm của các truyền thống hữu thần, chẳng hạn tương đương
với Phạm Thiên hay tiểu ngã trong Áo Nghĩa Thư hoặc là thượng đế của các tôn
giáo khác hay là khái niệm Đạo trong Lão giáo v.v… sẽ dẫn đến sự ngộ nhận cho
rằng niết-bàn là siêu nhiên. Niết-bàn vốn khác hẳn các khái niệm được nêu ở
trên, bởi vì niết-bàn không phải là nguồn gốc của vũ trụ. Sự chứng đắc niết-bàn
do đó không thể bị đồng hóa với sự đồng dạng hay hợp nhất với nguồn gốc của vũ
trụ. Niết-bàn đơn thuần là trạng thái chấm dứt khổ đau (anto dukkhassa) một
cách vĩnh viễn (akaaliko).
I. KHÁI NIỆM "NIẾT-BÀN"
Niết-bàn (nibbaana // nirvaa.na)[1] hay chân lý về
trạng thái vắng mặt hoàn toàn khổ đau (dukkha-nirodha-ariya-sacca) là mục đích tối
hậu của con đường tâm linh Phật giáo ngay đời này. Niết-bàn có thể được hiểu
một cách chính xác trong mối quan hệ của nó với chân lý về đau khổ và nguyên
nhân của những đau khổ, cả về phương diện logic và giải thoát luận. Có nghĩa là
nếu hiện hữu có mặt đau khổ và những nguyên nhân của chúng thì sự chấm dứt vĩnh
viễn các nguyên nhân của đau khổ dẫn đến sự vắng bóng hoàn toàn khổ đau, là niết-bàn.
Trong mô thức của bốn chân lý, niết-bàn là trạng thái
an lạc cao cấp nhất (nibbaana'm parama'm sukha'm),[2] một trạng
thái vắng mặt toàn bộ sự không thỏa mãn hay là sự giải thoát khỏi khổ đau một
cách toàn triệt (sabbadukkhapamocana'm).[3] Sự nhận chân
hay chứng đắc niết-bàn, do đó, được định
nghĩa là sự chấm dứt toàn bộ khổ đau (anto dukkhassa).[4] Niết-bàn được chứng đạt ngay
trong đời sống hiện tại[5] thông qua sự thực hành toàn hảo đời sống đạo đức,
thiền định và trí tuệ.[6]
Về từ nguyên, thuật ngữ Bắc phạn nirvaa.na, tương đương với
từ nibbaana trong Pali, bắt
nguồn từ tiếp đầu ngữ nis/nir vốn có nghĩa là "sự
phủ đinh" và từ căn vaa, có nghĩa là "rĩ
chảy." Do vậy nibbaana / nirvaa.na dòng chảy đã
chấm dứt, hay trở nên thanh lương."
Trong một ẩn dụ giải thoát, nibbaana // nirvaa.na được sánh ví
với trạng thái bị dập tắt của ngọn lửa, do nhiên liệu của hiện hữu đã hết sạch
(abhava/vibhava). Niết-bàn không phải là trạng
thái diệt tận vĩnh viễn, lại càng không phải là một cảnh giới siêu nhiên hay
thiên đường của các tôn giáo khác. Không nên hiểu niết-bàn dưới góc độ của tính
siêu nhiên có liên hệ đến Phạm Thiên hay tiểu ngã (Brahman / aatman) như được trình
bày trong kinh điển Áo Nghĩa Thư (Upani.sads), hay là Thượng đế
của các tôn giáo hữu thần. Bởi lẽ, hiểu niết-bàn bằng các ý
niệm của các truyền thống hữu thần, chẳng hạn tương đương với Phạm Thiên hay
tiểu ngã trong Áo Nghĩa Thư hoặc là
thượng đế của các tôn giáo khác hay là khái niệm Đạo trong Lão giáo v.v… sẽ dẫn
đến sự ngộ nhận cho rằng niết-bàn là siêu
nhiên. Niết-bàn vốn khác hẳn các
khái niệm được nêu ở trên, bởi vì niết-bàn không phải là nguồn
gốc của vũ trụ. Sự chứng đắc niết-bàn do đó không thể bị
đồng hóa với sự đồng dạng hay hợp nhất với nguồn gốc của vũ trụ. Niết-bàn đơn thuần là trạng
thái chấm dứt khổ đau (anto dukkhassa)[7] một cách vĩnh
viễn (akaaliko).
Trong kinh điển Phật giáo, niết-bàn được mô tả bằng
nhiều khái niệm và thuật ngữ khác nhau (vevacana),[8] khi thì phủ
định, khẳng định, lúc thì mang tính tâm lý và ẩn dụ.[9] Trong các mô tả mang
tính chất ẩn dụ về niết-bàn, các khái niệm sau
đây là được biết đến nhiều hơn: hòn đảo (diipa), hang động (le.na),[10] nơi nương
tựa (sara.na'm),[11] bờ bên
kia.[12]
Từ phương diện tâm lý học, niết-bàn được định nghĩa là
trạng thái thanh tịnh của tâm, chẳng hạn như giải thoát khỏi khổ đau (asoka'm),[13] sự an ổn
toàn triệt (khena'm),[14] trạng thái
thăng bằng của tâm (accuta'm pada'm),[15] sự an tịnh (santa'm),[16] không còn
bóng dáng của sợ sệt (akutobhaya),[17] sự an bình
tuyệt đối (paramaa santi),[18] từ mẫn (avyaapajjo),[19] không giao
động (acala'm) trạng thái vững
chắc (akuppa),[20] không thể
lay chuyển (asa'mhiira'm), bất động (asa'mkuppa'm),[21] nhu nhuyến (nipuna'm),[22] thanh tịnh (suddhi),[23] sức khỏe
toàn hảo (aarogya),[24] trở nên
thanh lương (siitibhuuto);[25] về phương
diện cảm xúc, niết-bàn được định nghĩa như
sự hạnh phúc (siva'm),[26] sự an lạc
cao cấp nhất (nibbaana'm parama'm sukha'm).[27]
Là một trạng thái chuyển hóa toàn hảo, niết-bàn (nibbaana) được định nghĩa
là giải thoát (mutti),[28] giải phóng khỏi khổ đau
(vimutti),[29] giải thoát khỏi mọi ràng buộc (nibbaana'm
sabbaganthappamocana'm),[30] sự an ổn tuyệt đối khỏi
sự ràng buộc (yogakkhema),[31] cứu cánh (anta'm),[32] thanh tịnh (suddhi),[33] sự chấm dứt
các lậu hoặc của tâm (aasavaana'm khayo / khiinaasavo),[34] chấm dứt
toàn bộ các phiền não (kilesa-parinibbaana),[35] sự tiêu diệt
hoàn toàn các bất thiện (akusalamuula),[36] sự chấm dứt
của hữu (bhavanirodho nibbaana'm),[37] sự chấm dứt
của sanh tử (jaatimara.nassa anta'm),[38] giải thoát khỏi
các bất tịnh (asankili.t.tha),[39] và giải
thoát khỏi các chấp mắc (anaalaya),[40] v.v. . .
Thỉnh thoảng, niết-bàn cũng được ẩn dụ như
một cảnh giới (aayatana'm)[41] hay được diễn
tả bằng một chuổi từ phủ định,[42] hoặc chân lý (sacca'm),[43] hay chân lý
cao thượng nhất (parana'm ariya sacca'm),[44] và sự đoạn
diệt của thế giới (loka-nirodha).[45]
II. CÁC DIỄN TẢ PHỦ ĐỊNH VỀ NIẾT-BÀN
Do bản chất thâm áo, huyền diệu, niết-bàn thường được Phật mô
tả bằng các thuật từ phủ định, chẳng hạn như sự đoạn diệt tham ái (ta.nhakkhaya), thuộc không
duyên khởi (asa'mkhata), sự chấm dứt các
uẩn (nirodha), và không dính
mắc (viraaga).[46]Trong các
thuật ngữ phủ định, các từ đồng nghĩa của niết-bàn có thể liệt kê như
sau: vô sanh, không còn bị sanh (ajaata), không già hay
thoát khỏi già (ajaraa), không bệnh tật (abyaadhi'm),[47] không đau
khổ (asoka'm) không ô uế (asankili.t.tha'm),[48] bất tử (amata),[49] không còn
tái sanh (a-punabbhava),[50] không còn
trở thành (abhuuta), vô vi (akata), không thuộc
duyên khởi (asa"nkhata),[51] hoàn toàn
không còn tham luyến (asesaviraaganirodha),[52] không còn
tham (aniccha),[53] trạng thái
không còn sợ hãi (akutobhaya),[54] không còn
phiền muộn (akhalita), không còn trở
ngại (nirupataapa), không bị tràn
đầy (asambaadha), không còn đối
kháng (asapatta), vô hại (abyaapajja), không còn các
lậu hoặc (anaasava), không còn mê
hoặc (nippapa~nca),[55] chấm dứt sự
tái hiện hữu (bhavanirodho nibbaana'm),[56] chấm dứt của
sanh và tử (jaatimara.nassa anta'm),[57] không còn
các bất tịnh (asankili.t.tha),[58] không còn
các vướng mắc (anaalaya).[59] Nếu các
nguồn gốc và các động cơ bất thiện (akusala muulaani) được hình thành
trên ba phiền não chính là tham ái (raaga), sân hận (dosa) và vô minh (moha), thì sự chấm dứt
ba nguồn gốc bất thiện này sẽ dẫn đến sự chấm dứt các phiền não còn lại. Trên
cơ sở nầy, niết-bàn được định nghĩa là
sự chấm dứt toàn bộ tham ái (raagakkhaya), sân hận (dosakkhaya) và vô minh (mohakkhaya),[60] và bản chất
của niết-bàn được diễn tả bằng
một ẩn dụ [ngọn lửa] hoàn toàn bị dập tắt" (siitibhuuta) hay an tịnh (nibbuta).[61] Niết-bàn là sự đoạn tận tham
ái (ta.nhaakkhayo).[62]
III. CÁC GIẢI THÍCH SAI VỀ NIẾT-BÀN
Cần nói rằng các mô tả phủ định về niết-bàn cũng không tránh
khỏi việc hiểu sai và giải thích sai rằng niết-bàn thuộc về chủ nghĩa
siêu việt (transcendentalism). Các hiểu sai và
giải thích sai này được thể hiện rõ trong tác phẩm G.R. Welbon, Niết-bàn của Phật Giáo và các
Nhà Giải Thích Phương Tây.[63]Phân tích và nghiên cứu kỹ
lưởng tác phẩm này sẽ giúp chúng ta phân loại các giải thích sai lầm về niết-bàn thành hai nhóm
chính, đó là lối giải thích niết-bàn theo hướng đoạn
diệt luận (annihilationalist interpretation of nibbaana) và lối giải thích niết-bàn theo hướng siêu
việt luận (transcendental interpretation of nibbaana). Lối giải
thích đầu đã đồng hóa một cách sai lầm niết-bàn với sự đoạn diệt,
sự tiêu diệt vĩnh viễn sự sống, trong khi lối giải thích sau đã nhầm đồng hóa niết-bàn với thực tại phi
kinh nghiệm, dẫn tới thường hằng luận hay trở nên đồng nhất với Phạm Thiên của Áo Nghĩa Thư (Upani.sadicBrahman). Cả hai lối giải
thích trên đều sai lầm do không phản ánh được bản chất thật của bốn chân lý cao
thượng, và nhất là không nắm vững sự phủ định của Phật giáo về hai chủ thuyết
cực đoan thường kiến luận (sassatavaada) và đoạn diệt luận
(ucchedavaada).
Khuynh hướng giải thích niết-bàn là đoạn diệt của
các học giả phương Tây có thể bắt nguồn từ tác phẩm của giáo sư H. Oldenberg,
"Cuộc Đời, Giáo Pháp và Tăng Đoàn của Đức Phật (Buddha: His Life, His Doctrine
and His Order) xuất bản vào năm 1882. Theo giáo sư Oldenberg,
sự phủ nhận của Phật giáo về một thực thể bản ngã thường sẽ dẫn đến kết luận
cho rằng niết-bàn là đoạn diệt, cả về
phương diện tự nhiên và logic. Giáo sư Poussin trong tác phẩm Con Đường Niết-bàn (The Way to Nirvaa.na) xuất bản năm
1917, cho rằng niết-bàn là đoạn diệt "Nirvaa.na is annihilation."[64] Trong
số các học giả phương Tây, giáo sư Bigandet Burnouf và Paul Dahlke là hai đại
diện tiêu biểu đã giải thích niết-bàn là sự đoạn diệt
tuyệt đối "absolute nihilism."[65] Thực
ra, quan niệm về niết-bàn như đoạn diệt đã có
từ thời của đức Phật, thậm chí vị tỳ-kheo đệ tử của Phật tên là Yamaka cũng đã
từng nghĩ tương tự. Kinh điển ghi lại rằng thầy Yamaka đã có lần hiểu rằng:
"Ngay khi thân thể trở về với cát bụi, người đã nhổ sạch các phiền não lậu
hoặc (aasava) sẽ bị đoạn diệt
và không còn hiện hữu sau khi chết."[66] Đáp lại kết luận sai lầm này, tôn
giả Xá-lợi-phất đã giải thích cho thầy Yamaka rằng Như Lai và những bậc đã giác
ngộ không thể bị đồng hóa với hay tách rời khỏi năm nhóm nhân tính (pa~ncakkhandhaa). Do đó quả là sai
lầm khi cho rằng người giác ngộ trở thành đoạn diệt sau khi chết.[67] Giải
thích niết-bàn là không còn gì là
cách giải thích niết-bàn theo chủ nghĩa đoạn
diệt luận. Học thuyết này đã đánh đồng bản ngã với thân vật lý. Ngay từ ban
đầu, đạo Phật đã phủ bác quan niệm này. Do đó quan niệm cho rằng niết-bàn là đoạn diệt là
không có cơ sở.
Đối lập lại với các quan điểm cho rằng niết-bàn là đoạn diệt, nhiều
học giả đã giải thích niết-bàn là một thực tại
siêu việt tuyệt đối (transempirical reality). Theo họ, nếu Như
Lai hay những người giác ngộ không thể bị đồng hóa với hay biệt lập khỏi năm
nhóm nhân tính, và siêu việt khỏi bốn khả thể hiện hữu đó là hiện hữu (hoti), phi hiện hữu (na hoti), vừa hiện hữu vừa
phi hiện hữu (hoti ca na hoti ca) và phi hiện hữu
và phi phi-hiện-hữu (neva hoti na na hoti),[68] thì sự giác
ngộ của các ngài hay niết-bàn phải là một thực tại,
siêu việt khỏi bốn khả thể tính nêu trên. Ba học giả đại diện cho lối giải
thích này là HT. Walpola Rahula (1959), giáo sư N. Dutt (1960) và giáo sư K. N.
Jayatilleke (1963). HT. Rahula cho rằng:
"Câu trả lời hợp lý nhất cho câu hỏi "niết-bàn là gì?" là điều này
sẽ không bao giờ được trả lời một cách trọn vẹn và thỏa mãn bằng ngôn ngữ, bởi
vì ngôn ngữ của con người quá nghèo nàn đến độ không thể giải thích được bản
chất thật của thực tại tuyệt đối."[69]
Chủ trương theo lối giải thích tương tự, giáo sư N.
Dutt đã cố gắng đặc tính hóa cho niết-bàn là không thể mô tả
được và không thể tưởng tượng được. Ông viết:
Niết-bàn không thể suy tưởng đến được.
Các mô tả về niết-bàn do đó không thể trở thành
tiêu chí. Do vậy, đạo Phật cho rằng niết-bàn, chân lý cao thượng nhất, chỉ có
thể được thực chứng trong từng cá nhân (paccatta'm veditabbo vi~n~nuuhi
= pratyaatmyavedya); niết-bàn cũng không thể mô
tả được (nippapa~nca) và như thế không
cần phải tốn công để biểu đạt niết-bàn; niết-bàn rất thâm diệu và
không thể truyền đạt từ người này sang người khác.[70]
Giáo sư K. N. Jayatilleke mặc dù đã có nhiều nỗ
lực chứng minh rằng Phật giáo nguyên thủy không chấp nhận các nguyên lý không
thể minh chứng về phương diện thực nghiệm cuối cùng cũng phải thừa nhận vài
hình thái của chủ nghĩa siêu nhiên, khi ông cho rằng vấn đề đức Phật im lặng
trước bản chất của Như Lai và sự giác ngộ của bậc giải thoát là "không
phải do có điều gì đó đức Phật không tuệ tri, nhưng những gì mà ngài biết rằng
trong ý nghĩa siêu việt không thể chuyên chở được qua ngôn từ bởi lý do đơn giản
ngôn ngữ và chủ nghĩa kinh nghiệm luôn có giới hạn của chúng.[71]
Song hành với phương pháp tiếp cận mang tính Áo Nghĩa Thư hay Vệ-đàn-đà chẳng hạn như
cách của triết gia Radhakrishnan,[72] các giải thích siêu việt về niết-bàn như vừa trình
bày bên trên cũng không ít thì nhiều mang dấp dáng của chủ nghĩa thường kiến (sassadavaada), một học
thuyết về một bản ngã siêu hình có thực thể thường hằng bất biến, điều mà đức
Phật đã phủ nhận trong suốt cuộc đời chuyển pháp luân của ngài. Nói cách khác,
giải thích niết-bàn theo khuynh hướng
của chủ nghĩa siêu nhiên sẽ vô tình rơi vào cạm bẩy của chủ nghĩa thường kiến,
không dưới hình thức này thì cũng hình thức khác. Đó là cách đi trái ngược lại
với lời dạy nguyên thủy của đức Phật về tính vô ngã trong mọi sự vật hiện tượng
trong cuộc đời.
Từ những điều được trình bày sơ lược trên, chúng
ta có thể đi đến kết luận rằng các quy kết cho rằng đức Phật chủ trương đoạn
diệt luận hay cho rằng niết-bàn là một hình thức
đoạn diệt, chỉ là do không phản ánh trung thực về bản chất của bốn chân lý cao
thượng. Niết-bàn nếu là sự đoạn diệt
thì đó là sự đoạn diệt của tất cả dòng chảy bất thiện của tâm (akusalacitta-kkhaya) và tất cả các
phiền não lậu hoặc (kilesa-kkhaya); hoàn toàn không
phải là sự đoạn tuyệt của hiện hữu, mặc dù người chứng đạt niết-bàn không còn bị chi
phối của chuổi sanh tử luân hồi. Đối tượng được đoạn tận khi một hành giả đạt
ngộ niết-bàn là khối khổ đau (dukkha) và các dòng chảy
bất thiện của tâm (akusala cetasika), chứ không phải
bản thân của sự sống (jiivitanirodha), lại càng không
phải sự đoạn diệt con người cá nhân hay thế giới ngoại tại!
IV. CÁCH GIẢI THÍCH NIẾT-BÀN KHÔNG MANG TÍNH SIÊU NHIÊN
Niết-bàn có thể được giải
thích một cách tốt nhất bằng các kinh nghiệm phi siêu nhiên. Đó là kết luận
mang tính đề nghị của một số học giả nhìn thấy được sự nguy hiểm trong việc lý
giải niết-bàn dưới góc độ
siêu nhiên là cách khác để đặt niết-bàn vào quỷ đạo của chủ
nghĩa thường kiến, hay mang dấp dáng của Phạm Thiên của Bà-la-môn giáo. Người
viết hoàn toàn ủng hộ quan điểm giải thích này. Giáo sư R. E. A. Johansson
(1969: 41-64) có thể được xem là học giả tiêu biểu cho lối giải thích niết-bàn tương đối mới mẻ
này. Vài năm sau đó giáo sư D. J. Kalupahana (1976: 82-9) cũng trình bày quan
điểm tương tự rằng niết-bàn nên được tiếp cận
từ gốc độ phi siêu nhiên. Ngoài ra, các tiến sĩ A. Tilakaratne (1993: 69-82) và
Y. Karunadasa (1994: 1-14), cũng là những học giả đáng được đề cập đến trong
khuynh hướng giải thích này.
Các bằng chứng văn bản học cho lối giải thích niết-bàn theo khuynh
hướng phi siêu nhiên là các phán đoán liên hệ đến bản chất của đức Như Lai hay
vị A-la-hán sau khi chết. Các đoạn kinh nổi tiếng và được biết đến nhiều nhất
là các đoạn kinh Cảm Hứng Ngữ 80-1 (Udaana) và Phật Thuyết Như Vậy 38 (Itivuttaka), cũng như mười
câu hỏi không trả lời (abyaakata).
Giáo sư R. E. A. Johansson đã trình bày bốn luận
điểm chính của lối giải thích mang tính siêu nhiên về niết-bàn và đã tuần tự
phủ bác chúng. Luận điểm thứ nhất là giải định cho rằng con người không thể
tiếp cận được bất kỳ cái gì siêu việt mà không phải phát triển một giác quan
đặc biệt cho mục tiêu này. Johansson lý luận rằng không có một bằng chứng nào
trong kinh điển đề cập đến một giác quan đặc biệt hay một khả năng huyền học.
Do đó cái gọi là thực thể siêu hình của niết-bàn là không có
cơ sở để đứng vững. Luận điểm thứ hai nhấn mạnh về bản chất không thể mô tả và
tư duy được của tuyệt đối và các hình thức kinh nghiệm tuyệt đối bằng huyền
học. Johansson nhấn mạnh bản chất thâm áo của niết-bàn dù là khó nắm bắt
được nhưng cũng không vì thế mà niết-bàn mang thuộc tính
siêu hình học. Luận điểm thứ ba là do các mô tả phủ định về niết-bàn các nhà giải thích
đã cố gắng nhìn nhận phương diện tuyệt đối của niết-bàn. Theo Johansson, các
mô tả phủ định về niết-bàn là nhằm chỉ ra
trạng thái lý tưởng của niết-bàn như là sự trạng
thái toàn thiện về đạo đức hay trạng thái ý thức về trí tuệ và sự xả chấp cao
cấp. Luận điểm thứ tư là sự lẫn lộn về cách đọc nội dung của đoạn mô tả nội
dung của niết-bàn ở kinh Cảm Hứng Ngữ 80 (Udaana). Một trong các
lỗn lận dó là sự đánh đồng trạng thái diệt tận cảm giác và nhận thức (sa~n~naavedayitanirodha, diệt
thọ tưởng đinh) với niết-bàn,[73]chỉ vì niết-bàn cũng vắng mặt hoạt
động của cảm giác và nhận thức.
Giáo sư Kulupahana tin rằng những gì được đề cập
trong đoạn kinh Cảm Hứng Ngữ không phải cái gọi
là các đặc tính siêu việt của niết-bàn. Đúng hơn là nhằm
chỉ ra tính chất đối nghịch của niết-bàn với luân hồi (sa'msaara).[74] Theo
Kalupahana, các nỗ lực và luận điểm giải thích niết-bàn dưới góc độ chủ
nghĩa siêu nhiên trong ngữ cảnh của Phật giáo nguyên thủy đều tỏ ra sai lầm và
thiếu tương thích.[75] Ông cũng bất đồng với các lối giải thích mang tính chất
của một ý thức siêu việt có thể nhận chân được bằng tư duy logic, như giáo sư
E. Conze đã cố gắng chứng minh.[76] Tiến sĩ A. Tilakaratne cho rằng nếu
phi-siêu-nhiên không phải là đặc tính trọng tâm của niết-bàn thì Phật giáo sẽ
trở nên đồng hóa với Ấn Độ giáo, một tôn giáo tin vào tính siêu nhiên của Phạm
Thiên (Brahman), dù tính hiện hữu của Phạm Thiên đó là bất thật và cũng chưa
từng có ai đã từng thấy biết được mặt mủi thật của Phạm Thiên. Theo
Tilakaratne, cả hai lối giải thích niết-bàn là siêu nhiên
hay niết-bàn là đoạn diệt đều là
triệu chứng của cơn bệnh vốn chỉ có thể chữa lành với sự chứng đạt được niết-bàn. Ông kết luận rằng:
Kinh nghiệm về niết-bàn không thể là kết
quả của siêu nhiên hoá cái thực tại thông thường của thế giới. Nó càng không
thể phát sanh từ một Thượng đế siêu nhiên. Nó cũng không dẫn con người đến cái
siêu nhiên. Sự loại trừ các khả tính này cho thấy rằng, trên nguyên tắc, niết-bàn không thể liên hệ
đến một loại kiến thức không diễn tả được, thông thường gắn liền với các hình
thái khác của kinh nghiệm tôn giáo. Điều này có nghĩa là kinh nghiệm tôn giáo
của đạo Phật không thể thay thế bằng định đề bất khả biểu đạt và ngôn dụ.[77]
Đối với giáo sư Y. Karunadasa, các giải thích
siêu nhiên về niết-bàn có thể đã bắt rễ từ
đức tin tôn giáo về một thực tại siêu nhiên và nội tại, cũng như đức tin tôn
giáo đó được các học giả ủng hộ các kinh nghiệm tôn giáo siêu nhiên, mang cấy
vào đạo Phật, một đạo vốn không hề biểu đồng tình với kinh nghiệm siêu nhiên đó.[78]
Karunadasa đã lý luận rằng nếu có một khái niệm "siêu nhiên" trong
Phật giáo nguyên thủy thì khái niệm đó đã có thể ám chỉ cho thế giới (loka), hay nói khác hơn
sự siêu nhiên của thế giới,[79] hay nhóm nhân tính tâm vật lý (pa~ncakkhandhaa, ngũ uẩn), đồng thời cũng
ám chỉ cho sự chấm dứt toàn bộ tiến trình của duyên (pa.ticca-samuppaada).[80]
Trên thực tế, vị trí của người giác ngộ sau khi
từ bỏ xác thân, theo đức Phật, không thể được mô tả bằng ngôn từ của chủ nghĩa
thường hằng (sassatavaada) hay chủ nghĩa
đoạn diệt (ucchedavaada). Mô tả về bậc
giác ngộ sau khi chết từ phương diện hiện hữu (hoti) sẽ có thể dẫn tới
sự đồng hóa về phương diện siêu hình bậc giác ngộ với nhóm nhân tính tâm vật
lý, mà vốn các ngài đã thoát khỏi chúng. Đồng thời cách giải thích cũng còn dẫn
đến chủ nghĩa thường hằng luận. Trong khi đó, diễn tả niết-bàn dưới góc độ phi
hiện hữu (na hoti), mặt khác, sẽ dẫn
đến sự đồng hóa về phương diện vật lý bậc giác ngộ với thân thể (ruupa), và do đó dẫn đến
chủ nghĩa đoạn diệt luận. Nếu cả hai phương thức lý giải trên đều không thích
hợp thì sự lý giải bao gồm cả hai hiện hữu và phi hiện hữu (hoti ca na hoti ca) cũng như phủ định
của cả hai (neva hoti na na hoti) cũng trở nên
không có cơ sở để thiết lập hay tồn tại. Cần lưu ý rằng đức Phật không hề im
lặng về bốn định đề có, không, vừa có vừa không và chẳng phải có chẳng phải
không này. Câu trả lời của ngài về bốn định đề này là "cả bốn trường hợp
đều không thích ứng (na upeti),[81] bắt luận câu
hỏi có mặt hay không. Một khi câu hỏi đã không thích ứng thì câu trả lời sẽ trở
nên vô nghĩa. Đó là điều được nói về Như Lai, một bậc không thể hiểu biết được
(na upalabbhati) bằng chân lý hay thực tại (saccato thetato
anupalabbhiyamaane).[82]
V. NIẾT-BÀN KHI CÒN SỐNG
Có hai hình thái của bậc giác ngộ, đó là, trong
lúc còn sống và sau khi chết. Do đó, niết-bàn cũng được đề cập
đến dưới hai hình thái (dhaatu),[83] đó là, niết-bàn khi còn sống (kilesa-(pari)-nibbaana, hữu dư
y niết-bàn)[84] hay còn gọi là sa-upaadi-sesa-nibbaana/ upaadi-sesa-(pari)-nibbaana[85] và niết-bàn sau khi chết (khandha-(pari)-nibbaana)[86] hay còn gọi
là an-upadi-sesa-(pari)-nibbaana.[87] Trước nhất
chúng ta hãy thảo luận về bản chất của niết-bàn ngay khi còn sống.
Thế nào là niết-bàn khi còn sống? Ở đây
một bậc A-la-hán đã diệt sạch các lậu hoặc của tâm (khiinaasavo), đã sống cuộc đời
thánh thiện, hoàn tất những gì cần làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được
đích đến, chặt đứt hoàn toàn các trói buộc của tái hiện hữu, giải thoát bằng
trí tuệ (sammappa~n~naa vimutto). Ở vị ấy, năm
giác quan vẫn còn. Do còn các giác quan, vị ấy vẫn còn phải kinh nghiệm qua các
cảm giác, khổ hay hạnh phúc, thích hay không thích. Ở vị ấy tham ái (raaga), sân hận (dosa) và vô minh (moha) đã chấm dứt.
Đó là những gì được gọi là niết-bàn khi còn sống. [88]
Theo nội dung của đoạn kinh trên, niết-bàn khi còn sống được
hiểu là trạng thái của vị A-la-hán đang còn sống; năm nhóm nhân tính tâm vật lý
vẫn còn tồn tại trong suốt khoảng thời gian từ lúc giác ngộ cho đến lúc nhắm
mắt lìa đời, không còn trải qua đời sống tái sanh nữa. Bậc giác ngộ như vậy không thể bị đồng hóa với
hay tách rời khỏi năm nhóm nhân tính tâm vật lý, dù là cá thể hay tập thể.[89]
Khi còn sống, do hoạt lực của nghiệp trong quá khứ phối hợp với các giác quan
và các nhóm nhân tính, các tiến trình tâm vật lý của vị ấy vẫn phải còn hoạt
động, cho đến khi vị ấy lìa khỏi cõi đời. Nhưng nhờ sự chấm dứt toàn bộ các
dòng chảy của các lậu hoặc tâm và các trói buộc tái hiện hữu, bậc giác ngộ
không còn phải tái sanh nữa. Nói cách khác, một vị A-la-hán với niết-bàn ngay lúc còn sống
là người đã chặt đứt các gốc rễ các của tham ái (raaga), sân hận (dosa), vô minh (moha), và giải thoát
khỏi luân hồi, bằng trí tuệ ngay trong cuộc sống hiện tại này.
Ngoài ra, có bốn đoạn kinh mô tả về bản chất của niết-bàn (nibbaana-patisa'myuttaaya
kathaaya), được ghi chép trong Cảm Hứng Ngữ 80 (Udaana), thường được phần
lớn các học giả trích dẫn và bình luận khi đề cập đến niết-bàn. Điều quan trọng cần
ghi nhận ở đây là cả bốn đoạn văn đều không đề cập đến tình trạng sau khi chết
của bậc đã giác ngộ, mà chỉ đề cập đến bản chất niết-bàn ngay trong đời sống
hiện tại này.[90]
Mô tả thứ nhất của Cảm Hứng Ngữ về bản chất Niết-bàn
Đoạn mô tả thứ nhất trong Cảm Hứng Ngữ về bản chất
của niết-bàn như sau:
Có (atthi) một cảnh giới (aayatana) nơi đó không có
đất, nước, lửa, gió, không có không vô biên xứ, không có thức vô biên xứ, không
có phi tưởng phi phi tưởng xứ, không có thế giới này và thế giới bên kia hay cả
hai; không có mặt trời, không có mặt trăng. Đây là điều ta gọi là giải thoát
khỏi đến (aagati'm) và đi (gati'm), khỏi hình thành
và phát triển (.thiti'm) và hoại diệt (cuti'm); không có bắt đầu
(upapatti'm) không có hình thành; không có kết quả và không
có nguyên nhân. Đó thật ra là sự chấm dứt của đau khổ.[91]
Theo quy luật nhân quả, cái gì có điều kiện hay
duyên khởi thì cái đó được tạo nên bởi cái khác. Cái khác đó lại được tạo nên
bởi các khác với nó nữa. Như vậy trong chuổi tiến trình tương thuộc nhân quả
không thể truy nguồn ra được nguyên nhân khởi thủy, bởi lẽ rất đơn giản, nguyên
nhân khởi thuỷ không thể hiện hữu trong thực tế khác quan. Khác hẳn với các
hiện hữu nhân quả tương thuộc, niết-bàn được định nghĩa là
không duyên khởi, vô vi, và do vậy niết-bàn không do bất cứ cái
gì hình thành nên. Ở đây niết-bàn được đặc tính hoá
với "sự chấm dứt của khối đau khổ" (anto dukkhassa), cái không thể bị
đồng hóa với bất kỳ một cái nào của mười hai hiện hữu tương thuộc, bao gồm, bốn
yếu tố của vật chất (mahaabhuuta-ruupa), bốn cảnh thiền
vô sắc giới (aruupaloka), thế giới này (loka), thế giới bên kia
(paraloka), mặt trời (suriya), và mặt trăng (canda), bởi vì các hiện
hữu thuộc tính này mang tính duyên khởi và công cụ của những cái tương thuộc
khác (conditioned and instrumental by inter-others). Nói cách khác,
sự vắng mặt của các yếu tố vật lý và các cảnh giới vô sắc ở đây ám chỉ sự vắng
mặt của tâm vật lý hay nhóm nhân tính trong niết-bàn. Cái gọi là cảnh
giới (aayatana) của niết-bàn không phải là cảnh
giới theo nghĩa đen hay ngôn ngữ học của từ, như trong trường hợp của mười hai
hiện hữu tương thuộc được nêu ra bên trên. Nó là cảnh giới "nội tại"
của tâm thanh tịnh, nơi mà các sự kiện và giá trị của thế giới khách quan không
còn bóng dáng, hay nơi mà các kinh nghiệm giác quan của thế giới chủ thể không
thể tiếp xúc được; nơi mà sanh, già, chết, tái sanh và đau khổ không có chân
đứng; và nơi mà chỉ có sự an tĩnh siêu việt thời gian (akaaliko) trong sự vắng mặt
hoàn toàn khổ đau, ngự trị. Nếu đây là những gì được hiểu về niết-bàn thì niết-bàn không thể được tạo
nên bởi bất kỳ sự vật hay chủ thể nào trong thế giới vật chất (ruupaloka) này, chẳng hạn
như, đất (pa.thavi), nước (aapa), lửa (teja) và gió (vaaya), cũng không thể
được tạo nên bởi bất cứ vật gì trong thế giới vô sắc (aruupaloka), như cảnh giới
không vô biên xứ (AAkaasaana~ncaayatana), thức vô biên xứ
(Vi~n~naa.na~ncaayatana), vô sở hữu xứ (AAki~nca~n~naayatana) và cảnh giới phi
tưởng phi phi tưởng xứ (Nevasa~n~naanaasa~n~naayatana). Khi đạt đến được
sự chấm dứt đau khổ (anto dukkhassa) thông qua sự diệt
trừ tham ái (ta.nhaakkhaya), hành giả đạt
được niết-bàn, thoát khỏi mọi trở
ngại của thế giới này (loka) hay thế giới bên
kia (paraloka), chẳng hạn như
ngày và đêm, sống và chết, đến và đi, v.v. . . Vị ấy sẽ hoàn toàn giải thoát
khỏi các sợ hãi (akutobhaya).[92] Nói cách
khác, niết-bàn không thể được tạo
ra bởi các công cụ, thiết bị, nguyên nhân, điều kiện, mặc dù không có các trợ
duyên thích hợp, con người không thể chứng đạt niết-bàn. Điều này được HT.
W. Rahula trình bày trong quyển sách nổi tiếng, Những Gì Phật Dạy (What the Buddha Taught):
Thật là sai lầm khi cho rằng niết-bàn là kết quả tự nhiên
của sự chấm dứt tham ái. Niết-bàn không phải là kết
quả của bất kỳ cái gì. Nếu niết-bàn là kết quả thì buộc
phải có một nhân được tạo ra. Như vậy niết-bàn sẽ trở thành hữu vi
(samkhata), mang tính chất duyên khởi và bị tạo ra. Niết-bàn không phải là nhân
mà cũng không phải là quả. Niết-bàn vượt khỏi nhân và
quả. Điều duy nhất mà bạn cần phải làm là nhận chân nó. Mặc dù có con đường để
dẫn đến niết-bàn nhưng niết-bàn không phải là kết
quả của con đường. Bạn có thể đến được núi do lần theo con đường nhưng núi
không phải là kết quả của con đường. Bạn có thể thấy được ánh sáng nhưng ánh
sáng không phải là kết quả của sự thấy của con mắt.[93]
Mô tả thứ hai của Cảm Hứng Ngữ về Niết-bàn
Đoạn kinh thứ hai trong Cảm Hứng Ngữ 80mô tả về niết-bàn là một đoạn rất cô
đọng nhưng chứa đựng biểu đạt về bản chất của niết-bàn và mối liên hệ của
nó với tính không thực thể (vô ngã) cũng như con
đường dẫn đến sự chứng đạt niết-bàn.Đặt trọng tâm vào
tham ái và nguồn gốc của đau khổ, trên thực tế đoạn kinh đã đề cập đến bốn chân
lý cao thượng:
Sự nhận chân tính không thực the[94] [cuả mọi hiện
hữu] quả thật là khó. Chân lý cũng không
phải dễ dàng để nhận ra. Tham ái được tuệ tri đối với người tuệ giác và không
còn gì vướng mắc đối với người đã thấy được [chân lý niết-bàn]. [95]
Nội dung của đoạn văn trên sẽ không rõ rãng nếu
ta tách rời chúng khỏi đoạn mô tả thứ nhất trong Cảm Hứng Ngữ về bản chất của niết-bàn. Trên thực tế đoạn
mô tả thứ hai này là giải thích phụ thuộc cho đoạn mô tả thứ nhất. Trong hai
câu đầu tiên, khái niệm "không thực thể" của mọi hiện hữu và
"chân lý" là ám chỉ cho niết-bàn. Câu thứ ba xác định
rằng một khi tuệ tri được bản chất của tham ái, chân lý thứ hai về nguồn gốc
của đau khổ, con người có thể tuệ tri ba chân lý còn lại, đó là sự thật về hiện
thực đau khổ, sự thật về trạng thái chấm dứt đau khổ và con đường thoát khổ.
Khái niệm "không còn" trong câu cuối không nên được đánh đồng với
"cái không còn gì" (nothingness) hay "cái phi
hiện hữu" (non-existence), bởi lẽ sự đánh
đồng như vậy sẽ dẫn đến lối giải thích ngộ nhận cho rằng niết-bàn là đoạn diệt.
"Không còn gì" ở đây phải được đọc theo cách chua "không còn gì
vướng mắc" hay không còn gì của bóng dáng tham ái và khổ đau, bởi lẽ, đối
với người đã chứng đạt được niết-bàn, tất cả gốc rễ của
tham ái và chấp mắc đã hoàn toàn được nhổ sạch, đã đến đích của sự chấm dứt đau
khổ.
Nếu cách đọc văn bản trên là chính xác thì đoạn
văn mô tả đó có thể được trình bày một cách dễ hiểu như sau: "Sự chứng đạt niết-bàn thật là khó, cũng
giống như sự tuệ tri được bản chất không thực thể trong mọi hiện hữu. Đối với
người đã chứng đạt niết-bàn, tham ái đã được
chặn đứng và do đó, không còn lại một tí gì của tham ái hay đau khổ."
Nói cách khác sự chứng đạt niết-bàn vô cùng khó, không
chỉ bởi bản chất siêu việt thời gian và không gian của niết-bàn mà còn ở sự khó
khăn trong việc đạt được sự chấm dứt toàn bộ khối tham ái khỏi thế giới kinh
nghiệm của tiếp xúc và cảm giác. Một khi làm chủ và diệt sạch được mấu chốt
tiếp xúc-cảm giác và tham ái thì sự chứng đạt niết-bàn sẽ lập tức hiển
hiện.
Một cách đọc khác về đoạn mô tả thứ hai có thể là
"nếu có một thuộc tính của niết-bàn thì thuộc tính đó
là tính không thực thể (vô ngã, anatta). Niết-bàn là vô ngã. Chân lý
này thật là khó để nhận chân. Cách duy nhất để nhận chân là phải làm chủ và
diệt sạch tham ái, nguyên nhân của đau khổ và luân hồi. Đối với người đã làm
chủ và diệt sạch chúng thì không có gì là khó khăn cả." Nếu cách đọc như
trên được chấp nhận thì nội dung của nó sẽ đặt trọng tâm vào con đường dẫn đến
sự chứng đạt niết-bàn, cái được mô tả
trong đoạn Cảm Hứng Ngữ thứ nhất như là một
cảnh giới siêu việt không gian và thời gian, thế giới này, thế giới bên kia,
thế giới hình thể, thế giới vô hình thể của thiền định. Con đường (chân lý thứ
thư) dẫn đến trạng thái chấm dứt toàn bộ khổ đau tức niết-bàn (chân lý thứ ba)
nằm ở sự chấm dứt toàn bộ khối tham ái (chân lý thứ hai) và sự tuệ tri được
tính không thực thể trong mọi hiện hữu dù là tương thuộc nhân quả hay không.
Mô tả thứ ba của Cảm Hứng Ngữ về Niết-bàn
Đây là đoạn kinh được trích dẫn nhiều nhất, khi
các nhà Phật học diễn tả về bản chất của niết-bàn:
Này các tỳ-kheo, có một thứ hiện hữu vốn không
được sinh ra (ajaata'm), không bị trở
thành (abhuuta'm), không được tác
tạo (akata'm), không bị điều
kiện hóa (asa"nkhata'm). Này các tỳ-kheo,
nếu cái không được sanh ra, không bị trở thành, không được tác tạo và không bị
điều kiện hóa đó mà không có hiện hữu thì rõ ràng là sẽ không có sự giải thoát
khỏi cái được sinh ra, bị trở thành, được tạo nên và bị điều kiện hóa, như
chúng ta từng chứng kiến. Nhưng này các tỳ-kheo, do vì từng có sự hiện hữu của
cái không được sanh ra, không bị trở thành, không được tác tạo và không bị điều
kiện hóa, nên con đường thoát khỏi cái cái được sinh ra, bị trở thành, được tạo
nên và bị điều kiện hóa sẽ được biết đến.[96]
Nếu đau khổ (dukkha) được điều kiện
hóa bằng tiến trình của duyên khởi tương thuộc (pa.ticca-samuppaada), thì niết-bàn, sự chấm dứt khổ
đau, là phi điều kiện hóa (asa"nkhata'm). Nói khác đi,
trong niết-bàn, không có tính điều
kiện, tiến trình của tính điều kiện, các sự vật mang tính điều kiện về thời
gian và không gian không thể hiện hữu trong niết-bàn. Đặc tính vô sanh
của niết-bàn chỉ ra rằng niết-bàn thoát khỏi ngoại
diên của thời gian. Niết-bàn siêu việt tính thời
gian (akaaliko) hay vượt khỏi
ranh giới của quá khứ, hiện tại và vị lai. Sự sanh khởi và chấm dứt của các
hiện hữu có điều kiện (the conditioned existents) luôn liên hệ với
thời gian, bắt đầu bằng thời gian và kết thúc với thời gian. Trái lại, niết-bàn không có liên hệ gì
với thời gian. Niết-bàn không có bắt đầu,
do đó, không có sự sanh khởi trong niết-bàn. Niết-bàn thoát khỏi sự sanh
khởi, vắng mặt sự sanh khởi. Sự sanh khởi của các hiện hữu điều kiện tương
thuộc, trong đó, năm nhóm nhân tính tâm vật lý là một, luôn trong tiến trình
chuyển hóa nhân quả tương tục. Khác với năm nhóm nhân tính, niết-bàn không còn phải bị
vướng mắc vào sanh khởi.
Với tính chất không bị sinh ra hay vô sanh (abhuuta'm), niết-bàn không phải trải qua
các giai đoạn trưởng thành, già nua và chết đi, như bao nhiên hiện hữu tương
thuộc khác. Như một quy luật, cái gì được sanh ra, cái đó phải trở thành. Niết-bàn không được sanh ra
từ cái gì, do đó, niết-bàn sẽ không bị trở
thành cái gì. Không có các hoạt động xây dựng hay hình thành trong niết-bàn. Hơn hết, trong niết-bàn không còn mặt mủi
của các hoạt động tác tạo đó. Niết-bàn không phải là cái
gì đó được hình thành, được cấu tạo nên. Niết-bàn thoát khỏi tính tạo
dựng (akata). Nói cách khác, nếu niết-bàn không phải là những
cái được sanh ra, bị trở thành, thì dĩ nhiên rằng niết-bàn là cái không được
tạo nên từ bất cứ vật gì, chủ thể nào. Theo ý nghĩa này, một vị A-la-hán là
người đã tuệ tri được sự chấm dứt của các tương thuộc tính và là bậc tuệ tri
được niết-bàn.[97]
Cả ba đặc tính của niết-bàn như vừa được trình
bày sẽ tạo nên một đặc tính quan trọng đó là tính phi điều kiện hóa (asa"nkhata). Đặc tính phi
điều kiện hóa (asa"nkhata) của niết-bàn có nghĩa là niết-bàn không phải là cái
được đưa vào hiện hữu từ bất kỳ điều kiện nào, cũng như nó không được nuôi
dưỡng từ các hiện hữu mang tính điều kiện. Sở dĩ như vậy là vì trong đặc tính
không bị sanh ra, không bị trở thành, không được tạo nên, niết-bàn phải là cái không
thuộc tính kiều kiện, hay sự chấm dứt của vòng luân hồi và các hoạt động tạo
dựng của chúng.
Điều quan trọng cần lưu tâm là đoạn mô tả thứ ba
trong Cảm Hứng Ngữ về bản chất của niết-bàn đóng vai trò như
một luận điểm minh chứng cho sự hiện hữu của niết-bàn thông qua tính khả
thể-thực tại của sự thoát khỏi vòng luân hồi. Luận chứng này có thể được trình
bày dưới cấu trúc sau đây: (i) niết-bàn thật sự có hiện
hữu, (ii) Nếu niết-bàn vốn không có hiện
hữu thì đã không có con đường thoát khỏi luân hồi từ trước đến giờ, (iii) do vì
có sự hiện hữu của niết-bàn nên cũng phải có
con đường thoát khỏi luân hồi. Định đề (i) nhằm
xác quyết về sự hiện hữu của niết-bàn. Định đề (ii) như là
bằng chứng cho sự hiện hữu của niết-bàn. Định đề (iii) là sự
tái xác định về sự hiện hữu của niết-bàn từ hai định
đề (i) và (ii). Trong tổng thể của luận chứng, bản chất của niết-bàn được mô tả bằng các
thuật từ vô sanh (ajaata'm), không bị trở
thành (abhuuta'm), không được tạo
nên (akata'm) và không bị điều
kiện hóa (asa"nkhata'm), vốn là sự chuyển
hóa toàn diện của các hiện hữu tương thuộc nhân quả, những thứ được sanh ra, bị
trở thành, được tạo dựng nên và bị điều kiện hóa.
Mô tả thứ tư của Cảm Hứng Ngữ về Niết-bàn
Đoạn mô tả thứ tư cũng không kém phần quan trọng:
Đối với người còn chấp mắc sẽ có tính không vững
vàng. Đối với người không còn vướng mắc, sự không vững đó sẽ không còn. Một khi
sự không vững vàng không thì sự an tịnh sẽ hiện hữu. Khi có sự an tịnh sẽ không
có đam mê. Khi không còn đam mê, sẽ không còn sự đến và đi [trong luân hồi].
Khi không còn đến và đi thì không còn chết và tái sanh. Khi không còn chết và
tái sanh thì không còn đời này, đời sau và sự chuyển tiếp giữa chúng. Đó thật
sự là sự chấm dứt của đau khổ.[98]
Theo sau luận điểm chứng minh sự hiện hữu thật
của niết-bàn trong đoạn mô tả
trướ飬 đoạn mô tả này chỉ ra còn đường dẫn đến niết-bàn. Như là sự tất yếu của
chuổi liên nhân, sự mô tả về con đường dẫn đến niết-bàn bắt đầu từ vấn đề
chấp mắc và kết thúc với sự chấm dứt khối đau khổ, hay niết-bàn. Nó nhằm chỉ ra rằng
sự chấm dứt của khối đau khổ hay sự chứng đạt niết-bàn chỉ có thể hoàn
thành được bằng "không chấp mắc" hay giải thoát mình khỏi vướng mắc.
Sự không vướng mắc dẫn đến sự an tịnh (tranquillity) không đam mê (no-delight) không đến không
đi (no-coming-and-going) chết đi và tái
sanh (dying-and-being-reborn) không còn đời này
đời sau và sự chuyển tiếp giữa chúng (no-here-and-no-there-and-in-between). Nói khác đi,
giải thoát khỏi chấp mắc sẽ làm cho giải thoát khỏi đau khổ trở nên hiện thực.
Đây là con đường khẳng định dẫn đến niết-bàn, sự chấm dứt toàn bộ
khối đau khổ.
Nói tóm lại, cả bốn đoạn mô tả trong Cảm Hứng Ngữ về bản chất của niết-bàn khi còn sống trở
nên quan trọng và hỗ tương cho nhau trong việc xác quyết về trạng thái thật của niết-bàn và con đường dẫn
đến niết-bàn. Đoạn mô tả thứ nhất
là một sự khẳng định về trạng thái niết-bàn siêu việt khỏi ranh
giới của thời gian và không gian. Mô tả bản chất của niết-bàn bằng cách vận dụng
lối mô tả tương phản với cuộc sống trong luân hồi và cuộc sống trong niết-bàn là cách tốt nhất để
giúp cho người đọc hiểu được niết-bàn. Nếu thế giới vật
chất (ruupa-loka) của luân hồi mang
tính duyên khởi tương thuộc và được hình thành bởi các yếu tố đất, nước, lửa,
gió, liên hệ với thời gian, phải chịu sự hành thành, trở thành, biến hoại và ra
đi; thế giới vô hình thể (aruupaloka) cũng không tốt
hơn gì. Chính niết-bàn vốn vượt khỏi các
điều kiện đó không còn phải chịu sự chi phối của bắt đầu và hình thành. Niết-bàn không phải là kết
quả của bất cứ cái gì trong thế giới nhân quả duyên khởi tương thuộc. Niết-bàn là sự chấm dứt của
đau khổ.
Đoạn mô tả thứ hai nhằm chỉ ra con đường dẫn đến
sự chấm dứt đau khổ. Con đường ở đây được mô tả một cách đơn giản như là sự tuệ
tri về tính không thực thể của các hiện hữu (anatta) trong thế giới
này và thế giới bên kia, và đây cũng chính là con đường dẫn đến sự đoạn diệt
tất cả tham ái, nguyên nhân của đau khổ. Chân lý đơn giản nhưng hiệu quả này
thật là khó nhận chân được.
Đoạn mô tả thứ ba là sự tái xác định của đoạn mô
tả thứ nhất, và giới thiệu thêm vài đặc tính của niết-bàn như là vô sanh (ajaata), không bị trở
thành (abhuuta), không được tạo
tác nên (akata) và không bị điều kiện hóa,
hay thoát khỏi mọi điều kiện tương thuộc (asa"nkhata). Ngoài ra, nó còn
đóng vai trò của một luận điểm nhằm minh chứng cho sự hiện hữu thật của niết-bàn song song với sự
hiện hữu của luân hồi. Rất có thể các nhà Phật học Đại thừa đã vận dụng nội
dung này để khẳng định rằng niết-bàn không khác luân
hồi, niết-bàn và luân hồi bất
nhất và bất nhị. Nói khác đi, bất cứ nơi nào có mặt luân hồi, nơi có sự hiện
hữu của niết-bàn. Đau khổ và sự
chấm dứt đau khổ không thể tách rời nhau.
Đoạn mô tả thứ tư là sự tái xác quyết cho đoạn mô
tả thứ hai, nhằm chỉ ra con đường dẫn đến niết-bàn. Con đường đó như là
chuổi nhân quả của sự chuyển hoá, bắt đầu từ việc nhận chân được sự nguy hiểm
của chấp mắc, tiến tới không chấp mắc an tịnh không đam mê không tái sanh và
chấm dứt ở sự giải thoát khỏi khối khổ đau.
Tất cả các mô tả này cho thấy rằng niết-bàn chỉ có thể chứng
đạt được khi có sự chuyển hóa tâm một cách trọn vẹn từ những trạng thái bất
thiện đến sự diệt tận các dòng chảy lậu hoặc của tâm. Sức mạnh của bốn đoạn mô
tả về niết-bàn trong Cảm Hứng Ngữ nằm ở việc vận dụng
hai chân lý thứ ba và thứ tư để khẳng định nhiều lần tính khả thể chứng đạt niết-bàn ngay trong đời sống
hiện tại này, nếu con người có quyết tâm cao độ và đi đúng con đường.
VI. NIẾT-BÀN SAU KHI CHẾT
Phương diện của niết-bàn thường gây
tranh luận và bị hiểu lầm nhiều nhất là vị trí sau khi chết(parammara.naa) của bậc đã giác
ngộ. Bản chất của bậc giác ngộ và chứng đạt niết-bàn sau khi chết hay vô
dư y niết-bàn được đề cập rõ
trong một đoạn kinh Phật Nói Như Vậy 38 (Itivuttaka):
Thế nào là niết-bàn vô dư y? Ở đây, một
vị A-la-hán đã diệt sạch các dòng lậu hoặc và phiền não (khiinaasavo), đã sống hoàn
thành đời sống thánh thiện, thực hiện hoàn mãn các điều cần làm, đã đặt gánh
nặng xuống, đã chứng đạt mục đích, chấm dứt được các trói buộc của tái hiện
hữu, giải thoát bằng trí tuệ. Ở vị a-la-hán như vậy, trong đời sống này, tất cả các
cảm giác không còn tham luyến nữa, đã hoàn toàn bị dập tắt. Đây gọi là niết-bàn vô dư y.[99]
Theo đoạn mô tả này, một bậc giác ngộ sau khi xả
bỏ thân xác không còn phải chịu cảnh trở thành hay tái hiện hữu, vì tất cả các
cảm giác hay kinh nghiệm giác quan (vedayitaani) đã hoàn toàn dừng
nghỉ (siitibhuutaani). Ở đây do sự dừng
nghỉ hoàn toàn của các kinh nghiệm giác quan, bậc giác ngộ sau khi chết thật sự
giải thoát khỏi đau khổ dưới ba hình thái của nó, đó là, j đau khổ vật lý (dukkha-dukkhataa, khổ khổ), k đau khổ do thay đổi
ngược chiều của sự vật (vipari.naama-dukkhataa, hoại khổ), và l đau khổ do các
thay đổi tâm lý gây ra (sa"nkhaara-dukkhataa, hành khổ).[100] Trong khi
đó, đối với vị giác ngộ lúc còn sống, vị ấy đã thoát khỏi các đau khổ do các
thay đổi tâm lý gây ra,[101] mặc dù còn phải chịu đựng các đau khổ thuộc dạng
vật lý và do thay đổi ngược chiều của sự vật mang lại, vì các hoạt động giác
quan và năm nhóm nhân tính của vị ấy vẫn còn hoạt động cho đến lúc tắt thở.[102]
Trong khi thảo luận về niết-bàn như là sự chấm dứt
của luân hồi, kết luận đạt đến thường là bậc giác ngộ không còn phải bị chi
phối của sự tái sanh trong tương lai, do bậc giác ngộ đã chấm dứt hoàn toàn
tham ái (ta.nhaa), chấp mắc (upaadaana) và vô minh (avijjaa), những chất liệu
của sanh tử. Một câu hỏi thú vị thường được hỏi trong trường hợp này là:
"đâu là tình trạng sau khi chết (parammara.naa) của một bậc đã
giác ngộ, Như Lai hay một vị A-la-hán?" Có ba cách trả lời cho câu hỏi trên:
Đoạn diệt hẳn.
Có sự tiếp nối hiện hữu, cùng một hình thái hay
khác hình thái.
Bậc giác ngộ sau khi chết vượt khỏi mọi nạn vấn.
Câu trả lời đầu thường được tìm thấy trong những
ai không chấp nhận có tính tương tục của sự không thực thể (vô ngã) như là đặc
điểm thuộc tính của mọi thực tại và hiện hữu. Lối tiếp cận này thường dẫn đến
cách giải thích niết-bàn là đoạn diệt mất,
như chúng ta đã có dịp nói qua trong phần đầu của bài viết.[103] Đối lập với
câu trả lời thứ nhất, câu trả lời thứ hai dẫn đến cách giải thích niết-bàn dưới gốc độ thường
kiến luận,[104] một cách giải thích cũng không kém phần nguy hại. Đây là cách
giải thích của phần lớn những ai được đào tạo trong truyền thống Áo Nghĩa Thư, hoặc bất kỳ
truyền thống nào tin vào một linh hồn bất tử và thường hằng bất biến sau khi
chết. Lối giải thích thứ ba xem ra là sự lựa chọn tốt hơn, nhưng lại dẫn đến
cách lý giải niết-bàn dưới góc độ siêu
nhiên luận, vượt khỏi mọi kinh nghiệm và mô tả của ngôn từ.
Thật ra, câu hỏi trên đã từ xa xưa trở thành chủ
đề của nhiều cuộc đàm đạo giữa đức Phật và các nhà tôn giáo và triết học cùng
thời với ngài, và thậm chí cũng là đề tài thảo luận trong số quần chúng Phật tử
thời bấy giờ. Một trong các cuộc đàm đạo về
vấn đề này được ghi lại trong bài kinh dụ ngôn về lửa[105] thuộc Tuyển tập các
bài kinh trung bình (Majjhima-Nikaaya, Trung Bộ Kinh). Bài kinh bắt đầu
bằng mười câu hỏi của Vacchagotta và thường được biết đến là những câu hỏi
không được đức Phật trả lời (avyaakata // avyaak.rta) bởi vì chúng vô
nghĩa về phương diện nhận thức luận và không thích ứng với mối quan tâm của
ngài về đau khổ của nhân sinh và sự chấm dứt chúng, về phương diện đạo đức thực
tiễn.[106] Bốn câu hỏi đầu liên hệ đến các ý niệm siêu hình về thế giới (thế
giới này là thường hằng, không thường hằng, vừa thường hằng vừa không thường
hằng, chẳng thường hằng chẳng phải không thường hằng). Hai câu hỏi kế liên hệ
đến bản ngã (linh hồn đồng nhất với thân thể hay khác biệt với thân thể). Bốn
câu hỏi còn lại đề cập đến tình trạng sau khi chết của Như Lai, đó là:
1. Như Lai tồn tại sau khi chết (Hoti Tathaagato parammara.naa).
2. Như Lai không tồn tại sau khi chết (Na hoti Tathaagato
parammara.naa).
3. Như Lai vừa tồn tại vừa không tồn tại sau khi
chết (Hoti ca na ca hoti Tathaagato parammara.naa).
4. Như Lai chẳng phải tồn tại chẳng phải không
tồn tại sau khi chết (N’eva hoti na na hoti Tathaagato parammara.naa).[107]
Câu trả lời của đức Phật đối với các câu hỏi
không trả lời này là "tất cả chúng đều ‘không thích hợp’ (na upeti) với tình trạng
của bậc giác ngộ sau khi chết." Thái độ cho rằng cần phải có hiện hữu (hoti), hay không hiện
hữu (na hoti), hay vừa hiện hữu
vừa không hiện hữu (hoti ca na hoti ca) hoặc chẳng phải
hiện hữu chẳng phải phi hiện hữu (neva hoti na na hoti) thường được bám
rễ trong tham ái, dù là cho sự bất tử của năm nhóm nhân tính hay sự chấm dứt
nó, hay bao gồm cả hai, hay loại trừ cả hai.[108] Đức Phật đã nhổ lên tận gốc
tham ái như vậy. Do đó, không khó khăn gì, ngài nhìn thấy được sự vô ích, vô
nghĩa và không thích ứng của các các hỏi đó. Dù sao chăng nữa, điều này đã
không làm cho Vacchagotta thỏa mãn nỗi khát vọng loại câu trả lời theo dạng
"có-hoặc-không." Vacchagotta hoàn toàn tỏ ra bối rối. Đức Phật thấy
rất rõ sự bối rối của Vacchagotta, vì ngài biết rõ rằng "giáo pháp của
ngài sâu kín, thâm diệu, khó thấy, khó hiểu, khó lảnh hội, an tịnh, siêu tuyệt,
vượt khỏi logic, huyền diệu và chỉ có các bậc trí tuệ thấu hiểu
được."[109] Vacchagotta thật ra không phải là bậc trí theo nghĩa của thuật
từ này, và hơn nữa thật là khó cho ông một người được hấp thụ một truyền thống
khác, một quan điểm khác, một cách nhìn khác với một mục đích khác.[110]
Vacchagotta, rất có thể đã được huấn luyện nhuần nhuyển trong logic của linh
hồn bất tử sau khi chết, không thể chấp nhận bất kỳ ý niệm nào vượt khỏi logic
này (atakkaavacara). Để giúp cho ông
hiểu được giáo pháp siêu việt, thâm áo, kỳ diệu, vượt khỏi tầm tay của logic,
đức Phật đã minh hoạ bằng một dụ ngôn về một ngọn lửa đã bị dập tắt (nibbuto aggi). Thông qua cuộc
đối thoại đầy minh hoạ của đức Phật, cuối cùng Vacchagotta nhận ra được rằng
nếu ngọn lửa cháy lên do vì nguồn nhiên liệu cung cấp, chẳng hạn như sáp, dầu,
củi v.v. . . thì bất cứ khi nào nguồn nhiên liệu này không còn thì phương hướng
tiêu mất của ngọn lửa đã tắt cũng không truy ra được là phương đông, tây, nam
hay bắc. Cũng vậy, đức Phật giải thích, các câu hỏi về tình trạng sau khi chết
của bậc giác ngộ, người đã thoát khỏi danh và sắc (nhiên liệu của tái sanh)
cũng trở nên không thích hợp theo một cách thức tương tư:[111]
Cũng vậy, này Vaccha, hình thể vật chất (ruupa) theo đó người ta
nhận dạng ra Như Lai đã được chặt đứt tận gốc rễ, cũng như cây cao một khi đã
bị chặt đứt ngọn không thể sống lại được. Này Vaccha, Như Lai đã thoát khỏi mọi
áp đặt của hình thể (ruupa-sa'mkhaa-vimutto). Như Lai trở nên
thâm sâu, không thể đo lường được, không thể tưởng tượng được (gambhiiro appameyyo
duppariyogaaho) cũng như đại dương sâu thẳm.
‘Khởi lên,’ ‘không khởi lên,’ ‘bao gồm cả hai,’ và ‘loại trừ cả hai’ không thể
ứng dụng được với thân vật lý. (Tương tự, cũng không thể với cảm giác, ý niệm
hoá, khuynh hướng vận hành và thức phân biệt).[112]
Lối ẩn dụ so sánh "ngọn lửa đã tắt" này
cũng được trình bày cô đọng trong Kinh Tập (Sutta-Nipaata) như sau:
"Cũng như một ngọn lửa bị cơn gió thổi tắt không thể tính toán được. Cũng
vậy, vị A-la-hán thoát khỏi danh và sắc."[113] Trong kinh điển Nguyên
thủy, tình trạng của Như Lai khi còn sống và sau khi chết được xem là không thể
truy nguồn được. Một trong các đoạn mô tả như vậy là: "Trong thế giới hữu
hình này, này các tỳ-kheo, ta nói rằng Như Lai không thể suy lường được (ananuvejjo)."[114] Sự
không truy nguồn được Như Lai là do Như Lai đã giải thoát khỏi năm nhóm nhân
tính tâm vật lý và ở ngài khái niệm về một thực thể linh hồn thường hằng đã
hoàn toàn vắng mặt, trong khi sự nhận dạng chỉ có thể thực hiện được với sự
liên hệ đến cơ sở vật lý (ruupa) hay tâm lý (naama) hay bao gồm cả
hai, hay trong sự ngộ nhận về ngã tính.[115] Điều này được giải thích rõ trong
đoạn Kinh Tương Ưng dưới đây:
Người đã từ bỏ mọi đo lường,
Người đã chặt đứt dòng tham ái, ở đây, của danh
và sắc [naama-ruupa]. . .
Các thần linh và con người không thể truy ra được
sự vận hành của người ấy
Dù ở đời này, đời sau, trên các cõi trời hay dưới
mặt đất.[116]
Theo nội dung của đoạn trích trên, các ấn định
hay hiểu biết về bậc giác ngộ sau khi chết qua năm nhóm nhân tính trên nền tảng
của bốn khả thể (tứ cú: có, không có, bao gồm cả hai, loại trừ cả hai) vốn phát
sanh từ logic của niềm tin về một thực thể bản ngã thường hằng, hoàn toàn vô
nghĩa về mặt nhận thức luận, bởi lẽ bậc giác ngộ đã thoát khỏi hay không còn bị
hạn cuộc trong sự đồng nhất hay dị biệt với năm nhóm nhân tính tâm vật lý.[117]
Không chỉ thế, các giả định về bậc giác ngộ sau khi chết với bốn khả thể trở
nên không thích ứng còn dựa vào sự kiện rằng bậc giác ngộ thật là "thâm
áo, huyền diệu, không thể suy lường được (gambhiiro appameyyo
duppariyogaaho) cũng như đại dương,"[118] ngay đó các lý
luận logic (atakkaavacara) và các phương
tiện nhận thức (pamaa.na//pramaa.na) đều trở nên vô
dụng hay không thể áp dụng được. Nói đơn giản hơn, trạng thái sau khi chết của
bậc giác ngộ không thể nhận biết được qua logic hay bất kỳ phương tiện nhận
thức nào. Đây có thể là lý do khác nằm đằng sau sự im lặng của đức Phật, song
song với tính không thích ứng, vô dụng trong thực tiễn và tính vô nghĩa về
phương diện nhận thức luận của bốn khả thể chỉ định.
Trên cơ sở của lối giải thích này, chúng ta dễ
dàng hiểu được những gì được trình bày trong Kinh Tập (Sutta-Nipaata) về giới hạn của
logic và nhận thức luận trong việc mô tả tình trạng siêu logic của một vị giác
ngộ sau khi chết: "Không có cách để đo lường người đã hoàn tất đời sống
thánh thiện. Không có cái gì theo đó chúng ta mô tả được người. Một khi tất cả
các đặc tính đã được tháo mở (sabbesu dhammesu samuuhatesu), tất cả các cách
mô tả cũng được tháo mở."[119]
Trong Anuraadha Sa'myutta[120]thuộc kinh Tương Ưng, bốn câu hỏi khả
thể chỉ định về tình trạng của một bậc giác ngộ sau khi chết được một vị khổ
hạnh hỏi. Tôn giả Anuraadha đã trả lời rằng điều kiện của Như Lai sau khi chết
không thể được mô tả liên hệ đến bất kỳ một trong bốn khả thể chỉ định nào. Tôn
giả kết luận rằng sự mô tả chỉ có thể được tiến hành bằng một phương tiện vượt
khỏi bốn tính khả thể chỉ định. Câu trả lời trên dù sao cũng không làm thỏa mãn
vị khổ hạnh. Bị vị khổ hạnh chế nhạo như một chú tiểu ngu dốt, tôn giả
Anuraadha đã đến gặp Phật và tường trình lại câu chuyện. Đức Phật đã tuần tự
phân tích về đặc tính biến chuyển (vô thường), không thỏa mãn (khổ), và không
thực thể (vô ngã) của từng nhóm nhân tính tâm vật lý. Cuối cùng Anuraadha đã
nhận ra được chân lý vô ngã "cái này không phải là tôi, tôi không phải là
cái này, cái này không phải là bản ngả của tôi." Đức Phật tuyên bố rằng,
"Ngay trong đời này, không thể hiểu biết được đức Như Lai qua chân lý và
thực tại" (saccato thetato anupalabbhiyamaane),[121] để giúp
Aruraadha đi đến kết luận rằng, "Thật là không thích hợp để tuyên ngôn về
tình trạng của Như Lai sau khi chết. . . Sự tuyên bố nếu có chăng phải thoát
khỏi bốn tính khả thể chỉ định." Để làm rõ vấn đề này, đức Phật trình bày
như sau: "Này Anuraadha, xưa cũng như nay, những gì ta tuyên bố là đâu là
đau khổ và đâu là con đường chấm dứt đau khổ."[122] Điều cần ghi chú từ lời
kết luận của đức Phật là tình trạng sau khi chết của một bậc đã giác ngộ không
thể được mô tả bằng phương tiện của bốn khả thể chỉ định, lại càng không thể
bằng phương tiện của chủ nghĩa siêu nhiên.
Từ những điều thảo luận trên chúng ta có thể học
được bản chất của bậc giác ngộ là cả ngay lúc sống và sau khi chết, vị ấy đã
diệt trừ toàn bộ các tham ái, khổ đau, vì khi chấp thủ (upaadaana) không thể xuất
hiện thì không còn sự tái hiện hữu nữa. Các bậc giác ngộ đã trải qua một cuộc
chuyển hóa toàn diện về tâm, miệng và thân thể, theo đó, các dòng chảy của lậu
hoặc và các động cơ bất thiện cũng như dính mắc đã hoàn toàn bị nhổ lên tận gốc
rễ. Sự khác nhau duy nhất giữa các vị giác ngộ là khi còn sống các ngài phải
chịu đựng các đau khổ vật lý như bao nhiêu chúng sanh khác, vì năm nhóm nhân
tính và hoạt động của kinh nghiệm giác quan còn tiếp diễn, trong khi đó sau khi
chết, các kinh nghiệm giác quan đã lặng tắt hẳn. Điểm cần lưu ý là trong khi
phải chịu đựng các đau đớn về vật lý, bậc giác ngộ không còn các phản ứng cảm
xúc và vướng mắc như trong trường hợp của một chúng sanh pham phu (puthujjana). Đây là một trong
những giá trị đạo đức quan trọng mà bậc giác ngộ đã mang lại cho chúng ta.
VII. TIẾP XÚC VÀ CẢM GIÁC TRONG NIẾT-BÀN
Sự chứng đắc niết-bàn được định nghĩa là
sự chấm dứt toàn bộ khối đau khổ (anto dukkhassa).[123] Ngay trong
đời sống này, từ lúc thành đạo cho đến lúc nhắm mắt lìa đời, bậc giác ngộ không
còn những đau khổ và sầu muộn. Sau khi chết, khi năm nhóm nhân tính tâm vật lý
tan rã, cũng không có đau khổ dưới ba hình thái, đó là, j đau khổ gây ra từ
thân xác (dukkha-dukkhataa, khổ khổ), k đau khổ do thay đổi
ngược chiều của sự vật (vipari.naama-dukkhataa, hoại khổ), và l đau khổ do
thay đổi tâm lý (sa"nkhaara-dukkhataa, hành khổ).[124]Điều này
không có nghĩa cho rằng người chứng đạt niết-bàn được thoát khỏi các
đau khổ do thân thể gây ra. Sự chứng đạt niết-bàn thực ra là sự
chuyển hóa toàn diện về mặt nhận thức, cảm xúc và hành vi cho trở nên trí tuệ
viên mãn, đức tính đạo đức và hành vi cao thượng. Điều vắng mặt chắc chắn đối
với những người đã dứt tận gốc rễ của lậu hoặc và phiền não là các đau khổ nội
tâm (cetasika-dukkha) và những nỗi sợ
hãi.[125] Sở dĩ như vậy là vì, theo định nghĩa cũng như trên thực tế, đau khổ
do tham ái (ta.nhaa) (như trong công
thức của bốn chân lý), chấp mắc (upaadaana), vô minh (moha) (như trong công
thức của mười hai mắc xích nhân duyên, và tất cả các động cơ bất thiện (akusalamuula) (trong các kinh
luận về sau) gây nên; do đó, một A-la-hán không còn tham ái, chấm mắc, vô minh
và các bất thiện căn sẽ không phải chịu đau khổ. Câu hỏi quan trọng phát sanh
là sự tiếp xúc và cảm giác trước môi trường sống xung quanh của người giác ngộ
như thế nào?
Sau khi thành đạo, đức Phật và các bậc A-la-hán
không thể thoát khỏi các tiếp xúc với thế giới bên ngoài, như được ghi nhận
trong Phật Thuyết Như Vậy (Itivuttaka),[126]và như một kết
quả logic của sự tiếp xúc đó cũng như do các cơ năng cảm giác còn hoạt động,
các ngài vẫn phải kinh nghiệm qua các cảm giác hạnh phúc (sukha), đau đớn (dukkha), dễ chịu (manaapa) hay khó chịu (amanaapa) của thân. Sự khác
nhau giữa người giác ngộ (arahat) và hàng phàm phu
(puthujjana) trong tiến trình tiếp xúc vốn không nằm ở số
lượng, mà ở chất lượng, nói cách khác ở cách thức con người quan niệm và phản
ứng lại chúng.[127] Tiến trình kinh nghiệm của người phàm như được mô tả trong
kinh Madhupi.n.dika-sutta thuộc kinh Trung Bộ bao gồm (i) tiếp
xúc (phassa) của các cơ quan
cảm giác (mắt, tai, mủi, lưởi, thân), đối tượng của chúng (màu sắc, âm thanh,
mùi, vị, vật xúc chạm) và các cảm giác phát sanh (các cảm giác thấy, nghe,
ngủi, nếm, và nhận thức), (ii) khái niệm hóa bắt nguồn từ cảm giác (vedanaa) và chấm dứt ở
khuynh hướng ý niệm hóa giới hạn vào chủ thể, đối tượng và thời gian. Đoạn kinh
ghi chép như sau:
Do sự tiếp xúc của con mắt và vật thể màu sắc,
nhận thức của con mắt (thấy) phát sanh. Sự gặp nhau (sa"ngati) của ba yếu tố này
được gọi là tiếp xúc (phassa). Do có sự tiếp
xúc, các cảm giác (vedanaa) phát sanh. Cái gì
con người cảm nhận, con người có thể nhận thức được. Cái gì con người nhận thức
được, con người sẽ lý luận về (vitakketi). Cái gì con người
lý luận về, con người bị ám ảnh về khái niệm. Cái con người bị ám ảnh một cách
khái niệm là nguồn gốc của số lượng các nhận thức và sự ám ảnh, những thứ dồn con
người vào các vật thể mà con mắt có thể nhìn thấy được, thuộc về quá khứ, hiện
tại và vị lai. [Tương tự với bốn nhóm nhân tính còn lại là cảm giác (thọ), ý
niệm hoá (tưởng), vận hành tâm (hành) và thức nhận biết (thức)].[128]
Khuynh hướng thông thường trong việc đồng hóa
mình với những gì kinh nghiệm giác quan mang lại là do không nhận chân bản chất
thật của tính không thực thể của nhóm nhân tính tâm vật lý và các sự vật hiện
tượng (dhammaa) trên thế giới.
Con người thường nhận lầm cho rằng nhóm nhân tính tâm vật lý (dù là đơn lẽ hay
tổng thể) là bản thân mình, là bản ngã của mình. Những cái phát sanh từ sự tiếp
xúc giữa các quan năng cảm giác (căn), đối tượng giác quan (trần) và các nhận
thức phân biệt (thức) thường bị lầm nhận như là sự đồng nhất của cái ta (self-identification). Từ đó, đau khổ
bắt đầu tìm chân đứng và khởi sự. Cách chặn đứng đau khổ khỏi sự có mặt của
chúng là huấn luyện mình trong cách thức quan niệm "trong những gì được
thấy chỉ có sự (= hành động) thấy; trong những gì được nghe chỉ có sự nghe;
trong những gì tưởng tượng chỉ có sự tưởng tượng; trong những gì nhận thức chỉ
có sự nhận thức."[129] Điều này không có nghĩa cho rằng con người phải trở
nên mù, điếc, hay phải huỷ hoại các giác quan thấy, nghe, ngửi, nếm, biết. Cho
đến khi nào chúng ta còn sống, do hoạt động tự nhiên của các quan năng cảm giác
và nhóm nhân tính tâm vật lý, chúng ta không thể trốn tránh khỏi các tiếp xúc
được. Điều duy nhất mà chúng ta cần làm là tránh các giải thích hay phản ứng
cảm xúc về các điều kiện cũng như sự xuất hiện của thực tại. Bất động trước các
điều kiện và sự hiện hữu của các sự vật hiện tượng thông qua sự tiếp xúc của
các giác quan, đối tượng giác quan và các nhận thức phân biệt, con người trở
thành vô chấp, không vướng mắc. Khi không còn vướng mắc, sự an tịnh sẽ xuất
hiện. Khi có mặt sự an tịnh, sự tham đắm sẽ không còn. Khi không còn tham đắm,
sự đến và đi không còn. Khi không còn đến và đi, chết và tái sanh không còn.
Khi không còn chết và tái sanh, đời này, đời sau và sự chuyển tiếp giữa chúng biến
mất. Đó thật sự là sự chấm dứt của toàn bộ khối đau khổ.[130]
Điều quan trọng ở đây là, đối với kẻ phàm người
tục, sự tiếp xúc gắn liền với các phản ứng và chấp mắc cảm xúc, và như là kết
quả của các phản ứng cảm xúc, nó dẫn đến lòng tham ái, chấp giữ và chiếm thủ (upadhi), các đối tượng
khoái lạc giác quan (kaamuupadhi), năm nhóm nhân
tính tâm vật lý (khandhuupadhi), đam mê (kilesuupadhi) và chủ ý (abhisa"nkhaaruupadhiiti).[131]
Các tiếp xúc đó đã kéo theo sự ra đời của các
loại cảm giác (vedanaa), như cảm giác
thân thể (kaayika-vedanaa) và cảm giác tâm (cetasika-vedanaa).[132] Hai loại
cảm giác này mỗi thứ lại được chia thành ba loại, đó là, cảm giác hạnh phúc (sukha-vedanaa), cảm giác đau khổ
(dukkha-vedanaa) và cảm giác trung tính (adukkhamasukha-vedanaa).[133] Trong người
phàm kẻ tục, luôn có sự phản ứng hay khuynh hướng đối với các cảm giác khác
nhau. Kinh điển nguyên thủy ghi lại rằng tham dục hay khuynh hướng tham dục (raaga) nằm ở các cảm
giác hạnh phúc (sukha-vedanaa), khuynh hướng
không ưa thích hay từ bỏ nằm ở các cảm giác đau khổ (dukkha-vedanaa), và khuynh hướng
vô minh nằm ngay các cảm giác trung tính (adukkhamasukha-vedanaa).[134] Điều này có
nghĩa là: luôn có các vướng mắc về cảm xúc nhằm tương tác lại với mọi cảm giác
xuất hiện từ sự tiếp xúc giữa các quan năng cảm giác và đối tượng của chúng.
Cảm giác hạnh phúc tạo sự phát sanh của chấp thủ (aalaya / upaadaana) về những sỡ hữu (upadhi), vì con người sẽ
không thỏa mãn với các sở hữu và muốn có nhiều thêm, và nhiều hơn những gì đã
có hay đã được. Các cảm giác đau khổ thường kéo theo sự kháng cự, không ưa, sự
không đam mê, sự không thỏa mãn, sự cưỡng chế, sự giận dữ, sự huỷ hoại, hay sự
chống trả lại v.v. . . Các cảm giác trung tính thường dẫn đến các thái độ thờ ơ
và ngu muội. Như vậy, tham dục (raaga / lobha), sân hận (dosa) và vô minh (moha) nằm trong nền
tảng của các cảm giác, hạnh phúc, không hạnh phúc, và trung tính. Chính trong ý
nghĩa này đức Phật đã tuyên bố rằng "cái gì được kinh nghiệm như một cảm
giác luôn nối kết với đau khổ (whatsoever is experienced as a feeling is
associated with suffering).[135]
Sự tiếp xúc và cảm giác mà bậc giác ngộ hình
thành với môi trường sống của các ngài luôn khác với sự tiếp xúc và cảm thọ của
người phàm kẻ tục. Mấu chốt của sự khác biệt là các bậc giác ngộ đã làm chủ
được tâm tư (cetovasippatta) và điều khiển
được các giác quan (samaahit indriyo),[136] bằng hoạt
động của tuệ tri về các sự vật như chúng đang là (yoniso manasikaara, như lý tác
ý).[137] Đối với các bậc giác ngộ, cảm giác chỉ được
nhìn nhận là cảm giác mà không có kèm theo bất kỳ phán đoán hay phản ứng cảm
xúc nào. Bậc giác ngộ đã tuệ tri hoàn toàn được bản chất của cảm giác và nhờ
vào sự tuệ tri này, sự giác ngộ được trổ hoa kết trái.[138] Bậc giác ngộ biết
được rằng hiện tượng cảm giác (vedanaa), sự xuất hiện của
hiện tượng cảm giác (aya'm vedanaasamudayo), nguyên nhân dẫn
đến sự xuất hiện của cảm giác (aya'm vedanaasamudayagaaminii), sự chấm dứt của
cảm giác (aya'm vedanaanirodho ti), con đường dẫn
đến sự chấm dứt của cảm giác (aya'm vedanaanirodhagaaminii pa.tipadaati), vị nguy hiểm của
cảm giác (aya'm vedanaaya aadiinavoti) và sự xuất ly
khỏi cảm giác (aya'm vedanaaya nissara.nanti).[139] Có nghĩa là
đối với bậc giác ngộ, tất cả các cảm giác xuất hiện, tồn tại và biến mất một
cách song hành với chánh niệm (sati), tỉnh giác (sampaja~n~na) và trí tuệ (pa~n~naa).[140]
Dù sao đi nữa, trong tiến trình kinh nghiệm, do
sự vắng mặt trọn vẹn tham ái (ta"nhaa), tham dục (raaga) chấp mắc (upaadaana), các hình thái
của đau khổ nội tâm đã được nhổ sạch tân gốc rễ, bậc giác ngộ chỉ kinh nghiệm
qua sự hạnh phúc (sukha) hay đau đớn (dukkha), dễ chịu (manaapa) hay khó chịu (amanaapa) của thân thể.[141]
Mỗi khi phải trải qua các cảm giác đau đớn hay khó chịu của thân, bậc giác ngộ
không cảm thấy đau khổ tâm, không có tức tối, nhăn mặt, xoa đầu, đập ngực hay
than thở. Bậc giác ngộ cảm nhận đơn thuần các cảm giác thân và tâm.[142] Tất cả
các cảm giác bám rễ ở tham dục (raaga) và tham ái (ta.nhaa) trong bậc giác
ngộ đã bị huỷ diệt. Niết-bàn chỉ có thể chứng
đạt được khi các cảm thọ làm điều kiện cho sự sanh khởi của tham ái đã chấm
dứt.[143] Sự khác nhau giữa bậc giác ngộ và người phàm là trong người giác ngộ,
tham dục (lobha / raaga), sân hận (dosa) và vô minh (moha) dính dáng với
tiến trình kinh nghiệm giác quan đã hoàn toàn vắng mặt,[144] trong khi đó
khuynh hướng này trở nên mạnh mẽ và vượt mức làm chủ của người phàm.
Sự khác biệt nữa là bậc giác ngộ đã khắc phục
trọn vẹn thế giới nhị nguyên của kinh nghiệm (a.t.thalokadhamma) như: được (laabha) và mất (alaabha); danh tiếng (yasa) và tai tiếng (ayasa); khen (pasa'msaa) và chê (nindaa); hạnh phúc (sukha) và khổ đau (dukkha),[145] trong khi
người phàm vẫn còn bị những thứ kinh nghiệm nhị nguyên này chi phối và khống
chế. Điều này dù sao đi nữa không bao giờ đồng nghĩa với việc cho rằng bậc giác
ngộ sẽ không kinh nghiệm hay trở nên lãnh đạm với thế giới bên ngoài. Kinh điển
nguyên thủy có đề cập đến cảm giác đau khổ trong vị A-la-hán do các thay đổi về
vật lý, chẳng hạn như đức Phật bị đau nhức do bị đá xước,[146] hoặc có lúc do
ăn không tiêu,[147] v.v. . . Nói vắn tắt, bậc giác ngộ khác người phàm ở chỗ
các ngài kinh nghiệm thế giới cảm giác với chánh niệm, tỉnh giác và không có
khởi lên bất cứ phản ứng cảm xúc nào. Điều này được giải thích rõ trong kinh Dhaatuvibha"nga-sutta thuộc Trung Bộ. Khi
kinh nghiệm qua các cảm giác đau khổ, hạnh phúc, trung tính, bậc giác ngộ nhận
chân được rằng cái này là vô thường (saa aniccaa ti pajaanaati), không nên dính
mắc vào cái này (anajjhositaa ti pajaanaati), cái này không
phải là đối tượng để thưởng thức (anabhinanditaati pajaanaati). Bậc giác ngộ
thoát khỏi các vướng mắc của cảm giác được kinh nghiệm (visa'myutto na'm vedeti). Khi kinh nghiệm
một cảm giác liên hệ đến thân thể, bậc giác ngộ tuệ tri được rằng mình đang
trải qua cảm giác liên hệ thân. Khi kinh nghiệm qua một cảm giác cho đến lúc
thân thể còn tồn tại, bậc giác ngộ biết rõ mình đang kinh qua. Đứng trước cái
chết, bậc giác ngộ biết rõ rằng các cảm giác sẽ tắt lịm đi.[148] Trong bậc giác
ngộ, "khuynh hướng chấp thủ về cảm giác hạnh phúc đã không còn; khuynh
hướng kháng cự lại cảm giác đau khổ đã biến mất; khuynh hướng vô minh trước các
cảm giác trung tính cũng vắng mặt."[149] Thái độ không chấp thủ trước các
cảm giác làm người giác ngộ khác và siêu việt hơn người phàm kẻ tục (puthujjana). Cách thức người
chứng đạt niết-bàn kinh nghiệm về thế
giới được minh hoạ đặc sắc qua ẩn dụ hoa sen (pu.n.dariika).[150] Ở đây, cũng
giống như một hoa sen, mặc dù sanh ra từ bùn nhơ, lớn lên từ bùn, vươn mình lên
khỏi bùn lầy nước đọng, rồi toả hương thơm ngát; đức Như Lai hay bậc A-la-hán
mặc dù sanh ra trong đời ô trược, sống trong cuộc đời, đã vượt khỏi cuộc đời và
không bị đời làm ô uế (lokena anupalitto). Điều này có
nghĩa là trong thế giới kinh nghiệm của bậc giác ngộ, không còn sự hiện hữu của
chấp mắc, dù là cảm xúc, nhận thức hay hành vi. Đây là điều được trình bày
trong Cảm Hứng Ngữ (Udana), như đoạn trích
sau đây: "Này, Baahiya, ông phải huấn luyện bản thân như sau: trong cái
được thấy chỉ có sự (hành động) thấy; trong cái được nghe chỉ có sự nghe; trong
cái được tưởng tượng chỉ có sự tưởng tượng và trong cái được nhận thức chỉ có
sự nhận thức."[151] Ở đây, chỉ có đơn thuần các kinh nghiệm về sự kiện,
hoàn toàn không có mặt của các phán đoán giá trị (there is only mere factual
experience without any value judgement). Nó sự thật là
tính khách quan, không có sự xuất hiện của các phản ứng tâm lý và nhận thức, vì
không có dữ liệu giác quan nào được chấp mắc khi các quan năng cảm giác đã được
thu phục. Cách thức nhiếp phục các chấp thủ cảm xúc và nhận thức này được xem
là sự dẫn đến chấm dứt toàn bộ khối đau khổ.[152]
Nói khác đi, nếu tính cách bản ngã (egocentricity) sự vướng mắc (aalaya) hay chấp thủ (upaadaana) được tạo nên bởi
các động cơ cảm xúc bất thiện (akusala-cetasika), thì niết-bàn là giải thoát khỏi
các cảm xúc đó. Trong người chứng đạt niết-bàn, các sợ hãi, lo âu
hay sầu muộn đã hoàn toàn vứt bỏ: "sau khi khắc phục được các âu sầu, hành
giả sẽ giải thoát khỏi chúng và chứng đạt niết-bàn."[153] Khi
các âu sầu đã được nhổ sạch gốc rễ, hành giả sẽ không còn sợ hãi: "Sẽ
không còn nỗi sợ hãi về bất cứ cái gì đối với vị đã đạt được trạng thái cao
nhất, niết-bàn."[154] Niết-bàn là sự vắng mặt hoàn
toàn các động cơ bất thiện (akusalamuula). Khi niết-bàn ngự trị, tham ái (ta.nhaa) sẽ bị diệt tận:
"Nhờ sự diệt tận các tham ái, sự ly tham và tịch diệt (niết-bàn) được hiển
hiện."[155] Trong bậc giác ngộ, chỉ còn các động cơ thiện (kusalamuula), như lòng thương
xót (mettaa), lòng cứu khổ (karu.naa), chánh niệm (sati), tỉnh giác (sampaja~n~na), tuệ tri sự vật
đúng với bản chất của chúng đang là (yoniso manasikaara, như lý tác
ý) và trí tuệ (pa~n~naa) luôn luôn hiện
hữu và ngự trị.
VIII. NHẬN THỨC TRONG NIẾT-BÀN
Chuyển hóa nhận thức là một trong các đặc tính
của bậc giác ngộ, những người đã chứng đạt được niết-bàn trong đời
này. Tất cả các bất thiện về nhận thức và tâm lý như tham lam (lobha / raaga), sân hận (dosa), quan điểm sai
lầm (di.t.thi) và vô minh (moha) đã hoàn toàn mất
dạng trong bậc giác ngộ.[156] Kiến thức về sự nhận chân niết-bàn thông quan bốn chân
lý cao thượng được mô tả như là "bình minh của nhãn quan vô cấu và thanh
tịnh về thế giới hiện tượng" (virajam viitamala'm dhamma
cukkhu'm upapaadi),[157] và "sự xuất hiện của mắt, của kiến
thức, tuệ tri, trí tuệ và ánh sáng" (cakkhu'm udapaadi ~naa.na'm
udapaadi pa~n~naa udapaadi vijjaa udapaadi aaloko udapaadi).[158] Kiến thức
về niết-bàn cũng được định
nghĩa là sự chứng đạt về thượng trí (nibbaanassa sacchikiriyaa
~naayassa adhigamo),[159] một nhãn quan xuất hiện từ hiện tượng mà
trước nay chưa từng được biết đến (pubbe ananussutesu dhammesu).[160] Có nhiều
thuật ngữ được dùng để mô tả phương diện nhận thức của niết-bàn, như kiến thức
hay tuệ tri (a~n~naa / ~naa.na[161] / ~naaya[162]), kiến thức
viên mãn (pari~n~naa), kiến thức hay
tuệ tri cao cấp (abhi~n~naa), trí tuệ (pa~n~naa) hoặc tuệ giác (vipassanaa).[163] Đây là loại
kiến thức về bản chất thật của các hiện tượng như chúng đang là (yathaabhuuta-dassana/~naa.na).[164] Đó là điều
được gọi là nhận thức về vô thường trong những gì không thường hằng (anicce aniccasa~n~naa), nhận thức về đau
khổ trong những gì không thỏa mãn (dukkhe dukkhasa~n~naa), và nhận thức về
vô ngã trong những gì không thực thể (anatte anattasa~n~naa).[165]
Trong niết-bàn, hoạt động nhiễm
trước của (vi~n~naa.na) thức đã chấm dứt.
Sự chấm dứt các hoạt động của thức mang lại sự không sanh khởi của đau
khổ.[166] Khái niệm chấm dứt (nirodha) ở đây nhằm chỉ cho
sự "lắng dịu" các nội dung và chứng năng của thức trong mối liên hệ
với chấp mắc (upaadaana),[167] vốn khác
biệt với trạng thái không hoạt động ở người đã chết. Kinh điển ghi rằng bằng
cách làm lắng dịu ý thức, hành giả sẽ trở nên an lạc và chứng đạt được niết-bàn.[168] Như vậy sự
chấm dứt của thức ở đây cần phải được hiểu là sự chuyển hóa thức thành trí tuệ
(pa~n~naa / a~n~naa / ~naa.na /
~naa.nadassana). Trong luân hồi, thức (vi~n~naa.na) vào thai mẹ, tạo
sự sanh khởi của tâm-vật-lý (naama-ruupa).[169] Trong niết-bàn, thức không thể hình
thành được (asa.n.thite)[170] hoặc an nghỉ
(vi~n~naa.na'm attham agamaa),[171] có nghĩa là
không có tiến trình nghiệp nào có thể diễn ra trong niết-bàn, dù là ở hiện tại
hay tương lai Sự chuyển hóa thức (vi~n~naa.na) thành trí tuệ (pa~n~naa) là sự giải thoát
tâm khỏi các lậu hoặc (aasavehi cittaani vimucci'msu). Khi tâm được
thoát khỏi các lậu hoặc, nội dung của tâm sẽ trở thành tuệ giác (~naa.na) hay trí tuệ (pa~n~naa), một loại kiến
thức về sự được giải thoát: "trong giải thoát, tuệ tri sau đây phát sanh
"ta đã giải thoát" (vimuttasmi'm vimuttamhiiti ~naana'm hoti)."[172]
Trong kinh Mahaa Vedalla Sutta thuộc Trung Bộ,[173] khi được
hỏi, "cái gì là trí tuệ (pa~n~naa) và cái gì là thức
phân biệt (vi~n~naa.na), chúng có liên hệ
hay không có liên hệ? Và đâu là sự khác nhau khả dĩ giữa chúng?" Tôn giả
Xá-lợi-phất (Saariputta) đã trả lời với sự "phủ định." Tôn giả giải
thích rằng thức phân biệt (vi~n~naa.na) có thể hiểu được
(pari~n~neyya), trong khi trí tuệ (pa~n~naa) thì cần phải vun
trồng (bhaavetabba).[174] Theo ngài
Phật Âm (Buddhaghosa), trí tuệ là trạng thái chuyển hóa cao cấp của ý niệm hóa
/ tưởng (sa~n~naa) và thức phân biệt
(vi~n~naa.na).[175] Trí tuệ được định nghĩa là loại tuệ tri
cao cấp toàn diện (abhi~n~naa), kiến thức viên
mãn (pari~n~naa), kiến thức và
nhãn quan (~naa.na-dassana) và sự loại trừ
hay xóa bỏ u mê (pahaa.na).[176] Trí tuệ là
kiến thức của sự nhìn sự vật như chúng đang là (yathaabhuuta-dassana), một phương tiện
dẫn đến sự chấm dứt các lậu hoặc (aasavakkhaya)[177] và chứng đạt
giác ngộ (bodhi).[178]
Bản chất của thức phân biệt và nhận thức của bậc
giác ngộ được mô tả sống động trong một đoạn kinh của Trung Bộ.[179] Về thế
giới ngoại tại, thức phân biệt của bậc giác ngộ không còn tình trạng phân tán
hay khuếch tán (bahiddhaa vi~n~naa.na'm avikkhitta'm avisa.ta'm). Có được ý thức
không phân tán và không khuếch tán là do làm chủ hoàn toàn các giác quan trong
mối liên hệ với thế giới đối tượng của chúng. Khi bậc giác ngộ nhìn thấy vật
thể bằng mắt, nghe âm thanh bằng tai, ngửi được mùi bằng mủi, nếm vị bằng lưởi,
xúc chạm vật bằng thân, các ngài không còn chạy theo các đối tượng giác quan
nữa, cũng không còn vướng bận vào sự thỏa mãn chúng và không bị các sợi dây
thỏa mãn chúng trói buộc.
Đối với thế giới nội tại, thức phân biệt của bậc
giác ngộ không có hình thành (ajjhatta'm asa.n.thita'm). Bậc giác ngộ
không còn chạy theo bốn cấp độ thiền của thế giới sắc thể (ruupajjhaanaani), không còn bị sự
thỏa mãn về bốn cảnh giới thiền này trói buộc và không bị các sợi dây thỏa mãn
về chúng trói lại. Bậc giác ngộ không còn bị khuấy động và không vướng mắc vật
gì (anupaadaaya na paritaseyya). Sở dĩ được như
vậy là vì bậc giác ngộ không còn đồng hóa từng nhóm nhân tính tâm vật lý như
thân thể (ruupa), cảm giác (vedanaa), ý niệm hóa (sa~n~naa), sự vận hành tâm
(sa"nkhaara) và thức phân biệt (vi~n~naa.na) với ngã (attaa), lại cũng không
đồng hóa ngã với bất kỳ hay toàn bộ năm nhóm nhân tiính này. Bậc giác ngộ không
quan niệm năm nhóm nhân tính trong ngã hay ngã trong năm nhóm nhân tính. Do
thái độ này, ý thức của bậc giác ngộ không bị sự thay đổi trong năm nhóm nhân
tính chiếm cứ và cũng không có các phiền toái khởi lên. Do không còn bị phiền
toái chi phối nên sự không bị ám ảnh của tư tưởng xuất hiện. Do sự không bị ám
ảnh của tư tưởng xuất hiện bậc giác ngộ không còn sợ hãi, không còn phiền muộn,
không còn mong cầu và không bị chấp thủ chi phối. Nói khác đi, trong kiến thức niết-bàn thế giới thực tại
được nhìn thấy bằng những cái "đơn thuần" (matta // maatra) "trong những
cái được thấy chỉ đơn thuần là sự thấy; trong những cái được nghe chỉ đơn thuần
là sự nghe; trong những cái được tưởng tượng chỉ đơn thuần là sự tưởng tượng và
trong những cái được nhận thức chỉ đơn thuần là sự nhận thức."[180]
Cũng nên ghi chú ở đây rằng ở giai đoạn của thiền
thứ tư (catuttha-jhaana) thuộc thiền của
thế giới sắc thể (ruupajjhaanaani), có nhiều lựa
chọn đối với thiền giả. Đó là (i) bồn cấp độ thiền của thế giới vô sắc (aruupajjhaanaani), (ii) năm thần
thông (pa~ncaabhi~n~naa), và (iii) ba tuệ
giác (tevijjaa, tam minh) hay sáu tuệ giác
hay lục thông (cha -abhi~n~naa). Sự bám víu vào
chứng đắc hai loại đầu hoàn toàn không cần thiết cho chứng đắc niết-bàn, trong khi đó ba tuệ
giác và sáu thần thông liên hệ đến sự chuyển hóa nhận thức một cách toàn diện
của niết-bàn, vốn thường được đề
cập nhiều trong các kinh điển Nguyên thủy.[181] Sự lựa chọn tốt nhất của các
hành giả ở cấp độ đạt ngộ này là ứng dụng tâm vào tuệ tri về sự chấm dứt các
dòng chảy lậu hoặc (aasavaana'm khya~n~naa.naaya citta'm
abhininnaamesi'm).[182] Với chiều hướng này, hành giả sẽ nhận
chân được bản chất thật của lậu hoặc, nguyên nhân của chúng, trạng thái chấm
dứt chúng và con đường dẫn đến sự chấm dứt này. Với cái thấy như vậy và cái
biết như vậy (thus knowing and thus seeing), tâm của hành giả
sẽ giải thoát khỏi các dòng chảy lậu hoặc của ái dục (kaamaasavo), của tái hiện hữu
(bhavaasavo) và của vô minh (avijjaasavo). Kiến thức tuệ
tri "đây là giải thoát" xuất hiện trong tâm trí của bậc giải thoát.
Bậc giác ngộ tuệ tri "sanh đã tận, đời sống thánh thiện đã thành, việc cần
làm đã làm và không còn trạng thái sanh tử nữa"[183] Tuệ tri về sự diệt tận
các lậu hoặc (aasavakkhaya-~naa.na) thật ra là kiến
thức về bốn chân lý cao thượng và sự ngộ được tuệ tri này là chứng đạt ba minh
(tevijjaa/ tisso vijjaa// tisro-vidyaah).
Ba tuệ tri hay ba minh là (i) trí tuệ biết rõ về
các đời sống quá khứ, túc mạng thông(pubbenivaasaanussati-~naa.na-vijjaa
// puurva-nivaasaa.nusm.rti-j~nana-saak.saatkriya-vidyaa), (ii) trí tuệ
biết rõ sanh và tử của các chúng sanh, sanh tử trí (cutuupapaata-~naa.na-vijjaa //
cyuty-upapaada-j~nana-saak.saatkriya-vidyaa), (iii) trí tuệ
biết rõ về sự chấm dứt trọn vẹn các lậu hoặc, lậu tận thông (aasavakkhaya-~naa.na-vijjaa //
aasarava-k.saya-j~nana-saak.saatkriya-vidyaa). Ba tuệ tri này
lại được mở rộng thành năm thần thông (pa~ncaabhi~n~naa) trong một số kinh
điển,[184] và ở một số kinh khác,[185] thành sáu thần thông (cha -abhi~n~naa). Sáu thần thông
bao gồm ba tuệ tri vừa nêu cộng với ba thông khác (thường đứng trước ba tuệ
tri) là (i) thần túc thông (iddhividhaa-~naa.na // .rddhividhi-j~naana'm), (ii) thiên nhĩ
thông (dibbasotadhaatu-~naa.na // divya-'srotra'm-j~naana'm), (iii) tha tâm
thông (cetopariya~naa.na // paracitta-j~naana'm), (iv) thiên nhãn
thông (dibbacakhhu-~naa.na // divya-cak.sus-j~naana'm), (v) túc mạng
thông (pubbenivaasaanussati // puurvanivaasaanusm.rti), and (vi) lậu tận
thông (AAsavakkhaya~naa.na // AAsravak'saya-j~naana'm).
Nói nôm na, đây là các loại "kiến thức trực
tiếp đã bỏ ra sau lưng thế giới vật chất của không gian và thời gian, hay của
nhận thức, của ý niệm hoá, của nhân quả, của lý luận logic, và do đó chúng là
các thần thông đúng với nghĩa của từ này."[186] Năm thần thông đầu là các
phương thức tuệ tri cao cấp thuộc về thế gian (lokiya abhi~n~naa), chứng đạt được
do vun bồi trọn vẹn con đường định (samaadhi), trong khi thông
sau cùng, lậu tận thông, là phương thức tuệ tri cao cấp thuộc siêu thế (lokuttara abhi~n~naa), chỉ chứng đạt
được thông qua tuệ giác thiền (vipassanaa) diệt trừ toàn bộ
các lậu hoặc (aasavakkhaya). Chứng đạt lậu
tận thông là chứng đạt A-la-hán. Như vậy, chỉ có tuệ tri về sự chấm dứt toàn bộ
lậu hoặc thông (AAsavakkhaya~naa.na // AAsravak'saya-j~naana'm) có liên hệ với
con đường thánh thiện (ariya-magga) hay con đường
siêu thế (lokuttara-magga) của bậc A-la-hán.
Sự diệt trừ toàn bộ các lậu hoặc (AAsavakkhaya), như (i) lậu hoặc
tham dục (kaamaasavo // kaamaasrava), (ii) lậu hoặc
tái hiện hữu (bhavaasavo // bhavaasrava), (iii) lậu hoặc
quan điểm sai (di.t.thaasava // d.r.s.taasrava), (iv) lậu hoặc vô
minh (avijjaasavo // avidyaasrava),[187] là chứng
đạt niết-bàn. Đoạn kinh sau đây
mô tả rõ điều này: "Sau khi diệt trừ tận gốc rễ của các lậu hoặc, hành giả
bước vào và an trú sự giải thoát của tâm (ceto-vimutti'm) và giải thoát nhờ
trí tuệ (pa~n~naa-vimutti'm), vốn thoát khỏi
các lậu hoặc và có thể được chứng nghiệm ngay trong đời sống này."[188]
IX. NIẾT-BÀN VÀ TRẠNG THÁI KHÔNG CÒN CẢM GIÁC VÀ NHẬN THỨC
Sự đánh đồng niết-bàn với cấp độ thiền
cao nhất, trạng thái thiền vắng mặt hoàn toàn các cảm giác và nhận thức, diệt
thọ tưởng định (sa~n~naavedayitanirodha, hay còn được viết
tắt là nirodha-samaapatti), thường được thấy
trong các hành giả Bà-la-môn giáo đương thời đức Phật.
Tưởng cũng nên lưu ý đến sự không đề cập trạng
thái vắng mặt cảm thọ và nhận thức (sa~n~naavedayitanirodha) trong đoạn mô tả
thứ nhất của Cảm Hứng Ngữ 80 (Udaana), trong mối liên
hệ với niết-bàn, trong khi bốn
trạng thái thiền trước nó được đề cập đến. Sự không đề cập này có nghĩa rằng
không thể có sự đồng nhất của niết-bàn với trạng thái vắng
mặt cảm thọ và nhận thức. Nói khác đi, sự vắng mặt trọn vẹn các cảm thọ và nhận
thức không phải là niết-bàn, mặc dù có vài sự
giống nhau giữa hai trạng thái này. Sự khác nhau quan trọng giữa hai trạng thái
này là trong niết-bàn dòng chảy tham ái (ta.nhaa) đã vĩnh viễn khô
cạn, trong khi trong trạng thái vắng mặt cảm giác và nhận thức, dòng tham ái
chỉ tạm thời vắng bóng và còn tùy thuộc vào thời gian (time-bound) và điều kiện (condition-bound). Lý do chính yếu
của sự khác nhau này là niết-bàn là sự diệt trừ trọn
vẹn các dòng chảy tham ái (ta.nhaa),[189] trong khi
đối với trạng thái vắng mặt cảm thọ và nhận thức, tham ái còn chân đứng trong
các cảm giác (vedanaa) và nhận thức (sa~n~naa), và điều này kéo
theo rằng tham ái tạm thời không hiện hữu trong sự vắng mặt của cảm giác và
nhận thức nhưng khi cảm giác và nhận thức xuất hiện, tham ái vẫn còn hiện
hữu.[190] Sự khác nhau quan trọng nữa là trạng thái vắng mặt cảm giác và nhận
thức chỉ có thể được kinh nghiệm bằng thân thể hay đó là kinh nghiệm của thân
thể (kaayena sacchikara.niiyaa dhammaa), trong khi niết-bàn được cảm chứng bằng
tâm trí tuệ (pa~n~naa).
Hơn thế nữa, trong trạng thái vắng mặt cảm giác
và nhận thức (sa~n~naavedayitanirodha), kinh nghiệm giác
quan như hạnh phúc (sukha), đau khổ (dukkha), dễ chịu (manaapa) hay khó chịu (amanaapa) hoàn toàn tan
biến, bởi do không còn sự tiếp xúc (phassa) đối với ý thức về
thế giới ngoại tại. Sự bất động trước thế giới nội ngoại tại trong hành giả này
là một tiến trình tự nhiên mà cảnh giới thiền này có thể mang lại. Trái lại,
người chứng đạt niết-bàn, các giác quan vẫn
còn hoạt động, do đó chúng không thể tránh khỏi sự tiếp xúc với thế giới bên
ngoài và do đó người chứng đạt niết-bàn vẫn phải trải qua
thế giới cảm giác với sự chánh niệm (sati) và trí tuệ (pa~n~naa) về bản chất vô
thường, vô ngã, vị ngọt và vị xuất ly của chúng, và do vậy, bậc giác ngộ trở
nên bất động trước thế giới giác quan hay kinh nghiệm. Nói khác đi, người chứng
đạt niết-bàn đã hoàn toàn làm
chủ được các giác quan của mình, làm chủ sự tiếp xúc, các cảm giác đến độ không
còn sự tham ái hay chấp thủ nào có thể xuất hiện được từ các sự tiếp xúc này,
trong khi đối với người chứng được trạng thái vắng mặt cảm giác và nhận thức do
không có tiếp xúc với thế giới ngoại tại nên cũng không có ý thức về thế giới
ngoại tại đó, như vậy vấn đề "bất động" hay "không bất
động" không được đặt ra.
Sự khác biệt quan trọng khác đó là khi đi, đứng,
nằm, ngồi v.v. . . người chứng đạt niết-bàn hoàn toàn ý thức và
chánh niệm về các hoạt động của các quan năng cảm giác, làm chủ chúng một cách
triệt để, trong khi người chứng được trạng thái vắng mặt cảm giác và nhận thức
không có ý thức đó, bởi do các giác quan của hành giả này đã tạm thời ngưng
hoạt động. Trong niết-bàn tất cả các hoạt
động của thân, tâm và lời vẫn tiếp tục diễn tiến với sự chánh niệm (sati), tỉnh giác (sampaja~n~na) và trí tuệ (pa~n~naa) và hoàn toàn
không có vướng mắc (aalaya) hay chấp trước (upaadaana), trong khi đối
với người được trạng thái vắng mặt cảm giác và nhận thức toàn bộ sự hoạt hành
của các căn đã ngừng hẳn cho đến khi nào vị ấy xuất khỏi trạng thái thiền định
này. An trụ trong trạng thái thiền này, vị hành giả có thể cảm nhận sự an lạc
và định tỉnh của tâm. Mọi náo động và phiền toái của ấn tượng đã tạm dứt. Nhưng
một khi xuất thiền, vị hành giả chưa chắc đã có thể làm chủ được các giác quan
của mình, do đó, tham ái và chấp thủ vẫn có thể diễn ra bất cứ lúc nào, và do
vậy chiếc xe sanh tử vẫn còn tiếp tục lăn bánh và tái diễn.
Chúng ta cũng còn có thể tìm thấy sự khác biệt
khác giữa hai trạng thái này qua đoạn mô tả về bản chất niết-bàn trong hiện đời ở Phật Thuyết Như Vậy 38 (Itivuttaka).[191] Đức Như Lai
hay các bậc A-la-hán đã chứng đạt niết-bàn trong hiện đời dù
vẫn còn các cảm giác hạnh phúc (sukha), đau khổ (dukkha), dễ chịu (manaapa) hay khó chịu (amanaapa) do các hoạt động
tiếp diễn của các giác quan, trong khi các kinh nghiệm giác quan đó không có
mặt trong người được trạng thái vắng mặt cảm giác và nhận thức. Do vậy, vấn đề
làm thế nào để làm chủ các cảm giác đau khổ của thân không xuất hiện ở vị hành
giả này. Trong khi đối với người chứng đạt niết-bàn, các ngài phải
bước vào trạng thái vắng mặt cảm giác và nhận thức trong một thời gian nhất
định nào đó để khắc phục các khổ thọ của thân gây ra. Đây là cách thức đức Phật
vận dụng trước khi vô dư niết-bàn tại rừng Ta-la song
thọ.[192]
*
Thượng tọa THÍCH NHẬT TỪ
Địa chỉ: Chùa Giác Ngộ, 92 Nguyễn Chí Thanh,
phường 3, quận 10, thành phố Sài Gòn.
Email: thichnhattu@yahoo.com
.
.............................................................................................................
- Cập
nhật từ email tranchicuong27@yahoo.com.vn ngày 12.02.2019.
- Bài
viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui
lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
SÁCH THAM KHẢO CHỌN LỌC
Nguyên tác Pali và các
bản dịch tiếng Anh được sử dụng trong bài này thuộc ấn bản của Hội Kinh Thánh
Pali (PTS), như được liệt kê trong bản viết sách của tập hội thảo này.
Collins, Steven.
(1982). Selfless Persons: Imaginary and Thought in Therav
da Buddhism. London:
Cambridge University Press.
Conze, Edward.
(1962). Buddhist Thought in India, Three Phases of Buddhist Philosophy. London:
George Allen & Unwin Ltd.
Dutt, Nalinakasha. (1980). The
Spread of Buddhism and Buddhist Schools. Delhi: Rajesh Publications.
G.R. Welbon
(1968). The Buddhist Nirvana and Its Western Interpreters. Chicago:
University of Chicago Press.
Harvey, Peter.
(1995). The Selfless Mind: Personality, Consciousness and Nirvana in Early
Buddhism.London: Curzon Press.
Jayatilleke, K. (1980) Early
Buddhist Theory of Knowledge. Delhi: Motilal Banarsidass.
Jayatilleke, K. N.
(1975). The Massage of the Buddha, ed. by N. Smart. London: George
Allen & Unwin Ltd.
Johansson, Rune. E. A.
(1969). The Psychology of Nirvana. London: George Allen & Unwin.
Johansson, Rune. E. A.
(1985). The Dynamic Psychology of Early Buddhism. London: Curzon
Press, 1st Ed. 1979.
Kalupahana, D. J,
& Weeraratne, W. G. (1987). Buddhist Philosophy and Culture, Essays in
honour of N. A. Jayawickrema. Sri Lanka: Na Yayawickrema Felicitation Volume
Committee.
Kalupahana, D. J.
(1995b) Nagarjuna’s Moral Philosophy and Sinhala Buddhism. Sri Lanka:
Karunarate & Sons.
Kalupahana, David J.
(1975) Causality: The Central Philosophy of Buddhism. Honolulu: The
University Press of Hawaii.
Kalupahana, David J.
(1976). Buddhist Philosophy: A Historical Analysis. Honolulu: An
East-West Centre Book, the University Press of Hawaii.
Kalupahana, David J.
(1987) The Principles of Buddhist Psychology. Albany: The State
University of New York.
Kalupahana, David J.
(1994). A History of Buddhist Philosophy, Continuities and
Discontinuities. Delhi: Motilal Banarsidass, 1st Ed. 1992.
Kalupahana, David J.
(1995) Ethics in Early Buddhism. Honolulu: University of Hawaii Press.
Karunadasa, Y.
(1989). Buddhist Analysis of Matter. Singapore: Buddhist Research Society,
1st Ed. 1967.
Poussin, L. de La
Vallée. (1982). The Way to Nirvaa.na. Delhi: Sri Satguru
Publications, 1st ed. 1917.
Radhakrishnan, S.
(1977). Indian Philosophy, 2 vols. Bombay: Blackie and Sons
Publishers, 1st Ed. 1927-1930.
Rahula, Walpola.
(1978). What the Buddha Taught. London: The Gordon Fraser Gallery,
1st ed. 1959.
Sobti, H. Singh.
(1985) Nibbaana in Early Buddhism. Delhi: Eastern Book Linkers.
Tilakaratne, Asanga.
(1993) Nirvana and Ineffability, A Study of the Buddhist Theory of Reality
and Language. Sri Lanka: The Postgraduate Institute of Pali and Buddhist
Studies, University of Kelaniya.
Welbon, G. R.
(1968). The Buddhist Nirvana and Its Western Interpreters. Chicago:
University of Chicago Press.
CHÚ THÍCH
[1] Thỉnh thoảng từ
này cũng được sử dụng đồng nghĩa với pari-nibbaana và pari-nibbuta có nghĩa là
trạng thái niết-bàn trong hiện đời, mặc dù trong vài ngữ cảnh thuật ngữ
"pari-nibbaana và pari-nibbuta" chỉ được sử dụng để chỉ cho trạng
thái niết-bàn sau khi chết. Xem giải thích chi tiết ở tác phẩm: S. Collins
(1998): 147-51, 193-8.
[2] Dhp. 203.
[3] S. II. 278.
[4] Ud. p. 80.
[5] D. I. 156, 167; S.
II. 18, 34, 115; III. 163; IV. 141; M. III. 286.
[6] So sánh A. I. 8:
bhikkhu paniihitena cittena avijja'm bhecchati vijja'm uppaadessati nibbaana'm
sacchikarissati.
[7] Ud. 80.
[8] S. IV. 368-73 liệt
kê hơn 30 đồng nghĩa của niết-bàn. Các từ này là: cứu cánh, trạng thái vắng mặt
các phiền não, chân lý, bờ bên kia, sâu diệu vi tế, cái khó nhận ra, cái không
bị biến hoại, vững chắc, không còn bị phân huỷ, vượt khỏi tỷ giảo, không có sự
khác biệt, thật an lạc, bất tử, tuyệt vời, kiết tường, an nghỉ, diệt tận tham
dục sân hận và vô minh, không còn ái trước, không còn phiền muộn, ly tham ái,
thanh tịnh, giải thoát, không chấp trước, hòn đảo, hang động, sự bảo vệ, nơi
nương tựa và mục đích sau cùng." Các đồng nghĩa của niết-bàn cũng còn xuất
hiện rãi rác ở các kinh D. I. 36; M. I. 163, 173; A. II. 247; It. 38-9; Sn.
1149; Ud. 80. Các mô tả về niết-bàn bằng các thuật từ khẳng định vả phủ định
nhấn mạnh đến các phương diện tâm lý, chuyển hoá và ẩn dụ. Trong bài viết này,
tác giả không trình bày riêng biệt phần các thuật từ khẳng định về niết-bàn,
trong khi các thuật từ phủ định về niết-bàn được trình bày một phần độc lập, do
vì tính quan trọng của nó trong việc mô tả niết-bàn.
[9] Tác giả chân thành
cảm ơn học giả R. E. A. Johansson, nhờ vào sự nghiên cứu nghiên thủy của ông
(1969: 106) về niết-bàn mà bài viết này được ra đời.
[10] S. I. 125, S. IV.
371-2; M. I. 508-9; Dhp. 202-4, Ud. 10; Thag. 35.
[11] S. IV. 371-2.
[12] S. I. 48; S. IV.
174; It. 57.
[13] M I. 167; MLS I.
211.
[14] It. 122; S. IV.
369-70.
[15] Sn. 1086.
[16] S. IV. 370.
[17] S. I. 192; A. II.
24; It. 122; Thag. 289, 510, 831, 912; Thiig. 135, 333.
[18] It. 122.
[19] S. IV. 370.
[20] Thag. 264.
[21] Sn. 1149; M. I.
167.
[22] S. IV. 369.
[23] S. IV. 372.
[24] M. I. 511; S.
III. 32; Sn. 749, 788.
[25] It. 38.
[26] S. IV. 370.
Dhp. 203-4.
[28] S. IV. 372.
[29] S. III. 189.
[30] S. I. 210.
[31] M. I. 511.
[32] S. IV. 368.
[33] S. IV. 372.
[34] It. 38.
[35] It. 38-9.
[36] S. IV. 359.
[37] S. II. 117.
[38] Sn. 467.
[39] M. I. 173.
[40] S. IV. 372.
[41] Xem bốn mô tả về
niết-bàn trong Cảm Hứng Ngữ được trình bày trong bài viết này.
[42] Ud. 80.
[43] S. IV. 368.
[44] M. III. 245.
[45] S. I. 62.
[46] Xem thêm Walpola
Rahula. (1978): 36f.
[47] M. I. 167, 173.
[48] M I. 167; MLS I.
211.
[49] S. II. 42-3, 57;
M. II. 265.
[50] S. I. 174.
[51] Ud. 80-1.
[52] Ud. 33.
[53] Sn. 707.
[54] A. II. 24; It.
122.
[55] Trích theo R. E.
A. Johansson. (1969): 45-6.
[56] S. II. 117.
[57] Sn. 467.
[58] M. I. 173.
[59] S. IV. 372.
[60] S. IV. 251:
"yo raagakkhayo dosakkhayo mohakkhayo ida'm vuccati nibbaana'm." So
sánh S. I. 359; S. V. 9; A. V. 9.
[61] Vin. I. 8; Vin.
II. 156. So sánh S. I. 141.
[62] S. III. 190:
Ta.nhakkhayo hi Raadha nibbaana'm. So sánh S. IV. 368-72.
[63] G.R. Welbon
(1968).
[64] L. V. Poussin
(1982): "Thật là an toàn khi chủ trương rằng niết-bàn là sự đoạn
diệt" (It may therefore be safely maintained that Niravaa.na is
annihilation) (p. 117); "Rằng niết-bàn là đoạn diệt bắt nguồn - ít nhất
cho chúng ta - nhưng từ các nguyên lý tổng quát của triết học Phật giáo và từ
các tuyên bố rõ ràng" (That Nirvaa.na is annihilation results-at least for
us-but from the general principles of Buddhist philosophy and from clear
statements" (p. 116).
[65] Trích trong H. S.
Sobti (1985): 133.
[66] S. III. 109-115.
[67] S. III. 110-1.
[68] M. I. 484-8.
[69] W. Rahula (1978):
35: The only reasonable reply to give to the question [what is nibbaana?] is
that it can never be answered completely and satisfactorily in words, because
human language is too poor to express the real nature of the Absolute Truth or
Ultimate Reality which is Nirvaa.na.
[70] N. Dutt (1980):
279; R. E. A. Johansson (1969): 44f.
[71] K. N. Jayatilleke
(1980): 476: not that there was something that the Buddha did not know, but
that what he 'knew' in the transcendental sense could not be conveyed in words
because of the limitations of language and of empiricism.
[72] S. Radhakrishnan
(1977): 676ff.
[73] R. E. A.
Johansson (1969): 42-50.
[74] D. J. Kalupahana
(1976): 75.
[75] D. J. Kalupahana
(1976): 82.
[76] D. J. Kalupahana
(1976): 82; E. Conze (1962): 76f
[77] A. Tilakaratne
(1993): 81. The experience of nirvana does not come out as a result of
transcendending the ordinary reality of the world. Neither does it derive from
a transcendent God, nor does it lead one to the Transcendent. The exclusion of
these possibilities indicate that nirvana does not involve, in principle, the
kind of non-verbalizable knowledge usually associated with the other forms of
religious experience. This shows that the Buddhist religious experience can not
be taken to subscribe to the ineffability thesis.
[78] Y. Karunadasa
(1994): 7.
[79] Y. Karunadasa
giải thích rất thuyết phục rằng khái niệm thế giới (loka) vốn có nghĩa là 6
quan năm cảm giác (the six-fold sphere of sense activity) (S. IV. 39). Điều này
kéo theo rằng danh hiệu "thế gian giải" (loka-viduu) (D. III. 76; S.
I. 62; A. II. 48) sẽ có nghĩa là "bậc tuệ tri được thế giới của kinh
nghiệm giác quan." Tương tự các thuật ngữ "lokanirodha," and
"lokanta" (A. II. 49) sẽ có nghĩa là "sự chấm dứt thế giới và sự
tận cùng của thế giới" cũng nên được hiểu dưới ý nghĩa của tâm lý học.
(1994: 4).
[80] Y. Karunadasa
(1994): 11.
[81] M. I. 486.
[82] At S. III. 111-2,
Saariputta thường dùng phán đoán này để phủ bác việc Yamaka diễn đạt đức Phật
bằng bốn khả thể chỉ định (tứ cú).
[83] Bản kinh đọc là
"dhaatu" có nghĩa đen là "yếu tố." F. L. Woodward đã dịch
ra tiếng Anh "conditions, các điều kiện" (MNPC, II. 143) trong khi đó
S. Collins lại thích dịch nghĩa đen là "yếu tố" (elements), (1998:
149).
[84] Có nghĩa đen là
sự chấm dứt toàn bộ các lậu hoặc.
[85] Có nghĩa đen là
niết-bàn với năm nhóm nhân tính còn tồn tại.
[86] Có nghĩa đen là
sự tan rã hoàn toàn nhóm nhân tính.
[87] Có nghĩa đen là
niết-bàn không còn nhóm nhân tính tồn tại.
[88] It. 38.
[89] M. I. 140; S.
III. 109-115; S. IV. 383ff.
[90] Kết luận này có
thể được minh chứng bằng một câu ở cuối đoạn trích đầu là cuối: đây thật sự là
sự chấm dứt của đau khổ" có nghĩa là niết-bàn trong đời sống hiện tại chứ
không phải sau khi chết.
[91] Ud. 80: Atthi
bhikkhave tad aayatana'm, yattha neva paỉhavii na aapo na tejo na vaayo na
aakaasaana~ncaayatana'm na vi~n~naa.naana~ncaayatana'm na
aaki~nca~n~naayatana'm na nevasa~n~naanaasa~n~naayatana'm naaya'm loko na
paraloka ubho candimasuuriyaa, tad aha'm bhikkhave neva aagati'm vadaami na
gati'm na ỉhiti'm na cuti'm na upapatti'm appatiỉỉha'm appavatta'm
anaaramma.nam eva ta'm, esevanto dukkhassaati. Tham khảo bản dịch tiếng Anh của
R. E. A. Johansson (1969): 51 với vài thay đổi nhỏ.
[92] S. I. 192; A. II.
24; It. 122; Thag. 289, 510, 831, 912; Thiig. 135, 333.
[93] W. Rahula (1978):
40. It is incorrect to think that Nirvaa.na is the natural result of the
extinction of craving. Nirvaa.na is not the result of anything. If it would be
a result, then it would be an effect produced by a cause. It would be samkhata
'produced' and 'conditioned.' Nirvaa.na is neither cause nor effect. It is
beyond cause and effect . . . The only thing you can do is to see it, to
realize it. There is a path leading to the realization of Nirvaa.na. But
Nirvaa.na is not the result of that path. You may get to the mountain along a
path, but the mountain is not the result, not an effect of the path. You may see
a light, but the light is not the result of your eyesight.
[94] Tác giả đọc là
anatta'm, thay vì ananta'm như đề nghị trong bản dịch tiếng Anh về kinh Tăng
Chi của Woodward. Sự rắc rối văn bản ở đây đã làm bối rối các học giả. Xem R.
E. A. Johansson (1969): 53; S. Collins (1998): 166-7.
[95] Ud. 8: Duddasa'm
anatta'm naama, na hi sacca'm sudassana'm; paỉividdhaa ta.nhaa, passato natthi
ki~ncananti.
[96] Ud. 80: Atthi
bhikkhave ajaata'm abhuuta'm akata'm asaơkhata'm, no ce ta'm bhikkhave
abhavissa ajaata'm abhuuta'm akata'm asankhata'm, na yidha jaatassa bhuutassa
katassa sankhatassa nissara.na'm pa~n~naayetha. Yasmaa ca kho bhikkhave atthi
ajaata'm abhuuta'm akata'm asankhata'm, tasmaa jaatassa bhuutassa katassa
sankhatassa nissara.na'm pa~n~naayati. Đoạn này cũng tái xuất hiện ở It. 37.
[97] Dhp. 383.
[98] Ud. 80:
Nissitassa ca calita'm anissitassa calita'm natthi, calite asati passaddhi ,
passadhiyaa sati rati na hoti, ratiyaa asati aagatgati na hoti, aagati-gatiyaa
asati cutuupapaato na hoti, cutuupapaate asati nevidha na hura'm na
ubhayamantare, esevanto dukkhassaati.
[99] It. 38. Phần in
nghiêng do tác giả nhấn mạnh.
[100] D. III. 216; S.
IV. 259; S. V. 56. So sánh Cf. Vism. 499.
[101] S. II. 274.
[102] It. 38; S. III.
112.
[103] Cf. D. I. 34,
55; M. I. 140.
[104] Cf. S. III.
215-9.
[105] M. I. 484-8.
Mười câu hỏi này cũng tái xuất hiện ở các kinh sách sau đây M. I. 426-32; M.
II. 228-38; S. III. 213-24; 257ff.; S. IV. 374-403; Milin. 144ff. Riêng 14 câu
hỏi cùng nội dung, xem MK. XXVII, XXII and XXV.
[106] M. I. 429-32,
488-9.
[107] M. I. 484-5; Tái
xuất hiện ở S. IV. 373-90.
[108] S. IV. 388, 390.
[109] M. I. 487:
ghambhiiro hayam . . . dhammo duddaso duranubodho santo pa.niito atakkaavacaro
nipu.no pa.n充avedaniiyo.
[110] Ibid: so
dujjaano a~n~nadiỉỉhikena, a~n~nakhantikena, a~n~narucikena, a~n~natrayogena,
a~n~nathaacariyakena.
[111] M. I. 487; M.
III. 245; Sn. 232.
[112] M. I. 487-8.
Tham khảo bản dịch tiếng Anh của I. B. Horner, MLS. II. 166. Phần phụ chú của
chúng tôi. Cũng tái xuất hiện ở S. IV. 376f.
[113] Sn. 1074.
[114] M. I. 139-40.
[115] S. I. 112; Sn.
1119; Dhp. 46.
[116] S. I. 12. Tham
khảo bản dịch tiếng Anh của P. Harvey (1995): 230.
[117] Cf. S. III. 35.
[118] Khái niệm này
được trình bày rõ ở A. I. 266. Có bốn đặc tính của niết-bàn có thể so sánh với
đại dương (saagara). Bốn đặc tính đó là: (i) giống như đại dương không dung
chứa tử thi, niết-bàn không dung chứa các lậu hoặc, (ii) Cũng như đại dương
không bị tràn do tất cả các sông đổ về, niết-bàn không bao giờ bị đầy do số
lượng người tu chứng được, (iii) Cũng như đại dương là nơi cư trú của nhiều
loại chúng sanh lớn, niết-bàn là nơi cư trú của các bậc A-la-hán và đạ, và (iv)
cũng như đại dương dợn với vô vàn các đợt sóng, niết-bàn là dòng chảy của trí
tuệ và giải thoát.
[119] Sn. 1076.
[120] S. IV. 379-83.
[121] Tham khảo thêm
S. III. 111-2.
[122] S. IV. 383.
[123] Ud. p. 80.
[124] D. III. 216; S.
IV. 259; S. V. 56. Cf. Vism. 499.
[125] Thag. 707.
[126] It. 38.
[127] Kalupahana
(1994: 95-6) cho rằng: "không có sự khác nhau về mặt số lượng giữa cảm
giác của người trong luân hồi và người đã giải thoát" (there is no
qualitative difference between the feeling of someone who is in bondage and
someone who is freed). Nhưng trong quá trình giải thích, ông lại thừa nhận có
sự khác nhau về số lượng giữa người chứng và người phàm, khi ông viết:
"trong trường hợp của người đã chứng đạt giải thoát, có sự vắng mặt của
tham, sân và si, những thứ thường là kết quả trên các kinh nghiệm giác
quan" (in the case of a person who has attained freedom, there is an
absence of the greed, hatred, and confusion that are generally consequent upon
sense experience) p. 96.
[128] M. I. 111-2:
cakkhu~ncaavuso paỉicca ruupe ca uppajjati cakkhuvi~n~naa.na'm ti.n.na'm
saơgati phasso, phassapaccayaa vedanaa, ya'm, vedeti ta'm sa~njaanaati, ya'm
sa~njaanaati ta'm vitakketi, ya'm vitakkheti ta'm papa~nceti, ya'm papa~nceti
tatonidaana'm purisa'm papa~ncasa~n~naasaơkhaa samudaacaranti
atiitaanaagata-paccupanannesu ruupesu. Xem thêm bản dịch tiếng Anh MLS. I. 145,
D. J. Kalupahana (1987): 32, và EB. IV. 236.
[129] Ud. 8:
tasmaatiha te Baahiya eva'm sikkhitabba'm: diỉỉhe diỉỉhamatta'm bhavissati,
sute sutamatta'm bhavissati, mute mutamatta'm bhavissati, vi~n~naate
vi~n~naatamatta'm bhavissati. Phương pháp huấn luyện nhận thức và cảm xúc này
cũng còn tái xuất hiện trọn vẹn ở S. IV. 72; KS. IV. 11.
[130] Ud. 80:
Nissitassa ca calita'm anissitassa calita'm natthi, calite asati passaddhi ,
passadhiyaa sati rati na hoti, ratiyaa asati aagatgati na hoti, aagati-gatiyaa
asati cutuupapaato na hoti, cutuupapaate asati nevidha na hura'm na
ubhayamantare, esevanto dukkhassaati.
[131] SnA. p. 30.
[132] S. IV. 231.
[133] D. III. 216,
275; S. IV. 216, 331.
[134] S. IV. 205.
[135] S. IV. 216: ya'm
ki~nci vedayita'm ta'm dukkhasminti.
[136] A. II. 6, 36.
[137] S. V. 2-30; A.
I. 11-31; It. 9.
[138] S. IV. 233.
[139] S. IV. 233.
[140] M. III. 124; A.
IV. 32.
[141] It. 38. So sánh
S. IV. 209.
[142] S. IV. 209: So
eka'm vedana'm vediyati kaayika'm na cetasika'm.
[143] Sn. 739:
vedanaana'm khayaa bhikkhu nicchaato parinibbuto.
[144] S. V. 8: Yo kho
. . . raagakkhayo dosakkhayo mohakkhayo ida'm vuccati amata'm (sự diệt trừ tham
sân và si được gọi là bất tử, nghĩa là niết-bàn)
[145] A. IV. 157; D.
III. 260.
[146] Vin. II. 193.
[147] D. II. 127.
[148] M. III. 244-5.
Cf. D. I. 46; D. II. 128; S. II. 83; A. II. 198.
[149] M. I. 303:
Sukhaaya . . . vedanaaya raagaanusayo pahaatabbo, dukkhaaya vedanaaya
paỉighaanusayo, adukkhamasukhaaya vedanaaya avijjaanusayo pahaataboo.
[150] A. II. 37.
[151] Ud. 8:
tasmaatiha te Baahiya eva'm sikkhitabba'm: diỉỉhe diỉỉhamatta'm bhavissati,
sute sutamatta'm bhavissati, mute mutamatta'm bhavissati, vi~n~naate
vi~n~naatamatta'm bhavissati. Phương pháp huấn luyện cảm xúc và nhận thức này
còn xuất hiện ở S. IV. 72; KS. IV. 11.
[152] Ud. 8; S. IV.
72-3.
[153] Sn. 593:
sabbasoka'm atikkanto asoko hoti nibbuto.
[154] It. 122:
phuỉỉhassa paramaa santi nibbaana'm akutobhaya'm.
[155] Ud. 3: sabbato
tanhaana'm khayaa asesaviraaganirodho nibbaana'm.
[156] Vbh. 373; Dhs.
1448.
[157] S. V. 423.
[158] S. V. 422-6.
[159] M. I. 10
[160] D. V. 422.
[161] Xem chẳng hạn M.
I. 175: aasavakkhaya~naa.na, lậu tận trí.
[162] Xem chẳng hạn M.
I. 10: ~Naayassa adhigamaaya nibbaanassa sacchikiriyaaya.
[163] D. III. 230; M.
I. 10; S. III. 26.
[164] S. V. 144.
[165] A. II. 51-2.
[166] Sn. 734:
vi~n~naa.nassa nirodhena natthi dukkhassa sambhavo.
[167] Xem chẳng hạn M.
III. 223; M. II. 265, về vai trò của ý thức trong chấp thủ.
[168] Sn. 734:
vi~n~naa.nuupasamaa bhikkhu nicchaato parinibbutoti.
[169] D. II. 63.
[170] M. III. 223; S. II.
66.
[171] Ud. 93.
[172] S. IV. 20.
[173] M. I. 292.
[174] M. I. 293.
[175] Vism. 369-70.
[176] M. I. 293.
[177] D. I. 83-4; M.
I. 175.
[178] S. IV. 231.
[179] M. III. 223-8.
[180] Ud. 8:
tasmaatiha te Baahiya eva'm sikkhitabba'm: diỉỉhe diỉỉhamatta'm bhavissati,
sute sutamatta'm bhavissati, mute mutamatta'm bhavissati, vi~n~naate
vi~n~naatamatta'm bhavissati. Cũng xuất hiện ở S. IV. 72; KS. IV. 11.
[181] D. III. 220,
275; M. II. 105; A. I. 163-5; A. V. 211.
[182] M. IV. 23.
[183] M. IV. 23:
Khii.naa jaati vusita'm brahmacariya'm kata'm karaniiya'm naapara'm
itthattaayaati.
[184] S. II. 216.
[185] D. III. 281; A.
III. 280.
[186] EB. I. mục từ
abhi~n~naa: 97a. direct knowledge which has left behind the physical world of
space and time, or perception, of ideation, of causality, of logical reasoning,
and is, therefore, psychic in the fullest sense.
[187] D. III. 230,
276; M. I. 9; S. IV. 257; S. V. 59; Vbh. 373; Dhs. 1448.
[188] D. III. 281; A.
III. 19: aasavaana'm khayaa anaasava'm cetovimutti'm pa~n~naavimutti'm diỉỉhe
va dhamme saya'm abhi~n~naa sacchikatvaa upasampajja viharati.
[189] S. III. 190;
Vin. I. 9.
[190] Trong mô thức
của chuổi duyên khởi, tham ái do cảm giác tạo điều kiện (vedanaa paccayaa
ta.nhaa), trong khi trong trật tự ngược chiều, do chấm dứt của cảm giác, sự
tham ái cũng chấm dứt (vedanaanirodhaa ta.nhaanirodho).
[191] So sánh S. IV.
209.
[192] D. II. 156.
.
0 comments:
Đăng nhận xét