NHỮNG
SAI LẦM MANG TÍNH NGUYÊN TẮC
TRONG
BIÊN SOẠN SÁCH GIÁO KHOA MỚI
*
Những điều viết dưới đây là đề cập chung cho các
bộ sách giáo khoa mới, chứ không chỉ riêng cho ‘Cánh Diều’ hay ‘Kết nối trí
thức với cuộc sống’; và liên quan đến tất cả cả các môn, chứ không riêng gì
Tiếng Việt hay Toán. (Tác giả Nguyễn Ngọc Chu)
Mục đích bài viết không phải để chỉ trích cá
nhân hay bộ sách giáo khoa cụ thể, mà là để rút kinh nghiệm cho tương lai, mong
có được các bộ sách giáo khoa mới tốt hơn. Tốt hơn theo 5 phương diện:
1. Học ít mà biết nhiều.
2. Biết những điều quý giá hữu ích.
3. Không mất nhiều thời gian.
4. Không tốn nhiều công sức.
5. Không mất nhiều tiền bạc.
Vì hạn chế về đề tài, dung lượng, và thời gian,
nên bài viết còn những điều khiếm khuyết. Do vậy, bài viết không cạnh tranh về
tính đầy đủ và tính đúng đắn. Bài viết cũng không toan tính áp đặt quan điểm
của người viết cho người khác.
I. NHỮNG NGUYÊN NHÂN HỆ THỐNG ẢNH HƯỞNG XẤU LÊN
CHẤT LƯỢNG CỦA SÁCH GIÁO KHOA
Trước khi các bộ sách giáo khoa mới ra đời đã
xuất hiệu nhiều phản biện gay gắt của xã hội trên truyền thông về hai phương
diện: chất lượng và chi phí. Và nay, ngay khi vừa đưa các bộ sách giáo khoa mới
vào giảng dạy đã bộc lộ những sai sót nghiêm trọng. Những sai sót của sách giáo
khoa mới là hậu quả tất yếu từ những sai lầm mang tính nguyên tắc về cách tiếp
cận trong thiết lập cơ chế soạn sách giáo khoa. Sau đây đề cập đến 6 nguyên
nhân chính, đều có nguồn gốc sâu xa từ một nguyên nhân thống soái.
1. HẠN CHẾ CHỈ 1
CHƯƠNG TRÌNH KHUNG VÀ CHỈ 1 TỔNG CHỦ BIÊN
Trong vũ trụ không có thứ gì là độc nhất. Vũ trụ
biến hoá đa dạng không ngừng. Tiến bộ nhân loại là một phần tiến hoá của vũ
trụ. Bởi vậy nó chịu sự chi phối của quy luật vũ trụ. Hơn 200 quốc gia trên thế
giới không chung một khung chương trình giáo dục. Quy định một bộ khung chương
trình duy nhất cho giáo dục là ràng buộc tiến hoá. Tự do học thuật cần nhiều
chương trình. Rõ ràng khi có 2 chương trình khung là có nhiều lựa chọn hơn cho
người dùng, chắc chăn tốt hơn khi chỉ có 1 chương trình khung.
Ngay cả chỉ có 1 chương trình khung thì cũng
không thể chỉ có 1 tổng chủ biên. Quy định này trói buộc khả năng tự do toả
sáng của các tổng chủ biên. Giống như thiết kế, cùng là thiết kế máy bay, nhưng
mỗi tổng công trình sư có một thiết kế khác. Hạn chế chỉ có 1 tổng chủ biên cho
SGK mới đã ngăn cản đường sáng tạo của các tổng chủ biên khác. Giá mà có 2 tổng
chủ biên, thì tình trạng SGK mới đã không rơi vào hoàn cảnh hiện nay.
2. CHỌN TỔNG CHỦ BIÊN CHƯA PHÙ HỢP
Các tổng chủ biên dù bác học đa ngành đến đâu
cũng không thể đứng đầu được ở nhiều môn học khác nhau.
Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết có chuyên môn về
tiếng Việt nên có thể tham gia soạn thảo sách giáo khoa môn tiếng Việt. Nhưng
đặt Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết vào vị trí tổng chủ biên chương trình khung bao
gồm các môn toán, lý, hoá, sinh, địa , sử, ngoại ngữ…là quá sức của Giáo sư
Nguyễn Minh Thuyết. Thực tế việc Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết chủ biên môn tiếng
Việt lớp 1 trong nhóm ‘Cánh Diều’ đã bộc lộ năng lực hạn chế của Giáo sư Nguyễn
Minh Thuyết ngay trong môn tiếng Việt lớp 1, chứ chưa nói đến vị trí tổng chủ
biên của toàn bộ chương trình cải cách sách giáo khoa mới. Việc để xẩy ra những
sai sót mang tính nguyên tắc, không riêng gì trong môn tiếng Việt, mà ở các môn
khác, đều có trách nhiệm lớn ở tổng chủ biên chương trình khung.
3. CHỌN CÁC TÁC
GIẢ VIẾT SÁCH GIÁO KHOA MANG TÍNH KHÉP KÍN
Nhìn vào chủ nhân của các bộ sách giáo khoa và
các tác giả sách giáo khoa, thì biết đây là sân chơi khép kín của một nhóm
người chơi. Đây là rào cản đối với tự do học thuật, mà hệ quả là không cho ra
đời được những bộ sách giáo khoa tốt.
4. TẬP THỂ VIẾT SÁCH GIÁO KHOA
Không có sách giáo khoa xuất sắc nào - được viết
bởi 5-7 tác giả. Những bộ sách giáo khoa xuất sắc nhất - tuyệt đại đa số là của
1 tác giả, một số rất ít có 2 tác giả.
Hổ không ngồi chung với sư tử. Nếu đã có hổ thì
báo, chó sói, cáo cũng không thể cùng chung chuồng.
Không ai soạn nhạc cho học sinh thì phải đưa cho
học sinh nghe rồi sửa theo ý thích học sinh. Không ai vẽ tranh cho thiếu nhi
phải đưa cho thiếu nhi xem rồi sửa lại. Không nhà văn nào viết truyện lại đi
đọc cho khắp các tầng lớp người nghe để tiếp thu ý kiến, sửa rồi mới in. Không
công trình kiến trúc nổi tiếng nào lại có thợ sơn, thợ nề, thợ mộc, thợ điện,
thợ nước… đứng chung tên là tác giả.
Các tác phẩm văn học vĩ đại, các bức tranh nổi
tiếng, những tuyệt tác âm nhạc – chỉ có 1 người đứng tên. Các giáo trình vĩ đại
ở đại học đều được tác giả viết mà không cần biết đến ý kiến sinh viên và người
dạy.
Một loạt tác giả đứng tên viết giáo trình có
nghĩa là:
1/ Không ai trong số các tác giả có đủ khả năng
một mình viết giáo trình đó.
2/ Không phân biệt được công lao đóng góp của
mỗi người.
3/ Với xác suất lớn, những người đứng trong nhóm
cuối mới là những tác giả lao động nhiều nhất.
4/ Chất lượng của giáo trình được quyết định bởi
tác giả có chất lượng thấp nhất.
Trong sáng tạo, càng tập hợp được trí tuệ của
nhiều người càng tốt. Nhưng là để phản biện chứ không phải là đồng tác giả. Nếu
theo ý kiến mọi người mà sửa tác phẩm của mình thì đó là ‘đẽo cày giữa đường’.
Tại hoạ của sách giáo khoa mới - là quá nhiều tác giả đứng tên trong một cuốn
sách giáo khoa phổ thông cho một môn của một lớp.
5. CHƯA THỬ NGHIỆM ĐÃ ĐƯA NGAY VÀO GIẢNG DẠY
Covid 19 làm thiệt mạng hàng triệu người, mà
không ai dám đốt cháy giai đoạn về sử dụng vaccine mới sáng chế. Thế mà bộ sách
giáo khoa vừa được biên soạn, chưa hề được thử nghiệm, đã đưa ngay vào giảng
dạy chính thức.
Có phải nóng vội vì tài chính? Đây là một sai
lầm không thể chấp nhận được của Bộ GD&ĐT.
6. LỢI ÍCH KINH TẾ
Tất cả các nguyên nhân trên đều chịu sự điều
phối của nguyên nhân bao trùm là lợi ích kinh tế. Lợi ích kinh tế mới là nguyên
nhân của mọi nguyên nhân. Chính lợi ích kinh tế đã đưa SGK mới đến tình trạng
hiện nay.
Nhưng cả 6 nguyên nhân trên đều có chung một gốc
xuất xứ. Tất cả các nguyên nhân nêu trên đều là “con đẻ” của cơ chế độc quyền.
II. NHỮNG SAI LẦM TRONG THỰC HIỆN NỘI DUNG
Về thực hiện nội dung, tuy mức độ có khác nhau,
nhưng các bộ sách giáo khoa mới đều có chung những sai lầm. Sau đây là một số
sai lầm chính.
1. CHẠY THEO THỊ HIẾU TRẺ EM
Những tác giả viết SGK Tiếng Việt lớp 1, vì đua
tranh thị trường, nên chạy theo thị hiếu trẻ em. Họ chọn hình ảnh, màu sắc, và
thú vật làm 3 cột sống chủ đạo để mong sự ưa thích của trẻ em mà chiếm được thị
trường. Họ thấy điều hiển hiện trên bề mặt mà quên mất điều sâu xa là nội dung
phải giảng dạy.
2. XÁC ĐỊNH CHƯA ĐẦY ĐỦ MỤC ĐÍCH CỦA GIÁO DỤC
Viết và đọc chỉ là công cụ để tiếp thu tri thức
và sáng tạo tri thức. Tiếp thu tri thức và sáng tạo tri thức mới là mục đích
chính của giáo dục. Cho nên dạy viết và dạy đọc không thể rời xa mục đích chính
của giáo dục là cung cấp tri thức cho học sinh và dạy cho học sinh cách sáng
tạo tri thức.
Lớp 1 là khởi đầu. Dạy viết đọc cho lớp 1 là một
mục tiêu quan trọng. Nhưng quan trọng không kém là dạy cho các em thành người.
Vì thế phải xác định mục tiêu giảng dạy ở môn Tiếng Việt 1 ngoài viết và đọc là
gì? Từ đó mà chọn nội dung các bài học liên quan đến viết và đọc.
Hàng triệu người dân bao đời không biết đọc biết
viết mà họ vẫn tiếp thu được tri thức và sáng tạo được tri thức. Họ ngâm thơ,
hát, kể chuyện…. và sáng tác mà không biết đọc biết viết. Họ nên người mà không
biết đọc biết viết.
Xa rời mục đích chính của giáo dục đã làm các
tác giả sa vào mua vui cho trẻ em trong dạy viết dạy đọc. Họ đã sai lầm trong
chọn lựa các nội dung để dạy viết và dạy đọc.
3. CHỌN SAI ĐỐI
TƯỢNG LÀM BÀI HỌC. CHỌN QUÁ NHIỀU THÚ VẬT VÀ CHUYỆN NGỤ NGÔN
Vì quên mục đích chính của giáo dục, sa vào mua
vui, nên các tác giả đã chọn thú vật làm đối tượng đưa vào nội dung các bài dạy
viết dạy đọc. Vì chọn thú vật nên phải lệ thuộc vào chuyện ngụ ngôn. Cho nên
chuyện ngụ ngôn tràn lan trong sách giáo khoa Tiếng Việt 1.
Dạy người thì phải đưa người ra làm đề tài để
dạy. Dạy người mà lấy thú ra làm đề tài dạy là “vi phạm tiên đề”. Dạy người mà
ít hình người, toàn hình thú thì trong đầu chỉ nghĩ về thú. Chuyện ngụ ngôn lại
nặng về tiểu xảo, liên quan đến điều tốt lẫn thói hư tật xấu, thành ra các yếu
tố xấu sẽ ảnh hưởng tiêu cực lên trẻ em.
Bộ não của Trẻ em lớp 1 hoàn toàn mới mẻ. Nên
phải dạy các em những điều trượng nghĩa, làm những việc cái thế, chứ không dạy
tiểu xảo, thói hư tật xấu. Tâm hồn các em thơ ngây thánh thiện, nên phải chú
trọng dạy việc thiện, chứ không dạy điều ác. Điều tốt nhanh quên, điều xấu nhớ
lâu.
4. SỬA VĂN CỦA
NGƯỜI KHÁC VÀ TỰ ĐƯA VĂN CỦA MÌNH VÀO SÁCH GIÁO KHOA
Sửa văn của người khác là đại kỵ. Càng không bao
giờ được đặt bút sửa văn của các văn hào. Không phải các văn hào không có lỗi.
Nhưng sửa văn của văn hào phải là những người đủ trí tuệ tương đương. Người
thường tuyệt nhiên tránh.
Để tránh bị phê phán, các tác giả chọn truyện
ngụ ngôn của các nhà văn nước ngoài. Nhưng chuyện ngụ ngôn nước ngoài không phù
hợp cho nội dung dạy viết và đọc, nên các tác giả phải gọt đẽo. Và phạm vào đại
kỵ. Làm hỏng cả truyện của các văn hào.
Cả sách giáo khoa Tiếng Việt 1 của Cánh Diều lẫn
sách giáo khoa Tiếng Việt 1của ‘Kết nối trí thức với cuộc sống’ đều có nhiều
văn tự viết của tác giả, cũng như những đoạn văn không xứng đáng được đưa vào
sách giáo khoa lớp 1. Không tiện dẫn thí dụ cụ thể ra đây, vì làm bài viết quá
dài.
Có biết bao nhiêu bài thơ hay, có biết bao nhiêu
áng văn đẹp, có bao nhiêu câu chuyện thành điển tích mà không đưa vào sách giáo
khoa, sao phải dùng đến văn của các tác giả soạn sách giáo khoa làm bài học?
Phải có cách để cấm tuyệt đối các tác giả không được đưa những đoạn văn hay câu
chuyện tự sáng tác của mình vào sách giáo khoa.
5. XU HƯỚNG LẠM
DỤNG CÁCH CHỌN TRẮC NGHIỆM
Từ mấy năm nay, cách thi trắc nghiệm đã ảnh
hưởng sang cả môn văn. Một bài thơ, bài văn, một bức tranh có muôn vàn tư
tưởng. Có những tư tưởng người đọc người xem thấy, mà tác giả không thấy. Đó là
sự mầu nhiệm của văn thơ nghệ thuật.
Nay cách chọn trắc nghiệm lại xâm chiếm tràn
ngập sang môn văn, và sang cả dạy viết và đọc ở lớp 1. Bắt đánh dấu vào các ô
tương thích với ý của các đoạn văn là điều không khuyến khích trong dạy văn. Đó
là bắt đầu gò bó trí tuệ sáng tạo của trẻ em đi vào tiểu tiết, đi vào cụ thể,
của tác giả , của giáo viên, rồi bắt các em xa lánh trí tưởng tượng phóng
khoáng của các em. Trẻ em có thể tưởng tượng ra những điều kỳ thú ngoài bài
viết. Đó mới là nguồn cơn của sáng tạo.
Không phải cứ tác giả bài viết là có tầm nhìn
đại bàng. Không phải cứ giáo viên là có tầm nhìn đại bàng. Trong số các em thơ
tuổi lớp 1 có các em có tầm nhìn đại bàng. Không gò ép tầm nhìn đại bàng vào
tầm nhìn của các loài chim khác.
Liệt kê ra các sai lầm trên đây là để tránh nó
trong tương lai.
III. ĐÔI ĐIỀU VỀ SÁCH TOÁN LỚP 1
Xem qua sách Tiếng Việt 1, thuận tay cầm đến
sách Toán 1. Giật mình sửng sốt.
Chỉ có 10 con số, từ số 0 cho đến số 9 mà có thể
biểu diễn bất cứ con số lớn ngàn vạn ức tỷ nào. Và với các phép cộng trừ nhân
chia thì thế giới các con số biến hoá khôn lường. Sự mầu nhiệm của toán học nằm
trong sự tối giản và phép biến hoá.
Thế mà sách giáo khoa Toán 1 đang đi lệch hướng
tối giản và hiệu quả của toán học.
1. MẤT QUÁ NHIỀU
GIẤY TỜ CHO MỘT NỘI DUNG NHỎ
Chỉ dạy các số từ 0 đến 9 và phép cộng trừ đến
100, người nghèo ngày xưa dùng mấy nét vẽ, xoá đi xoá lại trên cát, người nghèo
gần đây, cần vài chục trang giấy với mươi buổi học. Còn sách giáo khoa Toán 1
mới thì sao?
Toán 1 bộ sách ‘Cánh Diều ’ dày 172 trang với cơ
man rừng rừng các hình vẽ. Ngoài ra, còn có sách ‘Bài tập Toán 1’ “Bài tập Toán
2’ dày cũng tương tự. Còn nữa, 1 tập 36 bài phiếu thực hành cuối tuần.
Toán 1 của bộ sách ‘Kết nối trí thức với cuộc
sống’ thì chia thành 2 tập, tập 1 dày 114 trang, tập 2 dày 106 trang, tổng thể
là 220 trang. Chưa nói đến sách bài tập và bổ trợ.
Chỉ xem ngày giờ, tìm hiểu độ dài, làm quen các
hình và dạy cộng trừ đến số 100 mà trình bày đến 200 trang sách. Quả là giàu có
về giấy vở và thời gian cho một nội dung bé xíu.
Có người biện hộ, sách bài tập, sách bổ trợ
không ai bắt buộc mua. Nhưng tính thi đua của các bậc cha mẹ - không để cho con
bị thua thiệt, mong cho con mình hơn người - sẽ thôi thúc các bậc phụ huynh mua
sách, nhịn ăn nhịn mặc để cho con không thua kém bè bạn.
2. THỰC HÀNH BÀI
TẬP NHIỀU QUÁ MỨC CẦN THIẾT
Hết thảy các con số từ 1-100 đều phải thực hành
các phép cộng trừ với cơ man nào là hình vẽ. Trong sách đã nhan nhản các bài
tập, lại còn bài tập thêm về nhà, còn cả phiếu thực hành cuối tuần. Đó là sự
thực hành quá mức cần thiết. Nếu phải thực hành hết các phép tính trong sách
giáo khoa và trong sách bài tập thì đúng là “bỏ tù các em trong bài tập toán”.
Không có nhà toán học vĩ đại nào trên thế giới,
ở tuổi thơ tương ứng, phải làm nhiều phép tính cộng trừ dưới 100 như các em học
sinh Việt Nam phải học sách Toán 1 năm nay. Phép cộng trừ dưới 100 không làm
nên Acsimet.
3. SỬ DỤNG QUÁ
NHIỀU HÌNH ẢNH MÀU MÈ
Ai cũng biết trẻ em thích hình ảnh và màu sắc.
Nhưng con số nào cung bằng hình ảnh, phép tính nào cũng bằng màu sắc thì dẫn
đến loạn thị. Phép tính giản đơn đang biến thành phép tính rối màu. Đó là sự
lạm dụng màu sắc. Đúng là vẽ ra mà dạy!
4. KÉO DÀI QUÁ
TRÌNH TIẾP THU TRI THỨC
Như đã nói ở trên, học xem ngày giờ, làm quen
với độ dài và hình vẽ, học phép cộng trừ cho đến 100 - không cần đến nhiều
trang sách, nhiều bài tập, và nhiều hình vẽ như trong sách Toán 1.
Người viết sách giỏi là viết dễ hiểu hơn, viết
ngắn hơn người viết trước, chứ không phải viết dài hơn, nhiều hình vẽ hơn,
nhiều màu sắc hơn, rối rắm hơn người viết trước.
Nhưng nguy hại của viết dài, rối rắm nằm ở điểm
khác. Đó là kéo dài quãng đường tiếp nhận tri thức. Nó đi ngược với bản chất
toán học.
Điều may mắn của bạn khi được học với thầy giỏi
là thầy đưa điều phức tạp về đơn giản, thầy diễn giải cái khó hiểu thành cái dễ
hiểu, thầy cho bạn con đường ngắn nhất đến tri thức. Bạn thật không may mắn khi
gặp người thầy làm điều ngược lại.
Với đà này thì Toán 2, Toán 3… Toán 12 sẽ thế
nào đây? Học thì phải mua sách, phải trả học phí. Sách in càng dày càng đẹp thì
càng nhiều tiền. Người nghèo sẽ ra sao đây?
Đừng khoác áo các lý thuyết cao siêu. Đơn giản
chỉ có 2 phép tính cộng trừ. Đừng vin vào hình ảnh đẹp và sách in đẹp bắt mắt.
Các bậc phụ huynh và trẻ em sẽ thích điều đó. Nhưng sự tiến bộ của công nghệ in
ấn về hình thức không phải là lý do để làm quanh co nội dung. Sự yêu thích màu mè
và hình khối của trẻ em không thể là lý do kéo dài hành trình tiếp nhận kiến
thức. Nếu các phụ huynh biết rằng, chỉ cần không đầy một nửa thời gian của 105
tiết học, con của họ vẫn thông thạo phép tính cộng trừ đến số 100, nếu phụ
huynh biết rằng, chẳng cần phải ngàn hình vẽ màu mè, chỉ mươi trang sách giản
đơn, con của họ vẫn thông thạo phép tính cộng trừ đến số 100, thì họ sẽ nhận ra
rằng con họ đã học toán ngược với bản chất của toán học là tối giản và hiệu
quả.
5. HOANG PHÍ BỘ
NHỚ TRẺ EM
Các tác giả soạn sách giáo khoa Toán 1 vì muốn
cung cấp cho học sinh nhiều thí dụ, với những hình vẽ nhiều màu sắc hấp dẫn
tuổi thơ, mà vô tình đã phạm sai lầm là đã hoang phí bộ nhớ và thời gian của
trẻ nhỏ.
Bộ nhớ của mỗi người có hạn. Chứa điều này thì
thôi chứa điều khác. Bộ óc của trẻ em lớp 1 còn trắng tinh, thông tin lần đầu
sẽ được lưu giữ khó quên. Nên phải đưa những thông tin quý, cần thiết, nhớ mãi
cả cuộc đời vào bộ nhớ của các em. Nhưng các nhà soạn sách giáo khoa Toán 1 đưa
cả hàng ngàn hình vẽ với nhiều màu sắc của cả 200 trang sách, chỉ để dạy phép
cộng trừ cho đến số 100, trải dài trong suốt 105 tiết học, không tính thời gian
làm bài tập thêm ở nhà, hỏi có phí phạm bộ nhớ và thời gian của các em không?
Hỏi có bao nhiêu hình vẽ đó hữu ích cho cuộc đời sau này của các em? Hỏi sau 50
năm có bao nhiêu hình vẽ đó còn lưu giữ trong trí nhớ của các em? Những bức
tranh vô thưởng vô phạt đó không thể lưu giữ trong trí nhớ của các em, vì nó
phải nhường chỗ để lưu giữ thông tin hữu ích khác.
Cũng là trí nhớ tinh khôi của em bé 6 tuổi, chân
trần, lưng trần, đầu trần - ngó lên bầu trời sao. Em bé 6 tuổi đó biết tìm sao
Bắc cực để xác định hướng đi trong đêm. Em biết sao Hôm sao Mai để xác định
thời gian. Em biết các chùm Đại hùng tinh, Tiểu hùng tinh, Thần nông, Kim Ngưu,
Tua Rua, Ngưu Lang, Chức Nữ… Em nhìn lên sao mà biết thời tiết. Những chùm sao
thức dậy trong em sự tò mò về vũ trụ bao la, không bao giờ bị xoá khỏi trí nhớ
em cho đến cuối cuộc đời. Đó là những lưu giữ đầu đời quý giá.
Phải biết quý trọng mỗi micron thể tích bộ nhớ
tinh khôi của trẻ em. Không thể đưa vào bộ nhớ của các em hàng ngàn hình ảnh
màu mè rồi phải xoá. Không thể bắt bộ nhớ của các em phải lặp đi lặp lại những
phép tính thường nhật nhàm chán - cộng trừ của tất cả các số từ số 1 cho đến số
100, những phép tính mà toán học đã chỉ ra, là chỉ cần làm thí dụ và suy ra,
chứ không phải thực hành tất cả. Thực hành sao hết vô tận các số. Phải dành
thời gian và trí não của các em cho tiếp nhận và lưu giữ những tri thức quý giá
khác.
6. QUÁ NHIỀU TÁC
GIẢ
Một điều sửng sốt khác, là để viết sách Toán lớp
1 dạy 2 phép toán cộng trừ đến số 100, thì sách Toán 1 của ‘Cánh Diều ’ có 5
tác giả và Toán 1 của ‘Kết nối trí thức với cuộc sống’ có đến 6 tác giả. Thậm
chí Toán 1 để cho giáo viên của ‘Kết nối trí thức với cuộc sống’ dày 118 trang
nhưng có đến 7 tác giả. Dạy cho học trò xem ngày giờ, dạy cho học trò cộng trừ
cho đến số 100 mà phải viết sách riêng để dạy cho giáo viên!
Sách giáo khoa Toán lớp 1 lần này gọi nhớ lại
thời sinh viên, khi học đại học ở Liên Xô. Thuở đó được học giáo trình kinh
điển ‘Giáo trình phép tính vi phân và tích phân’(Курс дифференциального и
интегрального исчисления) gồm 3 tập khoảng 2000 trang của GS Fichtengolz
(фихтенгольц) – chi duy nhất một người viết. Và dạy cho sinh viên năm thứ nhất
là các thầy giáo đầu ngành, lâu năm, giỏi nhất.
Chừng nào mà sách giáo khoa còn được viết bới
một lô ‘xắc xông’ các tác giả 5 - 7 người như hiện nay, thì chừng đó đừng mong
có được bộ sách giáo khoa xuất sắc. Và chừng nào còn đếm trang để tính kinh phí
thì sách giáo khoa còn bị tiếp tục vẽ rồng vẽ rắn.
Nếu bất bình thì xin hỏi, ở cơ chế của các nước
Âu - Mỹ, các tác giả hiện đang viết sách giáo khoa có viết sách giáo khoa cùng
nhau một tập thể như thế này không? Có bán được sách giáo khoa như thế này
không?
Tiếp nhận sự chỉ trích là một đẳng cấp. Chỉ những
nhân cách lớn mới biết chấp nhận và tận dụng được chỉ trích.
IV. TẠI SAO LẠI XẨY RA TÌNH TRẠNG NHƯ VẬY?
TẠI CƠ CHẾ.
Cơ chế đẻ ra con người như vậy. Cơ chế đẻ ra dự
án như vậy. Con người và dự án đẻ ra bộ sách giáo khoa như vậy.
V. AI CÓ LỖI LỚN NHẤT?
Các tác giả sách giáo khoa không thể chối bỏ
trách nhiệm về các lỗi nghiêm trọng của sách giáo khoa. Nhưng họ không phải là
người có lỗi duy nhất.
Trách nhiệm lớn hơn thuộc về ông Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo. Trách nhiệm lớn không kém thuộc về ông Phó Thủ tướng phụ trách
ngành giáo dục. Và còn trách nhiệm của những người khác nữa.
VI. ĐỀ XUẤT
Bộ Giáo dục và Đào tạo cần thay đổi quy trình
viết sách giáo khoa hiện nay, khởi đầu lại một giai đoạn mới bằng một quy trình
khác. Đừng sợ bị chê là thất bại.
Trong hoàn cảnh hiện nay, chưa thể chống được
lợi ích nhóm, thì chỉ cần 2 -3 bộ sách giáo khoa. Càng nhiều bộ sách giáo khoa
càng phí phạm thêm tiền bạc của nhân dân, mà chưa nâng cao được chất lượng.
Phải cách mạng cách lựa chọn tác giả viết sách
giáo khoa. Phải thay đổi cơ chế viết sách giáo khoa. Phải bắt buộc thực nghiệm
trước khi đưa vào sử dụng.
2 -3 bộ sách giáo khoa cũng có tính cạnh tranh -
tuỳ thuộc vào cơ chế chọn lựa tác giả viết sách như thế nào. Mỹ chỉ có 2 ứng
viên cho chức tổng thống mà không ai có thể chê bai về tính cạnh tranh và chất
lượng các ứng viên.
Đây là thời điểm cần quyết định từ cấp trên của
Bộ Giáo dục và Đào tạo. Giáo dục quan trọng đến mức từ thường dân cho đến người
đứng đầu quốc gia - đều không thể ngủ.
*
NGUYỄN NGỌC CHU
Địa chỉ: Viện Toán Học-A5/18 Hoàng Quốc Việt
quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
.
......................................................................................................
- Cập nhật từ email:
datinh_1974@yahoo.com ngày 16.10.2020
- Bài viết không thể hiện quan
điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét