TRONG TÍN
NGƯỠNG DÂN GIAN
*
(Tác giả Vũ Quế Lâm) |
Theo tác giả Thiên Việt thì lên đồng hầu bóng
tức cho các Thánh mượn xác nhâp hồn, khi Thánh giáng về được gọi về
giá, còn người lên đồng được gọi là ghế, một nghi lễ đặc trưng và
tiêu biểu trong việc cúng lễ của người theo tín ngưỡng thờ Tam, Tứ
phủ thuộc tín ngưỡng dân gian trong đạo thờ Mẫu (Tam Toà Thánh Mẫu).
Lên đồng hầu bóng hiện nay đã được công
nhận là loại hình văn hóa tâm linh, phi vật thể, mang tính đặc thù
của dân tộc Việt Nam, không phải loại hình mê tín dị đoan như mọi
người trước đây thường nói đến.
Trước đây nhiều người không rõ hình thái
lên đồng hầu bóng có quá trình lịch sử, mục đích ý nghĩa như thế
nào, nên có những cái nhìn lệch lạc và đánh giá chưa đúng, và gọi
những “tín đồ” theo tín ngưỡng thờ Mẫu với giọng mỉa mai là những
ông đồng, bà bóng; đánh đồng với cái gọi “cầu hồn nhập xác” của
giới đồng cốt, cùng với “xác cậu”, “xác cô” của những người được
các phần vong về mượn xác.
Có lẽ trước đây mọi người liên tưởng đến
những ai cứ trùm khăn đỏ lên đầu (phủ diện), và lắc lư thân thể để
“cầu Thần” là những ông bà đông côt, vì những người này cũng trùm
khăn đỏ lắc lư đê “câu Hôn”. Còn đồng cô trong đạo thờ Mẫu, nói về
một đồng nam được các vị Thần Thánh thuộc giới nữ giáng về mượn
xác để ra đồng, như giá các Chúa, các Chầu hay các Cô nên tưởng đấy
là “xác cô”; hay như bóng Cậu khi người lên đồng có giá cậu Bé nhập
về, tưởng rằng là “xác cậu”.
Nên cần phân biệt những người được gọi là
đồng cốt, hay xác cậu, xác cô thường không xuất hiện từ những đền
điện thờ chính thống, không thuộc tín ngưỡng thờ Tam, Tứ Phủ.
Còn lên đồng hầu bóng thuộc hình thức xâm
nhập tâm linh, từ các vị được phong Thánh phong Thần, mượn xác nhập
hồn vào các nam nữ có căn mạng…trong khung cảnh đèn nhang, lễ nhạc,
múa hát, nhằm mục đích tẩy trừ rủi ro, bệnh hoạn trước nhất cho
người lên đồng, hoặc trò chuyện, chữa bệnh cho người đến dâng lễ
cúng.
Các nghi lễ này giống như hình thức của thuật
“khiêu Thần” – sẽ trình bày ở phần sau – một tín ngưỡng thuộc Sa-man
giáo có khắp nơi trên thế giới, nhưng mỗi nơi lại có những hình thức
phổ biến khác nhau. Như người Di Gan đa số sống ở Trung Âu, khi được
nhập hồn trở thành những nhà tiên tri, hay chiêm tinh; những vùng còn
lạc hậu có đông đảo thổ dân, bộ lạc sinh sống như ở Nam Mỹ, châu Phi,
khi vào nghi thức cúng lễ, họ thường dùng đao kiếm đâm mạnh vào
người, hay cho các con vật cực độc như nhện đất, rắn, rết, bò cạp
đeo cắn khắp thân thể, rồi đi khắp ngã đường nhảy múa kích động theo
dòng nhạc tấu lên dẫn lối đưa đường.
Những người muốn “lên đồng hầu bóng” không
phải cứ ngồi trùm khăn phủ diện, rồi lắc lư đầu mà thành những ông
đồng, bà bóng. Phải là người có căn mạng với tín ngưỡng thờ Tam hay
Tứ Phủ mới có thể mời được các vị Thần Thánh về nhâp xác.
Tín ngưỡng Tam hay Tứ Phủ mang tính chất
như :
– Tam Phủ gồm :
1/- Thiên Phủ (phủ nhà trời),
2/- Nhạc Phủ (phủ coi rừng núi)
3/- Thoải Phủ (phủ coi về sông, biển, ao
hồ, những nơi thuộc về nước).
– Tứ Phủ gồm ba phủ như Tam Phủ cùng với
4/- Địa Phủ (coi về đất đai).
Trong Tam Phủ hay Tứ Phủ, việc thờ tự
chính là ba vị Thánh Mẫu gồm Mẫu Thượng Thiên cai quản miền trời,
Mẫu Thượng Ngàn trông coi miền rừng núi, Mẫu Thoải cai quản miền sông
nước, và Mẫu Địa trông coi đất đai các vùng miền. Tuy nhiên Mẫu Địa
được từng vùng, từng địa phương thờ phụng riêng biệt như Bà Chúa Xứ,
bà Chúa Ngọc, bà Chúa Kho v.v… còn thờ chính trong các đền điện chỉ
có ban thờ Tam Tòa Thánh Mẫu đã nói trên.
Người muốn “lên đồng” phải thật sự có căn
mạng. Việc đầu tiên phải làm lễ đội bát nhang, sau đó tùy theo căn
mạng lớn nhỏ mà mở Phủ ra đồng; và cũng tùy vào khả năng mà ra
mắt đồng theo dạng tiến căn hay đại đàn. Khi ra mắt đồng phải có
đồng thầy làm người đỡ đầu, người dẫn dắt tinh thần từ chứng minh
đến dạy dỗ những điều cần thiết khi theo tín ngưỡng thờ Mẫu. Sau
này mới được người trong đạo chấp nhận có “căn đồng”.
Thông thường một ông bà đồng một năm phải
“lên đồng hầu bóng” ít nhất một vấn (một lần), người có căn Tứ Phủ
thường vào tháng ba âm lịch, người có căn Tam Phủ vào tháng tám âm
lịch hàng năm, tức những ngày “tháng tám giỗ cha tháng ba tiệc mẹ”.
Giỗ cha tức kỷ niệm ngày mất của Đức
Thánh Trần, còn tiệc mẹ là ngày vía Thánh mẫu Liễu Hạnh.
Theo quan niệm thần quyền, mỗi người đang
sống đều có một chư thần thuộc thị thần của một trong ba vị Thánh
Mẫu (Thượng Thiên, Thượng Ngàn, Thủy Cung) cai quản từ thể xác lẫn
tinh thần. Người có căn đồng mà không ra mắt Thánh, thường hay bị thị
thần của Thánh quở, hành cho đau ốm, bệnh hoạn thường xuyên; nói theo
người có đạo thờ Mẫu, là bị vị thần cai quản bắt đồng; có nghĩa
đã được chấm đồng, nếu từ chối ra đồng người đó sẽ hay bệnh hoạn
hoặc gặp nhiều vận xui rủi đưa đến.
Còn muốn ra mắt Thánh, bước đầu phải đội
bát nhang, để bắt đầu được thừa nhận đã theo tín ngưỡng thờ Tam hay
Tứ Phủ, như Phật Giáo cho là Quy Y Tam Bảo, bên Thiên Chúa Giáo gọi
là lễ rửa tội, nhưng chưa chính thức được xem là ông đồng, bà bóng.
Muốn đội bát nhang, chủ đền hay thầy cúng
sẽ mở sách xem căn, tức xem “quan cai đầu đồng, bà thủ bản mệnh” là
thị thần của Thánh đang cai quản họ đang thuộc Phủ nào. Nếu gặp căn
nặng đôi khi phải đội đến bảy bát nhang. Khi tôn nhang phải có đồng
thầy ra mặt chứng minh. Trước lễ đồng thầy sẽ trùm khăn phủ diện và
đội lên đầu người này số bát nhang phải tôn thờ, có sớ ghi tên tuổi
cùng căn mạng thuộc Phủ nào (một người chỉ ở một trong tứ phủ).
Khi tôn bát nhang xong, mới tiến đến lập
đàn tiến căn hay đại đàn ra mắt Thánh.
Chuẩn bị cho buổi ra đàn (đại đàn hay tiên
căn), băt đầu cho lễ tục lên đồng hầu bóng, người ra đồng phải chuẩn
bị rất nhiều trang phục cho các vị Thánh giáng về mượn xác.
Màu sắc trang phục cũng được quy định bởi
một số màu cơ bản như : màu đỏ (thiên phủ), màu vàng (địa phủ), màu
xanh (nhạc phủ), màu trắng (thoải phủ).
Ngoài ra còn chuẩn bị đủ lễ vật. Lễ vật
dâng lên Thánh trong một buổi ra đàn mang ý nghĩa quan trọng, gồm bánh
trái, hoa quả, rượu, thuốc (ngày xưa là thuốc phiện còn ngày nay là
thuốc lá, có giấy vấn màu nâu đen càng đúng nghĩa)… Lễ phải phong
phú mang tính đặc trưng của từng giá về ngự về, tức lúc các Thánh
hay các Thần linh mượn xác nhập hồn, lễ vật được dâng lên cho các
ngài hưởng thụ.
Ra đại đàn phải thủ lễ trong ba ngày. Ngày
đầu là lễ cáo yết còn gọi lễ mở đàn, mở phủ, do bốn pháp sư
(thầy cúng) ngồi tứ trụ, dâng và đọc sớ, báo tên tuổi cùng căn mạng
của người ra đàn lên công đồng.
Ngày thứ nhì vào đàn, tức chính lễ còn
gọi lễ ra đàn, có đủ các pháp sư và thầy Địa tạng đọc sớ mời các
vị Thánh hay Thần giáng về chứng minh. Sau lễ cúng, người có căn mới
thực sự là những ông bà đồng khi được đồng thầy đến phủ khăn và
mời các Thánh Thần, các giá giáng ngự vào xác.
Ngày thứ ba lễ tiễn đàn hay lễ tạ, nhằm
hóa vàng các thứ đồ mã cúng hiến gồm một thuyền phủ màu cánh
phượng, hai bên thuyền có 12 hình nhân nữ ăn mặc sơn trang (áo chàm,
áo thổ) đứng chèo, một ngựa với đủ yên cương hà̀m thiếc, một voi…
cùng các hình nộm nam nữ, vàng nén bạc thỏi v.v…
Còn ra đàn tiến căn, các nghi lễ cũng không
thiếu, nhưng tổ chức đơn giản chỉ diễn ra trong ngày, các mân lễ,
vàng mã vừa đủ mang tính tượng trưng.
Người có căn mạng nhà Trần, thường phải ra
đại đàn Tam Phủ không ra đàn tiến căn vì sợ bị quở phạt, các nghi
thức cũng không gì khác biệt so với đàn Tứ Phủ. Nhưng người căn Tam
Phủ, khi ra đồng oai dũng như một võ tướng nhà Trần, họ xiên lình,
thắt cổ, rạch lưỡi, uống dầu sôi, ngậm nhang cháy v.v… rất ít thanh
đồng nào thực hiện được nếu không có căn mạng nhà Trần, tức căn
Trần Triều Đại Vương, một vị Thánh cả trong Tam Phủ. Trong tín ngưỡng
thờ Tam, Tứ Phủ mọi người rất trọng vọng người có căn mạng nhà
Trần.
Bắt đầu một buổi lên đồng, người ra đồng
trình lạy đủ ba lễ mới trùm khăn phủ diện, bắt đầu đảo người. Trong
lúc đảo, nếu người ra đồng đưa ra một ngón tay, đó là biểu hiện giá
Quan đệ nhất giáng về, cung văn theo giá đồng xuất hiện liền hát
những bài thơ văn thích hợp với tính cách của vị Thần, Thánh đó.
Sau đó người lên đồng mới bỏ khăn phủ diện
ra, các hầu dâng (người phục vụ) bấy giờ thay khăn áo cho đúng tính
cách của vị Thần Thánh vừa nhập xác thanh đồng. Sau khi khăn áo
chỉnh tề, người lên đồng với một bó nhang to đứng lên tấu lễ trước
cung Thánh.
Người ra đồng cầm bó nhang bằng tay trái,
còn tay phải rút lấy một cây từ trong bó nhang, hướng về các hướng
làm động tác phù phép gọi là khai khuông, nhằm xua đuổi tà ma, các
phần vong hiếu kỳ.
Làm phép khai khuông xong Thánh đã nhập hẳn
vào xác. Người lên đồng bấy giờ không còn là họ, vì xác đã thuộc
về thần linh, còn hồn đang phách tán đâu đó.
Các nhà nghiên cứu cho rằng, lúc này yếu
tố xuất thần, tự thôi miên đã giúp họ nhảy múa một cách uyển
chuyển, nhịp nhàng hay kích động mà bình thường họ không thể tự
nhảy được. Đó chính là sự hứng khởi mang tính tâm linh, chỉ nhập
vào một số người có căn mạng.
Múa đồng là hình thức diễn xướng được
cách điệu hóa, khẳng định sự tái sinh của thần linh. Bởi vậy tùy
theo từng vị Thánh, Thần mà động tác nhảy múa cũng khác nhau. Nhưng
nhìn chung, các điệu nhảy múa đều mang âm hưởng của chèo cổ và múa
nhảy dân gian. Mỗi động tác nhảy múa trong các giá khắc họa tính
cách, vị trí của mỗi vị thần linh đang được ông đồng, bà bóng thể
hiện trên sàn chánh điện.
Tuy nhiên trong trạng thái phấn kích do tự
thôi miên, người lên đồng nhiều khi có thể nhảy múa tự do vượt ngoài
lề luật, do phấn kích với lời ca, tiếng đàn tiếng trống của cung văn
khởi xướng. Khi múa đồng (múa thiêng), các ông bà đồng còn sử dụng
một số đạo cụ như mồi đuốc, kiếm, đao, hèo (gậy), mái chèo, quạt,
cờ…
Khi nhảy múa xong, các Thánh thường ngồi
nghe cung văn hát, thí dụ như giá ông Hoàng Mười nhập về, cung văn ngâm
các bài thơ cổ. Thánh biểu hiện sự hài lòng bằng động tác vỗ gối
và thưởng tiền.
Lúc này người đến dự lễ mới đến gần
Thánh để cầu xin hoặc nghe Thánh phán… đây cũng là lúc Thánh ngồi
chữa bệnh, trò chuyện hay phát lộc.
Khi Thánh muốn xuất khỏi xác, ngài ra dấu
bằng hai tay bắt chéo trước trán, quạt che đỉnh đầu, rồi khẽ rùng
mình… tức Thánh đã thăng.
Buổi ra đồng kết thúc khi ông bà đồng hầu
hết giá Cậu Bé. Một buổi lên đồng hầu bóng có thời gian kéo dài
ít nhất hai tiếng và dài nhất đến sáu, bảy tiếng, tùy theo các
Thánh giáng về nhiều hay ít giá.
Mỗi lần lên đồng “cầu Thần nhập xác” có
rất nhiều nghi thức phức tạp, theo nhận xét những người theo tín
ngưỡng thờ Tam, Tứ Phủ phải là người có căn mạng, nếu không sẽ trở
thành đồng đá, vì không có Thánh Thần nào về mượn xác nhập hồn.
Lên đồng là một nghi lễ thờ cúng trong tín
ngưỡng dân gian, thường tổ chức trong các đền, điện lớn, những
nơi được vua chúa xưa sắc phong (sau này là Quyết Định được chánh
quyền công nhận), những điện nhỏ tại gia đều mang tính cách gia đình.
