![]() |
(Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều ; Nguồn ảnh: internet) |
VỀ TƯ DUY THƠ
NGUYỄN
QUANG THIỀU
*:
(Tác giả Đông La) |
Con đường đến thành công thường rất khó khăn, với
Nguyễn Quang Thiều ngược lại, dường như anh đã đạt được khá dễ dàng kết quả ở
hầu hết các lĩnh vực sáng tạo văn chương.
Có điều, lĩnh vực thơ ca mà anh lao tâm khổ tứ
nhất, anh cũng giành cho nhiều kỳ vọng nhất, lại gây ra những mâu thuẫn nhất
trong sự đánh giá. Sóng gió đã nổi lên trên diễn đàn khi tập thơ “Sự mất ngủ
của lửa”được Hội Nhà Văn trao giải, rồi từ đó, sau mỗi tác phẩm khác của
anh ra đời, sự mâu thuẫn ấy vẫn tiếp diễn trong dư luận, tuy âm thầm nhưng
không kém phần gay gắt. Mọt bên cho thơ anh ở hàng tiên phong trong sự đổi mới,
ngược lại, một bên cho là “lai căng”, là rất “non kém về nghệ thuật”!
Vậy thử gác bỏ mọi thái độ của quan hệ cá nhân, mọi
nhận thức cảm tính, chỉ bằng nền tảng của không chỉ mỹ học mà còn của cả tri
thức văn hóa hiện đại phân tích, thơ Nguyễn Quang Thiều có giá trị gì không?
Đây là một việc làm rất khó bởi phải hiểu sâu và chính xác nhiều lĩnh vực, phải
biết đến sự liên quan, sự chi phối lẫn nhau của chúng; kể cả khoa học tự nhiên,
lĩnh vực tưởng không liên quan gì lại chính là nền tảng đầu tiên, là vật chứng
kiểm tra tính đúng sai của mọi tri thức. Nhưng nếu không vậy, có viết hàng ngàn
bài khen chê cũng bằng không, bởi chỉ bằng cảm tính, người ta có quyền thích
thế này hoặc thế nọ, mà cái thích này thực chất hoàn toàn vô nghĩa trong việc
thẩm định giá trị tác phẩm. Bởi chúng chưa phải phê bình mà mới chỉ là sự phát
biểu thái độ.
Hiện tượng thơ Nguyễn Quang Thiều có lẽ là một hiện
tượng phức tạp nhất từ trước tới nay. Với người đọc, kể cả giới sáng tác, thơ
anh rất khó hiểu. Có những người yêu mến anh, nhưng muốn tiếp cận thơ anh lại
không tiếp cận được. Trong lần gặp nhau gần đây, tại một bàn cà phê tầng trệt
khách sạn Rex nhìn ra công viên trước cửa Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh,
với giọng đầy ưu tư Thiều đã nói với tôi rằng: “Tôi với ông rồi sẽ cô đơn
lắm, chẳng ai hiểu chúng ta ca”. Với người khác thì vậy, còn tôi được anh
coi là bạn dốc bầu tâm sự, không lẽ cũng không hiểu được anh? Chính cái tâm sự
ấy đã thôi thúc tôi viết nên bài phê bình nhỏ này.
Trước hết, Nguyễn Quang Thiều là một thi sĩ viết
nhiều, tầm bao quát rộng, thay đổi được cách viết. Trong
ba điều này, điều đầu tiên không khó, người viết chỉ cần chăm chỉ là được và
nhiều người cũng đã đạt được. Điều thứ hai khó hơn nhiều, nó phụ thuộc vào tư
tưởng của người viết, mà tư tưởng lại phụ thuộc vào tầm văn hóa, trình độ học
vấn, khả năng tư duy... Muốn văn chương có được một tầm khái quát, một tầm cao
triết lý, người ta buộc phải có một tầm nhìn rộng, bởi có nhìn rộng mới thấy
được nhiều việc, mới có sự so sánh, đối chiếu, mới có sự hệ thống hóa, chiêm
nghiệm;còn chỉ nhìn cái nào biết riêng cái đó thôi không thể có được sự khái
quát. Người ta đã phân chia nhà văn lớn nhà văn bé từ đặc tính này chăng? Để có
được khả năng thứ ba, khả năng thay đổi cách viết, có lẽ là khó khăn nhất,
Thượng Đế thường keo kiệt khi ban phát khả năng này cho chúng sinh. Để thay
đổi, người ta buộc phải vượt qua những thói quen, mà không gì khó khăn hơn khi
phải vượt qua những thói quen, bởi phải vượt qua những quy chuẩn, phải bứt phá,
phải phân thân, thoát xác;phải vượt qua được cả tập tính của một cộng đồng.
Nguyễn Quang Thiều cũng là một thi sĩ thường không
viết những điều để người đọc thích thú mà anh viết nhiều về những điều buộc
người ta phải suy nghĩ. Anh thường không viết những êm đềm, bóng bẩy, vui tươi
mà viết nhiều những vấn đề gai góc, những bài toán lớn đặt ra trong cuộc sống.
Thơ anh không bộc bạch, thổ lộ hoặc thủ thỉ, mà anh thường dựng lên những bức
tranh, ở đó, anh dẫn người đọc vào những không gian kỳ lạ với rất nhiều luồng
lạch, ngõ ngách khác nhau. Chúng hoàn toàn xa lạ và không cần thiết cho những
ai sớm thỏa mãn với những gì quen thuộc gần gũi. Chúng chỉ cần cho những người
thích khám phá. Có phải do chính điều này người ta đã khó tiếp cận thơ anh
chăng? Có lẽ đây chỉ là một mặt, mà tôi thấy một mặt khác quyết định hơn, đó là
kỹ thuật thể hiện. Phải chăng, khi chưa hiểu được thi pháp, giống như trong tay
không có chiếc chìa khóa thì người ta không thể mở được cánh cửa để vào ngôi
nhà thơ ca của anh vậy.
Nhưng để hiểu thi pháp của Nguyễn Quang Thiều cũng
không dễ. Hành trình thơ ca của anh, về mặt thi pháp, chính là hành trình tăng
dần tính ký hiệu của sự biểu đạt nghệ thuật, sự vật lộn trăn trở tìm kiếm ngôn
ngữ riêng để thể hiện.
Thuở đầu, thơ anh cũng lẫn trong thơ mọi người, anh
cũng cố gắng làm ra những câu thơ “đèm đẹp” có khi vẫn còn là cái “tài hoa” mà
hôm nay nhiều người còn đang muốn đạt tới: “Nhớ thời phượng cháy trong tôi.
Tiếng ve nhiều quá rối bời tóc em”, hoặc: “Có gì như một nỗi đau. Cứa
trên lá cỏ gãy nhàu trưa nay”. Trong quá trình thay đổi cách biểu đạt ấy,
Nguyễn Quang Thiều không thể không thực hiện một điều: sự lạ hóa.
Mọi mặt cuộc sống, mọi sự việc, mọi đồ vật, trong con mắt anh mất dần hình dạng
và tính chất vốn có, anh luôn dựng lên một không gian của trí tưởng tượng. Làm
việc này, Nguyễn Quang Thiều chẳng phải làm một điều lập dị gì, mà chỉ phát huy
tối đa cái đặc tính cơ bản của sự sáng tạo từ cổ chí kim. Có một sự mâu thuẫn,
về trí tuệ, con người thường dễ tiếp nhận những trí thức quen thuộc, nhưng về
mặt tâm lý, lại luôn tò mò, thích chú ý đến những cái lạ. Vì thế, sự lạ hóa làm
tăng ấn tượng sức biểu đạt chính là một quy luật của sáng tạo nghệ thuật, chính
nó đã biến những điều bình thường thành thơ. Ta thử lấy vài ví dụ. Cái gì đã
biến hai câu thơ của Nguyễn Du: “Vầng trăng ai xẻ làm đôi. Nửa in gối
chiếc, nửa soi dặm trường” trở thành bất tử. Thứ nhất do ấn tượng của cái
việc: Vầng trăng bị xẻ làm đôi mang lại!Sự lạ này lại được
dùng để biểu đạt một tình huống gay cấn của tình cảm, còn được dùng một cách
rất tương hợp. Nguyễn Du đã sử dụng một ẩn dụ đắc địa, mối tình đẹp, đắm say,
tràn đầy được ví ẩn với một vầng trăng viên mãn, tưởng không gì có thể chia cắt
được. Vậy, khi chia cắt, có khác gì người ta đã làm một điều nghịch thường,
đang tâm xẻ cả một vầng trăng hằng tồn của tự nhiên! Hai câu: Hỡi cô
tát nước bên đàng. Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi cũng vậy, nếu viết
cho đúng với thực tế hơn: Hỡi cô tát nước bên đàng sao cô múc nước nhịp
nhàng đổ đi, chúng sẽ trở thành hai câu văn vần. Vậy cũng như cái việc
Nguyễn Du đã “xẻ vầng trăng”kia, một ẩn dụ biến việc “múc nước”
thành “múc ánh trăng”, đã làm cho hai câu văn vần thành hai câu thơ có
sức lay động nhiều lần hơn …
Nguyễn Quang Thiều cũng vậy, anh đã tạo ra trong
thơ mình nhiều cái lạ ở những cấp độ khác nhau: từ ngôn ngữ, hình ảnh, đến ý
tưởng. Anh luôn thấy những sự vật, hiện tượng có những đặc tính khác đặc tính
vốn có: “Những chân trời gập khúc xuống mùa đông”, anh luôn thực hiện
sự biểu tượng hóakhiến chúng mang thêm những ý nghĩa: “Những hơi
thở được đốt nóng trở lại”. Trong con mắt thơ của anh không có ranh giới
của không gian: “Một bàn tay họ bám vào đầu đòn gánh bé bỏng chơi vơi. Bàn
tay kia bấu vào mây trắng”. Trong thế giới của trí tưởng tượng, anh luôn
thấy tất cả đều là sinh thể, vì thế anh rất hay dùng thao tác nhân cách
hóa:đây là một hình ảnh ngộ nghĩnh: “Những trái cây chín mê ngủ tuột
khỏi cành rơi xuống”;ở đây lại được dùng kết hợp với biểu tượng hóa để
chuyên chở tư tưởng: “Chiếc áo cần cù xé ra băng vết thương mùa màng hổ thẹn”,
rồi: “Những cánh buồm khổ đau tự xé tự vá lại mình”; con sông trong thơ
Nguyễn Quang Thiều là một dấu ấn rất sâu đậm của kỷ niệm nên được anh dùng rất
nhiều và là một biểu tượng chính chuyên chở nhiều ý tưởng khác nhau của anh: “Sông
gục vào bờ đất lần đi”; “Những dòng sông tự cào tướp họng”; rồi “Ánh
đêm đoan trang đang bảo ban những dòng sông lười chảy”…
Như thế Nguyễn Quang Thiều đã theo đúng quy luật
sao lại còn gây ra mâu thuẫn? Sự lạ hóa của anh đã tạo ra hiệu quả như vậy sao
người ta lại khó tiếp cận? Có như vậy bởi Nguyễn Quang Thiều dù theo đúng quy
luật nhưng anh không sao chép, không dừng lại. Nếu trước nay sự lạ hóa người ta
chỉ dùng như sự điểm xuyết, nó được tạo nghĩa trong một kết cấu logic của điều
bình thường, còn trong thơ Nguyễn Quang Thiều cũng như một số người có tham
vọng đổi mới như anh, sự lạ không điểm xuyết mà được dùng làm cách biểu đạt
chính, nhiều khi sự lạ được tạo nghĩa trong sự lạ, các hình ảnh biểu đạt có thể
có sự liên hệ, có khi độc lập với nhau. Nếu trong thơ trước đây phép ẩn dụ,
hoán dụ, đề dụ chỉ dùng như một biện pháp tu từ lạ hóa một yếu tố, thì thơ hôm
nay tính ẩn ví này được mở rộng biên độ, nó áp dụng cho cả một phương thức biểu
đạt mới: phương thức ẩn biểu đạt. Một ẩn dụ giấu đi sự vật cần biểu
đạt, còn ẩn biểu đạt, giấu đi cả ý tưởng, cả chủ đề. Và cũng có tác dụng như
thao tác ẩn dụ làm tăng ấn tượng về một sự vật, sự ẩn biểu đạt làm tăng sự liên
tưởng, tăng độ hàm chứa của thơ. Chính điều này khiến cho độc giả nếu không
được trang bị tri thức ngôn ngữ, tri thức thơ ca, không đồng cảm được. Điều này
người làm thơ không có lỗi, bởi quy luật của sáng tạo là phải hết mình, người
nghệ sĩ chỉ có thể bứt phá vươn lên chứ có ai lại chiều theo sở thích bình dân
mà tụt xuống? Ở đây người đọc cũng không có lỗi, chỉ bị thiệt thòi khi có nhu
cầu thưởng thức mà không thưởng thức được mà thôi. Vậy lỗi trước hết phải thuộc
về các nhà phê bình. Như tất cả những gì liên quan đến tri thức, đến kỹ thuật
đều khó hiểu, nhà phê bình là nhà khoa học về sáng tạo nghệ thuật phải có nhiệm
vụ phân tích chỉ ra cái kỹ thuật ấy. Tôi tin nền phê bình của chúng ta luôn
phát triển ngang tầm với sáng tác, đã ở một trình độ rất cao, nhưng không hiểu
sao nó vẫn không làm tròn được nhiệm vụ và chưa bao giờ có được một sự nhất
trí! Trong khi đó vẫn còn khá thịnh hành lối phê bình quanh quẩn với những tri
thức thẩm mỹ bình dân, không phân tích khám phá những tiềm ẩn của tác phẩm mà
chỉ tán dương những cái mà không cần nhà phê bình người đọc cũng biết. Tiếc là
cái thẩm mỹ bình dân này lại còn được gieo mầm ngay từ trường học, nên không
thể nâng cao được trình độ thưởng thức của xã hội. Chính vì thế, đã dẫn đến
trường hợp trong thực tế những tác phẩm giản đơn tếu táo thì được vồ vập còn
những tác phẩm cao siêu thì người ta thờ ơ. Ví dụ như thơ của Brodsky,
nhà thơ được giải Noben cả thế giới tôn sùng, nhưng ở ta chỉ in có hai trăm
cuốn mỏng như lá lúa, mà không biết có bán hết không, người mua đọc có hiểu gì
không?
Đi vào cụ thể điều vừa nói, tôi thử phân tích vài
bài của Nguyễn Quang Thiều. Trong bài Cái đẹp (tập Sự
mất ngủ của lửa), Nguyễn Quang Thiều đã dựng lên một hành trình nặng nhọc
không biết đâu là đích trong rét buốt, trong gió lộng, của một người đàn ông
đẩy một chiếc xe bò chở một người đàn bà đẹp trên một thùng xe có đống đá; vì
chiếc xe đi quá chậm, người đàn bà phải che bớt mặt lại. Thế là hết. Nếu hiểu
đơn giản, thấy người đàn ông chỉ là người đàn ông, người đàn bà chỉ là người
đàn bà, cái xe, con bò, đống đá, con đường… chỉ là chúng như vốn có, thì quả
thực không biết ý anh viết về cái gì. Nhưng như lẽ thường, thơ cốt tả để gợi.
Nếu hiểu mỗi chi tiết của bài thơ lại ẩn biểu đạt về một điều của một quá
trình, về một sự vận động, biết hệ thống hóa lại, thì những câu thơ tưởng như
không liên quan gì đến nhau lại ở trong một kết cấu chặt chẽ có nhiều dụng
công.
Nếu trong thơ trước đây có những câu thơ triết lý,
ý thơ triết lý, hoặc những bộc bạch suy tư có tính triết lý thì với cách biểu
đạt như vậy, Nguyễn Quang Thiều có cả những kết cấu triết lý về một quá trình,
về một sự vận động. Hiện tại chỉ vài người đạt tới cái khả năng này, bởi nó
không chỉ là thơ mà còn là thơ của một nhà tư tưởng. Cũng như vậy, bài “Bầy
chó của tôi”, bài mà nhà phê bình Trần Mạnh Hảo đã cho Nguyễn Quang Thiều
là: “nhìn con chó thật ghê tởm”, nhìn “một cách kinh hãi”;quả
thật, nếu nhìn những con chó chỉ là những con chó, thì thấy việc nhà thơ tả
cảnh chúng cắn xé, tranh giành nhau đúng là kinh hãi thật;và với một quan điểm
thẩm mỹ cho tính thơ cao nhất chỉ là những mây trăng hoa lá, xanh xanh đỏ đỏ,
thì không thể nào đồng cảm được thật:
Bầy chó gầy bẩn thỉu ốm đau
Ngày lùng sục kiếm ăn
Liếm cả vào lưỡi dao sắc ngọt
Lưỡi bị cứa máu trào ra ở đó
Con đến sau lại liếm máu bầy mình
Với tôi, đây là những câu thơ hay nhất có thể so với
bất cứ câu thơ nào. Xuân Diệu đã rất tài tình khi chọn những hình ảnh tương hợp
làm nên hai câu thơ để nói lên một vấn đề lớn của nhân loại là nỗi buồn chúng
sinh: “Trái đất ba phần tư nước mắt. Đi như giọt lệ giữa không trung”.
Nhưng nói nỗi buồn tức vẫn còn chung chung quá, mà Đức Phật cũng từng nói: “Đời
là bể khổ”. Còn qua đoạn thơ trên, Nguyễn Quang Thiều tiếp cận sâu hơn, nói
cụ thể hơn những vấn đề chính yếu, không chỉ buồn mà còn đau, còn khắc nghiệt,
luôn hiện diện trong cuộc sống muôn loài, kể cả loài người chúng ta: sự
đấu tranh sinh tồn! Nhắc đến Xuân Diệu như vậy không có nghĩa mang ông ra
so sánh để hạ bệ mà vì nền phê bình chúng ta khi phân tích tác phẩm thường
thiếu tính khoa học, thường không căn cứ vào văn bản mà lệ thuộc nhiều vào tên
tuổi và vô vàn điều phi học thuật khác; người ta thường dị ứng với những việc
so sánh như vậy, mà lẽ ra, thế hệ hôm nay không có gì so được với cha anh mới
là điều vô lý và đáng buồn.
Sự biểu đạt ẩn không chỉ dừng lại ở cấp độ như vậy
mà còn được Nguyễn Quang Thiều đẩy tiếp lên nữa. Tính ký hiệu, tính biểu tượng
của ngôn ngữ còn được tác giả sử dụng triệt để hơn, “linh kiện ngôn ngữ” còn
được lược bỏ nhỏ gọn hơn, và chỉ như thế, tác giả mới có điều kiện tạo ra được
một kết cấu nhiều tầng, để có thể biểu đạt nhiều quá trình, nhiều vấn đề phức
tạp của đời sống hơn. Nếu chỉ bằng cách cảm lười biếng, người ta còn khó tiếp
cận hơn. Nếu những bài thơ ngắn như những bức chân dung tư tưởng đặc tả về một
vấn đề, về một quá trình thì ba bài thơ dài có tính hoành tráng có thể là những
ví dụ rõ nét nhất cho cách biểu đạt tầng tầng lớp lớp đó.
Trong “Chuyển dịch màu đen” (tập Nhịp
điệu châu thổ mới), chỉ hai biểu tượng tối giản là “mầu đen” và “mầu
trắng” tác giả đã biểu đạt một hiện thực đặc biệt của đất nước ta, về số phận
những kẻ vì mưu sinh phải sống tha hương, về những mối quan hệ lớn lao có tính
dân tộc không thể hoà tan trộn lẫn được, về sự biển đổi tất yếu đã làm thay đổi
cả diện mạo thế giới trong thập kỷ đầy sôi động vừa qua, thập kỷ cuối cùng của
thiên niên kỷ này.
Trong “Nhịp điệu châu thổ mới”, bài thứ hai,
khi tượng trưng hóa mọi cảnh vật, mọi sự việc, Nguyễn Quang Thiều đã dựng lên
một thế giới của trí tưởng tượng, mà ở đó không có ranh giới giữa sự sống và
cái chết, tất cả đều là sinh thể, tất cả đều có linh hồn. Về mặt này, về sự
phong phú của trí tưởng tượng, có lẽ Nguyễn Quang Thiều được xếp đầu bảng, anh
đúng thực là nhà thơ có trí tưởng tượng phong phú nhất, kỳ lạ nhất. Qua con mắt
của một đứa trẻ, cuộc tiễn đưa cái chết của người bà nội được dựng lên như một
hành trình về một xứ sở kỳ lạ;ở đó “Nến được đốt lên sớm hơn mọi thế kỷ”,
ở đó có “Vầng dương thổn thức trên cánh đồng vải liệm thơm tho”, nơi
người bà “Thường bay qua cánh đồng mỗi ngày cuối chiều... Khâu lặng lẽ những
hơi thở rách”, nơi tất cả đều mang một đời sống mới từ “Ngôi nhà”, “Chiếc
giường”, “Dây phơi” đến “Ngọn đèn”…; và cái chết cũng không
phải chỉ là cái chết mà là sự gieo cấy một sứ mệnh mới, một sứ mệnh thiêng
liêng: “Thổ ngữ gieo từ bàn tay Người Nông Dân Già vào tay cậu bé. Cậu bé chầm
chậm mở vương quốc của mình”;rồi từ đó là “Tuôn chảy một dòng sông”,
là “Mọc lên một quả đồi”, là “Mở ra một con đường”, rồi “ Một
cây cầu”được dựng lên mà đứa bé “Như một trụ cầu mọc lên để đỡ lấy một
giọng nói”… Giọng nói ấy chính là THI CA.
Còn bài thứ ba: “Nhân chứng của một cái chết”
trong tập mới nhất “Bài ca những con chim đêm”. Qua cái biến cố một thị
xã ngập nước, tác giả đã đóng vai một nhân chứng, chứng kiến cái chết, cái kết
thúc của những sự mục ruỗng, sự ngưng trệ trước một thử thách khắc nghiệt, của
cái khoảng thời gian mà dòng sông chảy như “một dòng nước đục lạnh tanh”;
“Bụi quá nặng làm mái nhà oằn xuống”;khi những câu hỏi “vang lên như
bom” mà vẫn không có câu trả lời, khi những thông điệp của ngôn từ “không
người nghe”, khi các thi sĩ, những người cất giữ tâm linh thời đại cô đơn
đến cùng tận: “Họ không bao giờ được cộng vào đám đông và đám đông cũng
không bao giờ cộng được họ”… Nhưng như có một sự thống nhất trong tư tưởng
nghệ thuật, Nguyễn Quang Thiều luôn là con người mạnh mẽ, thơ anh không dẫn
người đọc đến ngõ cụt, mà luôn hướng tới một “sự lột vỏ”, tới một “bình
minh đang lên”, và trong “Nhân chứng của một cái chết” cũng vậy,
trong sự tan rã, trong sự cuốn trôi cuối cùng, thi sĩ vẫn cho chúng ta thấy
trên vòm trời mãi lấp lánh một vì sao “bền bỉ sáng”…
Đúng như ý kiến nhà phê bình Đỗ Minh Tuấn trong bài
viết “Trốn lo âu về lại cánh đồng” (trong cuốn “Ngày văn học lên ngôi”)
nhận xét, thơ Nguyễn Quang Thiều phát lộ một tâm thức thời đại. Có điều anh
Tuấn đã nói ngược, không phải Nguyễn Quang Thiều chạy trốn ánh sáng, chạy trốn
văn minh vật chất, mà ngược lại, anh còn muốn mang cả cánh đồng của quê hương
mình, của đất nước mình ra ngoài ánh sáng văn minh hiện đại cho cả thế giới này
được biết. Nếu anh có về lại cánh đồng cũng chỉ để “giải lao”, để nghỉ lấy sức
mà thôi. Bao trùm lên toàn bộ tư tưởng thơ Nguyễn Quang Thiều là cái khao khát
cháy bỏng một sự vận đông biến đổi về phía ánh sáng, về phía tốt đẹp. Anh cũng
viết rất nhiều về sự ngưng trệ, tù đọng, ngòi bút anh rất quyết liệt không
nương tay, nhưng cũng chỉ để nói lên cái sự khao khát ấy. Và đó không chỉ là
cái khao khát của riêng anh mà còn chính là cái khao khát của cả thời đại này,
mà cả đất nước ta đang từng ngày, từng giờ phấn đấu thực hiện.
Vì chưa tiếp cận được thơ Nguyễn Quang Thiều nên,
như đã nói phần đầu, đã có rất nhiều ý kiến không đúng về thơ anh. Có thể chia
làm ba loại.
Loại thứ nhất phủ nhận hoàn toàn, cho thơ anh là “lai
căng”, là “thơ dịch xổi”, là “dịch tiếng Việt sang tiếng ta”,
là “tây giả cầy” nhí nhố... Tiếc rằng đây lại là ý kiến của vài người đã
thành danh. Có điều, họ chỉ nhìn với con mắt thẩm mỹ lạc hậu, cái thẩm mỹ đã
làm nên tên tuổi họ, cái mà họ đã từng dùng tạo nên những bài thơ, đã “gọt
rũa”chúng, mà giờ xem lại thấy chỉ như những bài văn vần, những bài mô tả trơn
tuột. Ai cũng biết thơ ca chúng ta từng ảnh hưởng thơ Đường Trung
Quốc, thơ lãng mạn, thơ tượng trưng Pháp, thơ
Nga…Vậy tạo sao các nhà thơ hôm nay không có quyền nói giọng điệu của thời hôm
nay? Nếu chỉ căn cứ vào hình thức rồi chỉ với những nhận xét cảm tính mà đánh
giá bản chất đối tượng, tôi thấy là việc làm phản học thuật nhất. Tôi thấy thơ
Nguyễn Quang Thiều, về hình thức là thơ hiện đại, nhưng về bản chất cũng mang
đậm bản sắc dân tộc như bất cứ nhà thơ nào. Tràn ngập trong thơ anh là cảnh vật
làng quê, là tình yêu quê hương, khi xa cái làng Chùa nửa vòng trái Đất, anh
còn muốn: “…dòng sông dâng lên ngang trời cho tôi được nhìn thấy” cơ mà.
Một tình cảm thật mãnh liệt, một hình ảnh thơ thật lạ, thật hay!Trong thơ anh
cũng tràn ngập những mối quan tâm, những thao thức, những âu lo, những buồn
đau…những tình cảm mang đậm nét bản sắc tâm hồn con người Việt . Anh viết nhiều
về cánh đồng, dòng sông, về ruộng lúa, bãi ngô, về hoa cải, rau khúc, về con
châu chấu, con ốc;về ông, bà, cha, mẹ, vợ, con…về giỗ, tết, và cả về những cái
tiểu sành…. Làm sao trong thơ nước ngoài chất
chứa những điều ấy?!
Loại ý kiến thứ hai có phần ủng hộ sự đổi mới của
Nguyễn Quang Thiều, nhưng cũng vì chưa tiếp cận được văn bản, chưa thực chất
nắm được bút pháp thơ anh, nên với những quan điểm có phần cực đoan, đã có
những đánh giá không đúng và tự mâu thuẫn. Một mặt đề cao cái mù mờ, vô nghĩa.
Nhưng khi chỉ ra nét cơ bản nhất của thơ anh lại chỉ đơn giản xuất phát từ
những cảm nhận trực quan, từ những nghĩa đen trần trụi nhất. Chỉ từ một bài “Trốn
lo âu về lại cánh đồng” (tập Người đàn bà gánh nước sông) đã
kết luận cả thơ Nguyễn Quang Thiều là thơ thể hiện sự “khước từ”, sự chạy trốn
nền văn minh. Hoặc chỉ từ câu “Hát lên bằng nọc đọc trong mình”đã cho “chấp
nhận tiếng hú gào này là chấp nhận thơ Thiều” bởi đã nghĩ anh ảnh hưởng
thơ Beat của Mỹ (vì ông chủ soái Ginsbergcó tập
thơ Hú gào). Như đã phân tích phần trên, thơ Nguyễn Quang Thiều rõ
ràng không chỉ đơn giản lặp lại cái ý tưởng cũ kỹ có phần lập dị là chạy trốn
nền văn minh vật chất, nếu có đôi bài thì chỉ là sự biểu đạt những trăn trở về
sự tha thóa của con người trước vật vất;thơ anh cũng chẳng hề giống thơ Beat.
Thơ Beat mang tính phản kháng và một thi pháp có phần cực đoan
về phía tự nhiên chủ nghĩa, nói “thẳng tuột”mọi cái, mọi vật “chỉ là
biểu tượng của chính nó”. Tôi không tán dương loại thi pháp này. Bởi thơ là
nghệ thuật, đã là nghệ thuật phải “diễn”, cũng như những cô gái biểu diễn thể
dục nghệ thuật, cứ “đi bộ” trên sàn thảm làm sao có thể gọi là nghẹ thuật?
Trong khi thơ Nguyễn Quang Thiều là thơ có nhiều dụng công và ám gợi, giống
nhau thế nào được!Nếu nói sự ảnh hưởng, Nguyễn Quang Thiều chỉ có thể ảnh hưởng
tính huyền ảo của văn xuôi Macket và một vài thao tác dựng
không gian, cách biểu đạt biểu tượng của thơ Brodsky. Tôi tin là
anh sẽ đồng ý với tôi điều này.
Loại ý kiến thứ ba là của những người đồng quan
điểm thơ ca với anh, những người cũng có tham vọng thay đổi cách viết. Ở đây
Nguyễn Quang Thiều được coi là người mở đường, luôn ở hàng tiên phong, là thần
tượng của không ít cây bút trẻ. Ở loại ý kiến này, thật lạ, chính những ý kiến
của vài tác giả còn chưa có vị trí hoặc chưa có nhiều uy tín trên văn đàn, tuy
còn hơi “bốc”, mới là sự cảm nhận, hoặc có phân tích cũng mới ở cấp độ định tính,
lại đúng với thơ Nguyễn Quang Thiều hơn cả;còn nói chung, cũng còn nhiều điều
phải bàn. Không phải về thơ Nguyễn Quang Thiều mà về những khuynh hướng xuất
phát từ sự cảm nhận thơ anh. Do chỗ tiếp cận được đúng bản chất thơ Nguyễn
Quang Thiều không dễ, có người không hiểu anh viết gì vẫn ca ngợi, đơn giản chỉ
vì sự chuộng lạ, nếu không thích sợ bị coi là lạc hậu. Một số người làm thơ
theo khuynh hướng chủ quan cực đoan cũng đề cao thơ anh, có điều họ đề cao phần
mù mờ rối rắm vô nghĩa, bởi bản thân họ cũng làm thơ rối rắm vô nghĩa. Tôi đã
nói với Nguyễn Quang Thiều, khi thơ đạt được sự rối rắm như nhau thì ai sẽ hay
hơn ai? Trong thực tế khoa học, một lý thuyết phức tạp có giá trị không ở sự
phức tạp mà ở công dụng của nó. Một cấu trúc thơ cũng vậy, một sự phức tạp hơn
chỉ có giá trị hơn khi nó có sức biểu đạt hơn, nếu không chỉ là một trò chơi vô
tích sự. Vì thế người làm thơ, ngoài cách thể hiện, muốn đạt được giá trị đích
thực phải luôn tìm kiếm cái gì đó để thể hiện;và như vậy người ta lại phải cần
những điều muôn thuở của công việc sáng tác như đã nói: vốn sống, văn hóa, khả
năng tư duy, tức là tài năng, và kể cả nhân cách nữa. Nếu không hiểu điều này,
trong đầu không có gì lại luôn nghĩ cách làm thế này thế nọ, chẳng khác gì
người ta nấu một món ăn mà trong tay chẳng có tí thịt cá nào, lại chỉ tìm cách
thêm gia vị cho vừa miệng-một món ăn chỉ toàn là gia vị!
Tôi cũng đã nói vài lần, khi muốn phá bỏ mọi định
chế cũ, thơ đa đa, siêu thực và các chủ nghĩa chủ quan cực đoan khác đã tìm cho
mình một cơ sở khoa học là thuyết tương đối và nguyên lý bất định, cho thế giới
ta nhìn thấy chỉ là giả ngụy, mà một hiện thực ngẫu nhiên vô định mới chính là
một hiện thực đích thực-một siêu thực. Nhưng thực tế, đây chỉ là sự hiểu nhầm,
bởi chỉ ở không gian vi mô và cực vĩ mô thế giới vật chất mới “ứng xử”như vậy,
còn trong những điều kiện mà con người đang sống, thế giới luôn tồn tại trật tự
theo những quy luật. Như vậy, dường như thơ Nguyễn Quang Thiều đã đạt được cơ
sở khoa học cơ bản này, ở chỗ, ở phần chi tiết, những đơn vị cơ bản, ý nghĩa
của chúng rất nhòe mờ, bất định, nhưng cả bài thơ lại là những kết cấu hoàn
chỉnh như những sinh thể, luôn có khả năng biểu đạt một vấn đề gì đó trong cuộc
sống. Thơ anh khó hiểu nhưng không phải loại thơ không có gì để hiểu.
Sáng tạo thơ ca có nét tương đồng với việc nấu
nướng. Tôi không dám nói Nguyễn Quang Thiều đã nấu vừa miệng mọi người, mọi
thao tác của anh là toàn bích là đắc địa cả, mà cũng chẳng có ai có thể làm thế
được. Với một thực tiễn đã có nhiều khuynh hướng thơ khác nhau, tôi cũng không
bao giờ nói rằng, thơ Nguyễn Quang Thiều là hướng duy nhất đúng, công nhận thơ
anh có nghĩa là phủ nhận những giá trị đích thực đã có. Nhưng nếu coi tính sáng
tạo là đặc tính quan trọng nhất của lao động thơ ca thì Nguyễn Quang Thiều là người
lao động chân chính, anh đã đạt được nhiều thành quả.
Mời thư giãn với nhạc phẩm NHỮNG NGÀY XƯA THÂN ÁI
của Phạm Thế Mỹ, qua tiếng hát Duy Khánh:
*.
ĐÔNG LA (tên thật: Nguyễn Văn Hùng)
Địa chỉ: quận Bình Thạnh, thành phố Sài Gòn
Email: donglasg@gmail.com
.
…………………………………………………………………………
- Cập nhật từ email: tranchicuong27@yahoo.com.vn gửi ngày 24.10.2016.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
0 comments:
Đăng nhận xét