(Triều Thuận Thiên của Lý Công Uẩn ; Nguồn ảnh: internet) |
VIẾT GÌ VỀ TRUYỆN NGẮN
‘BẮT ĐẦU VÀ
KẾT THÚC’?
*
(Tác giả Chu Mộng Long) |
Mọi người muốn tôi viết một bài về truyện ngắn Bắt đầu và kết thúc của nhà văn trẻ
Trần Quỳnh Nga, đăng trên báo Văn nghệ số 50, 2017. Người phát hiện truyện ngắn
này là cụ Hoàng Quốc Hải. Cụ nói chuyện với tôi qua điện thoại với sự giận dữ
về “một áng văn chương phản lịch sử”.
Thực ra, văn chương phản lịch sử là chuyện thường
tình. Xưa nay từng có không ít tác phẩm văn học phản lịch sử, bằng hư cấu bất
tận trong và ngoài sự kiện lịch sử, thậm chí bác bỏ lịch sử để thay đổi nhận
thức về lịch sử. Ngay từ thời cổ đại, Aristotle đã từng khẳng định: Thơ thật
hơn lịch sử. Thơ mà ông nói ấy mang nghĩa văn chương nói chung, gồm sử thi, bi
kịch và hài kịch. Hư cấu không là chuyện mơ mộng viễn vông mà là khơi sâu vào
bản chất của sự kiện, đánh thức sự kiện, làm cho cái xác của sự kiện trỗi dậy
thành sinh thể có hồn. Sử gia không thể và không được phép làm điều nhà văn
được phép làm, bởi chức năng của anh ta là chỉ tái hiện sự kiện và đánh giá
trên cái xác của sự kiện. Lịch sử chỉ là nấm mộ của quá khứ điêu tàn. Văn
chương sống động bởi cái quá khứ ấy được thổi vào một linh hồn sống động như là
cái hiện tại đang diễn ra.
Xem lịch sử như một tiêu chuẩn của sự thật là
hoàn toàn sai lầm. Xét đến cùng, lịch sử hay văn chương đều là các diễn ngôn
(discourse) chứ không là sự thật đúng như nó vốn có. Với tư cách là diễn ngôn,
điều quan trọng là bằng mọi cách thể hiện, chúng mang lại hiệu lực của niềm
tin. Hiệu lực ấy do tưởng hệ, cùng với kiểm duyệt và cả hình phạt chi phối,
trong đó tư tưởng hệ đóng vai trò then chốt. Cả lịch sử lẫn văn chương đều bị
chi phối bởi một tư tưởng hệ nhất định và tư tưởng hệ đã áp đặt lên lối viết
của tác giả và niềm tin của bạn đọc. Nhưng văn chương với tư cách là hư cấu
(fiction), so với lịch sử, nó có những khoảng trống để thoát khỏi tư tưởng hệ
thống trị và tự do biểu đạt tư tưởng khác, một lối viết khác mang lại cái nhìn
khác và một niềm tin khác. Điều quan trọng là sức mạnh sáng tạo của nó có đủ
sức phản công lại lịch sử làm biến hóa lịch sử để mang lại nhận thức và niềm
tin mới về lịch sử hay không. Khi gắn sự kiện với nhân vật lịch sử, điều khó
nhất đối với nhà văn là làm thay đổi cái tượng đài lịch sử mà sử gia đã xây
dựng thành lòng tin, thậm chí tín ngưỡng trong lòng nhiều thế hệ. Rất ít nhà
văn làm được ngoài cách hư cấu thêm mắm muối cho lịch sử, và hậu quả, văn
chương thành công cụ minh họa cho lịch sử. Phải tài năng như Tư Mã Thiên, như
La Quán Trung, như Nguyễn Huy Thiệp… mới có thể làm được.
Một nhà văn trẻ như Trần Quỳnh Nga để làm điều
lật trời đổ nước đó là bất khả.
Truyện của Quỳnh Nga không phải giải lịch sử,
giải thiêng, hay giải huyền gì cả. Nó không giống lịch sử nhưng lại trùng khít
với tư tưởng hệ đang thống trị và ăn sâu trong lòng nhiều người cả xưa và nay:
tư tưởng thần phục thiên triều và quan hệ môi răng giữa hai quốc gia dân tộc.
Mới đọc qua, người đọc rất dễ trôi tuột vào không
khí mùi mẫn của motif tình yêu trong chiến tranh. Cái không khí này được tô đậm
bởi các hoạt cảnh cổ trang, có sơn thủy hữu tình, có vườn ngự uyển của cung
đình tràn ngập hoa đào xứ Bắc, và có vó ngựa Mông-Nguyên âm vang hùng tráng.
Các đoạn miêu tả thiên nhiên, dù gắn với dòng sông Tam Trĩ, núi Am Váp của xứ
Việt nhưng lại mang màu sắc thủy mặc Tàu: “Mùa
này nước lớn, dòng sông bị kẹp giữa hai bên vách núi dựng đứng, cao vút khiến
dòng sông giống như một khe nước vừa sâu, vừa hẹp, với địa hình vô cùng hiểm
trở. Từ trên đỉnh núi nhìn xuống chỉ thấy mây trắng bồng bềnh, những ghềnh đá
lởm chởm, những khúc cua nghiêng ngả rợn ngợp”. Ngay cả vườn ngự uyển của
kinh thành Thăng Long, dù sơ sài, nhưng cũng được miêu tả y chang như trong
cung đình của phim Tàu: “Vườn ngự đẹp
quá, những cành hoa sà xuống gần mặt đất non tơ cỏ xanh làm sáng cả một góc
vườn. Nó gợi lên trong lòng Thoát Hoan về một kinh thành tinh tế và hoa lệ
nhưng cũng rất đỗi gần gũi thân thuộc. Ở Trung nguyên đại lục của hắn thiếu gì
những cảnh sắc đẹp đẽ. Nhưng đẹp đến bi uất như chốn kinh thành Thăng Long tiêu
điều này thì đến bây giờ Thoát Hoan mới nhận ra được”. Tác giả không thể
biết kinh thành Thăng Long thế nào, cho nên chỉ có thể quan sát từ phim Tàu và
tìm cách Việt hóa Tàu để khỏi mang tiếng lấy truyện Tàu kể chuyện ta.
Tuy nhiên, cấu trúc truyện và giọng văn thì sến
sáo đúng chất cải lương Nam Bộ. Chiến tranh với vó ngựa Mông-Nguyên tái hiện
lại các vở tuồng cải lương thời Việt Nam Cộng hòa như Kiếp nào có yêu nhau,
Tình người trên chiến trận, Đêm lạnh chùa hoang… Riêng đoạn 6, đoạn nàng An Tư
múa điệu Phi Thiên vũ thì đúng là copy từ cảnh phim Trung Quốc đã được cải
lương hóa, những cảnh nhảy múa hầu rượu của các nàng công chúa, mỹ nhân bị tiến
cống cho giặc để làm nội gián hoặc mỹ nhân kế. Chất cải lương xuyên suốt
truyện, thấm đến giọng điệu và từng câu chữ.
“Chiêu quốc
vương Trần Ích Tắc- Đệ tam hoàng tử của tông thất nhà Trần thông minh hơn
người, làu thông kinh sử, văn chương hơn người lại am tường võ nghệ trong thiên
hạ ít người có thể sánh nổi. Người đã từng mở học đường ở bên hữu phủ đệ, tập
hợp văn sĩ bốn phương quy về một mối. Người đã nhân từ đưa tay mình ra nắm lấy
tay An Tư khi nàng trở nên lạc lõng trong chính gia tộc của mình…Con người toàn
tài cả về phẩm chất lẫn tư cách đang được kính trọng đó trong một đêm binh biến
đã trở thành tội đồ, trở thành vết nhơ cho cả hoàng tộc” (Lời An Tư nói về
Trần Ích Tắc).
“Muội là công chúa thì phẩm chất của muội
cũng phải là một công chúa, phải biết đối nhân xử thế, biết thương dân như thế
muội mới được nhân dân tôn trọng và nghe theo được. Học kiếm phổ cũng thế, hiểu
được tuyệt kĩ của nó tự khắc con người ta sẽ đạt được đến đoạn tịnh độ. Muội
hãy cố gắng học được Bạch Vân kì kiếm để phòng thân khi không còn ta bên cạnh
để lo cho muội…” (An Tư nhớ lại lời Trần Ích Tắc nói với mình).
“Ta đã chọn lựa cách sống của riêng mình và
ta không hổ thẹn với nó.” (Lời của Trần Ích Tắc)
“Sống trên lưng ngựa với cung kiếm và những
trận chinh phạt trải dài từ nam chí bắc Thoát Hoan hiểu được rằng, dòng dõi Đại
hãn không bao giờ được yếu đuổi hay để chuyện riêng tư làm ảnh hưởng đến gia
tộc hùng mạnh của mình.” (Lời Thoát Hoan)…
Nhiều người ngộ nhận đây là truyện ngôn tình,
nhưng thực ra không có tình yêu nào cả. Có chăng chỉ nằm ở phần kết thúc, nhưng
được miêu tả rất giả tạo. An Tư cảm phục Thoát Hoan và tìm cách giải thoát cho
Thoát Hoan, trong khi Thoát Hoan hoàn toàn nhận ra An Tư chỉ làm công cụ chính
trị cho kế mỹ nhân của vua Trần với thái độ thù hằn và khinh miệt, kể cả hành
xử sặc mùi bạo lực: “Ta đã từng nghĩ rằng
ta sẽ bóp chết nàng như bóp chết một con nhạn”, “Hắn sẽ sống không bằng chết”… Tấm chăn bằng lụa điều An Tư khoác
lên người Thoát Hoan và cả hai cùng lên yên ngựa phóng đi trong đêm trăng đầy
lãng mạn được thay cho chiếc ống đồng quân lính khiêng chạy một cách nhục nhã
trong lịch sử không nói lên được điều gì về tình yêu hóa giải chiến tranh và
hận thù như trong motif tuồng cổ. Đó chỉ là sự gượng ép cố tình khoác lên thân
kẻ chiến bại chiếc áo choàng nhân tình giả tạo và thứ ánh trăng lừa dối ngọt
ngào, cùng với thứ hoa đào trắng xóa mà tác giả phù phép từ máu đào của dân Đại
Việt: “Trong đêm tối tĩnh mịch có hai
người vội vã rời khỏi kinh thành. Ngựa phi nhanh như gió. Sau lưng họ, hoa đào
rụng trắng như tuyết dưới ánh trăng đẫm sương ướt át. Mùi thơm còn đọng lại
trên nhụy đài chan chát ngọt ngào”.
Đoạn này khó phân biệt với lời thoại của những
đôi tài tử – giai nhân trong cái motif phạm tội phản bội và bỏ trốn sau chiến
tranh. Thoát Hoan nói với An Tư: “Nàng
cũng đã vì ta mà mang tội che giấu kẻ thù với triều đình. Nếu cả hai việc đều
bị vỡ lở thì không chỉ ta, cả nàng cũng bị xử tội. Chi bằng chúng ta hãy chọn
mở đầu để kết thúc mọi chuyện. Chúng ta sẽ sống cho cuộc đời của chúng ta. Sẽ
biến mất khỏi cuộc chiến này một cách vĩnh viễn”. Motif này nằm trong gốc
chuyện Phạm Lãi và Tây Thi, cũ như không thể cũ hơn, nhưng lại giả tạo hơn
những thứ tình yêu giả tạo từng có.
Nghệ thuật đòi hỏi phải mới và những cái mới phải
đủ sức mạnh làm đổi thay cái cũ, đặc biệt là ở thể tài lịch sử, nếu nhà văn
không muốn mình nô dịch hay minh họa cho lịch sử.
Trong nghĩa ấy, truyện của Quỳnh Nga mới ở tư
tưởng phản lịch sử. Phản lịch sử là cái nhìn táo bạo nhưng liệu có đủ sức mạnh
tấn công vào tường thành kiên cố của lịch sử hay không hoàn toàn phụ thuộc vào
tài năng của nhà văn. Gần như chảy suốt câu chuyện là dòng tâm tư của An Tư về
nhân vật lịch sử đầy tai tiếng Trần Ích Tắc. Quỳnh Nga có mượn lại lịch sử với
những chi tiết về tài năng của Trần Ích Tắc. Và có lẽ đó là căn cứ để Quỳnh Nga
thác lời An Tư với lập luận một tài năng như thế không thể là kẻ bán nước cầu
vinh. Đó là lập luận trẻ con, vì An Tư (và cả Quỳnh Nga) chưa thoát khỏi suy
nghĩ của trẻ vị thành niên, chỉ biết thần tượng hóa người mình tôn thờ. Tôi tin
chắc, đến khi trưởng thành, Quỳnh Nga sẽ hiểu sâu sắc hơn khi biết rằng, những
kẻ “văn võ toàn tài” ấy mới có tham vọng tiếm đoạt vương quyền, tráo trở và bán
nước cầu vinh, đúng như các sử gia Việt lẫn sử gia Nguyên đã viết. Xem Trần Ích
Tắc theo giặc để làm gián điệp chỉ xuất hiện gần đây với những lập luận vô bằng
chứng, phi logic và có lẽ Quỳnh Nga đã bị ảnh hưởng từ đó (tại đây và tại đây).
Và thật ngộ nghĩnh khi Quỳnh Nga để cho An Tư xác tín niềm tin một Trần Ích Tắc
yêu nước thương dân, sẵn sàng hy sinh cả gia thế và sự nghiệp của mình để làm
gián điệp qua lời của Thoát Hoan: “Chiêu
văn vương Trần Ích Tắc, một kẻ ngông cuồng, một kẻ vì nước mà hi sinh cả tiền
tài, danh vọng và thân phận của mình để làm một kẻ nội gián đáng chết”. Dựa
vào lời của giặc để xác tín cảm xúc, suy nghĩ của mình là một thủ pháp đi tìm
tiếng nói khách quan, nhưng lại chẳng có gì thuyết phục trong tình huống Thoát
Hoan muốn chiếm đoạt trái tim An Tư bằng kế vừa ly gián vừa mua chuộc xảo
quyệt: “Ta đã từng nghĩ rằng ta sẽ bóp
chết nàng như bóp chết một con nhạn nhưng ta không thể. Vì nàng đã chạm đến
trái tim ta chứ không phải mưu lược của anh nàng khiến ta bị lừa gạt. Chẳng lẽ,
nàng không muốn gặp lại hoàng huynh của người sao?”. Hư cấu như vậy là vụng
hơn mèo bới đống tro, bởi phía dưới đống tro đầy nghi hoặc của kẻ cướp nước kia
lại chính là kẻ bán nước mà mình đang bị bịp. Không có chuyện phủ định của phủ
định bằng cách lấy nghi ngờ chồng lên nghi ngờ để có được lòng tin, rằng Trần
Ích Tắc là một nhà yêu nước. Tự dối lòng mình sẽ thành dối trá hơn cả dối trá.
Vô tình hay hữu ý, Quỳnh Nga đồng nhất Thoát Hoan
với Trần Ích Tắc để đi đến một tình yêu đậm màu sắc xung đột cải lương: “Không ai khác chính nàng sẽ tự tay giết chết
hắn. Nàng nghĩ thế nhưng rồi khi chạm phải ánh mắt của Thoát Hoan làm nàng
chùng lòng. Ánh nhìn đó khiến nàng nhớ đến ánh mắt của hoàng huynh khi đưa tay
nắm lấy tay nàng hồi thơ bé”. Thì ra cái gọi là tình yêu đây ư? Nó chẳng
phải là tiếng sét ái tình, cũng chẳng phải là vô thức của con tim. Trong tình
huống đối mặt với kẻ thù đang gieo rắc chết chóc tang thương và thân phận bị
cống nạp, trái tim người con gái Việt trao gửi tình yêu dễ dãi đến mức vậy sao?
Đó là một cảm xúc lãng xẹt, chỉ có một logic trớ trêu là tác giả xem kẻ bán
nước và cướp nước đều là anh hùng và nhân nghĩa để mỹ nhân đồng cảm, gửi trao.
Không nghi ngờ điều đó khi trong truyện tác giả
dựng lên nỗi lòng của Thoát Hoan khi diễn thuyết về tư tưởng thần phục thiên
triều: “Trước cảnh hoa đào đẹp đến lặng
lẽ như thế, đột nhiên thôi, trong lòng hắn thoáng chút bồn chồn nuối tiếc “giá
Đại Việt cứ khuất phục đi, khuất phục làm chư hầu như bao đời nay vẫn thế thì
có phải những chốn thiên thai này sẽ còn lại mãi mãi?” Đây không là tư
tưởng hòa bình, lấy tình yêu chiến thắng chiến tranh, bởi kẻ gây chiến không là
nhà Trần mà là quân Mông-Nguyên. Có chăng là một luận điệu bịp bợm, ru ngủ tinh
thần đấu tranh của một dân tộc trước họa xâm lăng. Hóa ra với cái luận điệu đó,
phe chủ chiến với tinh thần Sát Thát của quân dân nhà Trần là có tội với lịch
sử, tội đưa đất nước và kinh thành hoa lệ vào hoang tàn, tội đưa nhân dân vào
cảnh đầu rơi máu chảy, kể cả tội bôi nhọ “nhà yêu nước” đi theo con đường quy
hàng của Trần Ích Tắc. Quỳnh Nga đang nói về quá khứ thần phục thiên triều hay
thực tại của những kẻ ươn hèn mang danh tình hữu nghị đây?
Hữu nghị là cần thiết để gìn giữ hòa bình, ổn
định, nhưng có nhất thiết phải làm theo tấm gương của những triều đại ươn hèn
cống nạp cả lễ vật lẫn mỹ nhân trong quá khứ không?
Giải oan cho Trần Ích Tắc theo cách ấy liệu có đủ
sức mạnh làm thay đổi nhận thức lịch sử không, hay chỉ gây phẫn nộ cho cả một
dân tộc kiên cường đấu tranh chống giặc ngoại xâm giành lấy chủ quyền suốt cả
nghìn năm lịch sử? Sự thật, nhà Trần đại thắng quân Mông – Nguyên đến ba lần,
giữ vững cơ đồ đến 200 năm, chứ không phải là bên thua cuộc chóng vánh như nhà
Hồ, lẽ nào không đủ cơ hội và thời gian để chiêu tuyết cho Trần Ích Tắc, phải
đợi đến gần ngàn năm sau có một nhà văn tầm như Quỳnh Nga đứng ra minh oan bằng
những hư cấu đồng bóng?
Với cảm hứng, giọng điệu và hư cấu theo cách ấy,
không thể hiểu ngược tác phẩm, rằng nó là cái phản đề để cảnh giác trước âm mưu
của kẻ thù. Tôi đã đọc cẩn thận và cố tin theo hướng tích cực ấy nhưng thất
bại, vì để tạo ra cái phản đề cảnh giác trước âm mưu của kẻ thù, tác giả cố
công chiêu tuyết cho Trần Ích Tắc và ngợi ca Thoát Hoan để làm gì? Một Trần Ích
Tắc dù mang tiếng bán nước cầu vinh nhưng mưu lược, hết mình vì nước, và một
Thoát Hoan bề ngoài sắt máu nhưng bên trong uy dũng và đa tình ư? Và cái trục
chính của câu chuyện là một An Tư hết mê muội vào cái vỏ “văn võ kiêm toàn” của
Trần Ích Tắc thì lại mê mẩn đắm say cái thân hình vạm vỡ và ánh mắt của Thoát
Hoan, đến mức dù chỉ nhìn thoáng chốc đã xiêu lòng, kết cục, coi kẻ bán nước và
kẻ cướp nước đang giày xéo lên quê hương như là thần tượng cao cả hơn cả sự
nghiệp vua cha và vận mệnh quốc gia dân tộc. Quỳnh Nga định bêu riếu sự lẳng lơ
hư hỏng của An Tư hay đang “thấu cảm” với cái tâm hồn mê giai ấy? Cải lương
không thể hơn được!
Tôi khẳng định, Bắt đầu và kết thúc không là một
câu chuyện gây tranh cãi vì không có gì để tranh cãi. Mọi ý đồ đều hiển ngôn
trên từng câu chữ và lộ liễu đến mức khiên cưỡng trong cách xử lý tình huống
của sự kiện lẫn tâm lý của nhân vật. Nó minh họa cho một tư tưởng, lối sống mới
của một bộ phận không nhỏ với lời kêu gọi thần phục nước lớn để cầu an, hưởng
lạc, thực chất là tìm vinh hoa trong điếm nhục. Nó đang đảo ngược mọi giá trị,
rằng những ai đã từng và đang kêu gọi chống giặc ngoại xâm là phản động, kể cả
đó là những tiền nhân có công với nước.
Rốt cuộc, cả “bắt đầu” lẫn “kết thúc” đều không
có gì ngoài một áng văn mang cảm hứng đồng bóng với mục đích thần tượng hóa kẻ
thù. Cũ rích và nhạt thếch của lối văn nô. Đọc xong tất cả đều bốc hơi, chẳng
để lại dư vị gì. Có chăng là một mùi ô uế bốc lên từ luận điệu của kẻ cướp nước
với chủ nghĩa bá quyền và kẻ bán nước với luận điệu ru ngủ dân chúng. Và có
chăng là hiệu ứng ngược gây phẫn nộ trong cộng đồng người Việt yêu nước. Tôi
không tin Quỳnh Nga có tư tưởng ấy mà chẳng qua bị nhồi sọ quá nặng. Nếu truyện
này được đăng trên Hoàn Cầu hay Phượng Hoàng của Trung Hoa thì có lẽ thích hợp
hơn là trang Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam.
Lịch sử và văn chương đến lúc chấp nhận trò chơi
tương tác diễn ngôn. Đã qua rồi cái thời văn chương dựa dẫm vào lịch sử, xem
lịch sử là chân thực, mẫu mực. Nhưng trong trò chơi tương tác này, Trần Quỳnh
Nga đã thất bại thảm hại vì những sáng tạo trong Bắt đầu và kết thúc không có
gì hơn ngoài sự nô dịch về tư tưởng và lối viết. Đó là sáng tạo chết và trang
Văn nghệ cũng chết theo nếu tác giả và tòa soạn không chịu khai phóng tinh thần
mà chỉ nhăm nhăm tìm nguồn tài trợ để giải quyết khủng hoảng./.
Mời thư giãn với nhạc phẩm TIẾNG SÚNG ĐÃ VANG TRÊN BẦU TRỜI BIÊN GIỚI
của Phạm Tuyên, do Tốp ca Đài Tiếng nói Việt Nam thể hiện:
*
CHU MỘNG LONG (tên thật: Châu Minh Hùng)
Địa chỉ: Khoa GD Tiểu học Mầm non, Đại học Quy
Nhơn
170 An Dương Vương, phường Nguyễn Văn Cừ,
thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định
Điện thoại: 0982.03.61.75
.
.
…………………………………………………………………………
- Cập nhật từ email: tranchicuong27@yahoo.com.vn ngày 27.01.2019.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét