CÁCH QUÝ,
CÁC SAO LÀM QUAN
*
1. Các chính tinh có nghĩa quan
lộc trực tiếp:
(Tác giả Đỗ Việt Phương) |
Tử Vi: Tử Vi đắc địa ở cung
Quan có nghĩa quyền quý. Tử Vi chỉ người có dịp chỉ huy, điều
khiển, giữ những chức vụ quan trọng trong công quyền, có nhiều thuộc
hạ cao cấpl có tài lãnh đạo, có bản lãnh chế phục người khác. Ngôi
thứ quan lộc cao thấp tùy thuộc vị trí miếu địa hay đắc địa: càng
đắc địa thì ngạch trật càng cao. Nếu Tử Vi được nhiều quyền tinh,
dũng tinh đi kèm thì chức quyền càng lớn, có nhiều thuộc hạ đông
đảo trợ lực. Nếu thiếu trợ tinh, Tử Vi chỉ loại viên chức hay sĩ
quan cao cấp làm việc tham mưu, phục vụ trong ngành chuyên môn, ít có
dịp cầm quyền, cầm quân, hoặc nếu có, thì chỉ điều khiển một số
thuộc hạ giới hạn và thời gian chỉ huy không lâu.
Thái Dương: Nam số có Thái Dương
sáng sủa ở Quan lộc đều quý hiển, cụ thể là có phẩm trật cao, có
chức vụ lớn, thành công trong sự nghiệp nhờ sự thông minh, tài năng
và đạo đức của mình. Thông thường, Thái Dương chỉ ngành văn hơn là
ngành võ.
Liêm Trinh: đắc địa trở lên chủ
về quan lộc, giống như Thái Dương, cho nên tọa thủ ở Quan lộc rất hợp
vị. Liêm Trinh chủ yếu chỉ về võ nghiệp nhưng cũng có khi kiêm nhiệm
cả chính trị nếu đóng ở hai cung Dần và Thân. Cái hay của Liêm về
quan lộc bắt nguồn trước hết từ khả năng toàn diện đó. Trong cả hai
ngành đều sáng chói, hiển đạt trong thời bình lẫn thời chiến, nhờ
ở tài thao lược, khả năng thích ứng với nhiều hoàn cảnh. Ngoài ra,
Liêm Trinh đắc địa ở Dần và Thân còn ban cho san này những điều kiện
tốt đẹp để thành công: sự liêm khiết, thẳng thắn, mực thước, rất
trong sạch, có đạo đức, không chịu làm điều trái phép, trái lương tâm
chức nghiệp. Nếu Liêm Trinh đi với Thiên Tướng thì sự chính trực càng
nổi bật. Liêm Trinh hãm địa ở Quan báo hiệu chức vụ nhỏ, thấp,
thường gặp hung sự trong công vụ, đặc biệt là hình tù.
Thiên Tướng: sao này là quyền
tinh, dũng tinh, thích hợp với ngành võ. Càng đắc địa (ở Thìn,
Tuất, Tý, Ngọ, Dần, Thân Sửu, Mùi, Tỵ và Hợi), công danh càng sáng
chói. Thiên Tướng là người đảm đang, tháo vát, có chí khí lớn, nhất
là có ý thức công bằng, bình đẳng rất cao, có hoài bão mang trật
tự xã hội. Nếu Thiên Tướng đi kèm với Tử Vi ở cung Quan đó là người
có tài lãnh đạo, có tài thừa hành, dám làm dám quyết, có khí
phách hơn người, có hoài bão cao xa. Tuy nhiên, cặp sao này nói lên
tính tự phụ và khuynh hướng á quyền (do sao Tử Vi). Tử Tướng đồng
cung có tài và có tham vọng lãnh đạo chỉ huy. Nếu Thiên Tướng được
Tướng Quân xung chiếu hay ngược lại thì rất hiển đạt trong võ nghiệp.
Thất Sát: ở Quan là quân nhân, đặc
biệt thích hợp với quân nhân cầm binh xuất trận đi tiên phong, nghênh
địch ở vùng hỏa tuyến. Sao này không thích hợp với trách nhiệm
phòng thủ hậu phương và không đắc dụng ở ngành tham mưu, nhất là
hành chính, chính trị. Đi với Hóa Quyền, là loại sĩ quan có binh
lính dưới trướng, có khả năng tác chiến cao, lập được nhiều chiến
công trên trận địa.
Thiên Phủ: là quyền tinh, chỉ
cách làm quan văn đồng thời là nghề liên hệ đến tài chính. Nếu Phủ
ở miếu và vượng địa, chức vụ tài chính sẽ cao hơn ở đắc địa. Nếu
có thêm phụ tinh tốt, nhất là trợ tinh và tài tinh, đương số có thể
là người đứng đầu cơ quan tài chính. Bằng không, sẽ có nghĩa là
tiền bạc, giàu có hơn các đồng nghiệp khác.
2. Những chính tinh có nghĩa quan lộc gián tiếp
Vũ Khúc: Đắc quý cách ở Thìn
Tuất Sửu Mùi (miếu địa), Dần Thân Tỵ Ngọ (vượng địa) và Mão Dậu
(đắc địa). Trong trường hợp này, Vũ chỉ võ nghiệp đặc biệt nếu đi
cùng với các sao võ như Tướng, Sát, Phá, Tham. Đi với Văn Khúc thì
có tài về cả văn lẫn võ. Vũ là người có chí lớn, có tài thao
lược, tính toán giỏi, dám mưu đại sự, lại can đảm, quả cảm. Đây là
ngôi sao tham mưu, đánh giặc bằng mưu lược nhiều hơn là bằng binh đao
và hỏa lực. Nếu Vũ đi cùng với Tướng hay Sát thì sĩ quan đó kiêm
cả tham mưu lẫn tác chiến, và có dũng vừa có mưu. Nếu hãm địa, năng
tài của Vũ Khúc bị phai mờ, hoặc kém cỏi, hoặc không có chỗ dụng,
hoặc thất bại. Trong trường hợp đơn thủ hoặc đồng cung với Phủ, Vũ
Khúc làm quan văn, coi về ngành kinh tế rất đắc dụng. Đó là người
có tài kinh doanh mang lợi lộc cho quốc gia, vận dụng tiền bạc giỏi,
biết bắt mạch và khai thác cơ hội. Trong bất cứ trường hợp đắc địa
nào, Vũ cũng là người có tiền bạc dư dả.
Tham Lang: Trừ phi miếu địa ở
Thìn Tuất, Tham Lang tầm thường, có thể nói là bất tài, hám lợi.
Ngay trong trường hợp đắc dụng, sĩ quan có Tham Lang ở Quan có nhiều
nét xấu: từ hiếu thắng, tự phụ cho đến tính hình thức, ham vui, bê
trễ và nhất là lòng tham dưới nhiều khía cạnh. Tuy nhiên, nếu Tham miếu
địa đi với Linh hay Hỏa miếu địa thì lại rất hay cho võ nghiệp.
Phá Quân: Quan có Phá miếu (ở
Tý, Ngọ), vượng (ở Sửu Mùi), đắc địa (ở Thìn, Tuất) thì can đảm,
hoạt động nhưng hiếu thắng, tự kiêu, mưu cơ, gian trá và nhất là bất
nhân. Bản chất của Phá Quân ở Quan là không được trung tín, hay lấn
lướt người trên. Trong trường hợp hãm địa, quan cách của Phá Quân rất
tầm thường, hay gặp tai nạn khó thoát, hay hại người và bị người
hại.
Thái Âm: là phú tinh, chỉ điền
trạch. Nếu sáng sủa, cũng có quan cách nhưng không rực rỡ bằng Thái
Dương. Tuy nhiên, người tuổi Âm, sinh ban đêm, lúc trăng lên có Thái Âm
sáng sủa ở Quan thì quý cách rực rỡ hơn người tuổi Dương, sinh ban
ngày. Nếu có thêm trợ tinh thì càng sáng lạng: đó là trường hợp
người sớm phát đạt, toại ý, vừa có danh, vừa có lợi. Nếu là tuổi
Dương, sinh ban ngày thì công danh có ít, lợi lộc nhiều hơn. Thái Âm
chỉ cách làm quan văn. Nếu hãm địa, quan cách tầm thường, chậm phát,
thường gặp những hoàn cảnh không toại ý, thiếu cơ hội thi thố tài
năng. Nếu Âm Dương đồng cung ở Sửu Mùi thì có lộc nhưng không quý
hiển. Muốn đắc quý, phải có Tuần, Triệt án ngữ hay Hóa Kỵ đồng
cung.
Thiên Đồng: chỉ có ý nghĩa quan
lộc nếu đắc địa trở lên. Thông thường, sao này chỉ quan cách nhưng
riêng ở Mão thì văn võ kiêm toàn. Đồng chỉ thực sự quý hiển nếu ở
cung Tý, cung Dần và cung Thân. Trong mọi trường hợp, Đồng chỉ loại
viên chức làm việc lưu động, thường hay đổi công việc, cụ thể như
thanh tra, đại sứ, liên lạc viên, giao liên hoặc gặp hoàn cảnh phải
đổi nghề, đổi chỗ làm tương đối mau chóng. Nếu đồng cung với Thiên
Lương, Đồng rất xuất sắc trong các ngành chính trị, y khoa, sư phạm.
Đồng cung với Nguyệt ở Tý, Đồng cũng lỗi lạc. Nếu hãm địa, quan
cách nhỏ thấp, thăng giáng thất thường và bất đắc chí trong nghề
nghiệp.
Thiên Lương: là cách quan văn.
Đắc địa trở lên, Lương là người có tài mưu sĩ, cố vấn, khuyến cáo
đường lối chiến lược, chính sách, đặc biệt khi đóng ở Thìn Tuất
(đồng cung với Thiên Cơ) hay ở Mão (đồng cung với Thái Dương). Tại
những vị trí này, Lương là người hay tìm tòi, hiếu học, có khả năng
nghiên cứu và thiết kế các chương trình lớn, rất thích hợp với công
việc tham mưu. Nếu có thêm các sao khoa bảng thì công danh rất sáng chói,
được ở cạnh chức quyền cao cấp. Nếu Lương ở Sửu Mùi thì quan cách
tầm thường còn hãm địa ở Tỵ Hợi thì chức vị càng thấp, tính tình
phóng đãng, hay thay đổi chí hướng, ưa phiêu lưu, không toại chí, phải
bôn ba lưu lạc, tha phương cầu thực. Trường hợp đồng cung với Nhật ở
Dậu cũng có ý nghĩa tương tự.
Cự Môn: Miếu, vượng và đắc
địa, sao này chỉ quan văn, đặc biệt là chính trị gia hay luật gia
hoặc nhà ngoại giao. Sao này rất thích hợp cho quan tòa, trạng sư,
giáo sư, dân biểu, nghị sĩ, những người có học lực uyên bác, năng
khiếu hùng biện, thiên về chính trị. Viên chức có Cự Môn sáng sủa
thường có hoài bão cải tạo xã hội, có ý chí muốn làm việc lớn, có
xu hướng chính trị cấp tiến, muốn thay đổi hoàn cảnh chứ không bảo
thủ, chấp nê hiện trạng. Do đó, Cự Môn đắc địa thường là người bất
mãn hiện tại, nhưng lại không chịu thúc thủ chờ thời, trái lại muốn
đóng góp để tạo thời thế. Chỉ khi nào hãm địa, Cự Môn mới là
người bất đắc chí, bất mãn mà bất lực, thường bị tụng ngục, kìm
hãm không hoạt động được. Đi chung với Thiên Cơ ở Mão Dậu, đi chung
với Thái Dương ở Dần Thân thì quan chức cao, có cả phú lẫn quý
cách. Nếu hãm địa ở Tỵ thì quan chức nhỏ, ở Hợi thì có cao vọng,
thường bất mãn; ở Thìn Tuất tuy có tài và có chức phận trong hậu
vận nhưng thường gặp thị phi, đố kỵ, cạnh tranh, gièm xiểm.
Thiên Cơ: là kỹ năng, kỹ thuật,
sự tinh xảo trong ngành chuyên môn, đặc biệt là máy móc. Nghề của
Thiên Cơ có thể là kỹ sư, kỹ nghệ. Ngoài ra, Cơ trong bộ Cơ Nguyệt
Đồng Lương chỉ nghề công chức, quan lại, cụ thể là ngành y khoa hay
dược khoa. Đồng cung với Cự Môn ở Mão Dậu, đồng cung với Thiên Lương
ở Thìn Tuất, Thiên Cơ là viên chức tham mưu, giỏi về kế hoạch, chính
sách, chiến lược. Tại bất cứ vị trí đắc địa nào, Cơ cũng là viên
chức khéo léo, tinh xảo, tinh thục, có lương tâm chức nghiệp cao.
3. Những phụ tinh có ý nghĩa quan lộc:
a. Phụ tinh chỉ quyền uy, chức phận:
Hóa Quyền: biểu tượng cho quyền
hành và thế lực, đặc biệt nếu đắc địa ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.
Nếu bình thường hoặc hãm địa (ở Tý, Ngọ, Thân, Dậu, Hợi) thì quyền
không cao, không nhiều, không quan trọng, hoặc chỉ có hư quyền hoặc
quyền chỉ có trong bóng tối hoặc có thế lực mà không có quyền hoặc
quyền tước hàm. Hóa Quyền có nhiều địa hạt: võ quyền, văn quyền,
giáo quyền tùy theo cách làm quan nhưng cách nào có Quyền cũng đều
hiển hách. Nếu đi với Hóa Kỵ trong bối cảnh cung Quan tốt đẹp thì
hai sao này chỉ người có quyền và có mưu, hết sức quyền biến, không
ngoan nhưng do có Kỵ nên thường bị người ta e ngại. Nếu đi với Kiếp
Không ở Tỵ Hợi, Quyền càng phát nhanh và phát lớn do sự đưa đẩy của
thời thế để tạo ra anh hùng nhưng vì có Kiếp Không nên có thể không
lâu bền. Thông thường, người có Hóa Quyền hay tự đắc, tự tôn, kiêu
căng, lấn lướt, hiếu thắng cho nên sao này tuy có lợi cho công danh
nhưng không mấy hay về tính nết. Phải có thêm các sao đức hạnh thì
Quyền mới hướng thiện. Nếu gặp hung tinh, vận xấu, Hóa Quyền tác
họa cấp kỳ cho đương số. Hóa Quyền ở Quan tượng trưng cho sự tham
chính, cho cách làm quan hiển đạt, đặc biệt là khi đi với Khoa và
Lộc.
Quốc ấn: chỉ người có chính
chức và có quyền vị. ý nghĩa của ấn giống như Quyền nhưng không
mạnh bằng. Nếu ấn đi chung với Binh, Hình, Tướng thì võ nghiệp rất
vinh hiển: đó là quân nhân có binh, có quyền, có uy. Người có ấn ở
Quan là viên chức có công, được thưởng công bằng sự thăng chức, thăng
trật, hoặc bằng sắc phong huy chương, tưởng lục. Nếu ấn ở vị trí
các cung ban đêm, có thể là sự khen ngợi thông thường, cũng có thể
là sự truy tặng (sau khi chết). Dù sao, Quốc ấn ở Quan, Mệnh, Thân là
người dễ tiến đạt, được trọng vọng, được ghi công trên đường hoan lộ.
Long, Phượng, Hổ, Cái (tứ linh):
là quý cách khá cao, do những biểu tượng đi kèm.
Thanh Long, Long Đức ở Thìn:
tượng trưng cho quyền tước, tài năng được dùng đúng chỗ.
Phong Cáo, Thai Phụ, Đường Phù:
chỉ bằng sắc, công trạng, huy chương, quyền hành nhưng không mạnh bằng
Quyền hay ấn. Đường Phù có nghĩa kém nhất.
Tiền Cái hậu Mã: cung Quan
trước giáp Hoa Cái sau giáp Thiên Mã là một biểu tượng của quyền uy,
có lọng (Cái), có ngựa (Mã) theo chầu. Duy cách này nên đóng ở cung
ban ngày mới rạng.
Quan Đới: biểu tượng cho chức
vị, quyền hành (là cái đai). Chức quyền có thể cao.
Bạch Hổ, Tấu Thư: hai sao này
họp thành cách hổi đội hòm sắt, cũng khá tốt cho công danh. Ngụ ý
được tín nhiệm, trọng dụng, nhất là đồng cung và ở cung Dần (hổ cư
hổ vị).
Bạch Hổ, Phi Liêm ở Dần: chỉ
công danh thăng tiến dễ dàng, nhất là ngành võ.
Tướng Quân: chỉ cách làm quan
võ có cầm quân nhưng thuộc loại thấp, chỉ huy đơn vị nhỏ. Nếu đi
cùng với Thiên Tướng là võ quan cao cấp và có nắm quyền chỉ huy.
Cách quan của Tướng Quân tuy có can đảm, hiên ngang nhưng táo bạo, có
tinh thần sứ quân, tự tôn, tự phụ, sử dụng binh quyền đôi khi sai mục
đích nên Tướng Quân gặp sao xấu dễ bị nguy kịch. Đi với cát tinh,
Tướng Quân rất đắc dụng: đó là viên chức hay quân nhân rất tháo vát,
có tinh thần xung phong, tình nguyện làm việc khó, có sáng kiến, đôi
khi có quá nhiều sáng kiến nên đi sai lệch đường lối ở trên. Đi với
Thiên Tướng, nhất là ở thế xung chiếu thì rất hiển hách trong binh
nghiệp.
b. Phụ tinh chỉ tài năng tổng quát:
Thiên Mã: ngụ ý tháo vát, may
mắn, đa năng, thao lược, xông pha. Người có Thiên Mã ở Quan hay Mệnh
thường nhậm lẹ, lanh lợi, lăn lóc, từng trải nên đa hiệu, đa nhiệm.
Đây là bộ sao rất cần cho công danh, rất lợi và rất hợp với các công
việc có tính lưu động. Vì đa hiệu, Mã là sao có rất nhiều phối
cách rất hay với một số phụ tinh khác để làm cho năng tài đắc dụng
hơn. Ví dụ như cách Mã Tử Phủ, Mã Nhật Nguyệt, Mã Lộc Tồn, Mã Hỏa
hay Linh, Mã Tướng, Mã Khốc Khách. Mặt khác, cách hay trên còn tùy
vị trí của Thiên Mã. Nếu ở Dần (Mộc) và Tỵ (Hỏa) thì tốt đẹp
thêm, ở Thân (Kim) thì vất vả, còn ở Hợi (Thủy) thì lu mờ. Tốt khi
Mã ở Dần (Mộc) mà Bản Mệnh thuộc Mộc, Mã ở Tỵ (Hỏa) với Hỏa
Mệnh, Mã ở Thân (Kim) với Kim Mệnh, Mã ở Hợi với (Thủy Mệnh). Bao
giờ gặp nghịch khắc giữa hai hành thì kém hoặc xấu: tài năng sút
kém, trở ngại gia tăng, công danh không rạng.
Lộc Tồn: chỉ tài năng, đặc
biệt là tài tổ chức, tài thích ứng với hoàn cảnh. Lộc Tồn có
nhiều sáng kiến, biết tùy theo nhu cầu mà quyền biến, xử sự tùy
hoàn cảnh, lúc cương lúc nhu, một cách chừng mực. Đi với Thiên Mã,
Lộc Tồn là người khai sơn phá thạch, mở đường cho kẻ khác đi theo,
rất đắc dụng trong các trách nhiệm tiền phong, khai quang an vị, tổ
chức cơ sở. Đặc biệt, sao này chỉ về tiền bạc nên rất lợi cho nhà
kinh doanh khai thác tài nguyên kinh tế, tổ chức nền móng sản xuất. Đi
với Hóa Lộc, Lộc Tồn chuyên đoán, có óc lãnh tụ, độc quyền và tập
quyền. Gặp Tuần, Triệt hay sát tinh đồng cung, Lộc Tồn mất nhiều cơ
hội hoạt động, bị khiếm dụng, bị dùng phí phạm, bị dùng không đúng
chỗ, tài năng bị tiêu mòn hoặc bị dùng vào việc sái đạo đức. Trong
lãnh vực tài chính, sao này chỉ sự tiết kiệm, xài kỹ, xài có quy
tắc, sự chắt mót, giữ của, có lợi cho các chức vụ quản trị ngân
sách.
Thiên Khôi, Thiên Việt: Miễn là
đừng gặp Tuần, Triệt hay Hóa Kỵ, Khôi Việt chỉ năng tài xuất chúng,
uy tín và hậu thuẫn, phần lớn nhờ ở tài văn học, mô phạm, tính
tình cao thượng, thanh khiết, tinh thần cạnh tranh và thi đua.
Bạch Hổ, Tang Môn đắc địa ở
Dần: chỉ sự tài giỏi, quyền biến, thao lược, ứng phó được nhiều
nghịch cảnh, đồng thời cũng có khả năng xét đoán, lý luận, hùng
biện phù hợp với các chức vị chính trị, ngoại giao, tư pháp, sư
phạm. Ngoài ra Tang Hổ đắc địa còn có khả năng về võ, có khí phách
lãnh đạo, chỉ huy nhất là khi được sao võ đi kèm. Do đó, Tang Hổ đặc
biệt là Hổ có nhiều phối cách rất hay với Tấu Thư, với Phi Liêm,
với Long Phượng Cái, với Kình Hình. Với Tấu Thư, Bạch Hổ chỉ năng
tài hùng biện rất khích động, xuất sắc về tâm lý chiến, vận động
quần chúng. Với Phi Liêm, Bạch Hổ rất tháo vát, lanh lợi như Thiên Mã
lại được thời cơ thuận lợi. Với Kình hay Hình, Bạch Hổ có chí khí,
mưu lược cả văn lẫn võ. Với Long Phượng Cái, Bạch Hổ chỉ sự hiển
đạt về uy danh, sự nghiệp, khoa giáp.
Thiên Khốc, Thiên Hư đắc địa ở
Tý, Ngọ: chỉ người có chí lớn, có văn tài hùng biện cùng năng
khiếu hoạt động chính trị, đặc biệt là về hậu vận. Khốc Hình Mã
thì hiển đạt võ nghiệp, nhất là ở Dần và Tỵ. Khốc Hư Sát hay Phá
đắc địa thì có quyền cao chức trọng, uy danh lừng lẫy, được thiên hạ
nể phục.
c. Phụ tinh chỉ thời thế, hoàn cảnh:
Ân Quang, Thiên Quý: Đóng ở
Mệnh, Quan, Thân, Di viên chức được tín nhiệm, trong dụng nâng đỡ, che
chở của người trên. Ngoài ra, Quang Quý có nghĩa là viên chức đó
trung tín, hết lòng, có lương tâm chức nghiệp, xứng đáng với sự tín
nhiệm của thượng cấp dành cho. Quang Quý có nghĩa gặp nhiều dịp may
trong hoạn lộ, cụ thể như được thời thế thích hợp, được sử dụng
đúng năng khiếu, làm việc vừa ý, được hạnh phúc trong nghề nghiệp.
Thanh Long, Lưu Hà hay Hóa Kỵ
đồng cung: có vận may tốt, cơ may lớn để ra làm quan, không cần cầu
cạnh và lúc ra làm quan thì đắc dụng, đắc thời theo ba ý nghĩa nêu
trên của Quang Quý. Ngoài ra, Thanh Long gặp Long Đức ở Thìn cũng rất
tốt đẹp vì rồng đóng ở cung Thìn chỉ đắc danh, đắc lộc mà không
cần cầu cạnh, được nhiều may mắn trên hoạn lộ.
Tràng Sinh, Đế Vượng: chỉ sự
phong phú; áp dụng vào quan trường, công danh sẽ dồi dào, năng tài đa
diện trong nhiều lĩnh vực, chức quyền tương đối cao. Người có Sinh,
Vượng ở Quan có nhiều sáng kiến trong công vụ, được giao phó nhiều
trách nhiệm, dễ thăng tiến.
Thiên Mã, Tràng Sinh: gặp vận
hội tốt, có ý nghĩa giống như hai bộ sao Thanh Long Hóa Kỵ và Thanh
Long Lưu Hà. Cách này có ý nghĩa tiền bạc, cụ thể là đắc lợi trong
quan trường. Nếu ở cung Hợi thì kém hay.
Phi Liêm, Bạch Hổ: gọi là hổ
mọc cánh, rất tốt ở cung Dần, tượng trưng cho thời vận đang lên, sự
may mắn đặc biệt, sự thăng chức, thăng cấp dễ dàng.
Đào Hoa, Hồng Loan: ở Quan, Đào
Hoa và Hồng Loan rất hợp cách: chỉ làm quan lúc tuổi trẻ, tuổi trẻ
tài cao, công danh tảo đạt, nhẹ bước thang mây, không phải bôn ba cầu
cạnh.
d. Phụ tinh chỉ nhân sự trợ giúp:
Tả Phù, Hữu Bật: chủ sự giúp
đỡ của người đời, đặc biệt là đồng sự, đồng song. Người có Tả Hữu
ở Quan có tài giao tế nhân sự, có đức tính khéo léo thu được thiện
cảm của người trên, có sự mềm mỏng cần thiết để được người ngang
hàng cộng lực. Ngoài ra, cũng có nghĩa là quyền tước hiển vinh, nhờ
có nhiều người phục tùng. Tả thuộc văn tinh nên hợp với Tử Phủ, Hữu
chiếu vào Tử Phủ thì tốt hơn đồng cung. Trong cả hai trường hợp, Tả
Hữu không nên đi chung với sát tinh. Tả Hữu còn có nghĩa là đa nghệ,
là hệ số của tài năng, của quyền hành.
Thiên Quan, Thiên Phúc: chỉ sự
giúp đỡ của ân nhân, bạn bè, cảm tình viên, cổ động viên ...
Tướng Quân, Phá Quân, Phục Binh:
nếu cung Quan có Thiên Tướng mà được thêm ba sao này hội tụ thì sẽ
tăng thêm uy quyền cho Thiên Tướng có có nghĩa như tướng có quân, cầm
quân.
Thiên Mã, Tràng Sinh, Đế Vượng:
là bộ sao phụ tùy cho quan cách.
Binh, Hình, Tướng, ấn: chỉ cộng
sự đắc lực và có quyền, trợ uy cho võ cách.
Ân Quang, Thiên Quý: chỉ ân sủng
của thượng cấp và sự hậu thuẫn trung kiên và lâu bền của thuộc hạ.
4. Sát, hung tinh trong quan cách:
a. Những loại võ cách:
Hung sát tinh đắc địa gặp Sát
Phá Liêm Tham đắc địa hay Vũ Tướng đắc địa: báo hiệu sự hiển đạt
của võ nghiệp trong thời loạn, nhờ đức tính táo bạo, mạo hiểm, bất
khuất trong những hoàn cảnh hết sức khó khăn. Bộ sao này có cả phú
lẫn quý, tức là vừa có danh vừa có lợi. Nhưng công danh không được
lâu bền, phát nhanh nhưng cũng tàn lẹ. Gặp bộ Vũ Tướng đắc địa thì
toàn mỹ về cả công danh lẫn tiền bạc trong suốt thời gian sinh tiền,
không bị ảnh hưởng của sự thăng trầm, hoạch phá. Nếu hai bộ này hãm
địa, sát tinh dù có đắc địa cũng không quân bình được bất lợi: công
danh nhỏ, chức vụ thấp, thăng giáng thất thường.
Hung sát tinh hãm gặp Sát Phá
Liêm Tham hãm hoặc Vũ Tướng hãm: giảm chế công danh khiến quân nhân
khó thăng tiến, trở thành bất đắc chí, càng tung hoành càng gặp hung
họa lớn lao. Nếu bốn sao chính mà sáng sủa thì quan cách tương đối
cao hơn, nhưng thiếu thuộc hạ đắc lực vì hung sát tinh hãm địa, thậm
chí còn gây họa cho chính mình. Gặp Vũ Tướng hãm địa thì cũng dưới
mức trung bình và gặp nhiều hung họa. Trái lại nếu Vũ Tướng đắc
địa thì rất hay: chẳng những có uy danh mà còn khắc phục được trở
ngại và những âm mưu bất chính của đối thủ.
b. Hung sát tinh với Tử Phủ Cự Nhật và Cơ Nguyệt Đồng Lương (văn
cách):
văn cách trong mỗi bộ sao này
phải né tránh sát tinh thì mới hiển đạt. Gặp sát tinh, quan trường
phải cạnh tranh, đối chọi, đấu trí, gian nan, chưa kể những hung họa
hiểm nghèo khả hữu. Để thắng những sát tinh đó thì mỗi sao trong bộ
phải đắc địa trở lên. Nếu chính tinh trong mỗi bộ sao mà hãm địa
nốt thì quan cách chẳng những không ra gì mà còn gặp nhiều hiểm nguy
đến bổn mạng.
c. Đặc điểm của hung sát tinh trong võ cách:
Địa Không, Địa Kiếp: chỉ khi
nào đắc địa mới lợi cho công danh trong khuôn khổ võ cách. Không Kiếp
giúp bộc phát rất nhanh, đặc biệt là trong thời loạn. Dù sao, võ
nghiệp của Không Kiếp hết sức cực nhọc, khó khăn và nguy hiểm, phải
đương đầu với nhiều địch thủ lợi hại trong môi trường đầy nguy hiểm.
Tuy nhiên, Kiếp Không dù đắc địa cũng thăng trầm, chỉ giúp võ nghiệp
hiển đạt một thời mà thôi. Trong giai đoạn hiển đạt, nếu Kiếp Không
đắc địa được trợ lực bởi các sao khác, cụ thể như Tướng Quân, Thiên
Mã hay Binh, Hình, Tướng, ấn thì quan cách thêm hiển hách. Thiếu
những trợ tinh này, Kiếp Không đắc địa chỉ một tài năng cô độc. Mặc
dù Kiếp Không đắc địa tương hợp với cách Sát Phá Liêm Tham đắc địa
nhưng sự hoạnh phát không tránh được cảnh hoạnh tán: con người tuy có
võ chức cao, có thành công lớn nhưng vẫn dễ bị phá sản trong một
giai đoạn nào đó. Chỉ trừ phi đi chung với Vũ Tướng đắc địa thì quan
toàn mỹ (rất hiếm). Nếu hãm địa, Kiếp Không chẳng những vất vả gian
truân mà còn bất đắc chí và thường gặp hung sự hiểm nghèo, có hại
đến tính mệnh hoặc bị bệnh tật nặng nề, tai họa về binh lửa. Có ba
biệt lệ tốt đẹp cho trường hợp hãm địa: i) Không Kiếp hãm đi chung
với Vũ Tướng đắc địa: trở lực nhiều nhưng con người khắc phục được,
có công danh sự nghiệp lớn; ii) Không Kiếp hãm gặp Tử Phủ sáng sủa,
Cự Nhật hay Cơ Nguyệt Đồng Lương đắc địa: tài quan tuy lớn lao nhưng
có nhiều bất trắc, vất vả, gian truân, chỉ được sự hậu thuẫn của
người trên mà ít được sự trợ giúp của kẻ dưới; iii) Không Kiếp hãm
gặp Sát Phá Liêm Tham đắc địa: công danh cao nhưng người còn bất đắc
chí, được người trên giúp đỡ nhưng thiếu nhân sự ở dưới trợ lực,
phần lớn hạ cấp đều bất tài, tham nhũng, sát chủ.
Kình Dương, Đà La: chỉ hay khi
hai sao này miếu địa: Kình ở Thìn Tuất Sửu Mùi, Đà thì đắc địa
thêm ở Tý và Hợi. Kình Đà nếu đắc địa thì cương nghị, quả cảm,
khí phách, cơ mưu, thủ đoạn, có tinh thần bất khuất, có tài và đắc
dụng. Nếu được thêm Hỏa, Linh đắc địa hội tụ thì rất khét tiếng
trong binh nghiệp, có khả năng chế phục địch quân. Được Tướng Quân,
Thiên Mã, Khoa, Quyền, Lộc thì quan cách hết sức lẫy lừng, thường
bách chiến bách thắng. Nếu gặp hung tinh như Không, Kiếp, Hình, Kỵ
thì cũng tài giỏi nhưng phải gặp nhiều thăng trầm, hung họa lớn lao,
chết thảm. Nếu hãm địa, Kình Đà là người rất bướng bỉnh, ngoan cố,
ngỗ ngược, liều lĩnh và gian trá do đó tai họa dễ xảy đến từ hình
tù cho đến thương phế và chết thảm. Kình Đà hãm ở Quan tượng trưng
cho trở lực, khó khăn gặp phải, sự gian nan cơ cực và hiểm nghèo của
công tác, có làm mà không được hưởng, chung quy dễ gặp nạn. Riêng sao
Kình ở Ngọ thì rất hung hiểm, dễ chết bất đắc, trừ phi được cát
tinh như Tướng, Mã, Khoa, Quyền, Lộc hội tụ mới hiển đạt. Nếu Kình
(đắc hay hãm địa) đi chung với Lực Sỹ thì người đó khó tiến đạt,
bị bỏ quên, bị đè nén. Đắc địa thì có tài mà không được biết hoặc
biết mà không được dùng hoặc được dùng mà bị kiềm tỏa. Hãm địa
thì là hạng vô dụng, bị bỏ xó, ngồi chơi xơi nước. Riêng Đà La ở
Dần Thân, vô chính diệu thì đắc cách quý hiển cả về văn lẫn võ.
Nếu bị Tuần Triệt án ngữ thì sẽ mất hết cái hay. Trong mọi trường
hợp Kình Đà hãm địa mà bị thêm sát tinh khác hãm địa đi kèm thì
hung họa, cơ cực không sao kể xiết: nghèo thì trộm cướp, hình tù,
khá thì bất nhân bất nghĩa, thông thường thì yểu vong và chết không
toàn thây.
Hỏa Tinh, Linh Tinh: Tính tình
Hỏa Linh giống như Kình Đà. Nếu đắc địa (ở những cung ban ngày),
nhất là hội với Tham miếu địa, đều có tài năng, có chí khí, có uy
danh và thường hiển đạt trong binh nghiệp. Nếu hãm địa thì công danh
trắc trở, chậm lụt nhất là hay gặp tai nạn, thường phải bôn ba đâu
đó. Có hai biệt lệ của Hỏa Linh hãm địa sau: ở Sửu Mùi có Tham Vũ
Việt đồng cung t hì võ cách hết sức hiển hách nhất là về hậu vận
nhưng kỵ hai sao Không Kiếp sẽ làm phá tán hết cái hay; ở Hợi, đồng
cung với Tuyệt có Tham Hình hội chiếu cũng rất vang danh trong binh
nghiệp.
Kiếp Sát: chỉ sự đa sát, chém
giết, gieo họa, hay xuống tay mạnh, thường dùng biện pháp cứng rắn,
cực đoan lúc xử thế, nóng tính, không chịu nổi những sự bất bằng,
hay tầm thù. Kiếp Sát là người lợi hại và nguy hiểm, có thể ví như
hung đồ nên nếu ở Quan dễ gặp ha và có nhiều kẻ thù. Đi với các sao
hung khác rất dễ thành phiến loạn, cướp của giết người, bất lương,
vô loại.
Thiên Không: rất kỵ cung Quan lộc
vì tượng trưng cho sự cản trở. Có Thiên không, khó thăng tiến, chậm
thăng, thăng chật vật, thăng không cao, bị đè nén, kìm chế trong hoạn
lộ. Thiên Không ở Quan là người bất mãn, hay làm hỏng việc, giữ chức
vụ gì lớn không bền vững, lên thì chậm, xuống thì nhanh, quan trường
hay bị đó kỵ, ganh ghét và chính đương số cũng có bụng tiểu nhân,
ganh hiềm, đâm thọt, xuyên tạc, phá phách, gây chia rẽ, ly gián.
Phục Binh: ở Quan, sao này chỉ
sự đố kỵ, hãm hại bằng thủ đoạn ngầm, có khi đi đến chỗ phục
kích, ám sát để loại trừ địch thủ. Phục Binh có thể hoặc là nạn
nhân của bọn tiểu nhân, hoặc chính mình là tiểu nhân, hoặc vừa là
nạn nhân vừa là tiểu nhân, do sự trả đũa qua lại.
Hóa Kỵ: trước hết có nghĩa đố
kỵ, ganh tỵ, thấy người hơn mình thì không thích. Thủ đoạn của Hóa
Kỵ cũng bí mật, lén lút, thường là dùng miệng lưỡi để gièm pha,
chỉ trích xuyên tạc, vu khống. Do đó, Hóa Kỵ ở Quan tượng trưng cho
thị phi, khẩu thiệt, vạ miệng. Mặt khác, Hóa Kỵ hãm địa có nghĩa
là nông nổi, xu thời, thiếu lập trường, ai mạnh thì theo, dễ bỏ bạn
bè để theo danh lợi. Trong trường hợp đắc địa (ở Thìn, Tuất, Sửu và
Mùi) thì là người có khuynh hướng cách mạng, muốn thay cũ đổi mới,
ý nghĩa tương đối hướng thượng, quan cách dễ thành công nếu được cát
tinh hỗ trợ.
Thiên Hình: đắc địa ở Dần,
Thân, Mão, Dậu. Thiên Hình chuyên về quân sự, có dũng khí, có uy
phong, có tài cầm binh, thiên về sát phạt. Nếu là quan văn thường là
thẩm phán, trạng sư, có năng khiếu luật pháp, xét xử công minh. Nếu
thêm Thiên Y đi kèm, có thể là bác sĩ giải phẫu, châm cứu. Thiên Hình
là người nóng tính, khắt khe, cương nghị, làm việc theo nguyên tắc,
không chấp nhận trái lệ, trái luật, có tinh thần liêm chính, công
bình, có tinh thần chu đáo, tinh vi, kỹ lưỡng, hay chú ý đến chi
tiết. Quân nhân có Thiên Hình đắc địa ở Quan thường rất mực thước, vô
tư, ngay thẳng, có lương tâm chức nghiệp, có bản lĩnh hành xử trách
nhiệm một cách khả quan. Đi với Binh, Tướng, ấn thì là võ cách tham
mưu, có uy dũng và mưu lược, thường được giao phó trọng trách. Nếu
Hình hãm địa thì quan cách hay gặp hung sự, tụng ngục, bị điều tra,
bị tố cáo. Gặp Tuần, Triệt án ngữ thì có thể bị giáng chức, cách
chức, ở tù, bị kiện.
5. Tuần, Triệt ở cung Quan:
Thông thường, Tuần Triệt là sao
phá, đóng ở cung nào thì gây trở ngại cho cung đó: ở Mệnh, thì
thiếu thời lận đận, ở Thân thì trắc trở, gian truân; ở Phu Thê thì
hỏng một duyên nợ; ở Tử thì hao con; ở Tài thì kém tiền bạc. Chỉ
có Tật, Tuần Triệt phá tán bệnh tật, họa, tạo sức khỏe cho đương
số.
Vì vậy, Tuần Triệt đóng ở Quan
tiên quyết gây trục trặc cho quan trường, thể hiện dưới nhiều hình
thái: hoặc chậm công danh; hoặc công danh phải lận đận, chật vật;
hoặc công danh không mấy cao, thăng giáng thất thường; hoặc không bền
vững. Nếu gặp Triệt, cong danh chậm phát lúc thiếu thời, chỉ về già
mới hanh thông. Nếu gặp Tuần, sự trục trặc có tính cách triền miên,
tuy không nặng như Triệt nhưng kéo dài suốt đời.
a. Trường hợp cung Quan có chính tinh:
Nếu chính tinh sáng sủa, Tuần
Triệt làm cho bớt sáng, có thể trở thành tối. Do đó, công danh có
thể bị trở ngại, hoặc chậm phát hoặc trục trặc, hoặc không lâu bền,
hoặc có nhiều hung sự xảy ra, có thể là mất chức, mất quyền, bị
thay đổi, bằng không thì cũng bất toại, hay gặp những sự bực mình,
bất mãn, tài năng không thi thố được. Nếu tại Quan mà có Thiên Tướng
hay Tướng Quân thì càng bất lợi: vào công quyền ắt phải có lần mất
chức, bị cách chức. Tuy nhiên, có hai chế giảm cho cung Quan bị Triệt,
Tuần: i) cung Quan có Sát Phá Liêm Tham hay bại tinh sáng sủa gặp Tuần
Triệt thì tương đối bền vững, chức vụ tương đối cao, không đến nỗi
phải lụn bại, thăng trầm. Những sao Tử Phủ, Cự Nhật, Cơ Nguyệt-Đồng
Lương đi với sao sáng sủa khác gặp Tuần Triệt thì công danh thất
thường, không bền, gặp hung sự; ii) cung Quan ở Sửu, Mùi có Âm Dương
tọa thủ đồng cung: quan lộc được rực rỡ, đặc biệt là về sau vì tại
Sửu Mùi, Âm Dương tương đối xấu, gặp Tuần, Triệt thì sáng lại và
tại Sửu Mùi vốn là âm cung nên tốt cho hậu vận.
Nếu chính tinh ở Quan mà hãm
địa, Tuần Triệt phục hồi sức sáng cho chính tinh, công danh sẽ quý
hiển nhưng không tránh khỏi trắc trở: quan trường chỉ phát lúc hậu
vận. Đặc biệt nếu Sát Phá Liêm Tham hay bại tinh hãm địa gặp Tuần
Triệt đồng cung thì lại phát nhanh và mạnh hơn những bộ sao khác hãm
địa. Duy đối với Thiên Tướng, dù đắc hay hãm địa, Tuần Triệt bao giờ
cũng gây thảm tử, như quân nhân chết trận, viên chức bị cách, giáng.
b. Trường hợp cung Quan vô chính diệu:
Cung Quan vô chính diệu, dù được
chính tinh đối diện sáng sủa chiếu vào, quan lộc cũng không toàn mỹ
(công danh tầm thường, chức vị không mấy cao) huống hồ gặp chính tinh
đối diện hãm địa. Duy có hai biệt lệ quan trọng làm khởi sắc cho
cung Quan vô chính diệu:
Cung Quan có Tuần hoặc Triệt án
ngữ: cách này nói chung không hoàn hảo nhưng cũng đỡ xấu. Quan trường
tuy nhiều trở ngại nhưng vẫn có thể hiển đạt trong vãn vận. Nếu tảo
đạt và phát nhanh thì lại sớm tàn và hoạnh tán.
Cung Quan được Nhật Nguyệt cùng
sáng sủa hợp chiếu hay xung chiếu: cách này trở thành đắc lợi nhờ
ánh sáng phối hợp của hai nguồn năng lực Nhật Nguyệt: công danh sáng
lạn, chức vụ lớn, quyền hành cao, có triển vọng đắc phú, tóm lại
vừa giàu vừa sang. Nếu cung Quan có Tuần hay Triệt trấn thủ tại đó
thì phú quý sẽ tăng tiến nhiều hơn nữa.
------------------
Mời nhấp chuột đọc thêm:
*.
ĐỖ VIỆT PHƯƠNG (giới thiệu)
Địa chỉ: Khu tập thể đóng tàu Bạch Đằng
Ngã tư An Dương, Lê Chân, Hải Phòng.
Email: dovietphuong118@yahoo.com.vn
.
.
.
.
..............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày
18.06.2020.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân
Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét