VÒNG TAY CỦA
BIỂN
Hơn 40 năm, hắn
mới quay lại Phú Yên. Khi máy bay hạ cánh, hành khách đều rảo chân xuống thang,
ùa vào nhà ga trốn nắng, hắn, một mình đứng lại giữa đường băng chói chang nắng
tháng 5, bàng hoàng nhận ra, vẫn cái tháp nước cũ kỹ năm xưa nổi lên trên triền
cát trắng.
Trừ cái nhà ga cao to lộng lẫy mới xây,
lối ra vào chỉnh chu vừa đủ cho sân bay nội địa một tỉnh, còn đường băng và
tháp nước không thay đổi. Hắn bất giác di chân trên đường băng cứng, muốn tìm
lại cảm giác của lần thứ nhất đến nơi đây, khi hắn cùng đồng đội truy kích địch
từ Cheo Reo xuống Tuy Hoà. Hơi nóng tháng 5 hầm hập. Những hạt cát cứng và
trắng kêu lạo xạo dưới gót giày làm hắn trào lên xúc động. Cô tiếp viên trẻ
trung người Phú Yên trên máy bay chẳng đã nói với hắn rằng: “Con lộ Bẩy bây giờ
đổi tên thành đường Hai Nhăm rồi, nhưng chú vẫn có thể nhận ra vì nó
không thay đổi nhiều”.
Còn cái xóm nghèo ven biển hắn và bạn hắn
từng nghỉ lại trong chuyến đi phép sau giải phóng liệu có tìm thấy không? Vâng,
cái xóm nghèo tên Lương, hơn dăm chục nóc nhà ấy trên doi cát nằm kề biển. Hắn
quay ra cửa sân bay. Quanh sân bay cơ man hoa giấy. Trong ánh sáng chói chang,
những trảng hoa lớn rực rỡ một mầu hồng phấn khích. Hồng là Hường. Ừ, tên cô
gái ấy là Hường. Bất giác hắn nhớ tới khuôn mặt đẹp và mớ tóc đen như mun của
cô.
Tháng 9 năm 1975.
Mưa bão miền Nam Trung Bộ về dữ hơn mọi
năm. Đoàn xe đò đưa những người lính đi phép đầu tiên sau cuộc chiến dằng
dặc vừa qua đèo, vào đến Tuy Hoà thì không thể chạy được nữa. Nước từ đâu giội về
cuộn sôi lên, tứ bề như biển. Binh trạm buộc phải sơ tán bộ đội rời xe đò vào
trú quanh vài xóm cồn. 5 sĩ quan Hà Nội được phiên chế thành một tổ, về một xóm
nhỏ. “Các đồng chí Dương, Long, Quân… về nhà ông Ba Sự” - cán bộ binh trạm gọi
tên.
Nhà cho 5 người lính trú là ba gian cũ kỹ,
chia ra bằng mấy hàng cột gỗ mầu nâu sẫm, bốn phía xây tường gạch. Gian giữa
rộng thênh thang đặt ban thờ gia tiên bằng gỗ cũ kỹ. Kế hai bên có hai cái phản
gỗ màu đen thẫm. Giữa nhà có cái bàn uống nước, bụi mờ trên mặt bàn, chừng lâu
chẳng có ai ngồi.
Chủ nhà ra đón cửa là người đàn ông già.
Anh lính giao liên giới thiệu, ông tên là Ba Sự.
Ba Sự hơn sáu chục, tóc bạc lởm chởm,
người gầy sắt, sạm đen như khúc cây bần táp qua lửa, lại chỉ có một mắt. Mắt
bên kia bị một vết chém kéo từ trán xuống, để lại một hốc sâu đen ngòm. Chủ nhà
chân cà nhắc ra ngõ đón 5 anh bộ đội giải phóng, chỉ cho họ hai cái phản để
khách nghỉ, rồi lại im lặng ngồi vào góc phòng, trên cái ghế ngựa dài.
Mới giải phóng, bom đạn triền miên khắp
nơi nên cả thị xã vẫn không có điện. Cái đèn dầu lạp leo lét cháy trên ban thờ
không đủ toả sáng. Ba Sự ngồi như hoà vào bóng tối. Bóng đen không nói một lời,
chả thèm quan sát khách lính quét nhà, lau bàn ghế, dọn phản, quét mảnh vườn có
ba cái lu nước nằm bên gốc cau và một cây lêkima cạnh hàng dừa đang trĩu trịt
trái, ngọn đu đưa trong gió biển thổi vào. Con mắt còn lại của người đàn ông,
ai đi ngang qua thấy nó vô hồn, như đang tìm gì ở cõi vô định!
Nắng xói vào nhà, vọng từ sân tiếng quét
ràn rạt. Chủ nhà xuất hiện ngay ở hàng xương rồng trước cửa nói vóng ra:
- Kệ đó. Các chú không biết quét đâu. Vườn
cát không quét như sân gạch. Để em về nó dọn – Nói rồi ông già lại chìm thỏm
trong ngôi nhà trống chếnh.
Đúng khi ấy một cô gái dáng rất thon thả,
ngực đầy đặn căng tràn sức trẻ, xuất hiện ở cửa ngõ đi nhanh vào nhà. Đôi quang
gánh với hai thúng sơn tòng teng trên vai. Mớ tóc đen như mun buộc tó, nổi rõ
cái gáy cao, nền bờ da trắng hồng. Trên đầu cài cái lược ngà ánh lên trong
nắng. Khuôn mặt trái xoan hồng hào như trăng vẽ, lộ đôi mắt đen huyền lấp
lánh tự tin. Chừng hơi ngạc nhiên nhìn người lạ ở đâu nhiều thế đến ở nhà mình,
đôi môi trái tim hồng chúm chím cất tiếng:
– Chào các ông giải phóng! – Cô gái vào
nhà, bưng cái rổ rau theo, chắc là thức ăn mua chợ về rồi nhanh nhẹn cất quang
gánh ra hàng hiên, khuất xuống gian bếp kề nhà. Lát sau vọng ra tiếng hai cha
con chủ nhà nói chuyện. Tiếng địa phương nặng trịch lại quá nhỏ nên đám lính
không hề biết họ nói gì.
Long, hắn, người Hà Nội, dân phố Huế,
nhanh nhẹn bấm tay người lính tên Dương, đẹp trai nhất tốp, mắt sáng lên:
- Ẻm! Trời, mày thấy không, Tiên nữ miệt
vườn!
Dương bạn hắn, 27 tuổi, người ngõ phố Hai
Bà Trưng, mũi cao. Bao năm lính chiến mà khuôn mặt anh ta vẫn nom như học sinh,
có cái miệng với đôi môi rất nét, nhìn đứa bạn cùng trạc lứa, nói bâng quơ:
- Mắt cú vọ nhỉ. Mỡ đấy, húp đi!…
- Trời đất. Mày nhìn xem cánh tay ẻm đẹp
chưa? Như ngọc ngà thế kia mà choàng ôm lấy mình nhỉ?
Người sĩ quan thứ ba tên Quân, cứng tuổi
nhất bọn, bước vào nhà nói với cô gái:
– Năm anh em chúng tôi nghỉ lại nhà tránh
lụt, nhờ gia đình vài hôm. Tôi tên là Quân. Nói đến đấy, người lính chìa tay ra
định bắt tay cô gái như một thói quen bấy nay. Cô gái không đưa tay ra bắt:
“Dạ, em tên Hường”. Cô không nhìn Quân, rồi đi ngay xuống bếp.
*
Một ngày, hai ngày trôi qua mà nước vẫn
không rút. Nước từ đâu vẫn đổ về ngầu bọt như muốn ngập phăng cả thành phố Tuy
Hoà nhỏ bé.
Xóm nằm gẫn bãi cát ven biển, khoảng cách
sấp xỉ bảy tám chục mét. Nằm trong nhà nghe rõ tiếng ì oằm biển thở. Tiếng sóng
vỗ êm êm rì rào, đều đều như nhịp hát, như ai nói, nhưng có lúc về đêm, tiếng
sóng vỗ vào bờ nghe nặng nhọc, có khi tựa như tiếng nghẹn thở của kẻ đang đau
đớn, dội lên từng đợt, âm âm khào khào, khan đục, vang vào cái xóm nhỏ năm bảy
chục nóc nhà ngư dân và nông dân.
Bao nhiêu năm chiến đấu trong rừng, nay
vừa được về phép thăm nhà, lại nằm ứ cả ở nơi đây, đêm đêm nghe sóng biển thật
não nề, ai nấy lòng thêm như lửa đốt.
Mọi sự trên cái xóm nhỏ ấy vẫn diễn ra như
không có trận lụt xảy ra. Ông chủ nhà và cô gái trẻ ngày ngày vẫn dậy từ 3 giờ.
Hình như mặt trời ở đây mọc sớm hơn. Cô gái rời nhà khi ông bố từ chái nhà ra
ngồi thu lu trong cái ghế ở góc nhà, người vẫn như hoà vào bóng tối. Đôi
mắt duy nhất của ông thi thoảng loé sáng để người ta nhận biết nơi đó còn có
một sinh linh. Và rồi những người lính ở tạm cũng biết cô gái không phải là con
gái ông chủ nhà. Cô Hường là con dâu. Sớm sớm cô đi đón cá trên bến rồi đem bán
lẻ trên một cái chợ xép ngay đầu lộ Một.
Mấy người lính đã sốt ruột, lại khi lũ lụt
nên bữa ăn thức uống chẳng ra gì. Ngày ngày trạm giao liên nấu cho họ ba bữa
cơm, quanh đi quẩn lại là nồi canh tanh ngòm và mấy con cá vụn, mắm ruốc chưng
lơ phơ mấy sợi thịt hộp. Bữa ăn đạm bạc như thời chống Mỹ, hoàn toàn không có
rau dưa. Tuy nhiên, mỗi khi lĩnh cơm về, Quân – anh lính già nhất bọn đều đon
đả mời chủ nhà Ba Sự ra xơi cơm đúng theo phong tục ngoài Bắc. Ba Sự dỏng tai
nghe, thoáng nhìn, vẫn ngồi như trời trồng ở góc nhà, nói nhẩn nha:
- Các chú ăn tự nhiên đi! Mà hậu cần gì lo
cơm nước kỳ quá. Giải phóng rồi mà ăn uống hổng khác chi ở rừng.
- Cô Hường nghe bố nói từ chái nhà đi ra,
thoáng nhìn vào mâm cơm của lính. Im lặng.
Đám lính không ai nói, lặng lẽ ăn.
Sau chiều ấy, bữa ăn nào cô Hường cũng
mang ra mâm cơm khách thêm vài món ăn, cho bữa ăn của năm người lính không còn
nhạt thếch. Hôm thì bát cá kho, bữa đĩa tôm, cá rán, lại có hôm cả vài khúc cá
thu om quả chua và thịt mỡ rất đậm đà. Có hôm cô còn đặt lên mâm cơm thêm cả
cút rượu nhỏ.
Ba Sự thì vẫn chẳng nói một lời, vẫn thu
lu như cái gốc bần già cháy đen trong góc tối.
Sớm nữa, cô Hường về sớm hơn mọi ngày.
Ngoài bếp nghe rõ tiếng gà quang quác, rồi thấy tiếng xèo xèo hành tỏi phi, tỏa
mùi thơm điếc mũi. Khoảng chín, mười giờ thấy Ba Sự và cô con dâu bưng một mâm
cơm đặt lên bàn thờ. Những món nấu tỏa thơm ngào ngạt.
- Chắc nhà có giỗ ai – hắn, người lính tên
Long nghĩ thầm.
- Hôm nay giỗ vợ ông Ba Sự – Dương ghé vào
tai hắn.
Ba sự cùng con dâu đứng trước bàn thờ rì
rầm khấn. Tiếng người đàn ông già đục, trầm lại khấn rất nhỏ, đủ để thần linh,
người trần có kề bên không thể nghe thấy. Có tiếng cô chủ khóc rấm rứt.
Vừa khi ấy thấy hai người đàn ông trạc
tuổi như Ba Sự lục tục tới. Một người mặc quân phục đeo khẩu súng rulo nòng dài
trễ hông. Nghe thấy tiếng họ thì thào trong góc phòng với Ba Sự:
- Anh có mời mấy ảnh?
Im lặng một lát rồi có tiếng Ba Sự:
- Tui sợ con Hường nhà tui nó đau!
- Ừ, cũng phải. Tội! Chồng nó thiệt mạng,
vừa giỗ trăm ngày! Thôi. Anh gọi nó vô đây, chớ giỗ chị mà không mời mấy anh
giải phóng nghe kỳ quá. Nẫu (1) xa nhà bao năm. Thêm bát đũa mà.
Thấy tiếng Ba Sự gọi con dâu. Tiếng Hường
dưới bếp vọng lên:
- Con lên ngay.
Lại rì rầm. Chỉ nghe thấy tiếng “dạ, dạ”
rất nhỏ của cô Hường. Im lặng một lát. Thấy cô Hường trải cái chiếu cói ra giữa
nhà, sắp ra chồng bát sứ cao ngất, cả chục đôi đũa. Bấy giờ Ba Sự mới nói với
Quân – người sĩ quan già nhất bọn:
- Bữa nay giỗ má con Hường. Có ly rượu gạo
mời các anh vô nhậu chơi.
Người đeo súng rulo sáu phát cũng bước ra
tươi cười tự giới thiệu: “Tui là Tư Quang, bộ đội miền 202 đặc công Phú Yên.
Chỗ Ba Sự đây là bà con đã có lời mời các đồng chí cùng ăn bữa cơm cúng vợ
ảnh”.
Sao mà từ chối được! Khách chủ lục tục
ngồi xuống chung một chiếu. Rượu vào thì lời ra.
Hóa ra cả hai vợ chồng Ba Sự vốn từng là
cán bộ địa phương không tập kết, ở lại Phú Yên sau Hiệp định Geneve 1954. Người
đeo súng ngắn vốn là đồng chí cũ, bạn nằm vùng của Ba Sự. “Năm Diệm tố cộng,
chúng bắt cả hai vợ chồng ảnh. Nhưng tụi tui vẫn không bị lộ. Nhà Ba Sự
không khai. Hơn năm, cô Ba Sự chết trong tù. Địch thả Ba Sự ra khi chân
trái bị tra tấn đến gãy, lại đánh đến mù con mắt. Trước giải phóng năm, ba
tháng địch càn, bắt đứa con duy nhất của Ba Sự vừa lấy con Hường đây vào lính
địa phương quân gác trên đèo Cả và tháng 4 năm 1975, thằng chồng con Hường
không may trúng đạn chết. Nhưng tui nói rồi, cái tội này của thằng Mỹ và thằng
Thiệu, không ai muốn chồng con Hường chết oan uổng vậy. Ai lại anh em con cháu
trong nhà lại giết nhau! Cái xóm này nhiều nhà, ta địch có hết, đau thương
lắm”. Người cán bộ địa phương thản nhiên kể.
Câu chuyện oái oăm làm bữa ăn chùng xuống.
Trong tốp bộ đội ngồi đây có ba người thuộc F320 đã tham chiến ở Tuy Hòa. Đơn
vị hắn và cả Dương đều đánh qua đèo Cả nơi chồng Hường trấn ngự. Chiến tranh
đạn bom có kiêng ai?
Nhưng cái khuôn mặt xinh đẹp mà buồn như
ma ám thì ai có thể thờ ơ được? “Tội quá, người ta son trẻ thế. Chắc khóc hết
nước mắt. Mà tiếng khóc của những người cha, người mẹ, người vợ thì dù phía nào
có khác nhau đâu mà phân biệt!”. Dương nghĩ, thì thào nói với hắn đêm ấy lại rủ:
“Này sớm mai hai thằng mình ra bãi biển xem cô ấy buôn bán ra sao đi!”.
Sớm sau họ canh giờ lúc Hường dậy, hai
người lính cũng dậy theo, họ âm thầm bám sau cô chủ nhà xinh đẹp ra bãi cá.
Đêm về sáng. Biển lấp lánh trăm ngàn ánh
lân tinh. Hai ba chục cái thuyền từ khơi về cập vào bến đổ cá xuống. Biển hực
mùi cá, mùi muối. Đôi thúng cô Hường một lát đã đầy ăm ắp đủ loại cá, tôm tươi.
Dương và hắn không nói không rằng, cứ lăn vào bưng bê giúp cô chủ nhà,
lại bảo, có tụi tôi đây đỡ cho một tay, cô cứ mua thêm nhiều mà bán cho thêm
lời. Có người đỡ tay, rõ ràng cô Hường thuận lợi hơn. Thoắt, đã mua đầy hai
thúng cá. Hai người lính còn hăng hái giúp cô chuyển đỡ hàng ra tận khu chợ sớm
tấp nập họp ngay nơi đường lớn giáp đường Một.
Hắn thấy đôi khi cô Hường nhíu lông mày
rồi tươi hơn một chút. Những khi ấy hắn càng thấy cô chủ nhà đẹp lạ thường.
Khuôn mặt cô có lúc ngời lên trong ánh sáng mặt biển phản lên. Cái bóng cô với
những đường nét tuyệt vời căng đầy thanh xuân hiện rõ trên nền tím bình
minh đang lên của trời biển. Nhìn bước chân thoăn thoắt của Hường làm hắn vui
hơn khi được giúp đỡ một cô gái trẻ có chuyện quá buồn.
Chơi với nhau, cùng cánh lính Hà Nội, hắn
biết rõ Dương lắm. Hai đứa đều là học sinh tình nguyện vào chiến trường biền
biệt hơn chục năm. Dương rất đẹp trai, đóng quân ở Củ Chi khối cô du kích mê
mệt mà nó chả yêu ai. Xem ra đến đây, cu cậu có vẻ mến cô Hường, oái oăm mê cái
cô gái chồng vừa chết trận?
- Mày có thích Hường không? Chiều ấy
hắn hỏi bạn.
Dương, bạn hắn nhìn lên trời, im lặng một
lát, nhẩn nha nói:
- Người ta vừa mất chồng. Thương quá!
- Ở cái mảnh đất eo miền Trung này bao
nhiêu gia đình như Ba Sự? Hắn đăm chiêu nói như hiểu biết lắm. Suốt bao nhiêu
năm chia cắt, chiến tranh và loạn lạc. Không biết Dương có suy nghĩ như hắn không
mà bất giác cả hai cùng thở dài bên cái bờ biển vẫn đang rì rào như thẽ thọt
với bờ.
- Mày tán cô ấy được đấy. Cô ta đẹp, mày
lại chưa từng yêu ai – hắn nói. Người ta rồi cũng phải bứt qua đau khổ mà đi
tiếp chứ, cô ấy còn trẻ quá.
Dương vẫn không nói gì. Khuôn mặt điển
trai của bạn hắn rất đăm chiêu. Nhưng rõ ràng là thằng bạn hắn thích cô Hường.
Bởi một đêm sau đó, Dương đưa cho hắn chiếc đồng hồ nữ Longin gắn mấy hạt xoàn
nói: “Khi nào ta đi, tao tặng cô ấy cái này. Mày xem có được không?”, “Được quá
chứ. Cũng là lời cám ơn bấy nay cô ấy chăm sóc cơm nước cho tụi mình” – hắn
nói.
Rõ ràng chiến tranh là cái địa ngục khổng
lồ chả tránh ai. Trong hơn 10 năm binh lửa của hắn và Dương, đã bao người bạn
đã hy sinh bên họ. Từ Cheo Reo xuống đây truy kích lính quân đoàn II của địch,
đánh vào sân bay, khi vượt qua cái tháp nước khỉ gió, có khẩu 12,8 ly địch cắm
ở chân tháp, thằng Đón – bạn thân của Dương và hắn, đã mãi mãi nằm xuống. Hắn
không bao giờ quên, những tia máu Đón phụt ra nhuốm đỏ cả một khoảng cát trắng.
Để tiến lên, hắn đã dùng B41 tiêu diệt toàn bộ tốp lính rằn ri.
*
Suốt hơn tuần tham quan trên Phú Yên, đi
khắp mọi nơi hắn vẫn không sao xác định nổi cái xóm mà hắn đã trú quân. Ở đây
có bao nhiêu xóm chài như thế? Cô phóng viên xinh đẹp của Đài Truyền hình Tuy
Hòa đưa hắn lên hải đăng Mũi Điện, nơi mặt trời mọc sớm nhất đất nước để ngắm
bình minh. Cô đi trước, nhón chân leo lên những bậc thang đá, thân hình mới óng
ả tuyệt mỹ làm sao, cũng mớ tóc đen như mun, đôi mắt đắm say lay láy như
hạt nhãn càng làm cho hắn nhớ tới cô gái biển tên Hường nhiều hơn. Bây giờ cô
Hường sống ra sao? Biển bao la trước mắt ôm cái doi cát trắng phau bên trái
ngọn hải đăng. Hắn đôi lời kể về cuộc tìm kiếm cái xóm chài từng ở.
- Anh có nhớ thêm một đặc tính nào của cái
xóm ấy không?
Cái doi cát trắng phau như thân trần của
người con gái cởi nửa xiêm y làm hắn nhớ lại cái sáng còn tờ mờ mà hắn, Dương
và cô gái ngồi chờ thuyền cá về.
- Cái xóm chài ấy tên có từ “Lương”. Cạnh
xóm có một cái nghĩa địa và một ngôi chùa nhỏ.
– Ở đây có một xóm chài tên Ma Liên
chứ không phải Ma Lương như anh nói - cô phóng viên mở to đôi mắt đẹp nói với
hắn, phát âm hai ba lần từ “Liên” cho hắn rõ.
Hơn 40 năm, trí nhớ nhạt nhòa của hắn bỗng
bừng lên để hiểu rõ một từ xa lắc! Mà có thể xóm ấy là Liên, vì người xứ Phú
Yên phát âm từ Liên và Lương, hắn có phân biệt được đâu, nghe giống nhau lắm.
Nghĩ thế, hắn kể:
– Cô Hường đã dẫn chúng tôi tới một nghĩa
địa sát làng, nơi có một ngôi chùa rất nhỏ kề cận. Cô ấy bảo rằng, vụng biển
xóm chài của cô là nơi biển thường cuốn tất cả mọi thứ trôi nổi trên biển cả xô
vào bờ. “Bãi nghĩa địa, dân làng đã vớt cả lên làm phúc, chôn cất tất cả những
linh hồn xấu số trôi dạt vào bờ. Người ta phải được nằm trong đất chớ không để
linh hồn lênh đênh mãi trên biển. Nghĩa địa này cũng chấp nhận tất cả binh sĩ
hai bên, không phân biệt. Cả lính VNCH và lính Việt Cộng các anh!”. Hường đã
nói vậy. Cô còn kể rằng, nghĩa địa như thế nên tương truyền rất nhiều ma. Người
làng không ai tới đó vào nửa đêm về sáng cả. Những linh hồn oan khuất hiện lên
to như cái nia, sáng bừng, bay la đà từng tốp trên bãi hoang. Có lúc tụ đứng cả
trên ngọn cây bồ đề ven chùa. Người làng còn nghe thấy cả tiếng kêu rên, tiếng
ỉ ôi như than khóc vào những đêm mưa lớn. Những đêm như thế, biển cũng vỗ vào
bờ khác lạ. Lời kể của cô ấy làm tôi nhớ lại những đêm nằm trong nhà nghe biển
vỗ vào bờ chả còn êm dịu.
“Nặng nhọc như tiếng nghẹn thở của kẻ đang
đau đớn, dội lên từng đợt, âm âm khào khào, khan đục, dữ dội” – hắn nghĩ.
- Ngày mai em dẫn anh đến xóm Ma Liên ấy.
Ở đấy có một ngôi chùa thiêng lắm - cô phóng viên nói. Biết đâu đấy là cái xóm
anh đã ở. Chuyện là, cách đây dăm năm, từ đâu trôi quẩn về vụng biển Ma Liên
một tượng Phật. Tượng chỉ nặng chừng hơn 70 cân, song không sao kéo được lên
thuyền. Dân làng cử một đạo tràng cao tuổi nhất xóm ra cầu kinh niệm Phật. Và
kỳ lạ thay, cũng ngần ấy người mà lại đưa được tượng lên, rước về chùa nhỏ của
làng. Người ta xác định rằng, pho tượng có tuổi bốn thế kỷ, nom tựa vóc dáng
Quan Thế Âm. Dăm năm nay từ ngày có tượng cổ ấy, khách thập phương đua nhau tới
cung tiến phát tâm để xây thành một ngôi chùa rất lớn, không còn là chùa nhỏ
thuộc về làng Ma Liên ấy nữa. Nếu đúng là cái xóm anh ở, thì nghĩa địa ấy cũng
không còn ma nữa. Tất cả những linh hồn chết lênh đênh đều được Phật độ. Dân
làng kể rằng, từ ngày có Phật Bà từ bi về, không ai còn trông thấy những bóng
ma lập lòe bay lượn trên những nấm mồ hay trên ngọn cây bồ đề quanh đó nữa.
*
Đêm đó hắn ngủ chập chờn. Nằm trong khu
nghỉ dưỡng Sao Mai yên tĩnh như thế mà hắn cứ lơ mơ nghe tiếng biển thì thào
thở, vỗ vào bờ. Bật dậy rồi lại nằm xuống thiếp đi, hắn lại mơ thấy Dương về.
- Mày đã tìm thấy Hường chưa? - Rõ ràng
Dương hỏi hắn! Mà sao có thể là Dương được, bạn hắn đã hy sinh bên Campuchia
rồi cơ mà! Hắn lại nhìn rõ một bãi biển rì rào, Dương và Hường chạy trên đó.
Biển dập dờn bên họ và bóng Dương cứ đuổi mãi chả kịp bước chân Hường.
Tỉnh dậy, hắn không thể ngủ được nữa. Gần sáng khu Sao Mai đầy tiếng chim
líu lo hót. Không khí trong vắt như ngày nào hắn ở rừng. Dĩ vãng ùa về.
Hai cha con ngồi bên cái bàn nước, cái bộ
bàn nước trước khi họ đến phủ đầy bụi. Họ không hề biết những người lính đi
chơi quanh xóm cũng đã trở về. Ngoài hiên, hắn nghe rõ giọng Ba Sự:
- Nó thích con. Thằng đó nó mến con. Tụi
lính Hà Nội này, đứa nào cũng hiền khô, thằng Dương mê mày cũng được lắm. Con
đồng ý rồi theo nó ra ngoải (2) đi! Ở đây con sẽ buồn chết. Cha mong con không
khổ nữa, ở đây với cha làm gì!
Im lặng một lúc rồi thấy rõ tiếng thút
thít, lát sau nghe rõ giọng cô Hường, tiếng lẫn trong tiếng khóc:
- Không! Chồng con vừa mất. Với lại con
không muốn góa bụa lần nữa. Thời buổi này biết sao mà tính. Mấy ảnh thiệt tốt,
nhưng nẫu là lính. Con không đi theo ai nữa!
- Tùy con đó - giọng Ba Sự trầm đục.
Hắn choàng tỉnh, nhớ ngày nước rút, tụi nó
lên xe ra Bắc. Ba Sự không tiễn cửa. Chỉ có cô Hường đứng ngay bên hàng dậu dầy
cây xương rồng bên nhà nhìn theo bóng họ đi. Dương bước đi sau cùng, đứng lại
bên cô Hường. Hắn ngoái đầu lại nhìn, thấy Dương nắm lấy tay cô gái. Tích tắc
cô gái vùng ra, vụt chạy về sau nhà.
Cả chuyến ra Bắc, Dương rất ít nói. Rồi
Dương bảo, nó sẽ quay lại Phú Yên! “Người ta cầm súng để cho những người như cô
Hường và ông Ba Sự thật sự hạnh phúc chứ đâu chỉ gặt hái sự đau khổ!” - Dương
đã nói thế.
Đúng, Dương giữ lời hứa, vài tháng sau,
bạn hắn đã quay lại xóm chài tìm cô Hường nơi xóm ấy, rồi anh lại đi ngay mặt
trận biên giới Campuchia, để mãi không bao giờ trở về. Và, không bao giờ bạn
hắn được đôi cánh tay ngà ngọc ấy choàng lên như mơ ước!
*
Sáng hôm sau hắn bàng hoàng nhận ra xóm
chài năm nào bên bờ biển. Hắn nhận ra khu nhà lớn làm binh trạm cũ đóng, giờ
đây đã trở thành trường tiểu học của làng Ma Liên.
Hơn 40 năm! Những con đường vẫn nhận ra rẽ
vào các xóm chài nhỏ ven biển. Cái ngõ nhỏ có hàng rào xương rồng thâm thấp có
những nụ hoa bé xíu, bao nếp nhà rêu cũ, lợp lá dừa năm xưa, bây giờ là cái xóm
chi chít nhà hai ba tầng ngói đỏ, đứng bên những hàng dừa xanh cao vút đang
đong đưa trong gió biển êm êm thổi về.
Người ta nói với hắn, ở đây có hai cô
Hường trạc tuổi mà hắn kể. Một cô là giáo viên, cô nữa là chủ doanh nghiệp,
người tổ chức một công ty trách nhiệm hữu hạn buôn bán nông ngư nghiệp, đã có
công biến hàng ngàn công đất, bỏ vốn giúp nông dân trồng giống dưa hấu ngọt lịm
Phú Yên quả nhỏ ngọt như đường phèn mọc lên từ cát trắng, xuất đi các nơi. Hôm
nay cô Hường này bận công chuyện đi thành phố Hồ Chí Minh chưa về. “Tôi tìm cô
Hường con dâu ông Ba Sự” - hắn bảo. “Ông Ba Sự thì đã mất rồi!” - một cán bộ xã
trẻ nói với hắn như vậy.
Hắn và cô phóng viên xinh đẹp thăm ngôi
chùa Ma Liên có bức tượng thiêng giờ thành một ngôi chùa lớn đẹp uy nghi đứng
trên nền đất cũ. Tượng Quan Âm tay cầm bình nước Cam Lồ trầm mặc tưới bình an
cho muôn chúng sinh…
Hắn cùng cô phóng viên đi ra bờ biển cong
cong một vòng tay cát trắng phau miên man dọc biển cũ. Vòng cát trắng tinh lấp
lánh dưới ánh nắng mặt trời, và biển vẫn xanh trong như xưa nay, êm dịu một
vòng tay rộng bao la suốt đêm ngày đang ôm trọn lấy dải đất, thì thào vỗ đều
đều vào bờ.
Chính khi ấy hắn thấy rõ ràng khuôn mặt
Dương - bạn hắn, hiện ra trong lòng biển xanh vợi kia. Khuôn mặt Dương ưu tư
như ngày nào nói về Hường. Hắn tưởng tượng thấy Dương đã từng quay lại nơi đây,
bước chân anh đi, thong thả dạo trên bờ biển này cùng Hường. Hắn nghe cát trắng
lạo xạo dưới từng bước chân, nghe tiếng vỗ êm dịu đến vô cùng sớm sớm của biển,
đang như một cánh tay ngọc ngà nõn trắng choàng ôm xiết mãi lấy xóm chài Ma
Liên, cả ngôi chùa, cả đôi trai gái, chàng trai Hà Nội và cô gái Phú Yên, từng
đau khổ…
--------
Nguồn: VÒNG TAY CỦA BIỂN
truyện ngắn của Nguyễn Văn Thọ/
*.
Ngọc Hà - 13.8.2019
NGUYỄN VĂN
THỌ
Địa chỉ: Làng Ngọc Hà, phường Ngọc Hà,
quận Ba
Đình, thành phố Hà Nội.
…………………………………………………………………………
- Cập nhật từ Messenger facebook Trần
Hải Sơn ngày 25.12.2019.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của
trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét