(Nguồn ảnh: internet) |
TẢN MẠN TÂM
SỰ QUA THEO DÕI
MỘT CUỘC TRANH LUẬN
*
(Tác giả Lê Nghị) |
Cuối tuần được đọc các ý kiến thân hữu tranh
luận xung quanh hai cụm từ “miên trường”
và “bóng tà huy bay” thấy vui, mở
rộng thêm kiến thức, nghe được thông tin nhiều chiều. Thật ra những bài này
cũng tương tự nhiều bài khác, mình đã đọc vài lần, nhưng không bình luận. Lý do
không phải sợ mất lòng một phía mà sợ bị ném đá từ cả hai phía. Nhưng đã trình
bày thì thật lòng, hiểu sao nói vậy, quý anh chị em thông cảm.
- Tiếng Việt cũng có bất quy tắc chứ không riêng một ngôn
ngữ nào. Ví dụ tiền tố “bất” đặt
trước một tính từ hay động từ hàm nghĩa phủ định, trái nghĩa với từ theo sau: bất nhã, bất động, bất lịch sự….Vậy
mà: Thình lình hắn hiện ra = bất thình lình hắn hiện ra. Thình lình = bất thình
lình.
- Ta đánh thắng quân Mông = Ta
đánh bại quân Mông. Thắng
= bại!
Có ai thắc mắc đúng sai đâu?
- Thêm vào đó tôi hát nghêu ngao: “đi lang thang khuya lắc khuya lơ, đèn nhà ai
tắt sớm.” cả thiên hạ ai cũng hát vậy. Một ngày tôi tự dưng hỏi mình: Kỳ
quá ta, chơi khuya thì nhà người ta tắt đèn là đương nhiên sao gọi là sớm. Bạn
tôi bảo: hơi đâu mà để ý các ca từ Bolero, ý nói ca từ của người bình dân ! Tôi
cười vặn lại :
- Thế còn ca từ này, bài hát đẳng cấp đấy: “Khung cửa sổ hai nhà cuối phố, không hiểu vì
sao chẳng khép bao giờ”.
- Có vấn đề gì? Chuẩn!
- Trời ạ, xưa nay cánh cửa mới khép mở, chứ khung cửa thì
cố định chứ có khép mở bao giờ?
Có lần đang nhậu, anh bạn tôi hát một bài của
Phạm Duy, phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên:
Người từ trăm năm về khơi tình động
Ta chạy vòng vòng, ta chạy mòn chân
Ngã xuống bên đường đời
Sợi tóc vương chân người.
Đột ngột anh dừng lại và bình: “Tuyệt! tìm lại cuộc tình, chỉ sợi tóc xưa
yêu mà vấp ngã”. Tôi thấy cũng hay, ý khác tôi. Vì tôi lại hiểu rằng người
chạy ngã xuống bên đường, thiên hạ hững hờ đi qua, sợi tóc vướng chân, chẳng ai
quan tâm. Sự khác nhau giữa hai người là chỗ hiểu sợi tóc đó của ai, của người
chạy kiệt sức ngã xuống, hay của ai đó người chạy vấp phải. Cãi nhau làm gì, có
gọi bác Nguyễn Tất Nhiên hỏi được không?
Tôi tự nghiệm ra rằng ngôn ngữ là sản phẩm
của cộng đồng, bao gồm cả ngữ pháp lẫn từ ngữ. Thoạt tiên ai đó nói ra một từ,
trong một cách dùng, cộng đồng nghe và chấp nhận và sử dụng. Ngôn ngữ có sinh
mệnh: phát sinh, phát triển, biến đổi. Từ trực quan đặt tên một bộ phận bên
ngoài: bụng. Đi sâu vào cái nằm bên trong: ruột. Trừu tượng hóa thành lòng. Cứ
mỗi âm vị là hình vị để tạo ra từ mới đi kèm: tốt bụng, xấu bụng, ruột rà,
thẳng ruột ngựa, lòng lành, lòng tốt. Từ ruột nhảy một cấp thành tim, từ tim
biến thành tâm khi giao lưu ngôn ngữ. Một loạt từ ngữ sinh ra từ hình vị tâm:
tâm sự, tâm tình… Giả định từ xa xưa sắc tộc Việt trên đường thiên di đến Hoa
Nam bị đột biến gien thành người Hoa Nam. Do thiên nhiên cũng có thể do sở
thích, phát khó khăn âm tim, hay để phân biệt tiếng mỗi vùng họ trại thành
âm/ tâm/ Người Việt phát âm được tim và tâm, thôi thì dùng
âm /tâm/ cho cả hai bên cùng hiểu. Còn tim thì nói riêng với sắc tộc
mình mà thôi. Cũng giống như người Quảng Nam khi nói chung với người cả nước họ
phát âm/ đi làm/ nhưng trong
tỉnh thì nói/ đi lồm/. Thế rồi tâm lại nhảy lên tới đầu: tâm trí. Khi tiếp
xúc với đạo Bụt (buddar), thấy có khái niệm hình như là bản thể mọi hiện tượng,
thôi thì gọi là Tâm cho xong. Hết chỗ nhảy lên rồi, đòi nhảy nữa thì nó vọt ra
khỏi cơ thể, khỏi cõi người.
Một từ được dùng có thể sống lâu có thể chết
yểu, nó tùy thuộc vào cảm thụ của cộng đồng sử dụng ngôn ngữ đó. Lê Thánh Tông
có câu:
Nhè nhẹ thuyền ai bến liễu dời
Lam am nghìn dặm nhuộm da trời
Câu thơ hay nhưng ngày nay không thấy ai dùng
từ: lam am nữa. Có thể thay bằng xanh
xanh, trong xanh, biếc xanh…
Lúc trước, khi có một thông tin chưa chính
thức người ta nói nghe “phong thanh”. Nhưng
bây giờ rất nhiều người dùng “phong
phanh”. Không kể đến trường phái vọng Hán của An Chi, có nhà giáo kết luận
để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt phải quay lại từ gốc phong thanh? Đó không phải là sự cưỡng
bức, áp chế ngôn ngữ phát triển sao? Không hiểu ai đó viện lý do gì khi dùng phong phanh, riêng tôi khi nghe cái
âm phong phanh, thì lập tức
trong đầu hình dung tiếng gió đập phành phạch, lúc to lúc nhỏ, không lần nào
giống lần nào, tạo cảm giác thông tin chưa rõ ràng. Mặc dù biết nghĩa gốc tôi
vẫn chọn phong phanh là âm
mới thay cho một âm cũ cùng một khái niệm. Nếu cần tôi vẫn viết: phong phanh, ai có chê dốt đành chịu.
Lần đầu nghe con tôi nói “dân đi phượt” tôi hỏi: phượt là cái
gì? Tự điển làm gì có từ phượt? Sao không chọn một âm nào nghe thuận tai lại
chọn một âm nghe nặng nề xa lạ? Vậy mà hơn 15 năm có thấy ai thay từ theo ý tôi
đâu? Cộng đồng chấp nhận, ngôn ngữ là sản phẩm của chung chứ đâu phải theo cảm
giác của tôi!?
Nhiều khi ta tự mâu thuẫn. Một mặt ta ca ngợi
sự sáng tạo cách dùng một từ ngữ, một mặt ta lại đem nghĩa gốc, từ gốc xửa xưa
để thẩm định đúng sai của cách dùng hôm nay!? Có thể nào sửa câu: “chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” thành “chữ ruột/ lòng kia mới bằng ba chữ tài” được
không? Được tất, không khác nghĩa. Nhưng lựa chọn của cộng đồng lại là chữ tâm.
Có lần tôi trình bày cách hiểu của mình về
bài Diễm
Xưa và Khúc Thụy Du. Trước hết về bài Khúc Thụy Du. Cặp vợ
chồng là nhạc công và ca sĩ nghiệp dư. Người vợ không hiểu Thụy du là gì? Hỏi
chồng giải thích cũng giống như mộng du. Cô vợ cãi lại mộng du là một chứng rối
loạn tính cách, đem nó dùng cho một bài hát nghe cũng kỳ lắm, anh giải chưa
thông. Anh chồng bực mình mắng: dốt, không biết thì dựa cột mà nghe. Cô vợ ấm
ức điện thoại hỏi tôi. Tôi bảo đưa điện thoại tôi hỏi lại chồng em. Thế là anh
ta nói: thụy là ngủ sâu, là chết. Đoạn mở đầu:
Hãy nói về cuộc đời
Khi tôi không còn nữa
Vậy mà tôi giải thích bã không chịu nghe! Anh
giải cho bã nghe đi.!
Tôi trả lời: thui, cho tui xin. Ông bà thấy
bản nhạc hay thì ông đàn cho hay, bà hát cho hay là khán giả vỗ tay, chứ khán
giả có hỏi ông bà tiêu đề có nghĩa gì đâu mà cãi. Muốn hỏi chính xác thì hỏi
nhạc sĩ Anh Bằng í. Chính xác hơn nữa thì hỏi nhà thơ Du Tử Lê.
Câu truyện chấm dứt ở đó. Nhưng riêng tôi thì
thấy Thụy là tên gọi người yêu trong cuộc tình không thành, có lẽ hợp với một
bản tình ca. Đoạn cuối có viết: “cắt
đứt cuộc tình đầu, Thụy bây giờ về đâu?”. Câu đó xác định rõ Thụy là tên
tượng trưng người yêu đầu. Thế còn du? Là tên tác giả bài thơ mà! Khúc Thụy Du
là khúc nhạc dành cho chuyện tình của Thụy và Du. Tác giả bài thơ là Du Tử Lê.
Hiểu như tôi cho khỏi nhức đầu. Nhưng âm hưởng thụy du khiến người
nghe liên tưởng đến giấc mộng và cõi hư vô, cũng không có gì tôi phải cãi.
Diễm Xưa, khi còn ở trung học, tôi nghe các anh chị
lớp trên giảng là nét đẹp mùa thu ngày xưa. Một kiểu hoài cổ giống như: dấu xưa
xe ngựa hồn thu thảo, nền cũ lâu đài bóng tịch dương của bà huyện Thanh
Quan. Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ là cảnh mưa rớt trên một đền
đài tạo nên một cảnh đẹp mà buồn…
Nhưng khi lớn lên tôi liên hệ các câu tiếp: dài
tay em mấy thuở mắt xanh xao , nghe lá thu mưa reo mòn gót nhỏ, đường dài hun
hút cho mắt thêm sâu… Tôi quyết định đi theo cách cảm thụ của mình. Bài
hát nhắc tới cô Diễm ngày xưa, có thể là người yêu mình. Cũng có thể tả khách
quan một cuộc tình khác. Bây giờ cô ây vẫn mong ngóng người mình yêu vì lý do
gì đó ra đi chưa trở lại. Diễm là tên tượng trưng, gọi Kiều xưa cũng chẳng sao.
Lời ca mở đầu nhắc, mắt, tay, gót. Cái đẹp của quá khứ khó mà có những bộ phận
đó. Vậy tầng tháp cổ là gì? Là cái cổ ngóng mãi người về nên cao như một tầng
tháp. Mưa chính là nước mắt, mắt ở trên cổ nên nước mắt rơi ướt cổ. Nghe lá thu
mưa reo mòn gót nhỏ tạm hiểu là chắc em khóc nhiều như lá rụng trên con đường
mòn thuở nhỏ. Mong giang tay đón người yêu về đến nỗi tay cũng dài theo năm
tháng, dõi theo con đường mất hút bóng người yêu làm cho cặp mắt sâu thêm.
Đối với tôi, cho rằng đoạn ca từ mở đầu gợi
lên nét đẹp xưa là vô nghĩa. Nhưng ai đó liên tưởng theo hướng trên hoặc hướng
khác, họ có cảm thụ riêng của họ, có lý giải riêng của họ, mình không thể tranh
cãi. Ở đây chỉ muốn nói thêm vào thập niên 1960, người ta quen nói Đào, Mận
ngày xưa…nhưng nay ta lại nghe quen Nga xưa, tôi xưa, em xưa …bỏ bớt chữ ngày
rất tự nhiên. Ngôn ngữ được sáng tạo, biến đổi là vậy. Khác với Bùi Giáng,
Trịnh Công Sơn sáng tạo ở cách dùng từ cũ để tạo ra một khái niệm mới chứ chưa
thấy làm ra một từ lạ lẫm như cụ Bùi. Nhạc tình của họ Trịnh khơi dậy những tâm
sự đã lắng đọng trong tiềm thức, tuổi quá trẻ thì ít trải nghiệm có thể cảm
nhạc ông nhưng không nhiều, cũng không sâu sắc. Từ trung niên trở lên mới thấy
nhiều đồng cảm. Còn cụ Bùi, là phù thủy ngôn từ, thực và bóng, ảo và hư chẳng
biết đâu lần. Đặc biệt ông tạo ra từ mới chắc chỉ mình ông hiểu rõ, như tôi thì
hiểu mang máng, thích thì bắt chước ông vậy thôi.
Do đó tôi có thói quen khi đọc một bài thơ,
lắng nghe âm hưởng của nó, nếu tự nhiên nó làm tim tôi rung động thì tôi yêu
thích. Tiếp đến tôi cố gắng hiểu tác giả muốn nói gì khi sử dụng từ ngữ chứ
không đánh giá tác giả dùng đúng hay sai, chuẩn hay lệch một từ ngữ. Bởi vì tôi
không là tác giả, không thật sự hiểu lý do tác giả chọn từ. Nếu bài đó không
làm tôi rung cảm thì tôi không quan tâm, nếu khiến tim tôi rung động thì tôi có
thể nhẩm lại câu mình đắc ý. Tôi nhớ hình như Lão tử có nói: dùng lời là để
diễn ý, đạt ý hãy quên lời. Tôi cũng vài lần góp ý cho ông anh rất yêu mến tôi
và tôi cũng rất trân quý anh ấy: thơ mình vợ người hơi đâu mà bàn!
2. Miên trường và bóng tà huy bay
Thơ tôi nếu ai đọc thì thấy giống vè, hihi,
lạm bàn thơ bạn quả không nên. Thật ra trên trăm bài tôi có dùng một lần “cõi miên trường” với nghĩa là cõi chết,
cõi vĩnh hằng cho nó hợp vần. Tôi mượn từ ngữ của cụ Bùi, yên tâm cụ không thể
chửi tôi. Nó nằm ở câu nào bài nào tôi cũng không nhớ. Thơ mình vần vè, bắt
chước, nhớ làm gì cho mệt óc, hihi. Bài thơ Chào Nguyên Xuân của Bùi Giáng tôi cảm giác đậm chất thiền:
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau
Tôi hiểu miên
trường trong bài thơ Bùi Giáng là độ dài vô tận của thời gian, tôi còn liên
tưởng đến chiều rộng và cao vô tận của không gian. Nhưng bài thơ không hề tạo
cho tôi liên tưởng đến giấc ngủ dài. Cõi miên trường mà tôi đã mượn là cõi sau
khi chết. Cách dùng của tôi chắc cũng có người đọc, chả ai dùng theo, tôi còn
quên nữa là người khác.
Nhưng khi ai đó dùng với nghĩa là giấc ngủ,
hoặc sự mềm mại cũng chẳng sao. Vấn đề là khi dùng như vậy nó có đọng lại trong
lòng độc giả không? Biết đâu có người cảm và bắt chước cách dùng của họ. Và
biết đâu không ai dám dùng?
Trong một câu thơ: “Miên trường trở giấc hồn cô quạnh”. Một ông anh tôi có nói rằng nếu
dùng trường miên thì đúng cấu trúc từ kép tiếng Việt. Cũng phải. Vấn đề cũng là
ai có dùng không và khi thay từ có làm câu thơ sẽ thêm rung cảm không.?
Nếu là tôi: Hiểu miên trường là
giấc ngủ dài thì câu thơ không dùng tiếp từ “trở giấc” mà phải là
tỉnh giấc, không ngủ nữa. Tỉnh giấc chợt nhận ra hồn cô quạnh, nhận ra không
tươi đẹp như giấc mơ. Trở giấc thường diễn đạt giấc ngủ không ngon, giấc này
sang giấc khác. Nhưng trở giấc vẫn thường dùng tỉnh dậy sau ngủ, thế thì cũng
là tỉnh giấc vậy thôi. Còn nếu hiểu miên trường là không dứt thì “miên trường trở giấc” có nghĩa là
thao thức, trằn trọc không thôi. Thao thức thấy hồn cô quạnh. Hiểu theo cách
nào cũng được nhưng nó phải hợp ý với câu trước đó hoặc câu sau. Vì không đọc
được đoạn thơ nên không dám bàn gì thêm.
Bóng tà huy bay. Có lẽ ai cũng hiểu tà huy là ánh sáng lúc
xế chiều, thế còn bóng? Bóng là hiện tượng sinh ra khi một vật cản ánh sáng.
Bóng có thể nằm dưới đất hoặc ở trên tường, tùy cự ly xa gần của vật cản với
nền in bóng. Đó là cách hiểu theo vật lý học. Tôi cũng nhớ mình có vần vè mấy
câu trong đó có dùng chữ tà huy:
Hoa cũng tàn mà nắng cũng phai
Cánh chim khuất bóng mờ chân trời
Biết đâu mỗi buổi tà huy lạnh
Đổ xuống mặt hồ một bóng tôi!
Ai cũng thấy ở đây tà huy là chỉ chiều sắp
tối. Hai lần tôi dùng chữ bóng trong khổ thơ thì ắt là còn chưa phong phú từ.
Bóng là hậu quả tôi đứng che nắng gần hồ, bóng tôi in dưới hồ, bóng không bay,
bóng có thể lay động do sóng gợn, hoặc do tôi di chuyển. Nhưng có khi nào bản
thân tà huy cũng có thể gọi
là bóng tà huy không. Tôi
nghĩ là có, nếu người ta muốn ví tà huy là buổi chiều. Nói bóng
chiều được. Thậm chí còn có bóng tối, bóng đêm thực tế chẳng có cái bóng
nào theo nghĩa vật lý, một hình thức khác của cách nói ban tối, ban đêm, mặc dù
có mượn khái niệm của bóng vật lý. Vậy dùng bóng tà huy thì đã sao?
Có khi ta nói bóng mây, bóng núi là đề cập đám mây xa xa trên trời, dáng núi mờ
mờ chứ không có ý nói cái bóng của mây trên mặt đất, hoặc bóng do ngọn núi nào
chắn. Tôi viết cánh chim khuất bóng là nói người đó đi xa, chứ ai lại quan tâm
đến cái mảng đen thui dưới đất lúc dài, lúc ngắn, lúc méo mó bao giờ? Tôi lại
viết “buổi tà huy lạnh”. Lại
thêm “buổi tà huy”. Ai đó
thắc mắc buổi chiều thì nói buổi chiều chứ nói buổi tà huy nghe chướng tai. Ánh
sáng sao mà lạnh? Dùng: “Biết đâu
những buổi chiều gió lạnh”, có hay hơn không? Chắc là tôi sẽ tức cười: trời
ạ, đúng là tôi chỉ muốn viết ý như bạn nghĩ thế thôi, lúc viết tự dưng từ ngữ
nó tới, mình viết cho vui chứ có phải là nhà thơ đâu mà ra được cách dùng từ
lúc nào cũng hay! Bởi vì tôi làm thơ là một trò giải trí dễ dãi. Đối với người
khác là đứa con tinh thần, họ yêu như con họ, đụng tới là sinh chuyện. Ai chê
con bạn xấu bạn có buồn không.
Còn tà huy bay hoặc bóng tà
huy có bay được không? Tôi nghĩ là có, nếu như tà huy in trên một tà áo.
Hoặc bay được hiểu là biến mất dần. “Trông
cho bóng người yêu cũ bay khỏi thơ tôi, vậy mà nó cứ ngồi lì ở mỗi trang thơ”. Viết
như vậy cũng hiểu được. Trong câu văn ta chưa thấy dùng bóng tà huy bay,
nhưng thơ thì có người đã dùng, vừa gợi hình ảnh vừa tạo âm hưởng lan tỏa.
Nói bóng tà huy bay là nó dần biến mất, vậy có thể nói: “bóng tà huy đáp xuống những mái nhà tranh
nơi xóm nhỏ”, được không? Tôi dùng bóng tà huy lạnh, tự tôi chấp
nhận được, thì có người nào đó viết: “Hình
như bóng tà huy nóng nảy thúc giục tôi phải gấp lên…” có được không?
Tôi cho là được tất, nếu ta gắn liền với ngữ cảnh.
Tóm tắt lại vì tôi quan niệm ngôn ngữ là sản
phẩm của cộng đồng, có thể biến nghĩa, có thể khác cách dùng quen thuộc. Đầu
tiên phải có một người dùng, sau cộng đồng chấp nhận. Sự chấp nhận hay không là
người ta có bắc chước theo không.
Vì vậy trong thơ văn tôi cố tìm hiểu tác giả
muốn nói gì hơn là dùng chữ đúng hay sai. Người đọc thơ không nên xét nét từng
câu chữ. Ta xét cả tới nghĩa bóng chứ đem nghĩa vật lý làm chuẩn cho văn thơ
thì còn gì là văn thơ.
Hoặc có ý tốt góp ý cũng nên hỏi ý kiến tác
giả trước. Người được góp ý cũng nên giải thích nhẹ nhàng. Trường hợp như anh
nào đó trả lời một người có ý giúp cho câu thơ hay hơn theo suy nghĩ của người
ấy, mà lại phản ứng với lời lẽ chê bai kém hiểu biết, quả là xúc phạm quá đáng.
Nó làm cho người ta cảm thấy cái hay trong lời thơ rất nghịch với tâm hồn tác
giả hoặc người bình luận.
Tôi cũng rút kinh nghiệm một lần 2 năm trước,
khi tôi thấy một nhà thơ nữ trẻ, trên trang cô rất nhiều fan. Cô viết một bài
thơ về Noel khá hay, tôi có còm một câu: “Bài thơ hay. Chúa nên viết hoa cho trang trọng. Bài thơ sẽ hay hơn nếu
cắt hẳn khổ cuối. Bởi vì khổ thơ đầu đã nói đến rồi, lập lại ý bằng câu chữ
khác ở khổ cuối cảm giác hơi thừa”. Thế là tác giả phản ứng dữ dội, nói tôi
không hiểu gì về thơ, dòng cảm xúc đang tuôn ra mà bảo ngăn lại… Nhưng lời lẽ
của cô cũng không quá đáng. Có vài bạn còm theo, mắng tôi đừng làm thầy. Tôi
công khai xin lỗi cả tác giả lẫn người còm chê tôi. Lẽ ra nếu muốn, tôi phải
nhắn tin riêng. Tôi thật tình nhưng thiếu tế nhị, nhất là tôi không hề thân
quen với tác giả. Lỗi hoàn toàn của mình. Đa sự hi…hi! Sau đó tôi cũng tiếp tục
theo dõi, like quả tim với vài bài. Tôi muốn tỏ ý rằng tôi có lỗi và không hề
tự ái. Nhưng sau đó tôi không bao giờ dám góp ý.
Đọc đến đây Anh chị em có thể nghĩ rằng tôi
là người ba phải. Điều ấy đúng một phần. Ở đời nếu ba phải mà không hại ai, lại
đem được niềm vui cho người khác cũng ráng mà ba phải.
Nhưng tôi vẫn là người lắm chuyện, tôi không
ngại đấu tranh với quan điểm tôi không đồng thuận. Cho dù kiến thức của họ có
hàng bậc thầy của tôi, hoặc là có học hàm, học vị hẳn hoi. Tôi cũng dùng nhiều
lời mỉa mai, châm biếm. Nhưng trước hết là vấn đề có liên quan tới dân tộc,
tiếp đến tôi nhằm vào quan điểm chứ không nhằm vào con người. Ai có hằn học,
thù ghét thì tôi cũng đành chịu.
Vì vậy những ý kiến tôi sắp trình bày dưới
đây mới dễ bị ném đá nè !
3. Làm thế nào để nhận ra một từ Hán Việt
Quý anh chị tuy tranh cãi nhau khá lớn tiếng,
nhưng thống nhất: miên trường và tà huy là tiếng Hán Việt theo nghĩa Việt vay
mượn từ tiếng Hán. Do đó lật từ điển Hán Việt ra tra xem tiếng Hán có nghĩa gì,
dùng có đúng nghĩa gốc không? Gần đây có anh bạn thân cũng chia sẻ bài viết của
một người trong ngành giáo về cách sử dụng đúng từ Hán Việt, nêu lên 16 lỗi là
do theo hướng đó.
Tôi lại kịch liệt phản đối điều này. Nếu nói
Hán Việt là những từ ngữ người Hoa và người Việt cùng dùng thì tôi không cãi.
Nhưng nói Hán Việt là tiếng Việt từ gốc Hán, thì tôi gân cổ cãi ngay. Đối với
tôi gốc và ngọn của tập hợp Hán Việt hiện nay rất mơ hồ, nghĩa là tiêu chuẩn để
phân biệt từ Hán Việt hay là Việt Hán là gì, đa số không hề nêu hoặc không nêu
được, thì hỏi sao biết dùng đúng hay sai? Các từ ngữ mà phần đông anh chị cho
là gốc Hán tôi chỉ xếp vào cổ văn người Việt, khác với kim văn hiện nay thôi.
Nghĩa là tôi cho rằng trong tập hợp đó có phần lớn gốc tiếng Việt, hoặc ta chưa
biết được biết đâu là gốc - ngọn.
Đồng thời tôi chống lại việc lấy tiếng Hán
trong từ điển làm hệ quy chiếu tiếng Việt. Tôi nghĩ rằng chỉ dùng từ điển tiếng
Hán để hiểu các văn bản tiếng Hán, hoặc khi dịch sang tiếng Việt cho đúng ý
thôi. Lấy nghĩa tiếng Hán rồi yêu cầu dùng tiếng Việt phải theo đúng như tiếng
Hán là hiện tượng vô tình tiếp tay cho phá hoại văn hóa dân tộc.
Trước hết, khi tranh luận đa số lấy từ điển
Việt Hán ra dẫn chứng nghĩa tiếng Hán. Tôi chưa thấy ai mở từ điển tiếng quốc
ngữ - Nôm ra dẫn trước hay so cả hai từ điển rồi hãy kết luận. Tôi thấy nhiều
người không phân biệt từ điển Hán Việt là cuốn từ điển in hình chữ Hán, hướng
dẫn cách viết, cách đọc, ngữ nghĩa theo tiếng Việt và cách dùng trong câu chữ
Hán. Từ điển Hán Việt là dành cho người Việt học chữ Hán. Ví dụ từ điển của
Thiều Chửu.
Tôi lại thấy đa số vào từ điển Hán Nôm online
để tra. Gõ tiếng quốc ngữ để tìm một chữ Hán.. Nó sẽ xuất hiện chữ Hán, giải
thích, dẫn chứng nghĩa theo người Hoa thì kết luận đó là từ Hán Việt. Điều này
không sai, nhưng lại dựa vào đó nghĩ là từ Việt đó gốc Hán và phải dùng như từ
điển giải thích và dẫn chứng rồi đem ra tranh cãi là sai lầm. Tương tự như tra
từ điển Việt Anh, có bao giờ ta lại xem tiếng Anh đó là gốc tiếng Việt không?
Thiết kế từ điển online Hán-Nôm mà ta thấy
trên mạng được thiết kế tổng hợp vừa tra chữ vừa tra âm, nhưng chính và trước
hết là tra âm vị tiếng việt. Nếu ai muốn biết chữ “phụ” của tiếng Việt thì
tiếng Hán viết thế nào, cách dùng ‘trong câu thế nào, gõ chữ quốc ngữ “phụ”
vào, ấn nút Hán Việt sẽ thấy chữ Hán tượng hình. Sau đó vì một âm phụ có 35
kiểu viết, diễn đạt khái niệm khác nhau, muốn rõ nghĩa một chữ ta phải dò xem
chữ nào trùng ngữ nghĩa với tiếng Việt thì ta chọn chữ đó. Ta nhìn một chữ cụ
thể người ta dành một trang ngắn dài tùy chữ. Nó hướng dẫn bộ thủ, phát âm,
cách viết nét chữ, có giải nghĩa bằng tiếng quốc ngữ, nhưng ví dụ cách dùng
trong câu tiếng Hán. Lúc này nó thực hiện chức năng từ điển Hán-Hán- Việt.
Tóm lại bộ từ điển này là Việt – Hán và Hán –
Hán - Việt dành cho người Việt học tiếng Hán. Chứ bản thân nó không nói lên
tiếng nào sinh ra tiếng nào.
Nếu các bạn gõ một chữ quốc ngữ, nhấn nút Hán
- Nôm sẽ ra chữ tượng hình Nôm. Lẽ ra từ điển nay là từ điển tra chữ quốc ngữ -
Nôm, họ lại để Hán Nôm, một sự ngụy trang tinh vi, cũng giống như phần nói trên
phải để Việt Hán họ lại để Hán Việt.
Từ điển chữ Nôm rất quan trọng, vì nó chứa
mọi âm vị người Việt từ xưa tới nay. Ta gõ bất cứ âm vị nào trong chữ quốc ngữ
thì có chữ Nôm tương ứng. Các từ kép không có là do không cài đặt nên ta phải
tự ghép hai âm vị lại với nhau. Vô số âm vị Việt chữ Hán không có, nhưng chữ
Nôm lại có. Ví dụ âm vị/ con/ … Như vậy người Việt có viết giống chữ Hán một số
âm vị mà ta gọi là mượn, ngoài ra tự tạo chữ viết cho mình theo chữ vuông, cùng
hệ thống bộ thủ như người Hoa từ thời nào không rõ. Nhưng nếu so âm vị thì Việt
nhiều hơn Hoa hàng chục lần. Ngược lại chữ Hoa nhiều hơn chữ Nôm, vì một âm vị
họ rất nhiều nghĩa, mỗi nghĩa dùng một chữ, đôi lúc một âm, một chữ lại rất
nhiều nghĩa khác xa nhau.
Hai ngôn ngữ sử dụng chung từ ngữ chưa bảo
đảm ngôn ngữ nào đã vay mượn từ ngôn ngữ nào. Còn phải truy nguồn gốc chủng
huyết tự nhiên ai là hậu duệ của ai. Thuyết thiên di nhân
chủng và di dân nhân tạo dẫn tới biến thiên ngôn ngữ. Tiếng Hán
đơn âm như tiếng Việt. Tiếng Việt xếp vào hệ Nam Á. Tiếng Nam Á vốn là bán đơn
âm: Krong > sông; nghĩa là theo dòng thiên di thì tới Việt rụng bớt phụ âm
đầu. Xếp tiếng Việt vào Nam Á là hợp lý. Tiếng Hán gần gũi với tiếng Việt mà
xếp vào hệ Tạng - Hán là gượng ép, vì tiếng Tạng đa âm. Lẽ ra phải ghép một hệ
Việt- Hán mới phù hợp với nhân chủng học và ngôn ngữ học hiện đại. (có những
bài phân tích ngôn ngữ riêng).
Tóm tắt là hiện nay chưa có công trình thật
sự khoa học nghiên cứu phân loại về nguồn gốc Hán Việt hay Việt Hán. Cho nên
tạm thời phân ra cổ văn và kim văn. Nhóm từ ngữ mà hiện nay gọi là Hán Việt đa
số là cổ văn, hai dân tộc cùng sử dụng. Riêng cá nhân tôi thì dựa vào so sánh
âm vị để tạm định ra từ nào Hán Việt và từ nào Việt Hán. (có một loạt bài
riêng)
Ở đây tôi lấy ví dụ cụ thể đang bàn đặt lại
vấn đề ngược ngạo với đa số: Miên trường và tà huy có thực sự là từ tiếng Hán
hay không mà ta lại đem ra đối chiếu với cách dùng trong tiếng Việt?
Tra từ điển Hán cũng có chữ miên và chữ trường. Tra từ điển Nôm cũng có miên và trường. Ghép hai từ lại
cũng đều có nghĩa: dài dằng dặc, chữ miên cả hai ngôn ngữ cùng liên quan đến
sợi tơ, cho hình ảnh dài dằng dặc như cuộn chỉ. Từ điển tiếng Nôm thể hiện âm
vị / miên/ và / trường/. Về mặt chữ cũng y như chữ Hán vậy, tức là ta viết kiểu
chữ Hán. Khi ta tra từ điển Hán Việt ta thấy có các từ kép: miên trường, miên
man, lan man… mà tra chữ Nôm không có, ta vội kết luận rằng tiếng Việt không
có. Ta quên rằng từ điển chữ Hán soạn từ lâu nên các từ kép ấy có. Từ điển
tiếng Nôm mới soạn nên không đầy đủ từ kép. Chứ từ điển tiếng Việt vẫn có triền
miên, miên man, lan man…. Từ miên trường người Hoa cũng ít dùng. Cổ văn người
Việt cũng ít dùng. Ngày nay ta dùng lại biểu cảm. Cho nên khi tra một cổ ngữ ta
cần tra từ điển quốc ngữ - Nôm trước, để xem rằng ngày xưa người Việt có dùng
“âm” này không và nghĩa xưa và cách dùng của nó.
- Chỉ khi nào tiếng Hán có âm vị mà tiếng
Việt cùng âm tiết nhưng không có âm vị mới gọi là tiếng thuần Hán. Ví dụ: âm
tiết /cổn/ người Hoa có âm vị cổn, nghĩa của nó là: từng cái, còn một
nghĩa khác là cái nhà xép. Người Việt phát được âm tiết /cổn/ nhưng
không có nghĩa gì trong tiếng Việt, nên gọi tiếng Việt không có âm vị cổn, nó
chỉ là từ tượng thanh khi nghe 2 vật cứng rỗng chạm vào nhau, kết hợp với lổn
cũng là không có nghĩa tạo ra hai âm tiết lổn cổn, ta dùng tượng thanh, chứ tự
hai âm tiết đó chưa có nghĩa. Nhưng tiếng Hoa âm cổn là một âm vị. Đó
là từ thuần Hán, không hề Hán Việt, Việt hán gì cả. (âm vị là âm tiết có
nghĩa, đơn vị nhỏ nhất của âm thanh có diễn đạt khái niệm). Ngược lại : trăm và
năm tiếng Hán không có nghĩa. Người Hoa vẫn phát âm được 2 âm tiết này, nhưng
không có nghĩa nên gọi là từ thuần Việt.
- Hoặc là cùng âm tiết hoặc cận âm tiết mà
khác nghĩa thì sẽ phân ra được thuần Hán và thuần Việt.
Ví dụ: Kiền khôn hay càn
khôn chỉ quả đất và không gian phía trên quả đất ta gọi là trời, đất.
Tiếng Việt không có âm vị Kiền, khi biến âm càn cũng là khái niệm trời khi
dùng càn khôn như kiền khôn vậy.
Đồng thời tiếng Việt có âm càn liên
quan đến bậy bạ, ngang tàng: làm càn, nói càn, hoặc liên quan đến càn quét;
những khái niệm tiêu cực, phàm tục. Không thể cùng một âm tiết đó mà cùng lúc
diễn đạt khái niệm thiêng liêng: trời. Do đó chữ càn trong càn
khôn là gốc Hán. Tiếng Việt không bao giờ dùng khôn để chỉ đất,
mặc dù tiếng Việt có âm vị khôn chỉ mức độ cao của trí tuệ. Để chỉ
đất tiếng Việt dùng đất, địa: thần đất, ông địa. Như vậy cho dù trùng âm tiết
như: khôn hoặc cận âm như càn, nhưng nghĩa khác nhau nên kết luận càn
khôn là gốc tiếng Hán. Trong khi đó càn quét và càn bậy thì càn là âm vị
Việt.
- Nhưng nếu trùng âm vị (mặc dù có biến âm)
và trùng ngữ nghĩa là hai ngôn ngữ dùng chung. (cái mà ta hiểu lầm là Hán Việt
toàn bộ): miên trường và tà huy.
Miên trường đã nói, không thể phân biệt gốc ngọn
Hán Việt, trước mắt là tiếng Việt cổ và tiếng Hoa đã dùng chung. Đối với người
Việt dùng miên trường là cách xưa, trường miên nếu có dùng và sau đó nhiều
người dùng theo là cách mới, không có gì đúng sai cả, tương tự học đường và
trường học, nếu nó hợp cú pháp cổ kim thì quen nghe, dễ chấp nhận. Do đó không
võ đoán khi nói: không thể ghép từ đơn tiếng Việt vào từ đơn tiếng Hán. Học +
đường = học đường. Vậy học là tiếng Hán hay tiếng Việt? Không lẽ trước khi người
Việt gặp người Hán thì không có khái niệm học hỏi? Trường đâu phải tiếng Hán
không có âm vị để diễn đạt một nơi chốn? Trường học = học trường nghe lạ tai,
nhưng môi trường thì sao? Thật sự nếu dùng âm vị học ta sẽ loại ra một lượng
cực lớn các âm vị mà các nhà từ nguyên học thiếu kiến thức về nhân chủng học áp
đặt có nguồn gốc tiếng Hoa.
Tà huy: cổ văn Việt có 13 chữ Nôm để biểu thị âm vị
huy, nhưng về nghĩa thì nhiều chữ trùng nghĩa. Hán ngữ có 29 âm vị/ huy/. Cổ
văn Việt có âm vị huy liên quan đến sắc thái vận động, dấy lên, lộ ra
từ đó tạo ra những từ ngữ khác: huy động, chỉ huy, huy hoàng…. Ngoài ra còn có
huy chỉ ánh sáng mặt trời. Xuân huy là chỉ ánh sáng tỏ của mặt trời,
ví như cách dùng xuân sắc, xuân thời, hàm nghĩa tích cực. (Xuân cũng là một âm
vị Việt, nội hàm hẹp hơn âm vị Xuân của người Hoa)
Âm vị cổ /huy/ tiếng Việt ít nghĩa
hơn tiếng Hoa, còn lại là giống nghĩa. Nhưng không thể nói huy là âm vị từ Hoa
ngữ, không có bằng chứng nào cả.
Tà: âm vị hán có nghĩa là lệch, nghiêng, trái với
ngay, chính. Trong khi đó tiếng Việt tà ngoài nghĩa giống người Hoa như trên
còn có nghĩa:
1. trái với nhọn, bén, cùng nghĩa với
cùn, mòn: mũi dao tà , gươm tà.
2. Vạt áo phía dưới: tà áo.
3. Chậm: tà tà, láy thanh nghĩa là
không chậm lắm, hơi chậm. Tổng hợp lại tà trong tiếng Việt diễn đạt những khái
niệm liên quan đến hiện tượng mòn dần, thấp dần.
Vì vậy người Việt khi nghe cái âm /xuân
huy/ phát ra thì liên tưởng ánh sáng trẻ, mạnh, đang lên. Khi
nghe /tà huy/ là ánh sáng yếu dần, ngay tức khắc liên tưởng tuổi già,
điều tăm tối, tàn tạ… Cho nên đem nghĩa Hán, chỉ ánh sáng xiên buổi chiều để
giải thích nghĩa Việt là khập khiểng. Tương tự vậy, đem nghĩa cổ mà so với
nghĩa kim là cản đường phát triển ngôn ngữ.
Chúng ta sẽ cãi vã vô tận nếu so đo ngữ nghĩa
Hán với Việt, cổ với Kim. Dịch một bài thơ chữ Hán của người Hán thì phải tìm
hiểu chữ Hán nhưng cũng chưa đủ, ta cần phải tìm hiểu tâm lý người Hán theo bối
cảnh xuất thân của tác giả, thời thế. Nhưng rốt cuộc không có gì chắc chắn rằng
ta hiểu đúng ý thơ tác giả. Chỉ là đại khái. Dịch tức diệt là vì vậy. Đồng thời
đưa bản dịch cho học giả Hán có thông thạo tiếng Việt, nếu họ không sống lâu
năm trên đất Việt, giao tiếp nhiều với người Việt, nhận ra tâm lý Việt khác
Hoa, họ cũng chẳng biết câu thơ hay chỗ nào? Việc tranh cãi trong dịch thơ Hán
của người Hoa là việc làm tốn thời giờ. Nếu có tranh luận thì tranh luận cách
hiểu và lựa từ ngữ khi dịch thơ chữ Hán của người Việt, chúng ta còn có một
phần dữ liệu nắm chắc về lịch sử và vì cùng một cội nguồn tâm lý, văn hóa.
Tương tự vậy, tranh luận gốc Hán Việt hay
Việt Hán là chuyện các nhà từ nguyên học, nhưng nó lại không ích lợi gì khi ta
đọc thơ và làm thơ ngày nay. Đừng vin vào nghĩa gốc tiếng Hán mà đánh giá câu
văn, bài thơ tiếng Việt. Hãy nhìn vào ngữ cảnh để định đoán tác giả muốn nói gì
trước một cách dùng không quen tai mình. Từ ngữ và cú pháp được cộng đồng thừa
nhận hay không lệ thuộc vào tiêu chuẩn: bị lãng quên hoặc được bắt chước. Trong
cái học đa phần từ nền tảng bắt chước, sáng tạo là việc rất ít, sáng tạo hoàn
toàn hầu như không có. Không việc gì xấu hổ khi bắt chước cách dùng từ ngữ của
người đi trước. Đồng thời người đi trước dùng không phải là tiêu chuẩn duy
nhất.
Trường học dạy môn tiếng Việt cho học sinh là
dạy những chuẩn mực đầu tiên của ngữ nghĩa và ngữ pháp. Trường học là tổng kết
những gì chung nhất của thực tiễn, nó sẽ bổ sung những gì thực tiễn phát sinh.
Cho nên ngữ nghĩa và ngữ pháp của nhà trường là chuẩn mực của ngôn ngữ, nhưng
không phải là phạm vi giới hạn của ngôn ngữ đời sống và nhất là trong thơ. Thơ
là ngôn ngữ đời thường được nâng lên tầm nghệ thuật bằng các biện pháp mỹ từ,
nó có nhịp và các thanh tạo ra tính nhạc... Đôi khi nó tuôn ra theo dòng cảm
xúc không mang tính cân nhắc của trí tuệ. Bản nhạc được người này yêu thích mà
người khác không cảm thấy hay, thậm chí không ưa, lệ thuộc vào tâm lý mỗi
người.
Tuy nhiên không có nghĩa là người làm thơ
buông thả tùy nghi. Sau khi làm xong cần đọc lại, cân nhắc lời thơ sao cho
người đọc hiểu ít nhất là theo một liên tưởng nào đó. Còn ta làm theo cảm nhận
thú vị của riêng ta bất chấp ai thì tốt nhất đừng phổ biến. Tôi từng công kích
cách làm thơ của trường phái mạo danh Tân Hình Thức: bất chấp cú pháp trong câu
nói, trong hình thức tương đối của ngắt câu. Một cách tập nói cà lăm, mà lại huênh
hoang cho là khuynh hướng hiện đại.
4. Trình bày một cách hiểu 2 bài của Bùi
Giáng không dựa vào ngữ nghĩa tiếng Hán
Khi đọc bài Chào Nguyên Xuân, thoạt
tiên tôi cảm thấy hay như một bản nhạc không lời. Cảm thôi chứ không hiểu gì
cả. Nghe tác giả là một người uyên bác lẫn uyên thâm. Thâm ở đây hiểu thêm theo
tiếng Việt là hóm hĩnh, trêu chọc, là sẽ bầm dập với ông già này. Tôi thắc mắc
rất nhiều về cách dùng từ ngữ tiếng Việt của ông trong bài này.
Trước hết nguyên
xuân là gì? Tra từ điển tiếng Việt không thấy, thử tiếp từ điển Hán, Nôm
đều không thấy? Tất cả đều có từ đơn mà không có từ kép. Hiểu làm sao đây? Chào
là mới gặp chào đón, hay chào ly biệt? Trong bài thơ đều có hai từ chào đón và
ly biệt. Chào nhau có lẽ là chào nguyên xuân, vì không thấy đối tượng nào khác,
mà nguyên xuân là gì không nghe ai nói. Chữ này ông nổi hứng tạo ra không
chừng. Hỏi trăm người ắt có trăm giải thích. Gọi ông là nhà thơ điên, hoặc vì
thơ ông làm điên đầu người đọc ắt đều đúng.
Không hiểu nhưng nhặt ra thấy nhiều câu mình
thích rồi thắc mắc tiếp:
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa Xuân phía trước miên trường phía sau
Sao kỳ vậy ta? Mùa xuân là danh từ lại đối
với miên trường là tính từ sao nghe
vẫn thấy hay?
Có trời mây xuống lân la
Bên bờ nước có bóng ta bên người
Bóng ta bên người là bóng của mình bên mình,
hay bóng của mình bên một người khác?
Xin chào nhau giữa bàn tay
Có năm ngón nhỏ phơi bày ngón con
Bàn tay có năm ngón rồi, ngón con nào lại nằm
giữa bàn tay? Có khi ông già cắc cớ nói ngón con là con… gì đó của ông không?
- Có hồng tàn lệ ? hay Có hòng tàn lệ? khóc
đời chửa cam: cam là ngọt hay là cam go ? chửa cam có phải là “cảm chưa” ?
Xin chào nhau giữa bụi đầy
Nhìn xa có bóng áng mây ngang đầu
Đã bóng mà còn áng là muốn nói gì đây? Muốn
nói đến mái tóc chăng?
Thưa rằng ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa sắc màu nguyên xuân
Trùng ngộ nghe quen quen lạ lạ, tra từ điển không
thấy. Có phải là gặp lại nhau không? Mà ai gặp ai nhỉ?
Thôi thì đọc kỹ mấy cũng không hiểu tác giả
muốn nói gì. Chỉ cảm thấy hình như ông tự nói với mình, ông tự chào ông. Nguyên xuân có thể nguyên là y như cũ,
xuân là tuổi đời. Ghép lại là con người ông. Ông đang độc thoại, đang suy ngẫm
về triết lý khi nhìn về mình như một thực thể không có ranh giới cái sống và
cái chết. Đời người chẳng qua là ngộ nhận giữa mảng chiêm bao, nó vốn là một
thực thể trong cuộc hành trình từ vô tận của quá khứ đến vô tận tương lai.
Tôi cũng cảm đây là những vần thơ đẹp, có hai
từ rất mới: nguyên xuân và trùng ngộ và một từ cổ miên trường. Dòng thơ tạo nên những nhịp
vui thanh thản, an ủi động viên con người. Thế thôi, chứ ngồi mà thắc mắc thì
không còn là thưởng thức thơ nữa. Tóm lại tôi yêu một bài thơ mà không chắc
hiểu đúng một phần!
Còn bài thơ dịch của Andre Gide thì sao? Tôi
cũng chẳng hiểu ông nói gì, nhưng có những câu ấn tượng:
Ta về giũ áo đười ươi
Trút tờ phong nhã cho người phụ nhau
……
Em về giũ áo mù sa
Trút quần phong nhụy cho tà huy bay.
Lại ra một đống thắc mắc: giũ, trút là đem
lại cho người khác hay vứt bỏ, áo đười ươi là sao? Cho người phụ nhau là trợ
giúp nhau hay bội bạc nhau? Diệu Hoa lầu các có phải là bộ Diệu Pháp Liên Hoa
kinh không? Bất bình là nổi giận hay không bình giảng được? Đầu xuân rất mực
Biên đình nở hoa, là nghĩa gì? Có giống như câu thơ của Hoàng Cầm?:
Tối nay gác lạnh nghênh xuân sớm
Hai đóa quỳnh em nở hết mình.
Hay là đang ở ranh giới giữa u mê trong đầu
từng này tuổi chợt ngộ ra bên kia là lý lẽ Diệu pháp liên hoa kinh? Ui, không
lẽ phải tìm tập kinh này đọc mà so sánh?
Quần, chẳng lẽ nghĩa đen là cái quần, phải
chăng là muốn nói tới tập hợp nhiều phần tử, quần thể? phong nhụy là gì, có
phải là nhụy hoa còn nằm trong cánh hoa chưa nở? Có gì liên quan giữa “tờ phong nhã” với “quần phong nhụy”, giữa áo và tà? Tà
huy bay là ánh sáng chiều bay lượn, hay muốn ví nỗi buồn biến mất. Thắc mắc và
thắc mắc. Chẳng hiểu gì ráo, bản Pháp văn lại chẳng có. Nếu có, cũng có biết
tiếng Pháp đâu mà đọc! Các vị cứ phân tích để được học hỏi, còn tôi nghĩ nữa
thì bể cái đầu.
Thôi thì tôi cứ tạm hiểu rằng con người nên
trút bỏ cái lớp áo bề ngoài dị hợm: là danh vọng, tiền tài, thú vui phàm tục…
múa may như loài khỉ. Hãy trở về bản chất nguyên sơ tốt đẹp như những (quần)
đóa hoa còn khép nhụy chứa ngát hương thơm, và để những ám ảnh như tà huy biến
đi. Tay ngang này hiểu đúng hay sai hơi đâu mà chấp. Nhà thơ đã giũ, trút,
buông xã rồi, mình cứ mãi câu chấp là sao?
Viết tới đây tôi chợt nghĩ đến chức năng của
thi ca. Nó vừa giải trí vừa nuôi dưỡng tâm hồn nhân bản thông qua ngôn từ.
Chúng ta có nên thưởng thức thơ bằng cách cho thơ mình hay lắm, chê bai người
khác. Hoặc nghe người khác góp ý lại buông lời xúc phạm? Tôi tự hỏi tiếng Việt
tôi thật sự hiểu hết nghĩa và biết đủ cách dùng chưa mà dám trình bày cái uyên
bác của mình rằng hiểu chữ Hán! Đấy, hai bài thơ của Bùi Giáng nếu tôi làm chủ
được ngôn ngữ Việt ắt tôi phán đúng - sai, hay - dỡ liền!
Tôi biết rằng khi viết những dòng tâm sự tản
mạn này, có vài thân hữu sẽ bực mình. Ui, chuyện nhỏ. Ai giận thì ăn ngủ mất
ngon ráng chịu. Hơn thua nhau vài từ ngữ để làm gì, trong khi cả dân tộc không
khéo thì thua đậm. Vì tôi liên tưởng đến gần đây, nhiều người sùng Hán kêu gọi
khôi phục Hán Nôm, chắc có phần hiểu được thơ xưa hơn. Chứ nhân nghĩa lễ trí
tín thì dân tộc nào cũng có cứ gì phải từ Nho học! Còn những nọc độc, cái lỗi
thời khác của Nho học thì quá nhiều người phân tích, chia sẻ rồi.
Thậm chí nhân ý định đặt tên đường ghi nhớ
công đóng góp làm nên chữ quốc ngữ của A.de Rohdes. Họ kết tội ông và chữ quốc
ngữ dẫn đường cho Pháp xâm lược. Họ bảo rằng bỏ học chữ Hán- Nôm là mất gốc. Họ
chứng minh rằng Tàu - Nhật - Hàn không bỏ chữ tượng hình sao lại tiến bộ hơn
ta. Họ không đưa số liệu 30% người Hoa, tức là gần 500 triệu người còn mù chữ.
Họ cũng không nêu câu hỏi nếu các nước đó cải cách được chữ viết thì họ còn
tiến bộ hơn nữa không? Những câu hỏi trên cũng thuộc phạm trù chữ nghĩa đáng
quan tâm tranh luận.
Ngày trước cũng có những nhóm nhà nho khả
kính như Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng công kích nhóm Phạm Quỳnh truyền bá chữ
quốc ngữ và kết ông tội theo thực dân, bán nước. Ông trả lời nhẹ nhàng, làm các
vị cứng họng: “Khi tôi sinh ra thì nước
đã mất làm sao tôi bán được?”. Có phải ông đã mắng khéo rằng chính cái hủ
nho đã khiến cho ngu dân dẫn tới đất nước lạc hậu rồi mất nước không?
Dẫn lại hai bài thơ của Bùi Giáng.
CHÀO NGUYÊN XUÂN
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau
Tóc xanh dù có phai màu
Thì cây xanh vẫn cùng nhau hẹn rằng
Xin chào nhau giữa lúc này
Có ngàn năm đứng ngó cây cối và
Có trời mây xuống lân la
Bên bờ nước có bóng ta bên người
Xin chào nhau giữa bàn tay
Có năm ngón nhỏ phơi bày ngón con
Thưa rằng những ngón thon thon
Chào nhau một bận sẽ còn nhớ nhau
Xin chào nhau giữa làn môi
Có hồng tàn lệ khóc đời chửa cam
Thưa rằng bạc mệnh xin kham
Giờ vui bất tuyệt xin làm cỏ cây
Xin chào nhau giữa bụi đầy
Nhìn xa có bóng áng mây nghiêng đầu
Hỏi rằng: người ở quê đâu
Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà
Hỏi rằng: từ bước chân ra
Vì sao thấy gió dàn xa dặm dài
Thưa rằng: nói nữa là sai
Mùa xuân đương đợi bước ai đi vào
Hỏi rằng: đất trích chiêm bao
Sá gì ngẫu nhĩ mà chào đón nhau
Thưa rằng: ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân
BÙI GIÁNG
CẢM ĐỀ LA PORTE ÉTROITE
GIDE TẶNG SOPHOCLE
Ta về giũ áo đười ươi
Trút tờ phong nhã cho người phụ nhau
Em về thảng hoặc mai sau
Diệu Hoa lầu các đêm nào hóa sinh
Còn nghe cơn cớ bất bình
Đầu xuân rất mực biên đình ra hoa
Em về giũ áo mù sa
Trút quần phong nhụy cho tà huy bay.
BÙI GIÁNG
Trong chùm thơ “Cảm đề La porte étroite”
in trong phần Phụ lục của truyện dài “Khung cửa hẹp” (La porte étroite,
tác giả André Gide) do Bùi Giáng dịch
Mời thư giãn với nhạc phẩm THƯƠNG CA TIẾNG VIỆT
của Đức Trí, lời: Hà Quang Minh, qua tiếng hát Mỹ Tâm:
*.
Nha Trang, 09.12.2019
LÊ NGHỊ
Địa chỉ: Số nhà 120/72A, Nguyễn Thiện Thuật,
thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
Email: lilinghecr@gmail.com
…………………………………………………………………………
- Cập nhật từ messenger Li Li Nghệ ngày 10 tháng 12 năm 2019.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân
Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét