(Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều ; Nguồn ảnh: internet) |
SỰ MẤT NGỦ CỦA LỬA
HAY SỰ THAO
THỨC CỦA MỘT HỒN THƠ
*:
Đây là bài viết tham gia Hội
thảo Thơ Nguyễn Quang Thiều do viện Văn học tổ chức, mà tôi vì tình
thân với Nguyễn Quang Thiều đã tích cực tham gia. Có điều là một nhà nghiên
cứu, tôi luôn tôn trọng tính khách quan và khoa học, nên bài tôi viết rất tình
cảm nhưng luôn dựa trên văn bản thơ Nguyễn Quang Thiều, với lối phê bình phân
tích chi li chứ không theo kiểu “tán quá” một cách đầy cảm tính, thích thì khen
ghét thì chê thế nào cũng được.
Một cách chung nhất, nếu không có tri thức thơ hiện đại nói riêng
và nghệ thuật hiện đại nói chung, người đọc không thể cảm thụ được thơ Nguyễn
Quang Thiều, giống như một đứa bé thích ăn kem không thể uống được rượu mạnh
vậy.
Đây chính là cuộc Hội thảo mà ông Trần Mạnh Hảo đang chống đối rất
mạnh: “Chúng tôi thấy thơ ông Nguyễn
Quang Thiều viết rất dễ dãi, tào lao,… thuộc trường phái thơ “Tân…con cóc”…”.
Ông Hảo cũng cay, khi ông Thiều kém ông Hảo cả chục tuổi nhưng lại không coi
ông Hảo là nhà phê bình, khi tôi hỏi, Thiều bảo: "Thằng điên ấy chấp làm gì", chính vậy Nguyễn Quang Thiều mới
ứng xử với ông Hảo như với một kẻ bụi đời: “Ông
Thiều không tranh luận lại mà lên mạng Internet chửi chúng tôi như một ả mất gà
rằng: “Nhưng với những gì anh viết về tôi (tôi xin nhấn mạnh: không liên
quan đến thơ ca của tôi) tôi chỉ còn biết nói với anh một câu duy nhất: anh là
một thẳng đê tiện và bỉ ổi.”… Ký tên Nguyễn Quang Thiều”
Còn ông Đỗ Hoàng nào đó cũng cho thơ Nguyễn Quang Thiều là loại
thơ “Vô lối”, và khoe đã được “thần
đồng” Trần Đăng Khoa cổ vũ: “Bác đả
Nguyễn Quang Thiều hay đấy!”; rồi: “Bác đả thế là Nguyễn Quang Thiều nốc ao rồi!” Đỗ
Hoàng còn cho thơ Nguyễn Quang Thiều là “một
loại quái thai của văn chương”; và còn bậy bạ khi viết: “mà lại được đám ba đầu sáu tay tung hô hết
cỡ”, rồi: “các học giả, nhà phê bình, giáo sư đại học, cánh hẩu viết bài lăng
xê, ca ngợi hết lời”. Tôi đã có ý đề nghị các cơ quan và những nhân vật
liên quan nên kiện thằng cha này ra tòa!
(Tác giả Đông La) |
Dường như Nguyễn Quang Thiều sinh ra để làm thơ.
Ngôi làng Chùa bên bờ sông Đáy thơ mộng, nơi anh sinh ra, đã trở thành cánh
đồng phì nhiêu trong tâm hồn để anh gieo hạt và rồi nảy mầm, sinh sôi những vần
thơ:
Tôi hát bài hát về cố
hương tôi
Khi tất cả đã ngủ say
Dưới những vì sao ướt
đẫm
Những ngọn gió hoang mê
dại tìm về
…
Đâu đây những bầu vú con
gái tuổi mười lăm như
những mầm cây đang nhoi
lên khỏi đất
Và đâu đây tiếng ho
người già khúc khắc
Những trái cây chín mê
ngủ tuột khỏi cành rơi xuống
Góc vườn khuya cỏ thức một mình
Vốn có một tâm hồn rất nhạy cảm, một trí tưởng
tượng rất phong phú, như một lần tôi đã viết trong bài Tư duy thơ Nguyễn
Quang Thiều (in trong cuốn Biên
độ của trí tưởng tượng, Nhà xuất bản Văn học, 2001), đối với Nguyễn Quang
Thiều, không có ranh giới của sự sống và cái chết. Tràn ngập trong thơ anh là
hình ảnh những linh hồn của những người thân yêu, linh hồn của những con vật,
linh hồn của cây cối và của cả đồ vật. Mà thật thú vị ở chỗ, bằng phân tích
ADN, các nhà khoa học đã xác định khả năng của các nhà ngoại cảm giao tiếp được
với linh hồn là có thực, và như vậy Nguyễn Quang Thiều đã đúng. Với anh, tất cả
mọi thứ trong thế giới này đều là sinh thể, đều có tâm hồn. Chính vậy, Nguyễn
Quang Thiều mới có thể nghe thấy nơi cánh đồng quê mình: “Bầy lúa nước vừa mang thai vừa than thở”; mới nhìn thấy nơi đầm,
hồ, ao, chuôm: “Gió quẫy đuôi vật đẻ làm
tan đám bèo ngơ ngác/ Chùm trứng sao lững lờ trong đáy nước trời xa”. Trong
ký ức non tơ, khi đau ốm, chú bé nhà thơ tương lai còn thương lo cho cả những
con thuyền, sợ chúng bị cảm lạnh khi neo đậu nơi bến sông quê:
Con ốm đau con ho bên
cửa
Những con thuyền ốm đau
nằm đâu
Mẹ ơi mang áo con thả
vào bến nước
Cho những con thuyền bớt
rét, bớt ho
Vùng quê ấy cũng đã khắc ghi trong ký ức anh những
hình ảnh thật thơ mộng về những rung động thuở đầu đời:
Những tấm võng tơ nhện
thuở ta bên nhau
đựng đầy mưa xuân không
sao đứt nổi
Giờ em vĩnh viễn ra đi
võng đứt hết rồi
Gió vơ những mảnh võng
rách và vùi vào đâu đó
Những hạt mưa sơ sinh
không biết ngủ nơi nào
Đặc biệt vùng quê ấy cũng là nơi những người ruột
thịt thân yêu của Nguyễn Quang Thiều tự bao đời nối tiếp sinh ra. Qua lời tâm
sự mở đầu tập Châu thổ (Thơ
tuyển, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 2010), anh đã có một tình cảm thật đặc biệt đối
với người bà nội của mình. Anh đã cho biết người thầy vĩ đại của anh, không
phải là thầy giáo ở trường lớp, cũng không phải những nhà thơ bất tử trong lịch
sử thi ca đất nước, và cũng chẳng phải những nhà thơ lớn, những nhà thơ đoạt
giải Nobel trên thế giới; mà chính là bà nội. Trong căn phòng “có mái gác bằng tre. Cạnh giường có cửa sổ
thông qua vườn hàng xóm”, cậu bé nhà thơ tương lai Nguyễn Quang Thiều 8
tuổi trở thành học trò, bài giảng là những lời kể của người bà bằng trí nhớ,
với một âm vang đặc biệt của một giọng nói của một người khát khao sống, trong
trạng thái cơ thể bị bại liệt, cách ly hoàn toàn với những hoạt động ngoài đời.
Trong không gian có mùi cao con hổ, mùi trầu, khung cảnh làng quê và những
người thân quen đã hiện lên trong lời kể của bà, trong đó có cả những hình ảnh
thật kỳ dị: con lợn nái ăn thịt chính những con lợn con nó vừa sinh ra; những
con cá trê trắng bệch trong những ngôi mộ ngập nước… Tất cả, tất cả đều
không nói về thơ nhưng đã tác động và làm nảy sinh trong trí óc non tơ của
Nguyễn Quang Thiều cả một thế giới của trí tưởng tượng, một thế giới mà anh cảm
thấy “nếu chém vào không gian một nhát
dao thì ở đó một cái cây trong suốt bị đổ gục, một ngón tay trong suốt bị đứt
lìa”, và chính cái trí tưởng tượng ấy là công cụ chủ yếu của một nhà thơ.
Trong Hồi tưởng tháng Hai thật lạ và
cũng thật xúc động khi ta được chứng kiến một đám ma đặc biệt: đám ma tóc:
Đó là tháng bà tôi đòi
cắt tóc
Cha tôi mang tóc bà tôi
chôn xuống cánh đồng
Cỏ mộ tóc tốt tươi trong
bóng tối
Tôi trốn bà ra khóc tóc
bà tôi
Sau bốn năm bị bại liệt, bà nội mất, Nguyễn Quang
Thiều cũng đã viết cả một bài thơ dài Nhịp điệu châu thổ mới để tưởng nhớ bà, bài mà tôi cũng đã phân tích đôi
nét trong bài viết của tôi đã nói ở trên: “Khi
tượng trưng hóa mọi cảnh vật, mọi sự việc, Nguyễn Quang Thiều đã dựng lên một
thế giới của trí tưởng tượng mà ở đó không có ranh giới giữa sự sống và cái
chết. Qua con mắt của một đứa trẻ, cuộc tiễn đưa cái chết của người bà nội được
dựng lên như một hành trình về một xứ sở kỳ lạ; và cái chết cũng không phải chỉ
là cái chết mà là sự gieo cấy một sứ mệnh mới: “Thổ ngữ gieo từ bàn tay Người
Nông Dân Già vào tay cậu bé. Cậu bé chầm chậm mở vương quốc của mình”; rồi từ
đó “Mở ra một con đường”, rồi “Một cây cầu” được dựng lên mà đứa bé “Như một
trụ cầu mọc lên để đỡ lấy một giọng nói”… Đứa bé ấy chính là Nguyễn Quang
Thiều và giọng nói ấy chính là THI CA”.
Ngoài bà nội, như một lẽ tất nhiên, Nguyễn Quang
Thiều cũng viết về những người thân yêu ruột thịt, những người mà anh luôn phải
cần đến, nơi là điểm tựa, là chốn anh luôn phải trở về, khi phải sống trong một
thế giới xô bồ, ngột ngạt:
Trước trái đất đang nóng
lên từng độ
Và trái tim con người cứ
lạnh dần đi
Thì tôi phải cần em cần
bạn bè cây lá
Cần có một quê hương để
được trở về mình
Trong bài Dâng trà, tình cảm anh dành cho
người cha lại là một sự dằn vặt của một đứa con, khi thấy chỉ vì đam mê thơ
phú, đã không làm tròn được chữ hiếu với những bậc sinh thành kính yêu:
Phận con nhàu trọn lòng
tay
Một câu thơ bạc một ngày
vô ơn
…
Thưa cha con đã dâng trà
Sao cha im lặng như là
bóng mây
Để hồn trà khuất đâu đây
Xác trà lạnh ngắt đổ đầy
lòng con
Với Nguyễn Quang Thiều, hình bóng mẹ, người dứt
ruột sinh ra anh và dòng sông Đáy, con sông quê hương, gần gũi và thân thương
đến nỗi như hòa làm một:
Sông Đáy chảy vào đời
tôi
Như mẹ tôi gánh nặng rẽ
vào ngõ sau mỗi buổi chiều đi làm về vất
vả
Tôi dụi mặt vào lưng áo
người đẫm mồ hôi mát một mảnh sông đêm
…
Sông Đáy ơi, sông Đáy
ơi… chiều nay tôi trở lại
Mẹ tôi đã già như cát
trên bờ
Ôi mùi cát khô, mùi tóc
của mẹ tôi
Tôi quì xuống vốc cát ấp
vào mặt
Tôi khóc
Cát từ mặt tôi chảy
xuống ròng ròng
Với một nhà thơ thương đến cả những con thuyền đậu
ở bến sông, thấu hiểu tâm sự đến từng gốc cây ngọn cỏ, thì tình thương dành cho
những đứa con bé bỏng tất phải vô cùng vô tận. Và trong một thế giới đầy cạm
bẫy này, tình thương của người cha thi sĩ ấy cũng chất đầy những âu lo, và anh
sẵn sàng hy sinh vì hạnh phúc của những đứa con:
Con mặc chiếc váy mỏng
như khâu bằng những cánh hoa tầm xuân
Con đi đôi giày nhỏ như
làm bằng hai chiếc kén tằm vàng
Trên con đường trước nhà
ta đầy đá
Con chạy ra đón cha
…
Con gái của cha ơi
Cha nghe thấy có tiếng
cười lạ
Cha nghe thấy có tiếng
người lạ
Dẫu không gọi tên con
cũng không gọi tên cha
Mà sao cha sợ run lên
…
Cha mở đời cha như mở
một tấm lót
Bọc lấy con và bế con
lên
Chỉ như thế cha mới có
thể nhắm đôi mắt lại
Hôn dịu dàng lên mái tóc
con
Chỉ như thế chiều nay
cha mới không òa khóc
Trong bài thơ Con bống đen đẻ trứng đề
tặng hai đứa con Thuật, Ngân, một chàng hoàng tử và một nàng công
chúa của anh, anh bộc bạch lòng mình nhiều hơn, cũng lại là những âu lo cho
cuộc sống của hai đứa con. Người cha thi sĩ kinh hãi nhận thấy, khi người đời
còn tranh đoạt điên loạn, khi lòng tham không cùng không bao giờ được thỏa mãn
thì sự tranh đoạt ấy không bao giờ tìm đến được hạnh phúc mà thực sự là tự tìm
đến cái chết: “Quanh các con
tôi thế giới đang tự sát”; “Những
trái cây tự rơi vào thuốc độc”; “những
đền chùa gục ngã trước những pho kinh phản bội”; “Những ô kính tự tát vỡ mình”; “Những
ngôi nhà cao tầng tự chặt xương sống mình”… Lúc ấy, nơi chốn duy nhất người
cha muốn đưa hai đứa con mình về ẩn náu chính là cố hương. Nơi có “cánh đồng của bà nội” chờ đợi những đứa
con trở về “mai táng những mùa màng
tàn tật”, để rồi chúng sẽ gieo “những
hạt giống thần” mà Tổ Tiên đã cất giữ, trao lại, làm siêu thoát những “oan hồn của cái đói”. Nơi ấy cũng chính
là dòng sông Đáy, nơi “Những thuyền chết
đậu bến mây”; “Những thuyền sống đậu
bến nước”, khi những đứa con thấy thiếu chèo thì “Cha sẽ chặt cánh tay cha làm chèo”, khi
những đứa con thấy thiếu buồm thì “Cha
cắt phổi cha làm buồm” và khi thiếu dây thì “Cha dứt tóc cha bện dây”. Những đứa con sẽ ngủ trong “ngôi nhà hai mái của ông nội”, “ngọn lửa thiêng từ triệu triệu năm sẽ tự
thức dậy” “nấu nồi cơm nếp hoa vàng” cho
những đứa con “đơm vào mo cau cổ tích”
mang ra bến sông nơi “con bống bạc”
của tuổi thơ người cha đã nổi lên, “con
bống vàng” nửa đời người cha ngóng đợi đã quẫy đuôi, và “con bống đen” sẽ trở về với “hai con mắt sáng hai vầng Nhật, Nguyệt”
và sẽ “Đẻ cho ban mai một dải trứng hồng”…
Tóm lại, tất cả, tất cả những hình ảnh lấp lánh đó, người cha thi sĩ muốn nói
với hai đứa con yêu rằng, dù cái thế giới đầy bất trắc này có thế nào thì quê
hương, nguồn cội, chính là nơi duy nhất tiếp cho chúng ta sức mạnh để sống, để
mơ ước.
Thấm thoắt đã tròn hai thập kỷ trôi qua, ngày tôi
biết đến Nguyễn Quang Thiều qua tập thơ “Sự
mất ngủ của lửa”, tập thơ được giải của Hội Nhà Văn Việt Nam. Ngày ấy cũng
là những ngày trong tôi tràn đầy nhiệt huyết, đầy ước mơ, sau giai đoạn đầu đầy
lưỡng lự và do dự giữa công việc nghiên cứu ở một viện dược và sự sáng tác văn
chương. Nhưng rồi Chế Lan Viên, tôi lại buộc phải nhắc đến ông vì nếu không
được gặp ông, không được ông quan tâm có lẽ tôi không viết, bởi công việc
nghiên cứu thiết thực hơn và nó cũng đòi hỏi tôi phải dốc toàn tâm, toàn sức
cho nó. Sau Chế Lan Viên, người lôi kéo tôi dấn sâu vào văn chương hơn nữa lại
là chính Nguyễn Quang Thiều. Tôi sáng tác vốn tùy hứng, chính vì Nguyễn Quang
Thiều làm biên tập ở Báo Văn Nghệ thỉnh thoảng giục tôi gởi bài nên tôi mới
viết.
Ngày ấy tên tuổi Nguyễn Quang Thiều đã vang như sấm
rền, thơ anh xuất hiện thực sự làm lung lay khuôn mẫu thẩm mỹ quen thuộc, khiến
những tác giả làm theo khuôn mẫu đó, mà phần lớn đã thành danh, dị ứng, cho thơ
anh là “lai căng”, “tây giả cầy”, “thơ dịch xổi”. Thêm nữa, anh còn bồi thêm “một đòn thương mến” khi tuyên bố đại ý, thơ ca nước ta cần phải
vượt qua “vũng bùn tiểu nông” làm bao
“ông giời con” “những cái rốn vũ trụ” điên tiết, lồng lộn. Cái phát ngôn kia quả có
hơi cực đoan nhưng tiếc thay nó lại đúng. Mà xã hội Việt Nam, không chỉ thơ ca,
mà chúng ta còn phải vượt qua rất nhiều cái “tiểu” khác nữa, như tiểu thương,
tiểu thủ công và cả tiểu khoa học công nghệ,… cùng với bao hủ tục manh mún, tủn
mủn của cả một nền văn hoá ở một xã hội kém phát triển. Trong những chê bai ồn
ào đó, tôi lại chú ý nhiều hơn đến một ông nhà thơ, nhạc sĩ khá nổi tiếng, giờ
thì đã chết rồi, chê cái nhan đề tập thơ Sự mất ngủ của lửa là “Tây
quá”. Không hiểu do trình độ hay do lòng đố kỵ mà người ta thường sai lầm
khi chê bai nhau một cách cảm tính như thế. Bởi Nguyễn Đình Thi cũng có một
thao tác ngôn ngữ y hệt Nguyễn Quang Thiều, mà viết trước Nguyễn Quang Thiều cả
mấy chục năm, thì chẳng thấy ai cho là lai Tây cả, ngược lại, lại tôn vinh là
những câu thơ hay nhất không chỉ của riêng Nguyễn Đình Thi mà của cả nền thơ Việt
Nam:
Ôi những cánh đồng quê
chảy máu
Dây thép gai đâm nát
trời chiều
Nguyễn Đình Thi có quyền viết “cánh đồng chảy máu”, còn Nguyễn Quang Thiều không có quyền viết “sự mất ngủ của lửa” sao? Với thơ, công
cụ quan trọng nhất làm cho nó hàm súc chính là trí tưởng tượng, không có trí
tưởng tượng các nhà thơ sẽ chỉ mô tả được cái vỏ hình ảnh giống nhau của đời
sống. Mà cái thao tác để biểu đạt trí tưởng tượng ấy chính là tri thức ngôn
ngữ, như những phép ẩn dụ, phúng dụ, hoán dụ, đề dụ v.v… Những nhà thơ vì
có năng khiếu nên có khi chẳng cần học, chẳng cần biết về chúng vẫn sử dụng một
cách hoàn toàn tự nhiên. Nếu hiểu “Sự mất ngủ của lửa” theo ngôn ngữ giao tiếp
sẽ thấy vô nghĩa, còn hiểu nó là một hình ảnh ẩn dụ thì sẽ thấy phải có một trí
tưởng tượng phong phú đến như thế nào, sự lao tâm khổ tứ đến như thế nào mới có
thể nghĩ ra được một hình ảnh lung linh và có sức gợi như thế. Như tôi đã viết
vài lần ở đâu đó, nếu nói cụ thể về một điều gì đó thì người đọc chỉ hiểu về
điều đó, còn nói một cách tượng trưng, tức chỉ gợi mở thôi, sẽ tạo ra sự liên
tưởng nhiều chiều. Ngọn lửa đời thường thì không thể mất ngủ được rồi, chỉ nấu
cơm được thôi, còn “ngọn lửa” trong thơ Nguyễn Quang Thiều là ngọn lửa của tình
yêu, ngọn lửa của lương tri, sự “mất ngủ” chính là sự thao thức, sự trăn trở
nghĩ suy về toàn bộ đời sống con người. Và thật thú vị, nếu ta đã đọc và đồng
cảm được với thơ anh, ta sẽ nhận ra Sự
mất ngủ của lửa chính là tuyên ngôn về thơ của Nguyễn Quang Thiều, và
toàn bộ thơ ca của anh, cả hình thức lẫn nội dung, đều viết theo cái tinh thần
đó.
Về hình thức, ngôn ngữ của anh là ngôn ngữ ký hiệu,
chúng vừa biểu đạt ý nghĩa thông thường vừa gợi mở nhiều liên tưởng tùy theo
cấu trúc bài thơ. Khi bàn về ngôn ngữ thơ,Reverdy viết: “Đặc tính của hình ảnh gợi cảm mạnh mẽ là
xuất hiện từ chỗ ngẫu nhiên tương cận của hai sự thực rất xa nhau, mà chỉ tinh
thần mới thấy mối liên hệ”. Có điều khi nói một cách nửa chừng, không cụ
thể như vậy, tất sẽ dẫn đến chuyện khó hiểu. Về cái sự khó hiểu
này Bellay nói: “Tôi không lấy
làm lạ nếu có nhiều kẻ chẳng thấy thơ nào hay, trừ những bài họ hiểu”.
Còn Mallarmé cho: “Câu thơ phải
bao hàm dụng ý, tất cả lời lẽ phải khuất sau cảm giác”. Perse thì
giải thích : “Sự tối nghĩa của thơ, mà
người ta chê trách, không do bản chất thơ vì thơ vốn soi sáng, nhưng do bóng
đen mù mịt như đêm mà thơ phải thăm dò”. (dẫn theo cuốn : “Những bậc thầy
văn chương thế giới tư tưởng và quan niệm, Lê Huy Hòa, Nguyễn Văn Bình soạn, Nhà
xuất bản Văn học, 1995).
Trước một văn bản có tính phúng dụ, người đọc không
bao giờ hiểu hết được sự ám chỉ của tác giả, ngược lại người đọc cũng có thể
liên tưởng tới những điều mà chính tác giả cũng không ngờ tới. Nhiều văn
bản thơ hiện đại, chính tác giả cũng không thể giải thích được chi tiết mình
viết câu này câu kia là có ý nghĩa gì, cũng như trước những bức tranh hiện đại,
những bản giao hưởng, các hoạ sĩ và các nhạc sĩ cũng không thể giải thích chi
li được. Lúc đó ta chỉ có thể cảm nhận bằng ấn tượng, bằng cảm xúc từ hiệu ứng
tổng hợp của tác phẩm. Cũng như ta thấy một một bông hoa đẹp mà không cần phải
hiểu nó nở theo một ý nghĩa nào, ta ăn một món thấy ngon mà không cần phải hiểu
nó chứa tư tưởng nào. Nếu hiểu được như vậy thì đọc thơ Nguyễn Quang Thiều
chẳng có gì là khó hiểu cả.
Chính từ thi pháp đó, Nguyễn Quang Thiều đã làm ra
những bài thơ mà gần như toàn bộ, dù viết về điều gì, cũng chất chứa sự trăn
trở, sự thao thức, tức “sự mất ngủ” của một hồn thơ trĩu nặng những suy tư.
Chúng ta đã và đang sống trong một thế giới đầy
tham lam và bạo tàn. Đất nước bé nhỏ và yếu đuối của chúng ta từng là nạn nhân
của cái lòng tham đó, khi những nước lớn từng coi dân ta như một lũ man di và
tổ quốc ta như một bãi hoang. Trong quá trình giành lại chủ quyền vô cùng gian
khó, chúng ta buộc phải nhờ vả, liên minh liên kết. Mục đích lớn nhất là chủ
quyền chúng ta đã đòi lại được nhưng chúng ta buộc phải trả giá, và oái oăm
nhất trong đó chính là việc chúng ta lại trở thành nạn nhân của chính chúng ta
bởi những cố chấp, những thù hận; bởi sự nô lệ cho những ý thức xơ cứng, mòn cũ.
Chúng ta từng phải trải qua những thảm họa, mà sát sườn nhất, cấp thiết nhất
chính là cái đói, bởi chúng ta đã tự giam nhau trong ao ngòi tù đọng, quanh
quẩn, vô vọng.
Trong bài Những người đàn bà gánh nước sông,
Nguyễn Quang Thiều viết:
Những ngón chân xương
xẩu, móng dài và đen toẽ ra
như móng chân gà mái
Đã năm năm, mười lăm
năm, ba mươi năm và
nửa đời tôi nhìn
thấy
Những người đàn bà xuống
gánh nước sông
…
Những người đàn ông mang
cần câu và cơn mơ
biển ra khỏi nhà lặng lẽ
Những con cá thiêng quay
mặt khóc…
Trước những lưỡi câu ngơ
ngác lộ mồi
Bài Trên đại lộ:
Những người đàn bà vác
dậm đi thành một hàng dọc
về phía bên phải sát mép
đại lộ
Người họ bọc kín bởi
những lớp vải nâu và đen
…
Họ lặng lẽ đi như một
đội quân thất trận
Cán dậm chúi xuống mặt
đường – Những
nòng súng hết đạn
…
Họ đến từ đâu và sẽ đi
đâu
Với mùi tanh cua ốc tỏa
quanh người
Bài “Bầy chó của tôi”, bài mà một lần gặp
Nhà văn Nguyễn Bản, tác giả của truyện ngắn Ánh trăng nổi tiếng,
trong một lúc bàn luận văn chương thế nào đó, tôi đã hứng chí đọc cho ông nghe.
Ông bảo, khiếp thật, bài thơ có mấy câu mà nội dung còn lớn hơn nhiều cuốn tiểu
thuyết rỗng, không có tư tưởng. Thế giới hiện đại, có người có tài sản bằng cả
một quốc gia, nhưng vẫn có nơi người ta phải lấy bùn làm bánh ăn. Việc kiếm
sống vẫn mãi còn là công việc nặng nhọc của số đông con người trên trái đất
này. Hình ảnh những con chó kiếm ăn chính là sự biểu đạt của Nguyễn Quang Thiều
về cái nỗi thống khổ, lam lũ mang tính nhân loại đó:
Bầy chó gầy bẩn thỉu ốm
đau
Ngày lùng sục kiếm ăn
Liếm cả vào lưỡi dao sắc
ngọt
Lưỡi bị cứa máu trào ra
ở đó
Con đến sau lại liếm máu
bầy mình
Để tránh sụp đổ, tan vỡ, cần phải thay đổi, mà ngôn
từ chính trị gọi là đổi mới. Và thực tế chúng ta đã đổi mới và đã đạt được
những thành quả tuyệt vời, dù rằng, để theo kịp những nước phát triển, chúng ta
còn phải thay đổi nhiều nữa. Nhưng như mọi quá trình chuyển động, sự chuyển
động vượt qua chính bản thân mình thường rất khó khăn. Bằng thơ, Nguyễn Quang
Thiều cũng đã biểu đạt cái quá trình đó. Trong bài Cái đẹp, Nguyễn Quang
Thiều đã dựng lên một hành trình nặng nhọc không biết đâu là đích trong rét
buốt, trong gió lộng, của một người đàn ông đẩy một chiếc xe bò chở một người
đàn bà đẹp trên một thùng xe có đống đá, chiếc xe đi quá chậm, người đàn bà phải
che bớt khuôn mặt lại. Trong bài Chuyển động, Nguyễn Quang Thiều mô
tả một bầy ốc sên, dưới “Ánh trăng
im phắc”, “Những bầy ốc sên bò qua
giấc ngủ của cỏ”, “Chúng miết những
tấm thân mềm qua những mảnh chai vỡ sắc lạnh”, “Chúng đang rời bỏ quê hương mình hay đi tìm lại quê hương”. Đọc
những câu thơ tả những những con ốc sên bé nhỏ bò qua biên giới của khu vườn
như vậy, tôi lại thấy hiện ra hành trình hội nhập với thế giới của đất nước ta.
Và như sự xếp đặt của số phận, Nguyễn Quang Thiều đã được đào tạo chuyên về
tiếng Anh, rồi bằng thơ ca, anh đã đến với thế giới và như là một trong những
sứ giả của quá trình hội nhập đó. Cụ thể, anh đã góp công vào quá trình làm cho
những người từng là cựu thù hiểu biết, rồi yêu mến con người và đất nước chúng
ta. Trong đó có Kenvin Bowen, một nhà thơ Mỹ, từng tham chiến ở Việt Nam, đã
trở thành người bạn thân thiết của Nguyễn Quang Thiều. Trong bài Phác thảo
Kenvin Bowen, Nguyễn Quang Thiều đã vẽ chân dung ông, một người “Từng đi qua cái chết, từng nhẫn nại yêu một
dân tộc xa lạ”, rồi ông trở thành “cột
mốc trên đường biên giới của bóng tối và ánh sáng”, để rồi dẫn mọi người
đến “Trước một hừng đông của hiểu biết và
thân thiện”.
Trong quá trình hội nhập đó, Nguyễn Quang Thiều
cũng đã đến với thơ của Joseph Brodsky, một nhà thơ Mỹ gốc Nga, đoạt giải Nobel
1987, người mà Nguyễn Quang Thiều rất kính phục và ít nhiều có ảnh hưởng bởi
thơ ông. Ông có một số phận kỳ lạ, sinh ra ở một đất nước có một nền văn hóa vĩ
đại, đất nước của Levitan, của Pushkin, Dostoyevsky, Lev Tolstoy nhưng
dưới thời Khrushchov, ông lại bị kết tội là “ăn bám xã hội” vì làm thơ, buộc phải rời bỏ tổ quốc. Ông cho rằng
mình bị như vậy bởi “những kẻ độc tài luôn thù địch với những giá trị cao cả,
rắp tâm biến con người thành những số không nhỏ bé”. Trong một bài tưởng nhớ
ông, Nguyễn Quang Thiều đã viết:
Người đã an ủi giấc ngủ
nặng xiềng xích những tư tưởng
Nhân loại giờ đây còn
mang nặng xiềng xích ấy hơn
Nhưng giấc mơ hão huyền
còn khủng khiếp hơn tất cả
Nó biến bao đồng loại
chúng ta thành xác chết dối lừa
Phải chăng chính từ số phận của Brodsky, mà Nguyễn
Quang Thiều thấy rằng sứ mệnh nhà thơ là “cõng
trên lưng tảng đá khổng lồ của sự đày đọa để được kêu vang tự do”. Nguyễn
Quang Thiều thấy, khi thế giới còn bị ngự trị bởi lòng tham thì cái ác, sự phi
lý luôn sinh sôi, những nhà thơ thật bất lực, thật yếu đuối như “những xác chết tươi”, “những thân sống đang tằn tiện thở”. Khi
ấy nhà thơ muốn làm Hoa tiêucần phải giả thành người mù vì trong một xã
hội những kẻ sống bằng bóng tối luôn rình rập, ngăn cản. Trong diễn
từ nhận giải Nobel, Brodsky cho rằng: “Thức
ăn không thể thiếu được của văn chương chính là sự phong phú đa dạng và những
mặt xấu của cuộc đời”. Trong thơ Nguyễn Quang Thiều quả đúng như vậy. Đây
là những hình ảnh của sự cằn cỗi hóa không gian chúng ta đang sống:
Tôi đi qua những kẻ sát
nhân đang bắn vào hơi thở
Không nhìn thấy nhà tù
nào mà mỗi ngày tôi mất đi một cỏ
Không nghe tiếng súng
nào mà ngực cỏ vỡ đêm đêm
Chiều nay trên đại lộ bê
tông xuyên vào thế giới cuối cùng của cỏ
Một con ngựa trắng đi
cúi mặt, rũ bờm
Cỗ xe tang chở cái chết
của màu xanh với hai
cánh mũi lên cơn sốt rát
bỏng
Và tất cả những vệt cơ
đang rung lên tiếng hí gọi hồn
Đọc Hội giả trang, bất cứ ai có lương
tri cũng sẽ rất e ngại khi Nguyễn Quang Thiều chỉ ra một thực trạng mà sự dối
trá lại đoàng hoàng ngự trị, không cần phải ẩn nấp trong bóng tối, mà tai quái
thay, chính ánh sáng lại là thứ ngụy trang tốt nhất: “tất cả ngọn đèn tỏa sáng” trong “ngày hội của những tay phù thủy cao tay”, nhưng người ta thật khó
chỉ ra bản chất của chúng, khi chúng “giả
trang bằng chính mặt mình”.
Trong Hồi tưởng, một bài thơ dài, tôi đặc
biệt thích khúc Hồi tưởng tháng 9, Nguyễn Quang Thiều vẽ
lên khung cảnh một buổi sáng sương mù dày đặc:
Chúng ta không thể tìm
được dấu vết quen thuộc
Của thành phố trong buổi
sáng mù sương
…
Trong sương mù cất lên
một giọng nói
Một giọng nói khác và
một giọng khác nữa
Hoảng hốt hỏi nhau về
con đường vẫn thường đi
Nhưng chúng ta là những
người mù trong buổi sáng ấy
…
Trong lúc chúng ta loay
hoay và nguyền rủa thời tiết
Người đàn ông mù thong
thả bước đi giữa hai hàng cây
Chúng ta cố ngước mắt
kiếm tìm dấu vết
Và lạc ngay trước cửa
ngõ nhà mình
Nếu đọc lướt ta sẽ chỉ thấy đó chỉ là một cách sắp
xếp nghịch đảo ngồ ngộ, nhưng nếu chịu suy ngẫm, hiểu những ý nghĩa phúng
dụ của bài thơ, ta sẽ thấy những hình ảnh trên gợi mở nhiều điều. Trong triết
học, khái niệm tha hóa chỉ rằng, con người thường trở thành nô lệ cho
những điều chính mình tạo ra. Con người thường suy nghĩ và hành động theo thói
quen, mà thói quen ấy lại được hình thành trong chính cuộc sống của chúng ta,
với những tập tục, lề thói và cả “ánh sáng” của những tín điều tôn giáo và ý
thức hệ chính trị. Nhưng thực tiễn cuộc sống đã chỉ ra, không có gì là hoàn
toàn đúng cả, cả những giáo lý, cả những chủ nghĩa, nên khi những “ánh sáng” đó
không còn khả năng dẫn đường nữa, thì những người lệ thuộc sẽ bị mất phương
hướng. Lúc đó, chỉ có những người có khả năng suy nghĩ độc lập, không bị cuốn
theo cái tâm lý bầy đàn sẽ không bị lầm lạc, như những người mù không cần ánh
sáng chỉ đường mà đi được bằng khả năng riêng của họ.
Đọc bài này, tôi chợt nhớ đến bài thơ có 4 câu của
tôi:
NHỮNG CÁI XÁC
Những cánh hoa sặc sỡ
Nằm sõng soài trên thảm
cỏ biếc
Con ba tuổi ngây thơ
Say sưa cóp nhặt
Đây là những hình ảnh thực mà tôi ghi lại đã hơn 20
năm rồi, khi gia đình tôi đi chơi ở vườn Chùa Vĩnh Nghiêm năm 1988, đứa con
trai của tôi mới có 3 tuổi. Khi thấy nó nó cứ lăng xăng nhặt những cánh hoa rơi
chất đống lại, tôi thấy hay hay, cái hình ảnh đó có thể chuyển tải được một tứ
thơ gợi mở nhiều điều. Thế là trong ý nghĩ của mình, chỉ mấy giây thôi, tôi đã
làm xong bài thơ. Trong cuộc sống có rất nhiều cái thực chất chỉ là những xác
chết nhưng nó lại lấp lánh, mà loài người phần đông cũng ngây thơ như đứa trẻ
lên ba thôi, luôn nâng niu cất giữ những xác chết chỉ vì cái lấp lánh đó. Viết
xong, tôi e ngại, cái chính là người đọc phải hiểu những hàm ý, mà thực tế thì
có mấy ai chịu hiểu? Rồi thật thú vị ở chỗ, tôi bị bất ngờ là người hiểu và
thích cái bài này lại chính là Nguyễn Quang Thiều. Mà làm thơ cho một nhà thơ
có công lực cỡ Nguyễn Quang Thiều thích đâu phải dễ. Khi đăng cho tôi trên Báo
Văn Nghệ, anh gọi điện báo và còn nói: “Bài
này ông hay hơn Chế Lan Viên rồi” rồi còn tán cả hàng chục phút. Với Chế Lan
Viên, tôi luôn coi ông là cha tinh thần của mình, nên không thích thú chuyện so
sánh trên, mà chỉ kinh ngạc về trí thông minh của Nguyễn Quang Thiều, khi Thiều
đã lột truồng mọi ý tứ của tôi trong bài thơ có 4 câu trên. Và có lẽ vì thế tôi
luôn coi Thiều là bạn tri kỷ của mình. Rõ ràng bài thơ của tôi và bài của
Nguyễn Quang Thiều vừa dẫn ở trên hoàn khác nhau, chỉ giống nhau ở cách viết
gợi mở, dành cho người đọc quyền tự do cảm nhận theo cách riêng của mỗi người.
Có điều, sự liên tưởng phải căn cứ vào văn bản chứ không thể tùy tiện được, nếu
không chẳng còn gì là chuẩn của hay dở nữa. Trong thực tiễn sáng tác có những
bài thơ khó hiểu, nếu chịu khó tìm hiểu thì sẽ thấy chúng chất chứa rất nhiều
điều để hiểu, đó là thơ của những nhà thơ có tư tưởng; trái lại cũng có những bài
khó hiểu chỉ vì không có gì để hiểu cả.
Cũng theo cách của Hồi tưởng tháng 9 trên, bài Bài ca những con chim đêm,
Nguyễn Quang Thiều đã vẽ nên một bức tranh, không một cuộn phim thì đúng hơn:
Trong khung cảnh “con tầu nhỏ ngủ im lìm trên bến”, “thiêm thiếp những quả đồi”, “buồn
bã lời thở than của cây”; “chợt vọng
trong đêm”, “tiếng con chim đêm đập
cánh và vọng xuống rền rĩ”, đã thức tỉnh tất cả. Tác giả như lần đầu
thấy lại tuổi thơ, ngôi nhà mình, thấy “cơn mơ mình đang đi trên đường”, thấy “quả đồi cựa mình”, “những đám
mây tha phương đã trở về”, thấy trở về tất cả những linh hồn những
người thân yêu, linh hồn của cả những con vật, cây cối, thấy thức dậy cả lịch
sử. Khi mở cửa, tác giả thấy “phía
trời xa, một ngôi sao sáng”, rồi chợt nhận ra “cái cây còi cọc trên ban công lần đầu trổ hoa lóng lánh”,
thấy “người đàn ông đói nghèo chờ
chết và con bò chờ bị chọc tiết” đứng dậy trở lại với cánh đồng, nơi “những lưỡi cày mai táng từ lâu trong đất đai
cằn cỗi” cũng đã thức dậy chờ đợi. Lúc đó, tác giả “ngước nhìn lên và thấy con đường”, một “Người đàn bà câm mang thai, bỗng đẹp lên như một thiên thần, lặng lẽ
bước đi”, qua “những ngôn từ nguyền
rủa”, qua “Những ngôn từ khiếp nhược
và lừa dối ngày ngày trên đầu lưỡi chúng ta”; lúc đó, tất cả:
… đều nghe thấy trong
ánh sáng ngôi sao rực rỡ
Trong tiếng bầy chim đêm
đêm vang vang những tiếng chuông vàng
Giọng nói của đứa
bé trong bụng người đàn bà câm cất lên rền rĩ
MẸ HÃY MANG CON LÊN ĐỈNH
ĐỒI
Chính lúc này, nhanh hơn
tiếng sấm, nhanh hơn cả tia chớp,
chúng ta nhìn thấy
Con đường và số phận dân
tộc chúng ta từ một đỉnh đồi
Giống như người mù có thể nhìn rõ, đi đúng được
đường trong thứ ánh sáng dối trá của Hồi tưởng tháng 9, thì trong bài Bài ca những con chim đêm này, trong ồn ã
những “ngôn từ khiếp nhược và lừa dối” chỉ người đàn bà bị câm mới có thể mang
thai và sinh ra được đứa bé cất lên được tiếng nói, chỉ ra con đường đến với
hạnh phúc đích thực.
Bài Cây ánh sáng là bài Nguyễn
Quang Thiều dùng để kết tuyển tập thơ dầy đến 370 trang, bài thơ là một sự bộc
bạch đầy dằn vặt về sự phân thân của một thi sĩ, một bên là bóng tối, gánh nặng
của thân xác với những nhu cầu trần tục; một bên là ánh sáng, tâm hồn của một
thi sĩ trong không gian của chân, thiện, mỹ. Khi cuộc chiến giữa dục vọng và
ước mơ không phân thắng bại, người thi sĩ đã phải tìm đến Chúa, biểu tượng của
lòng nhân ái và đức hy sinh:
Hãy để những giọt máu
chảy từ hai bàn tay bị
đóng đinh của Người rửa
sạch tâm hồn con
Để ánh sáng của Người
xua tan trong lòng con
bóng tối của khiếp sợ,
của tội lỗi, của tuyệt vọng
Và người thi sĩ đã vượt qua được cám dỗ:
Nếu con uống ly rượu
vang đen kia trái tim con sẽ bị đóng băng
Nhưng con đã không uống
dù cơn khát từng làm con mê sảng…
Khi ấy “Trên
cánh đồng bất tận của thế gian một lễ hội ánh sáng bắt đầu”, hai nửa phân
thân của chàng thi sĩ đã nhập thành một và “chàng
chỉ thấy hoa nở trên cánh đồng bất tận”, rồi “dù chàng là côn trùng, là con sói cô đơn, là đại bàng, là lạc đà, là
quỉ dữ…”, “Thì tất cả đều đến được
miền đất ngập tràn ánh sáng”, “Trong
một ánh sáng ấy, một âm nhạc ấy, một ngôn ngữ ấy, một bầu trời ấy”, “Người đã biến chàng trở thành một chiếc lá
nhỏ không bao giờ tàn úa trên cành của tán lá ban mai kỳ vĩ trong vũ trụ ngập
tràn”.
Tôi cũng là người làm thơ và tôi viết phê bình xuất
phát từ cách làm thơ của mình, cộng với sự hiểu biết chung về thơ mà tôi đã dày
công tích lũy để đi tranh luận với thiên hạ. Tôi cũng có sở thích riêng, cá
tính riêng, nên không phải cái gì Nguyễn Quang Thiều viết ra tôi cũng thích. Cả
Chế Lan Viên mà tôi đã coi như cha tinh thần của mình tôi cũng chỉ thích một
phần thơ ông mà thôi. Có điều với tư cách cá nhân, người ta hoàn toàn có quyền
yêu thích theo cảm tính, nhưng đã viết phê bình trên giấy trắng mực đen, nhà
phê bình có lương tri buộc phải khách quan và công tâm. Lập luận của cá nhân
dựa trên nền tảng tri thức đúng sẽ đúng, còn sở thích của riêng cá nhân đó thì
chưa chắc. Như một người Bắc không thể chê món ăn miền Nam cho đường vào là
không ngon, vì nó không ngon chỉ với riêng anh ta mà thôi. Cũng như người thích
hoa lan không thể chê hoa hồng là xấu. Thật tiếc trên diễn đàn văn chương nước
ta đã có quá nhiều lối phê bình cảm tính. Họ tùy tiện khen chê theo ý mình. Và
thật tai hại, còn có sự khen chê theo ý đồ, kể cả ý đồ chính trị, để mưu cầu đủ
thứ, họ tán dương thổi phồng để dựng lên những ngọn cờ mà nhiều khi những lời
tán dương ấy chẳng ăn nhập gì với tác phẩm. Có người coi mình là trung tâm, chê
bai tất cả, có điều họ không hiểu rằng không phải cứ to giọng chê người khác là
mình tài hơn họ, mà ngược lại, lại bộc lộ sự dốt nát của chính mình. Tôi cũng
đã phê phán nhiều người, cả những học giả, nhà khoa học, nhà sáng tác hàng đầu
Việt Nam. Nhưng tôi luôn dựa trên nền tảng tri thức chứ không nói bừa, vì tôi
cho sự phê bình người khác là có tính pháp lý, chứ không chỉ đơn thuần là sáng
tác.
Đặc biệt, tôi thấy Nguyễn Quang Thiều có một tính
cách thật đáng quý. Anh luôn kiên định cách viết, anh dấn thân và đi đến cùng
trong việc thể hiện cách biểu đạt để thể hiện phong cách riêng của anh; song
song đó, anh cũng có một lương tâm rất kiên định. Nói “lương tâm kiên định” có vẻ ngồ ngộ nhưng với một hiện thực có nhiều
biến cố và đổi thay của đất nước ta, giới văn nghệ sĩ vốn nhạy cảm, giữ được
lương tâm kiên định, để rồi có lương tri kiên định không phải dễ. Thời kháng
chiến, ca ngợi Đảng Bác như là một lẽ tất nhiên; còn hôm nay, người có chút cá
tính, muốn độc đáo, đa số thường viết văn chương “cấp tiến”, văn chương “tự vấn”
vì họ nghĩ như vậy mới là “đổi mới”
cơ, còn Nguyễn Quang Thiều, bằng một cách viết thật mới, anh đã viết một bài
thơ thật xúc động về Bác Hồ “Người cầu tự”,
khi Người lần đầu cập cảng nước Mỹ, trong cái hành trình vĩ đại đi tìm đường
cứu nước của Người. Một sinh linh bé nhỏ xa lạ với tất cả và tất cả cũng xa lạ
với mình: “Người đi đôi giầy cô đơn của
xứ sở mình”, nhưng Người luôn vững bước bởi: “Người đi cầu tự cho tương lai của xứ sở mình”.
Về Nguyễn Quang Thiều, tôi cũng đã thấy có người
thuộc nhóm này nhóm kia, nhất là những “nhà thơ” đầu đường xó chợ nhưng coi
mình như rốn vũ trụ, so sánh thơ Nguyễn Quang Thiều kém người này, người kia.
Quả thực, nếu coi sự thô tục, bẩn thỉu, sự tối nghĩa, sự chống đối là tiêu chí
thì Nguyễn Quang Thiều kém họ thật. Đã có lúc tôi băn khoăn tự hỏi, tại sao lại
có những người có gu thẩm mỹ kỳ quái như vậy, cuộc sống là đáng quý, tại sao
người ta lại bỏ thời gian, tâm sức theo đuổi một cái việc thực sự là nhăng
nhít. Nhưng tôi không còn ngạc nhiên nữa khi liên tưởng đến thế giới động vật,
trong khi có những loài thú dũng mãnh chỉ thích ăn thịt tươi như sư tử, hổ,
báo, thì vẫn có những loài như linh cẩu, kền kền, sâu bọ v,v… chỉ thích ăn xác
thối. Trong bài bàn về Chủ nghĩa Hậu hiện đại, tôi đã viết:
“Có quá nhiều
sự thô bỉ, bẩn thỉu, nhầy nhụa và hằn học, thậm chí lưu manh, trong văn chương
“hậu hiện đại” này… Đã có những nhà phê bình, những trang web mang danh ở xã
hội hậu hiện đại văn minh đề cao loại văn chương đó, cố công độc đáo hóa cái
lập dị, nghiêm túc hóa cái bông phèng, sâu sắc hóa cái vô nghĩa, cao siêu hóa
cái tầm thường, và cuối cùng là nhân bản hóa cái phi nhân tính, bởi đã kỳ công
đi phân tích mùi thơm của thối rữa, tô vẽ màu sắc cho rác rưởi; cả hai, cả sự
sáng tạo và thẩm định, hoàn toàn có thể nói thực chất chỉ là sự xả rác trí tuệ
mà thôi”.
Để kết bài viết đã khái dài nhưng so với thơ của
Nguyễn Quang Thiều thì còn rất ngắn này, tôi xin trích mấy câu mà D’Aurevilly
đã viết, tất không phải về Nguyễn Quang Thiều nhưng tôi lại thấy rất đúng về
anh và về thơ anh : “Ở thời đại cực văn
minh này, thơ nào thật là thơ trước hết phải có tính chất cá nhân và đơn độc.
Những đại bàng và những mãnh sư thường đi riêng một mình”.
Mời thư giãn với nhạc phẩm DUYÊN KIẾP ANH EM
của Khánh Đơn, qua tiếng hát Long Hải:
*.
ĐÔNG LA (tên thật: Nguyễn Văn Hùng)
Địa chỉ: quận Bình Thạnh, thành phố Sài Gòn
Email: donglasg@gmail.com
.
…………………………………………………………………………
- Cập nhật từ email: tranchicuong27@yahoo.com.vn gửi ngày 24.10.2016.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
0 comments:
Đăng nhận xét