(Nguồn ảnh: internet) |
TÂM LÝ PHẬT GIÁO
TRONG TÂY DU KÝ
*
Về tâm lý trong Tây Du có một ý nghĩa rất hay mà
chưa ai khai thác được. Ngô Thừa Ân rất giỏi rất tài. Ta biết ngài Huyền Tráng
17 năm đi du học, về nước 19 năm dịch kinh.
Từ khi Ngài phát
tâm lúc 13 tuổi xin xuất gia, ngài thề rằng: Viễn thiệu Như Lai cận quan nhi
pháp. Chí nguyện của ngài từ đó về sau cho đến khi mãn cuộc dịch kinh, trọn
cuộc đời trước sau như một, không lay chuyển. Bao nhiêu khó khăn vất vả, bao
nhiêu vinh quang không lay chuyển. Một là ý nguyện lớn lao như hòn núi Tu di.
Lớn lao mà kiên cố, chứ không phải lớn lao mà không kiên cố. Nếu lớn lao mà
không kiên cố thì vác trời hai bữa rồi cũng bỏ thôi.
Nếu kiên cố mà không lớn lao thì kiên cố đó cũng
là kiên cố đi chơi chứ không ăn thua gì. Cho nên so với chúng ta, ngài là chí
nguyện Tu di, còn chúng ta như một hạt cơm hạt gạo mà thôi. Hạt gạo nó nấu kịp
thì thành hạt cơm, vừa đủ dán cái bì thơ chứ không làm chi hơn hết. Nếu không
kịp nếu cơm để lâu vài hôm thì mọt nó ăn hết. Như vậy cuộc đời ngài ta thấy rõ
từ khi phát tâm xuất gia 13 tuổi cho đến khi 25 tuổi đi thỉnh kinh, ngài chuyên
môn học. 25 tuổi qua Ấn cầu pháp học 17 năm. Về nước 19 năm chuyên môn dịch cho
đến khi gác bút nhắm mắt thì thôi, chí nguyện không bao giờ lay chuyển. Trong
đó không thấy nói ngài nghỉ giờ giải lao hay tiêu khiển, không thấy nói đi khám
bệnh hay đi nằm viện chi hết, đó là chuyện lạ.
Trong công trình dịch kinh của ngài, ngài dịch
một bộ Bát nhã 600 quyển mà trước đó chưa ai dịch hết. Vì trước đó thì người ta
dịch rải rác từng bộ từng bộ thôi. Về Bát nhã thì người ta cũng dịch rải rác
từng bộ như ngài La Thập dịch Kim cang hay Phóng quang Bát nhã… đến ngài thì
ngài dịch trọn bộ Bát nhã 600 quyển. Rồi dịch tiếp các luận về Duy thức, Đại
Tỳ-bà-sa 200 cuốn. Thuận chánh lý luận 80 quyển, Hiển Tôn luận 40 quyển, Câu-xá
luận 30 quyển. Và còn nhiều bộ luận khác mà ngài dịch trong 19 năm trời.
Đặc biệt ngài dở ra là dịch chứ không cần phải
ngồi suy tư nữa, 19 năm như vậy ngài dịch kinh kiên trì như hòn núi Tu Di là
hiếm có ai bì kịp. Qua sự dịch đó, các vị nên cố gắng bắt chước đôi chút, chứ
không thì không ích lợi gì hết. Trong việc dịch có kinh Bát-nhã nhưng ngài lại
thiên trọng về đạo lý Duy thức hơn. Mà trong Duy thức thì nói Vạn pháp Duy thức
có 4 thứ. Tiền ngũ thức, ý thức, mạt na thức và A-lại-da thức. Ở đây có một chi
tiết nên chú ý.
Tại sao phái đoàn Tây du thỉnh kinh mà không cấu
tạo 2 nhân vật, 3 nhân vật, 5 nhân vật, 6 nhân vật, 7 nhân vật mà lại cấu tạo 4
nhân vật thôi? Ông Ngô Thừa Ân ông có ý gì không? Chắc chắn có. Trong 4 nhân
vật của ông cấu tạo là để tiêu biểu cho 4 cái thức của mỗi con người chúng ta.
Tam tạng là tiêu biểu cho A-lại-da thức, có vẻ vô tư, vô thiện, vô ác, vô phú,
vô ký tánh. Trư Bát giới là tiêu biểu cho đệ thất thức, anh đó say mê ăn ngủ,
ưa chấp ngã lắm, cho nên bao nhiêu cái hư hỏng phiền não là do anh mà ra hết.
Rồi ý thức là Tề Thiên Đại Thánh, là anh bay trên trời cũng được, lặn xuống
nước cũng được. Quá khứ vị lai hiện tại anh ta đều biết cả. Tiền ngũ thức là Sa
Tăng. Anh Sa Tăng là anh xuôi xuôi theo vậy thôi.
Trong chuyện Tây Du có phải vậy không? Sa Tăng
thì xuôi xuôi như vậy, đó là đặc tính của tiền ngũ thức, gặp đâu hay đó, gặp
sắc thì hay sắc, gặp tiếng thì nghe tiếng, hễ tiếng qua đi rồi thì thôi. Khi đó
chỉ có anh ý thức thôi chứ tiền ngữ thức anh không làm việc đó. Rõ ràng chưa?
Còn con ngựa nữa? À, ở đây ta nói con người thôi chứ ai nói ngựa làm gì. Ngựa
là chuyện khác. Trong đoàn đó chính thức là 4 người. Còn gặp chuyện nam nữ yêu
quái giữa đường đó là tiêu biểu cho mấy tâm sở. Nói như vậy để biết mỗi người
trong chúng ta có 4 tâm đó không? Có. Như vậy mỗi người chúng ta là 1 đoàn
thỉnh kinh, một đoàn Tây du đi thỉnh kinh. Dầu có đến hay không đến, cái đó tùy
mỗi người thôi. Thấy hết như vậy rồi thì chính mình là một đoàn thỉnh kinh chứ
không ai khác, chứ không riêng ngài đi thỉnh đâu mà chính mình đi thỉnh đó.
TIỂU
SỬ HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN SIÊU
“Sư
tên thật là Võ Trọng Tường, sinh ngày 15 tháng 7 năm Tân Dậu 1921 âm lịch trong
một gia đình mộ đạo Phật ở làng Thần Phù, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Năm 14 tuổi (1935), sư xuất
gia học học Phật pháp tại chùa Trúc Lâm, Huế -
trường Phật học đầu tiên của Hội An Nam Phật Học - trải qua các chương trình
Phật học sơ cấp, trung cấp rồi đến cao cấp.
Năm
23 tuổi (1944), sư trở thành giảng viên của trường Phật học nói trên - lúc này
đã chuyển địa điểm sang Đại Tòng Lâm Kim Sơn, Huế.
Từ
năm 1950 đến năm 1955, sư được cử làm Chánh Hội trưởng Tỉnh hội Phật giáo Thừa
Thiên.
Từ
năm 1957 đến năm 1962, sư được cử làm Đốc giáo Phật học đường Trung Việt
tại chùa Hải Đức, Nha Trang.
Năm
1962, sư trở lại Huế và làm giảng viên Phật học và tham gia công tác của Tổng
trị sự Phật giáo Trung phần và Tỉnh hội Phật giáo Thừa Thiên - Huế.
Ngày
20 tháng 8 năm 1963, sư bị Chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam vì phản đối chính quyền này đàn áp
Phật giáo. Đến khi Diệm bị lật đổ, sư mới được thả.
Từ
năm 1964 đến năm 1974, sư được của làm Phó đại diện Phật giáo miền Vạn Hạnh;
điều hành và giảng dạy lớp Cao đẳng Phật học chuyên khoa Liễu Quán tại chùa Linh Quang, Huế. Sư cũng tham gia giảng
dạy các lớp Phật học ở nhiều tỉnh miền Trung khác.
Từ
năm 1973 đến năm 1974, sư được cử giữ chức vụ Viện trưởng Viện Cao đẳng Phật
học Hải Đức, Nha Trang.
Năm
1981, sư được cử làm Trưởng phái đoàn, đại diện cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
nhất dự đại hội thống nhất Phật giáo cả nước tại chùa Quán Sứ, Hà Nội.
Tại đại hội này, sư được suy cử chức vu Trưởng ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương
Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Từ
năm 1981 đến năm 1984, sư được mời giảng dạy tại Trường Cao cấp Phật học ở chùa
Quán Sứ.
Từ
năm 1982 đến năm 1988, sư làm Trưởng ban Trị sự tỉnh Phú Khánh liên
tiếp hai nhiệm kì.
Từ
năm 1984 đến năm 1988, sư được cử làm Phó hiệu trưởng Trường Cao cấp Phật học
tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Năm
1984, sư được cử làm Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật
giáo Việt Nam.
Năm
1988, khi Viện Nghiên cứu
Phật Học Việt Nam được thành lập, sư được cử làm Phó Viện
trưởng.
Từ
tháng 4-1987 đến khi qua đời, sư được bầu vào Đại biểu Quốc hội liên tiếp ba
khóa VIII, IX và X.
Năm
1991, Giáo hội cử sư làm Phó chủ tịch Hội đồng Phiên dịch Đại tạng kinh Việt Nam,
đặc trách Hán tạng.
Từ
năm 1994 đến năm 2001, Giáo hội cử sư làm Hiệu trưởng Trường Cơ Bản Phật học
(nay là Trường Trung cấp Phật Học), Thừa Thiên – Huế.
Năm
1997, sư được Giáo hội cử làm Viện trưởng Học viện Phật giáo
Việt Nam tại Huế và đảm nhiệm vị trí này cho đến ngày qua đời.”
(Theo:
vi.wikipedia.org)
Đặng Xuân Xuyến giới thiệu
0 comments:
Đăng nhận xét