Trong các đền điện, người ta thấy có rất
nhiều đồ mã được treo trên trần với đủ ngũ sắc như nón quai thao, nón
chóp, đèn lồng, thuyền ghe… nhiều kích cỡ, phía dưới có ngựa, có
voi. Ngoài ra mỗi cung thờ Thánh đều có lọng vàng, tán quạt đặt hai
bên. Nơi cung võ, người ta còn thấy bộ chấp kích to lớn bằng đồng
thau sáng bóng.
Sở dĩ có những vật trên vì từ Tam Tòa
Thánh Mẫu đến Ngũ vị tôn quan, các Chúa, Chầu, các quan Hoàng, các
Cô, Cậu đều là các vị Thánh hay Thần có nhiều nguồn gốc, từ người
Kinh đến người dân tộc thiểu số, sống ở đồng bằng hay những vùng
núi non, sông biển, cũng như từ mọi miền trên đất nước.
Trên nóc đền luôn có hai con rắn đưa đầu
vào chầu cung Thánh Mẫu, là thần Giao Long hay Kỳ Cùng đại Vương, hóa
thân của Quan Đệ Ngũ, vì thế mọi người thường cung kính gọi hai ngài
bằng Ông Lốt. Rắn trắng có tên Quan lớn Ba, rắn màu sẫm có tên Quan
lớn Năm.
Trong chầu văn thường hát trong giá hầu bà
Chúa Ba (tức Mẫu đệ tam, Thủy tiên Thánh Mẫu, Mẫu Thoải, bên Phật
giáo gọi bà Chúa Ba là Quan Âm Diệu Thiện) rằng, rắn thần có công
đưa công chúa Liễu Hạnh đi gặp Thủy Long Vương xin trị thủy. Ông Lốt
được đề cập, thường kịp thời cứu khốn phò nguy, được phong Thượng
Đẳng thần cứu quốc.
Quan lớn Tuần Tranh rất ít về ngự giá
nhập xác người lên đồng, nhưng khi về bao giờ cũng giáng sau các giá
cậu Bé, có động tác đặc trưng mô phỏng như hình con rắn lượn, người
lên đồng nằm dài được trùm toàn thân bằng khăn nhiễu đỏ, rồi bò đi
như hình zích zắc.
Một ban thờ sơn trang như một hòn non bộ cỡ
lớn, có núi, có suối, trang trí bà Chúa Sơn Trang (tức Thánh mâu
Thượng Ngàn) đứng cùng 12 thị nữ kinh thượng theo hầu rải rác trên
trang; ngoài ra trên sơn trang còn thờ bà Chầu Mười Đồng Mõ và Chầu
Chín.
– Nằm dưới hạ ban là hình một con hổ to,
có nơi tạc thành tượng, có nơi chỉ một bức tranh vẽ. Là Ngũ Dinh hay
là Ngũ Hổ tôn quan ngự trị ngũ phương :
* Hoàng hổ tướng
quân trấn Trung khu (Địa khu)
* Hắc hổ tướng
quân trấn Bắc khu (Thủy khu)
* Bạch hổ tướng
quân trấn ở Tây khu (Kim khu)
* Xích hổ tướng
quân trấn ở Nam khu (Hỏa khu)
* Thanh hổ tướng
quân trấn ở Đông khu (Mộc khu).
Khi giáng đồng, ông Dinh cũng như Quan lớn
Tuần Tranh thường giáng vào cuối giá cậu Bé, người lên đồng được
ngài nhập phải trùm khăn đỏ và vào tư thế một con hổ ngồi, dâng
nhang bằng miệng. Ông Dinh cũng như Ông Lốt rất ít xuất hiện, phải
người có căn mạng lớn mới được các ngài về ngự.
Nói về người có căn mạng Trần Triều, khác
với người có căn Bà, căn Cô hay căn Ông Hoàng, Bà Chúa. Người mang căn
mạng nhà Trần thường là những đồng nam. Trong giới đồng thường ví
“một đồng nam hơn ngàn đồng nữ”, thứ nhất đa số nam giới không tin
vào việc “cầu Thần nhập xác”, thứ hai họ cảm thấy xấu hổ khi ra
đồng phải đứng nhảy múa trước đám đông, thứ ba người đời thường mỉa
mai họ là dân đông bóng, như muốn ám chỉ họ thuộc dạng biến thái,
pê-đê… nên chuyện bị bắt đồng nếu có, ít người chịu ra đàn để lên
đồng hầu bóng theo lệ thường.
Người có căn Trần Triều, ngoài Đức Thánh
Hưng Đạo Đại Vương về nhập xác, còn có những vị vua, vị tướng thời
nhà Trần được phong Thần, phong Thánh, cũng thường giáng về ngự giá,
giới nữ đa số không có căn Trần Triều hoặc có chỉ thuộc căn nhẹ.
Sự linh hiển của Đức Hưng Đạo Đại Vương tại
đền thờ Kiếp Bạc, lúc khởi đâu được mọi người sùng bái gọi ngài
là Thần (vì ngài là Thành Hoàng của làng Kiếp, làng Bạc), sau được
nhiều đời vua Trần, Lê, Nguyễn phong chức Thánh thuộc Thượng Đẳng
thần, nên cách xưng tụng được đổi thành Đức Thánh Trần hoặc Trần
Triều Đại Vương. Người dân cho rằng Đức Thánh Trần rất linh hiển,
ngài luôn giáng về để trừ ma diệt quỷ cứu nhân độ thế; những người
bị cho ma ám quỷ hành, đưa đến gặp ngài ắt sẽ khỏi bệnh.
Người có căn nhà Trần khi ra hầu đồng, giá
Trần Triều được giáng về đầu tiên. Ngài uy dũng ra oai cầm thương đao
kiếm múa võ; có khi dùng một dải lụa thắt chặt bụng và cổ cho
thấy khuôn mặt tái xanh không còn máu đỏ luân lưu là thật. Để làm
bùa trừ ma diệt quỷ, ngài cắt lưỡi phun máu vào những lá bùa được
lập sẵn để khai khuông. Ai có những lá bùa này đều tin sẽ trừ được
tà ma quỷ ám, chúng sẽ không dám đến quấy phá nữa; trẻ con mới sinh
hay khóc đêm nếu lấy lá bùa gối dưới đầu giường nó sẽ không còn
khóc đêm.
Những người bị coi là ma nhập, đem lá bùa
đốt và tán với nước cho uống, tức thì con ma phải xuất ra khỏi
người ! Còn không trừ được bằng bùa, ngài dùng dầu sôi hay cả bó
nhang ngậm trong miệng mà phun vào nạn nhân để đuổi tà ma, yêu quỷ.
Ngài còn nhập đồng khi thể hiện qua hình
thức xuyên lình. Tức dùng hai cây dùi (gọi là lình) đâm vào hai bên
má, khi rút ra không còn tì vết; ở đền Kiếp Bạc vào dịp giỗ Đức
Thánh Trần có lễ rước kiệu Thánh, nhiều đồng nam cao niên đi theo sau
kiệu đã xuyên những cái lình dài qua má, vào làn da thái dương hay
ngay cổ họng… có người xuyên hông hoặc xuyên thẳng vào bụng, mà chưa
từng học qua việc luyện nội công hay thần quyền.
Lình thường làm bằng đồng thau, loại tiểu
dài cỡ 4 tấc có đường kính từ 2,5 đến 3 ly, loại trung dài khoảng 7
tấc đường kính 4 đến 5 ly và loại tạ dài cả thước đường kính 5 đến
6 ly, loại dài người xuyên lình khó buộc chặt vào người, nên cần có
người đỡ hai bên chuôi
Mời thư giãn với nhạc phẩm KHÚC XUÂN của Võ Thiện Thanh
qua tiếng hát Thanh Thảo, Dương Triệu Vũ:
*.
VŨ QUẾ LÂM (tên thật: Nguyễn Quế Lâm) giới thiệu
Địa chỉ: Thôn Thanh Thủy, xã Đông Xuân,
huyện Sóc Sơn, tỉnh Hà Nội.
.
.
........................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 01.12.2019.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
0 comments:
Đăng nhận xét