tập truyện ngắn: CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ - Nhiều Tác Giả

Leave a Comment

CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ

(tập truyện ngắn của nhiều tác giả)

*

LỜI GIỚI THIỆU

 

Với những câu chuyện vừa hài vừa bi, tập truyện ngắn CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ do Nhà xuất bản Thanh Hóa và Công ty Văn hóa Bảo Thắng liên kết xuất bản là một tập truyện về những mảnh đời gập ghềnh, chao đảo của những số phận con người trong xã hội hiện đại. Họ có thể là doanh nhân, là sinh viên, là nhà văn, nhà báo,.... tất cả đều có phận đời và hoàn cảnh éo le, không may mắn khiến họ phải vật lộn để mưu sinh có khi dẫn đến phạm tội. Song, tất cả vẫn đọng lại trong họ một chữ nhân, một tấm lòng với con người và niềm tin yêu khát khao với cuộc sống.

CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ là tập truyện của những câu chuyện đa sắc màu về tình yêu. Có thể đó là chuyện tình yêu của những người cùng giới đang vô cùng lúng túng và bế tắc do vẫn còn bị xã hội kỳ thị vì những khắt khe của văn hóa truyền thống bao đời; có thể đó là tình yêu thông thường giữa trai với gái, của những người khác giới. Nhưng dù đó là tình yêu với người cùng giới hay với người khác giới thì những câu chuyện tình của họ đều rung lên những nhịp đập tha thiết, nồng nàn và chân thành của trái tim, đều đáng được xã hội trân trọng.

Chỉ là những câu chuyện “vớ vẩn” trong xã hội hàng ngày thôi nhưng những truyện ngắn trong tập sách này đã khắc họa được những thân phận con người nhiều khi bị lãng quên trong xã hội mà ít người nhận ra điểm sáng trong tâm hồn họ.

Hãy biết cảm thông, chia sẻ với những người sống quanh ta, cho dù họ là ai. Đó là thông điệp gửi đến bạn đọc gần xa.

*.

NHÀ XUẤT BẢN THANH HÓA

 

NGOẠI HÌNH DỄ NHÌN

(Tác giả: Hoàng Hương)

 

Cầm một xấp các thông báo tuyển dụng, Cát Khuê, cô bạn tôi nhăn nhó tội nghiệp, nói như muốn khóc:

- Xem đi, tất cả các điều kiện, nào vi tính, ngoại ngữ, bằng cử nhân, cái nào cũng vượt chuẩn, nhưng khi vào phỏng vấn thì... “ngoại hình dễ nhìn”, mình trượt dài dài. Chẳng lẽ xấu là chịu thiệt thòi vậy sao? Điều này không biết khi nào mới tìm được việc làm đỡ tủi hổ với đời, báo hiếu cha mẹ...

Nói xong, Khuê ngồi thần ra lẩm bẩm: Ngoại hình dễ nhìn... Tại sao?

Chúng tôi cùng học một lớp ở trường đại học, Khuê được nhiều người ngưỡng mộ vì trong suốt những năm học ở trường toàn đứng nhất khoa, chỉ hiềm một nỗi Khuê không phải là người con gái dễ nhìn, dù tính tình nhu mì hiền hậu tốt bụng. Khuê thông minh, có lẽ do ông trời bù đắp cho việc thiếu nhan sắc. Bạn bè trong lớp quý mến Khuê, nhưng hình như ai cũng ngại, ít khi nào rủ đi chơi cùng. Mấy năm học đại học, không ít lần Khuê buồn khi những cuộc giao lưu, hội khoa, hội trường, chẳng có ai đến bắt chuyện làm quen. Đôi lần tủi thân, Khuê bỏ về phòng ký túc, hoặc tìm cớ tránh những cuộc hội hè gặp gỡ đó. Dần dần, Khuê như một kẻ độc hành trên đường học vấn với các danh hiệu thủ khoa, xuất sắc, tài năng... và gần như không có mối quan hệ thân tình nào ngoài các bạn cùng lớp. Khuê không còn để ý đến chuyện nhan sắc của mình. Khuê cũng chỉ cười thầm khi ở xung quanh cô mọi người bình phẩm này nọ. Duy nhất có tôi, là Khuê cởi mở thân thiện, có lẽ tôi cũng là một người con gái ngoại hình vừa phải, không bắt mắt, luôn chịu khó ở bên Khuê chuyện trò. Khuê hay tìm tôi mỗi khi gặp điều gì đó cần chia sẻ.  

Tốt nghiệp đại học, chúng tôi đứa nào cũng lao đầu vào kiếm việc làm, và như phép mầu thần kỳ hay do chính ngành học của chúng tôi đang là thời thượng, “hút hàng”, mà không bao lâu sau gần như đa số chúng tôi đều có nơi có chốn, nơi “ngon”, nơi ít “ngon” hay không “ngon” lắm, nhưng tạm thời ổn định, không phải long đong vất vả. Tôi may mắn có người thân làm quan chức trong một bộ nên cũng dễ dàng vượt qua kỳ thi tuyển để trở thành công chức nhà nước, thế là vui quá rồi.

Còn Khuê, cô bạn thời sinh viên của tôi, đang đau khổ vì cái gọi là “ngoại hình dễ nhìn”, chướng ngại vật tưởng nhỏ nhưng thật sự là một bức tường thành chắc chắn khó có thể vượt qua trong cửa ải tìm kiếm việc làm, chưa nói đến chuyện tìm kiếm một cuộc hẹn hò tình yêu.

Khuê kể tôi nghe trong sự ấm ức tức tưởi về những lần đi xin việc, hy vọng rồi thất vọng. Nhiều lần như thế, Khuê nghi ngờ về chính mình có gì đó không ổn. Khuê tìm đến trung tâm tư vấn tìm việc cho sinh viên ra trường. Chị thư ký ở văn phòng sau khi nghe Khuê trình bày nguyện vọng, xem các văn bằng của Khuê, vỗ vai Khuê nói chân tình: “Chị biết em là một người có khả năng, có thể rất giỏi, thích hợp cho rất nhiều vị trí ở các công ty lớn, nhưng có một điều chị nói thật - ngoại hình của em là cản trở lớn và duy nhất để em khó tìm việc”. Khuê không tin, không lẽ “ngoại hình dễ nhìn” quan trọng hơn cả khả năng trình độ. Khuê không nản lòng. Để có thể tiếp tục chờ đợi xin được nơi làm việc hợp với chuyên môn đã học, Khuê tạm thời làm gia sư cho mấy đứa trẻ lớp 8, 9 con nhà khá giả. Dạy được vài tháng, không hiểu sao, cha mẹ mấy đứa trẻ trả Khuê thêm 2 tháng tiền công và lịch sự từ chối không để Khuê dạy nữa. Khuê không biết vì sao nhưng khi chào bà giúp việc nấu ăn, cô nghe bà nói: “Cô giáo đừng buồn, bà chủ không nói gì nhưng bọn trẻ bảo không thích học cô vì cô giáo xấu quá, học không vào”. Khuê nhói lòng... Đến trẻ con còn nói thế... Khuê cay đắng cả cõi lòng. “Ngoại hình dễ nhìn” như một ám ảnh và như cơn ác mộng, thậm chí như một ác quỷ kìm hãm giết chết những hy vọng trong Khuê. Khuê không trách hờn cha mẹ sinh ra cô, không được xinh đẹp như người khác. Cô chỉ hận người đời tại sao lại quan trọng cái vẻ ngoài đến thế. Những câu nói từ xưa đến nay không lẽ mất ý nghĩa “cái nết đánh chết cái đẹp”, “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”... Buồn rũ người một thời gian, Khuê suy nghĩ... “Ngoại hình dễ nhìn”... Đã thế... Cô quyết tâm phải làm sao cho được như chính cái tên Cát Khuê mà cha mẹ khi sinh ra đặt cho cô, gửi gắm một kỳ vọng tương lai sáng ngời... Khuê nắm chặt tay tôi, lắc mạnh, mắt long lanh sáng rỡ, nói như lên đồng:

- Bọn mình phải đầu tư vào ngoại hình, đầu tư như người ta bỏ vốn kinh doanh. Phải đi chỉnh sửa thẩm mỹ, phải chưng diện đúng mốt, phải đẹp như diễn viên người mẫu, phải làm cho đàn ông quỵ lụy quỳ gối trước mình, phải làm các ông chủ tranh nhau có được mình làm nhân viên... Phải cho ít nhất một tên đàn ông đau khổ vì không yêu được mình... Phải... Phải...

Tôi là người nhát gan, thích sự yên bình, và bởi vì tôi chưa phải gặp hoàn cảnh trớ trêu buồn thảm như Khuê, nhưng tôi chia sẻ những bức xúc của Khuê và đồng tình với cách nghĩ của cô. Chúng tôi bàn ngay việc thực hiện. Tôi, không ai khác sẽ giúp đỡ Khuê cả tinh thần, vật chất cho công cuộc chỉnh sửa thẩm mỹ ngoại hình. Tôi đưa Khuê hết số tiền tiết kiệm trong 2 năm làm việc, đủ để chi dùng cho “dự án” của Khuê. Tôi không nghĩ đơn thuần giúp Khuê, mà còn muốn qua “dự án” này thử nghiệm cái gọi là “ngoại hình dễ nhìn” nó sẽ thay đổi như thế nào số phận cuộc đời của cô bạn mình và tôi không hiểu mình nghĩ thế có đúng không...

Cuộc chỉnh sửa bắt đầu, tôi còn hồi hộp hơn cả Khuê, bận rộn chạy đi chạy về, tới lui chăm sóc Khuê những ngày phải nằm ở thẩm mỹ viện. Sau ba tháng cực hình của Khuê, vất vả của tôi là một Khuê có gương mặt đẹp hoàn hảo. Khuê ôm chầm lấy tôi khóc nghẹn ngào: “Cảm ơn... cảm ơn...”, còn tôi ngây ngất ngắm Khuê như ngắm công trình của chính mình tạo ra trong niềm vui khó tả.

Không lâu sau, Khuê chạy tới tôi, hào hứng kể: “Có nơi mình đến phỏng vấn, họ không hỏi về chuyên môn, chỉ nhìn rồi cười hỏi vớ vẩn mấy câu, xong gật đầu OK liền. Nhưng có tới mấy nơi nhận nên tha hồ lựa chọn... Ngoại hình dễ nhìn có khác!”. Mấy tháng sau, Khuê lại gặp tôi hớn hở: “Mình bỏ chỗ cũ rồi, lương ít quá mà lại làm việc nhiều. Mình vừa được tuyển vào làm PR - giao tiếp công cộng của một liên doanh nước ngoài, lương tính bằng đô la, lên xe xuống ngựa, lắm kẻ săn đón...”. Tôi mừng cho Khuê.

Được nửa năm, Khuê rủ tôi đi ăn, lần này Khuê trịnh trọng đưa trả tôi số tiền giúp Khuê ngày trước, Khuê khuyên tôi bắt chước cô. Khuê còn nói nếu tôi đồng ý, Khuê đưa tôi đi nước ngoài làm còn đẹp hơn nữa... Tôi lắc đầu: “Ừ để sau này tính, chưa vội”. Khuê lại khoe: “Bây giờ mình sang liên doanh khác làm rồi, chỗ cũ ông sếp không biết ga lăng chán chết, lại già xấu, chỗ mới này lương cao hơn, sếp trẻ chịu chơi, mình hay được mời đi ăn cùng”. Sau đó Khuê còn nhiều lần chạy tới tôi, mỗi lần là một thay đổi chỗ làm, chỗ sau “ngon” hơn chỗ trước, vì thật sự Khuê là người có năng lực không chỉ “ngoại hình dễ nhìn” nên các ông chủ thích mẫu nhân viên như vậy, Khuê ngày một thăng tiến.

Nhưng có lần Khuê buồn buồn kể tôi nghe: Làm việc lương cao được sếp quý mến nhưng phiền phức lắm. Ngày trước xấu xí chẳng ma nào thèm nhìn, nay người này người kia theo đuổi, có người lương thiện, có kẻ lợi dụng với ý đồ xấu, cứ phải tránh như tránh dịch bệnh. Đã thế đồng nghiệp nữ lại ghen tuông khi thấy các sếp có cảm tình với Khuê. Họ không nghĩ là Khuê làm được việc có lợi cho công ty, chỉ nghĩ Khuê có “ngoại hình dễ nhìn” nên quyến rũ mê hoặc các sếp... Mỗi lần đi công tác cùng sếp là Khuê căng thẳng như sắp vào phòng thi chỉ sợ điều tiếng gì xảy ra... Và rồi nếu ai tới với Khuê, cô lại sợ không biết họ yêu tài năng trí tuệ con người mình, hay chỉ vì cái “ngoại hình dễ nhìn”... Khuê cảm giác như Khuê không thể yêu được, dù nhiều khi cũng muốn có tình yêu chân thật của người nào đó, nhưng ám ảnh về “ngoại hình dễ nhìn” còn làm Khuê nghi ngờ. Khuê lại lao vào kiếm tiền, với trái tim không biết rung động với ai. Vết thương thời sinh viên làm Khuê không thể quên được, những lần tủi thân một mình ở phòng ký túc trong lúc bạn bè đi vui chơi, chỉ vì Khuê xấu xí.

Bẵng đi một thời gian, tôi không gặp Khuê, nghĩ mọi việc chắc cũng ổn, vì có gì là Khuê đến tôi rồi. Vào một chiều gần tan giờ làm thì Khuê điện hẹn gặp, nghe giọng Khuê là lạ, tôi gặng hỏi nhưng Khuê bảo cứ gặp nhau rồi biết. Chúng tôi hẹn nhau ở quán cà phê quen thuộc, kín đáo và ấm cúng tha hồ nói chuyện không sợ bị làm phiền. Đã lâu không gặp, tôi và Khuê tíu tít hỏi thăm nhau. Rồi Khuê nhìn tôi lắc đầu: “Chán chết, vẫn cứ mộc mạc thế này ma nào ngó, nên đi về một mình phải lắm. Cô phải thay đổi tư duy đi. Bắt chước Khuê này, có đủ thứ mình muốn, đàn ông theo cả đàn tha hồ chọn...”. Tôi nhìn Khuê trầm trồ: “Đẹp quá, đàn bà còn mê nữa là đàn ông. Mà này đã có mối tình nào chưa, ưng ý ai chưa?”. Khuê cười thật hồn nhiên: “Có chuyện này buồn cười lắm, không kể mà để bụng thì chết mất, mà chỉ có kể được ở đây thôi”. “Nào kể đi”. Tôi nhiệt tình giục và hào hứng ngồi nghe.

Khuê sau mấy lần đổi công ty, không phải vì chỗ làm không tốt mà vì chính “ngoại hình dễ nhìn” gây phiền phức cho Khuê quá nhiều, cả về phía chủ lẫn nhân viên đồng nghiệp. Khuê tìm tới một công ty có lời thông báo tuyển nhân viên không có dòng chữ “ngoại hình dễ nhìn”. Khuê nộp hồ sơ và được gọi phỏng vấn rất nhanh không phải đợi lâu. Ngày phỏng vấn, Khuê cố tình ăn mặc giản đơn, song cũng hơi hồi hộp. Bước vào phòng tuyển dụng, một cái bàn dài có 4 người, 2 nam, 2 nữ, 2 nam còn trẻ chừng hơn Khuê vài tuổi, đẹp như diễn viên điện ảnh, 2 nữ thì, Khuê nghĩ ngày xưa thời chưa thẩm mỹ viện chắc mình cũng thế. Người nam ngồi đầu bàn lên tiếng: “Tôi là giám đốc công ty, trực tiếp phỏng vấn...”. Sau khi hỏi Khuê ba câu về chuyên môn, giám đốc mặt lạnh băng nói gọn: “Cô được tuyển dụng, sáng mai tới phòng nhân sự nhận việc” và ra dấu Khuê đi ra.

Những ngày đầu làm việc, Khuê hơi lạ về thái độ của vị giám đốc trẻ, không khi nào nhìn Khuê mỗi khi Khuê vào phòng trình tài liệu, cứ cắm cúi xem, viết gì đó, chỉ ra dấu tay cho Khuê để tài liệu trên bàn và đi ra. Khuê hơi tự ái, mình đẹp thế này, bao nhiêu người ở công ty cả nam lẫn nữ đều khen, nhiều đồng nghiệp nam có ý hẹn hò ăn uống với Khuê, thế mà một câu nói, một cái nhìn của giám đốc không hề có. Khuê tò mò tìm hiểu...

Càng tìm hiểu, Khuê càng thấy đây chính là mẫu người đàn ông mà Khuê mơ ước. Một người đàn ông giỏi giang thành đạt, độc thân nhưng không thấy bồ bịch chơi bời, người đàn ông đứng đắn. Khuê cũng thấy ở công ty, nam nhân viên nhiều hơn nữ, và các nữ nhân viên thì hình như mỗi Khuê là ngoại lệ, họ đều không có “ngoại hình dễ nhìn”. Khuê chưa hề yêu ai, dù có khá nhiều người ngỏ lời, trái tim Khuê luôn nghi ngờ và chưa lành vết thương thời sinh viên. Khuê biết vì Khuê đẹp nên đàn ông thích Khuê, chứ không phải vì Khuê giỏi, nên Khuê càng giữ gìn. Khuê muốn một người đàn ông yêu Khuê không phải vì bên ngoài. Vẻ bề ngoài của Khuê là sự giả tạo, là do thẩm mỹ viện mà có. Một người đàn ông yêu Khuê, con người của Khuê. Chính sự lạnh lùng thờ ơ của vị giám đốc trẻ đã làm cho tim Khuê rung lên những cảm xúc khó tả. Khuê thầm yêu anh ta lúc nào không rõ, âm thầm lặng lẽ hướng về anh ta, và cũng âm thầm ấm ức bởi sự lạnh nhạt vô tình của vị giám đốc trẻ. Khuê chỉ có thể chứng tỏ mình bằng cách làm việc, đem hết khả năng của mình để mang lợi nhuận về công ty nhằm cho giám đốc chú ý, nhưng Khuê chỉ luôn nhận được những bao thư trong đó là phiếu lĩnh tiền thưởng có chữ ký vô cảm của giám đốc mỗi khi hoàn thành công việc. Khuê cứ như người mắc bệnh tương tư, yêu đơn phương đến đau đớn nhói buốt trong tim, Khuê tìm cách tiếp cận giám đốc, chưng diện trang điểm thật đẹp cũng không ăn thua... Và một hôm, ma xui quỷ khiến thế nào, Khuê đi như mộng du lên phòng giám đốc dù chẳng có ai gọi hay có việc gì. Đến trước cửa phòng, cánh cửa khép hờ, Khuê định vào gặp giám đốc và nói hết tình cảm của mình rồi sau đó có ra sao thì ra..., chợt Khuê sững người, trong phòng giám đốc có tiếng động lạ, tiếng người rì rầm, tiếng thở..., Khuê đẩy nhẹ cửa và sửng sốt không tin vào mắt mình, trên chiếc ghế nệm tiếp khách, giám đốc và trợ lý nam đang ôm nhau, cuộn vào nhau, áo quần xộc xệch. Họ say sưa đắm đuối không còn biết gì đến xung quanh... Và như có một dòng nước lạnh ngắt dội vào đầu Khuê, Khuê bừng tỉnh. Thảo nào giám đốc không cần tuyển nữ nhân viên “ngoại hình dễ nhìn”, giám đốc không thích Khuê. Khuê đã chạy như bay về phòng mình và ngồi cười đến chảy nước mắt.

Nghe xong, tôi cũng ôm lấy Khuê mà phá lên cười.

 

TÌNH QUA TIN NHẮN

(Tác giả: Trung Cương)

 

Tôi nghĩ hắn là đàn ông. Còn hắn đoán tôi là phụ nữ. Mọi chuyện rất đơn giản, kể từ khi tôi quen hắn. Rất ngẫu nhiên bằng một tin nhắn. Dĩ nhiên là từ phía hắn, vì tôi không thích mấy cái trò nhăng nhít này. Ấy thế mà tôi lại quen hắn, đến nay là 3 tháng. Thế mới lạ! Và càng lạ hơn nữa khi tôi với hắn không hề biết mặt nhau.

Hắn giới thiệu hắn là nhà báo nửa mùa (đơn giản là viết để kiếm sống, nhưng không được danh chính ngôn thuận cho lắm, vì không có tòa soạn nào nhận hắn). Hắn mới ra trường, làm việc được sáu tháng, gặp ông sếp ngụy quân tử, thế là hắn bỏ việc và trở thành “ký giả tự do”, như tin hắn nhắn. Ừ! Tôi cũng gặp nhiều loại người như hắn. “Thế lấy gì sống?”- tôi hỏi - “Sự cưu mang của bè bạn”. “Đời cũng hay nhỉ?”. Hỏi cũng để mà hỏi, tôi cũng chẳng quan tâm lắm. Đời vốn phức tạp, cái gì đơn giản được cứ để cho nó đơn giản. Tôi quan niệm thế.

Tôi không cần biết hắn là ai (có lẽ hắn cũng vậy). Khi buồn, ngày hay đêm, tin nhắn của tôi đều được reply. Khi vui, hắn là người duy nhất nhận tin nhắn của tôi. Những lúc cô đơn, hắn nhắn hắn có thể giúp được tôi. Quả thật, có lần tôi khóc, dường như hắn biết được (tôi đoán thế), nhắn lại rằng: “Phụ nữ khóc ra nước mắt. Đàn ông nhỏ nước mắt gọi là khóc”. Nghe cũng triết lý nhưng khó lọt tai. “Có gì khác đâu?”. “Sao không? Nhìn đời qua khe mắt hẹp như you thì làm sao thấy được độ chênh của nó”. “Thế đã bao giờ “nhỏ nước mắt” chưa người đàn ông?”. Sự im lặng hồi lâu của phương tiện liên lạc hiện đại. “Tôi chỉ trả những gì đã từng được nhận”. “Thế trả hết chưa?”. “Có người không bao giờ muốn trả, có người muốn trả lại không được. Đời mà!”. Hắn kết thúc câu chuyện. Tôi biết thế.

Một sáng nhận tin nhắn của hắn, có nội dung: Sếp cũ gọi hắn làm việc lại, ký hợp đồng dài hạn và nhiều hứa hẹn. Hắn đếch cần, lấy lại hồ sơ, nguẩy cái mông quần bạc phếch vào cặp kiếng cận đang nhướng lên như mắt ếch của sếp, rồi biến. Thề không bao giờ quay lại nhìn cái thói đạo đức giả của những thằng luôn tỏ ra mình có hành động giống quân tử. Dòng cuối hắn nhắn: “Tưởng tượng thôi. Ngày Cá tháng tư mà!”. Bật cười. Nhưng đâu rồi lại đấy, như bao mẩu tin vặt vãnh tôi đọc hằng ngày. Nhàm chán. Đơn điệu. Không lưu nổi vào bộ nhớ của tôi.

Ngày vẫn lại là ngày. Hắn nhắn (dường như hắn buồn), hắn đã từng yêu, người ấy đã lấy chồng. “Sao vậy?”. “Không biết. Cô ấy bỏ tôi. Không. Đúng hơn tôi chia tay cô ấy”. Chuyện thường thôi. Tôi gặp đã nhiều ở ngoài đời, trong tiểu thuyết và có thể là chính tôi. “Bận tâm làm quái gì” - tôi reply lại. Hắn không trả lời. Dường như hắn giận. Mặc kệ. Đời này lắm đứa dở hơi. Nghĩ vậy nhưng thấy chạnh lòng.

Kỳ lạ. Hắn không bao giờ có ý định gặp tôi. Và tôi cũng không có ý nghĩ ấy. Lỡ ra... Rách việc. Có lần hắn giả sử: “Nếu mình gặp nhau thì sao nhỉ?”. “Chẳng sao cả. Tôi chẳng muốn gặp anh”. Hắn nhắn: Hi... Hi.

Trong những lúc buồn bực, stress, tôi vẫn thường xem hắn như một bao cát. Thình thịch nện vào đó bao bực dọc về công việc, bè bạn, tình cảm... Và tất cả những gì tôi nghĩ hắn có thể hứng chịu, như hắn đã và đang chịu sự bầm dập của thói đời. Hắn vẫn với giọng ôn hòa (có thể đang cố gắng) điềm đạm phản bác lại tôi. Quẩn quanh như đi vào ngõ cụt, tôi buông tay, mệt mỏi vớt vát: “Để rồi xem”. Có lẽ vì câu nói ấy làm cầu nối giữa tôi và hắn, cho đến bây giờ.

Hắn lại nhắn vào một sáng thứ bảy, khi tôi đang thinh lặng bên ly cà phê không đường như bao ngày cuối tuần: “Có bao giờ you nghĩ sẽ yêu một người nào đó theo đúng nghĩa đàn ông chưa?”. “Không cần biết.

Cái gì đi rồi sẽ đến. Và ngược lại”. “Thế là you đã từng yêu”. “Ai mà chẳng từng yêu. Ai chẳng từng đổ vỡ. Hạnh phúc nào cũng bềnh bồng, diệu vợi”. Tôi nghĩ thế. Hắn cười (tôi luôn tin vào những phán đoán của mình): “You có ý nghĩ lạ, không giống ai”. “Tôi sợ giống một ai đó, phiền phức lắm, sống phải cho ra mình”. Hắn nhắn hắn có nhiều việc đáng lo nghĩ. Có thể. “Nhưng nghĩ lắm mệt người” - tôi luôn đơn giản mọi vấn đề, không riêng với trường hợp của hắn. Tôi có một căn nhà để ở, một công việc để làm, không bận bịu với toan tính yêu đương. Thế thì cần gì phải nghĩ. “Biết đâu”-hắn luôn kết thúc mọi tranh cãi như thế. Biết đâu. Tôi mỉm cười lặp lại câu nói của hắn. Nghe cũng triết lý chứ nhỉ?

Ngày lại ngày. Công việc vẫn cứ là công việc. Không có sự đổi thay. Tôi với hắn vẫn nhắn tin, và theo tôi, ai cũng hiểu rằng không nên phí thời gian để gọi điện làm phiền nhau. Thế đấy. Một quy luật bất thành văn. Nó ngớ ngẩn mà vẫn tuân thủ đúng quy trình của nó. Tôi nghĩ thế. Còn hắn? Thỉnh thoảng tôi vẫn nghĩ tới, nhưng rồi cũng bật cười vì mình cũng dở hơi như hắn. Đã quy luật thì bất biến. Có quy luật nào bị phá vỡ không nhỉ? Biết đâu. Tôi mượn lời của hắn kết thúc ý nghĩ ngớ ngẩn của mình.

Có lần tôi nhắn với giọng buồn bực, khi đứa bạn thân vừa rầu rầu với câu chuyện buồn tôi kể, thoáng chốc đã cười nói như chẳng có việc gì. Tôi ngẫm tưởng, người ta vừa trút khỏi khuôn mặt cái mặt nạ đồng cảm. Và biết đâu sau cái mặt nạ đồng cảm đó...? Tôi dằn dỗi kết luận: “Mỗi người đều có những mặt nạ khác nhau. Tôi và anh cũng vậy”. Hắn không phủ nhận: “Chính đời sống làm nên những mặt nạ ấy. Con người chỉ mượn mặt nạ đa sắc thái để duy trì sự tồn tại dễ thở hơn một chút”. “Tất cả đều giả dối”- đó là chủ kiến của tôi. “Không hẳn vậy! Tính tiêu cực hay tích cực tùy thuộc nhiều góc nhìn: người đeo mặt nạ, người nhận mặt nạ, hoàn cảnh đeo-nhận v.v...”. Tôi không trả lời. Hắn lại nhắn: “ Sống ở đời cần loại suy nhiều. Đừng áp đặt những ý kiến, nghĩ suy của mình lên người khác. Khổ cho người, đau cho mình”.

*

Bẵng thời gian, tôi không nhận được tin nhắn của hắn-như một người ghiền cà phê thiếu đi dư vị đăng đắng hằng ngày. Người với người rồi cũng có lúc như dấu chấm than vô nghĩa. Tôi nghĩ thế. Đời sống vốn bắt đầu từ sự ngẫu nhiên. Ngẫu nhiên đến. Ngẫu nhiên đi. Thế thôi. Nghĩ là vậy nhưng có một khoảng trống nào đó dìu dịu trong tôi. Rất nhẹ... Rất nhẹ...

Một sáng như buổi sáng nhận được tin nhắn đầu tiên của hắn, chiếc điện thoại báo hiệu có kẻ quấy rối giấc ngủ cuối tuần. Bực dọc. Cầm điện thoại mở hộp thư đến: “Một ngày mới bắt đầu từ cái giường của mình. Chúc cuối tuần zui zẻ”. Bật cười. Vội reply. Vẫn vậy, tin nhắn của hắn vẫn sặc mùi triết lý, nhưng có vị ngô nghê. Tôi vẫn gọi đó là thứ triết lý rởm đời, triết lý của những kẻ nhìn đời bằng cách ngược xuôi giữa dòng đời hối hả, bên cạnh những bon chen, chụp giựt danh vọng, tiền tài, địa vị... mà vẫn giữ cái nhìn rất rởm. Rởm đến cho người đời chột dạ dừng lại nhìn. Nhìn người. Nhìn mình. Rồi cúi đầu bước.

Cứ thế, tôi với hắn vẫn duy trì cái quy luật như đã từng thiết lập nhưng không từng có ý định phá vỡ. Cho đến...

Một sáng như thường ngày, tin nhắn lại đến với tín hiệu thông thường: “Hôm nay 49 ngày anh Hai mất. Chị đến nhé. Có lẽ anh mong chị lắm!”.

Ngẫu nhiên. Nhưng không đơn giản.

Chưa một lần tôi nghe giọng nói của anh.

Không hiểu sao tôi òa khóc!

 

PHÍA TRƯỚC

(Tác giả: Hà Huy Tuấn)

 (Tặng một người bạn văn)

 

Bố Lâm sáng nào cũng thức dậy từ ba giờ, xắn quần nhảy vào chuồng lợn, bắt một con đã chuẩn bị từ tối qua, chọc tiết.

Chị Lâm dọn quán bán lòng lợn tiết canh. Em gái Lâm đội thúng mẹt ra chợ làng bán thịt lợn. Tầm trưa, mẹ Lâm mở hàng cơm bình dân.

Lâm học chưa xong cao đẳng sư phạm thì bỏ. Lâm bảo dạy học ở làng, chán! Mẹ dúi cho một cọc tiền, bảo đi đâu thoát được luỹ tre làng thì đi. Lâm đi ba tháng, quay về, gầy quắt, đen đúa, tiền nhẵn túi, mặc độc một bộ quần áo bẩn thỉu. Chị Lâm bĩu môi: “Mày tưởng đua tranh bên ngoài dễ lắm phỏng?”. Mẹ Lâm nạt: “Chị lo cái phận của chị ấy, khéo lại thành gái già!”. Bố Lâm nói: “Tạm đi lái heo cho bố, bố trả công xá đàng hoàng. Bao giờ lưng lửng hầu bao rồi lại đi”. Lâm nhìn mẹ. Mẹ nhìn bố. Bố quẳng cho Lâm túi đồ nghề rồi bỏ vào buồng nằm. Thỉnh thoảng trở mình, cái giường cũ cứ lay óp ép.

Chưa đầy một tháng, Lâm đã chán ngấy cái công việc nhàm tẻ này. Đôi khi giả ốm để trốn việc. Chiều chiều tha thẩn trên mấy đỉnh đồi trọc hoang vu, gió Lào thổi hơi nóng hừng hực, khô rang. Suy nghĩ mông lung. Đầu tiên là nghĩ về mình.

Ô hô, trai tráng, hề

Đá sỏi trơ cằn

Nhọc nhằn năm tháng

Gió thổi, hề

Tôi đi về

Phía biển khơi

Nơi hú gọi số phận

Tiếng hú đáp trả còn ở trong lồng ngực

Sau đó, Lâm nghĩ về điều Lâm nghĩ, thấy nó thật vô nghĩa. Lại nghĩ tiếp về ý nghĩa của điều Lâm vừa nghĩ, thấy hình như nó có một ý nghĩa mơ hồ nào đấy. Lâm về nhà, nằm vật ra phản, thở dài sườn sượt. Mẹ Lâm lo lắng định hỏi nhưng bị ánh mắt như sắt nung của chồng ngăn lại. Mẹ Lâm xuống bếp thổi cơm chiều, hì hụi mãi mà lửa không bén, khói um lên như củi ướt.

*

Lâm lên thành phố. Mấy tháng đầu sống vất vưởng. Sáng đến chiều phục dịch ở chợ, gánh nước, chùi phản thịt, căng lều bạt… Đêm về, thu lu trên cái gác xép của nhà trọ cao không quá đầu, khó ngủ. Xung quanh toàn tiếng rúc rích. Lâm lôi giấy bút ra, tính viết thư, nhưng viết xong đọc thấy giống một câu chuyện. Vài lần như thế, Lâm mạnh dạn gửi cho một số tờ báo nhỏ có trang văn nghệ. Thế là thành người viết văn. Lâm ở gần chợ ồn ào, một thời gian thấy không hợp với nghề viết nên chuyển ra ngoại thành.

Chỗ Lâm trọ mới từ làng lên phố. Trước cả làng đều trồng hoa. Nay thì làm đủ nghề. Ông bà chủ bảo, bác có đứa út đi học trong Huế bốn năm, ngôi nhà này xây để nó lấy vợ, cháu ở coi như trông nhà hộ hai bác. Nhà rộng rãi, giá rẻ, khép kín, Lâm ưng lắm. Nhưng vẫn khó ngủ. Lâm lân la quán nước dò hỏi mới biết ngôi nhà ấy năm trước có người nghiện chết vì chích quá liều. Nhà đó bốn thằng con trai, một chết hai đi tù, không ngờ lại có thằng út đỗ đại học.

Lâm về nghĩ bụng, nghiện mà chết thì càng sạch cho xã hội, can gì! Rồi lau chùi nhà cửa suốt một ngày cho láng bóng lên, xịt Comfort thơm phức. Từ đó đêm nào Lâm cũng ngủ ngon lành.

Số phận con người, trước thì ở trong bi kịch của đói nghèo, đô thị hoá bán đất làm nhà, ngỡ là mở mày mở mặt thì lại rơi vào bi kịch của nghiện hút, tù tội. Rồi người ta cũng phải thích nghi thôi, để sống.

Lâm cũng thế, không chịu nhốt mình ở xó quê thì rốt cuộc lại giam mình ở phố thị, đâu mà chẳng là lồng.

Lâm chạy quảng cáo cho một vài tờ báo, ăn phần trăm. Xin quảng cáo phải dẻo miệng, phải chơi đẹp, khứ hồi cả hai bên. Cuối cùng phần của Lâm cũng chỉ còn đủ đắp đổi miếng ăn, xăng xe để chạy. Thỉnh thoảng Lâm chơi quả lô đề đầm đậm cầu may. Nhưng may chưa tới. Văn càng ngày càng đi vào bế tắc, chị biên tập ở một toà soạn quen bảo, sao em cứ nhìn mãi vào cái mảng tối thế nhỉ, khó đi lắm. Lâm cười như mếu, tại cái cảnh của em vốn chẳng sáng sủa gì. Thôi thế này vậy, em chuyển sang viết tạp văn cho chị. Tạp văn là thể loại như thế nào, Lâm nghĩ mãi mà không ra. Lôi Lỗ Tấn về đọc, lại cả Vũ Bằng, Giả Bình Ao… không rút ra được điều gì.

Tạp nham ngôn ngữ

ý đi cùng tứ

Lạc lõng bơ vơ

Bên này nghĩa

Bên kia chữ

Bên nào ta

Ta hư vô

Bên nào em

Em tồn tại

Khôn?

Không khôn!

Dại?

Không dại!

ở giữa là

Ai? Ai? Ai? Ai? Ai?…

Một thằng bạn cũ bỗng dưng gặp Lâm ở đường, rủ vào quán bia. Nó bảo sống như thế đếch phải là sống. Thế là nó trình bày cái sự sống của mình. Lâm không đồng tình, cũng không phản đối. Lâm biết, quan hệ với những người hay phát biểu thì tốt nhất là ngậm miệng ăn tiền. Nó cho Lâm một cái cácvidít, ở đó người ta cần nhân viên kinh doanh bột đá. Lâm trở thành người buôn nước bọt, lương cũng đủ ngày ba bữa cơm, tiền nhà, tiền điện thoại, thỉnh thoảng đi chơi cho đỡ buồn. Lâm đang sống theo cái cách mà thằng bạn chỉ vẽ, cái cách mà nó cho là đáng sống.
Chủ nhật buồn, lôi giấy tờ cũ ra soạn, hý hoáy sửa, tự nhiên thấy hứng thú. Lâm đem ra hàng vi tính đánh máy, phôtô thành ba bản. Cô bé phôtô nhìn trộm Lâm. Cô bé này suốt ngày chẳng đi đến đâu, thấy anh chàng tóc xoăn, mũi cao chắc là hơi rung động. Lâm thoáng có ý nghĩ hay là làm quen, khi nào buồn có chỗ mà tán gẫu? Rồi lại gạt phăng đi, hơi đâu mà tán gái lành cho mệt. Cô bé này chắc chỉ độ mười sáu chứ mấy, cái tuổi hay thần tượng con trai. Em gái Lâm ở nhà cũng mười sáu, nhưng nó ma lanh, chửi bậy nhem nhẻm, bỏ học từ năm cấp hai. Nó chỉ có cái tài bán thịt lợn đắt hàng. Lâm nghĩ, nếu nó có thần tượng ai thì chắc là thằng lái lợn ở làng bên.

Mấy chủ nhật liền Lâm đều có cảm hứng, chẳng mấy chốc được một tập bản thảo nặng tay, liều đem tới một nhà xuất bản không chuyên sách văn học. Họ bảo cứ để đấy xem đã. Lâm nhìn ông biên tập thấy thật đáng ngưỡng mộ, trước mặt có hàng chồng bản thảo, tay lăm lăm cây bút, kính trễ trên mũi, một chữ ký là một tác phẩm ra đời. Hình ảnh ấy cứ lởn vởn trong đầu Lâm cho đến khi Lâm ra khỏi cổng, và biến mất vì tâm trí bận chỉ đạo việc chen lấn lên xe buýt.

*

Cái công ty bán bột đá đúng là loại ăn xổi ở thì, được dăm ba tháng quen mối liền sa thải Lâm. Cắt mất một khoản thu nhập, Lâm tìm người ở trọ cùng để san sẻ. Thằng trọ cùng người Nghệ, nói trọ trẹ mãi không nên lời, chưa tốt nghiệp đại học vì nợ môn, mở văn phòng gia sư, tham vọng làm thầy thiên hạ. Trên tường nhà trọ, nó treo đủ thứ ảnh danh nhân, từ Phan Bội Châu đến Anhxtanh, từ Nguyễn Trãi đến Các Mác. Có lần nó chỉ ảnh Bin Ghết hỏi Lâm, ai đây? Lâm bảo chắc là anh hùng Gagarin bay vào vũ trụ. Nó cười hô hố. Lại hỏi có biết Bin Ghết là ai không? Lâm bảo chắc là đồng bọn của Bin Lađen. Nó vùng lên cười sằng sặc, mãi không ngắt được cơn. Lâm đứng dậy, đi vào nhà xí, đái tồ tồ. Mấy tuần sau thì dọn đi, không ở cùng nữa.

Tìm được nhà trọ mới, chung phòng với một người tên là Đ., bạn cùng nghề, Lâm nghĩ chắc là ổn. Anh Đ. người nhỏ thó, đen đúa, răng vàng khè, hay thở dài phả ra hơi khắm. Mỗi lần Lâm đến hàng phôtô về, anh Đ. lại căn vặn, sao lâu thế? Dạo này cô bé phôtô không nhìn trộm Lâm nữa mà chuyển sang nói chuyện với Lâm. Đại loại, em thích đọc truyện lắm, ở nhà quê chẳng có truyện mà đọc, những cái này là anh viết à, hay nhỉ, viết truyện có khó không hả anh, chắc là khó vì nếu không ai cũng thành nhà văn hết, chuyện anh kể cứ buồn buồn, nhưng mà hay, nếu em viết được cũng có khối chuyện ra đấy, hay là em kể cho anh rồi anh viết lại thành truyện nhé, ừ, khi nào rỗi, nhưng mà biết khi nào rỗi, em cứ trông cửa hàng từ sáng đến tối, có lúc nào bỏ đi được đâu… Đại loại thế, cứ rủ rỉ rù rì, tay nó phôtô lật giấy, mồm nó nói. Rồi Lâm thấy nhớ cô bé lúc nào không biết, hai hôm không gặp là trống trải. Anh Đ. nói lẫy, đi đánh máy mà chải chuốt xịt gôm? Lâm cười thẹn, chẳng để ý đến anh Đ. cứ vật mình trên giường.

Anh Đ. viết truyện, cái nào cũng đóng vai nhân vật nữ, ngôi thứ nhất. Lâm bảo viết được như thế khó đấy vì phải hiểu giới nữ. Anh Đ. cho đấy là một lời khen, thích lắm. Ở cùng nhà, nhưng Lâm không thích ngủ chung giường, khó chịu. Anh Đ. không dám phản đối, nhưng có đêm, Lâm thấy anh chui vào màn, nép sát vào Lâm. Anh bảo, thỉnh thoảng anh hay gặp ác mộng nên mới thế, thông cảm nhé. Lâm bày cho anh một số cách, đặt con dao dưới chiếu, treo túm tỏi trên đầu giường, xoay giường sang hướng khác… vẫn không chữa được. Lâm đùa, thế thì chỉ còn mỗi một cách là lấy vợ, tha hồ có người nằm cạnh đuổi ma cho. Anh Đ. lẳng lặng bỏ ra ngoài. Suốt mấy tháng như thế, Lâm không thấy anh Đ. nóng ruột bao giờ. Lâm hỏi, anh có buồn không? Đi chơi một bữa. Anh quát um lên làm cho căn nhà rơi từng mảng vữa, bụi lả tả từ trên mái. Lâm ngạc nhiên, sao anh phải làm găng như thế? Không đi thì thôi. Hôm sau, anh xếp quần áo vào túi du lịch, bảo, phải về quê ít hôm, ông cụ ở nhà ốm, chắc khó qua khỏi. Lâm định về cùng, anh xua tay, thôi, có gì anh sẽ điện. Nhưng rồi không thấy anh điện, cũng không thấy anh trở lại nhà trọ. Lâm soát lại mới biết anh đã thu dọn hết đồ cá nhân của mình. Lâm áy náy, ở với nhau lâu như thế, cũng chẳng biết quê anh ở đâu?

Sau này, thi thoảng gặp một cái truyện của anh đăng báo, vẫn giọng văn dịu dàng, vẫn những nhân vật nữ xưng tôi, vẫn những câu chuyện tình nhàn nhạt, ngòn ngọt chẳng có gì đặc sắc nhưng Lâm lại thấy xa xót. Viết được như thế cũng khó đấy, vì phải hiểu giới nữ là thế nào. Đời trai như những nhân vật của Lâm thì có hơn gì, những kẻ đào vàng phải bỏ mạng, những gã quê lên thành phố dật dờ như kiếp hoa bèo, những gã lực điền không chịu rời làng cam chịu nhìn người phụ nữ của đời mình ra đi… ngẫm cũng chẳng sâu sắc gì hơn những truyện anh Đ. viết.

Nhà xuất bản hứa lên hứa xuống, tập truyện của Lâm in được, vì nó có một chủ đề, chỉ còn chờ đầu nậu khảo sát thị trường nữa thôi. Bây giờ Lâm không muốn in nữa, đến xin lại bản thảo. Lâm bảo, nó cũ quá, những chuyện như thế này chẳng ai buồn đọc, in ra chỉ lỗ vốn. Ông biên tập nhìn Lâm bằng con mắt lạ lẫm, rút tập bản thảo từ trong ngăn kéo ra, phủi bụi, cho vào trong bì ximăng cẩn thận trước khi trao tận tay tác giả. Ông bắt tay Lâm thân thiện, giọng ái ngại, này, khi nào nghĩ lại thì đem đến nhé, in được đấy. Và lắc đầu nhìn theo bóng Lâm khuất xuống cầu thang.

Cô bé phôtô là người đầu tiên Lâm nghĩ tới trong lúc này. Nó bảo có truyện gì đem cho nó đọc, buồn cũng được. Lâm cầm cái bì ximăng dày cộp đến, nghĩ bụng tặng cho cô bé phôtô làm quà. Hình như từ khi quen nhau, Lâm chưa tặng quà gì cho cô cả. Đến nơi, chẳng thấy cô bé đâu. Cửa hàng vắng ngắt.

Nó về quê lấy chồng rồi, để lời ru thêm buồn, chị chủ hát i ỉ, đưa truyện đây chị pôtô cho.

Lâm bảo, cảm ơn, rồi thập thững đi.

Nghĩ vơ nghĩ vẩn, nghĩ về bố Lâm, ba giờ sáng chọc tiết lợn, nghĩ về chị Lâm, bán lòng lợn tiết canh, nghĩ về em Lâm, bán thịt lợn ngoài chợ, nghĩ về mẹ Lâm, bán cơm bình dân, nghĩ về thằng bạn cũ hay phát biểu về cách sống, nghĩ về thằng gia sư người Nghệ, thuộc làu giai thoại các danh nhân, nghĩ về anh Đ., hay gặp ác mộng cả khi không ngủ được, nghĩ về cô bé phôtô, thích đọc những câu chuyện buồn, nghĩ về Lâm, một-gã-trai-hay-nghĩ…, đấy là my life của Lâm.

Nhưng cuộc sống thì còn ở phía trước.

 

KIM YÊU

(Tác giả: Đặng Xuân Xuyến)

 

Bạn có đẹp trai? Chắc cũng chỉ như tôi là cùng. Thề có bàn phím tôi đang gõ, không ít người ngợi khen tôi đẹp trai, còn gọi tôi là Vinh hoàng tử nữa đấy. Thực ra, tôi cũng ý thức được mình đâu có đẹp, chỉ bình thường thôi, cỡ điểm 5 là cùng. Thế nhưng ở xóm, ở làng, ở xã mọi người cứ tấm tắc khen tôi đẹp, tôi tuyệt vời. Ban đầu tôi cũng đâu dại mà tin, cũng tức giận khi nghĩ tới đôi chân vòng kiềng, cái mũi hếch và đôi môi cong tớn của mình nhưng thằng Chủ cứ một hai bảo cả xã chẳng có ai chân thẳng như tôi, con Kim còn quả quyết mũi tôi thực ra đâu có hếch, môi tôi đâu có cong, nhìn còn đẹp là đằng khác… Nếu xã mình mà tổ chức thi nam thanh nữ tú, thế nào đằng ấy cũng đoạt giải nhất. Như thế không tin sao được. Tôi rộn ràng niềm tin mình đẹp trai nhất xã từ đó, từ hồi mới 13, 14 tuổi.

Thường lệ, tối nào tôi cũng rủ Kim ra đầu làng ngóng trăng. Tôi nghĩ, thế nào lớn lên tôi cũng cưới Kim làm vợ.

Một bận, anh họ tôi ở Hải Phòng về quê chơi. Tôi vốn không thích người thành thị, thấy bảo người thành thị sống không tình cảm như người thôn quê nên tôi cũng không thích anh cho lắm.

Tối đó, ăn cơm xong, thấy tôi loanh quanh ở nhà, anh hỏi không đi chơi với bạn gái à. Tôi ậm ừ cho qua chuyện. Anh bảo thế thì đi chơi với anh nhé. Ừ thì đi. Ở nhà cũng vậy. Hơn nữa anh ấy là anh con bác, lâu rồi mới về quê.

Đến nhà con Kim, thằng Chủ. Đứa nào cũng thẫn người ra nhìn anh ấy, nói chuyện cứ như ngậm hột thị. Bực nhất là con Kim, toàn nhìn trộm anh ấy. Ngồi nói chuyện, chẳng có gì cũng hay đỏ mặt, tay cứ vân vê vạt áo. Bố khỉ. Cứ như lần đầu gặp con trai không bằng. Lúc tiễn anh ấy ra ngõ mắt lại còn lúng liếng, dưới ánh trăng trông càng ghét.

Bá vai tôi, Hoạt - anh họ - hỏi: - Vinh thích Kim à? Tôi gắt: - Vớ vẩn. Mới tý tuổi đầu, yêu đương cái gì? Hoạt cười: - Mười tám tuổi sao còn gọi trẻ con. Yêu đi chứ. Đừng để phí tuổi xuân. Tôi ngẩn người: - Ừ nhỉ. Mình đâu còn trẻ con. Giờ chưa yêu? Có muộn lắm chăng?

Khuya đó, Hoạt kể những ba mối tình của Hoạt. Nghe hệt truyện đêm khuya đọc trên đài Hà Nội. Trai thành thị có khác. Đến nói chuyện cũng duyên, cũng hơn người khác. Tôi như uống từng lời Hoạt kể.

Thấy hay. Thấy lạ. Thấy thích.

Tôi bảo Hoạt truyền kinh nghiệm. Hoạt cười: - Thích rồi à? Tôi ngượng: - Ừ. Yêu cũng hay đấy chứ.

Đêm đó, Hoạt dạy tôi cách làm quen, tỏ tình. Tôi nhắm mắt. Mơ hôn Kim dưới ánh trăng sóng sánh.

Hoạt ở chơi vài ngày, rồi đi. Tôi bớt ác cảm với người thành thị.

*

Kim đến lạ. Sau bận ấy năng ghé nhà tôi hơn. Vẫn bồ lô bồ la như trước. Chỉ khác, nhiều lúc cứ mơ mơ màng màng, lại hay hỏi dò về Hoạt khiến tôi tức chết. Chặp trước, Kim đâu có vậy!

Bữa đó, chưa phải trăng ngày rằm nhưng trăng sáng đẹp. Tôi rủ Kim đến nhà Chủ chơi. Thấy tôi có vẻ khác lạ, Kim hỏi: - Vinh hôm nay làm sao thế? Tôi ấp úng: - Đâu có gì. Kim véo tay tôi rõ đau, bảo: - Chối à? Chắc tơ tưởng tới cô nào hả? Chợt nhớ lời Hoạt: - Nếu thích ai thì phải thể hiện ngay cho đối phương biết. Chần chừ, sẽ bị kẻ khác nẫng mất. Tôi hít thật sâu, dứt khoát: - Kim à, còn nhớ truyện Matcơva tình yêu của tôi không? Kim tròn mắt: - Matcơva tình yêu nào? Tôi vội vã: - Tình cảm của Vinh giống chàng họa sỹ người Nhật với cô gái người Nga... Sờ trán tôi, Kim lẩm bẩm: - Vinh đâu có bị sốt. Nhớ lời dặn của Hoạt, tôi thiểu não: - Kim nhìn vào mắt Vinh đi. Chưa kịp thể hiện ánh mắt đắm đuối, dài dại như cách làm của Hoạt, tôi đã bị Kim tát cho nảy đom đóm mắt.

*

Bữa khác, vẫn chưa phải trăng ngày rằm. Nhưng trăng cũng đẹp tựa trăng bữa trước. Tôi lại rủ Kim ra đầu làng hóng trăng. Kim vẫn vậy. Vẫn cười. Vẫn nói. Nhưng sao mà buồn, mà ngơ ngác đến vậy, hở Kim? Cả tối, tôi nhìn trăng uể oải rắc sáng. Cả tối, tôi im lặng bên Kim.

*

Bận nữa, Hoạt lại về thăm quê. Lại rủ tôi lang thang ngõ xóm. Lại kể tiếp chuyện tình của Hoạt. Giọng vẫn hay, điệu vẫn đẹp, sao tôi thấy vô duyên, khó chịu. Chợt nhớ tới Kim, tôi bảo: - Kim thích Hoạt thì phải. Hình như Kim có chuyện, buồn, buồn lắm. Hoạt cau mày: - Dớ dẩn. Rồi vùng dậy đốt thuốc. Rồi ngồi nói những chuyện chẳng đâu vào đâu, nghe tào lao, lạ hoắc. Tôi quát: - Ngủ đi. Tôi không nghe. Tôi không hiểu. Tôi chỉ thấy thương Kim rõ khổ. Hoạt bối rối, thở dài: - Nhóc chỉ to thân xác.

Sớm sau, Hoạt vội về thành phố. Tôi nhớn nhác tìm Kim. Mãi tối khuya Kim ở đâu mới về. Vẫn là Kim ngồi đó, sao so gầy, thảm thương đến vậy.

Tôi lập cập hỏi chuyện. Tôi luýnh quýnh lo lắng. Vậy mà Kim cười buồn: Vinh đừng tốt với Kim như thế. Rồi ho khan. Rồi bảo tôi về. Ơ hay. Người ta lo mới vậy. Sao lại bảo về? Đã thế thì về. Khỏi phải lo. Khỏi phải rầu rĩ. Lủi thủi ra ngõ. Lầm lũi về nhà. Ngước nhìn trăng. Trăng cữ rằm mà sao héo úa.

*

Tối sau nữa, cỡ gần tuần trăng. Tôi nhận được lá thư của Kim. Thư không dài, chỉ ngắn gọn: - “Vinh ơi. Kim phải xa Vinh. Kim không xứng với tình yêu của chàng Hoàng Tử. Kim phải tìm kẻ quất ngựa truy phong. Hắn là ai? Thế nào? Kim không còn quan tâm! Nhưng con của Kim vẫn cần có bố.”

Nhìn bàn tay, tôi chợt nhớ, bận đó, đến hai ngày Hoạt về ngủ quá khuya.

Lại trăng.

Trăng qua rằm. Sáng vằng vặc.

*.

Làng Đá, tháng 05 năm 2002

 

CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ

(Tác giả: Đặng Xuân Xuyến)

 

Hắn không biết bây giờ đã mấy giờ, càng không nhớ hắn đã nốc bao nhiêu ly rượu. Hắn không nhớ mà cũng chẳng cần nhớ điều đó làm gì. Mọi người nhìn hắn như nhìn một quái vật. Không sao, chẳng nghĩa lý gì với hắn. Đời mà. Phù thịnh chứ ai phù suy. Hắn đã từng vụt sáng, chói lóa trong mắt mọi người, và bây giờ, hắn tiều tụy, thảm thương còn hơn mèo đi kiết. Hắn không nuối tiếc thời vàng son oai liệt, cũng chẳng ân hận những việc đã làm. Với hắn, cuộc đời như một manh chiếu bạc, người thắng kẻ thua là chuyện thường tình. Thằng nào ngu thì chết. Vậy thôi. Hắn ngu thì phải thua cuộc. Trách ai? Hận ai? Giờ đã là kẻ thất thế, có nói cũng chẳng ai tin, chỉ tổ làm trò cười cho thiên hạ. Hắn không thích phân trần, càng không thích nhận ở thiên hạ lòng trắc ẩn, sự ban ơn, thương hại. Hắn còn nhiều việc phải làm, đâu rảnh rang mà ngồi oán thán thiên hạ...

Chiều nay, hắn mới ngộ ra một điều: Không phải sự thật bao giờ cũng được trân trọng. Không phải lòng tốt bao giờ cũng được đáp đền bằng tình nghĩa. Vì thế, hắn thề sẽ không bao giờ tốt với ai nữa, sẽ không bao giờ tin ai cả. Cái giá hắn phải trả đã quá đủ để cạch đến già tính thương người, lòng trắc ẩn đến dớ dẩn của hắn.

Chiều qua, hắn tìm thằng bạn nối khố để đòi lại số tiền hắn cho vay mấy năm trước. Thằng bạn nhướng đôi lông mày thô đậm, xoăn tít, nhìn hắn từ đầu xuống chân rồi hô hố cười, bảo hắn là thằng khùng, nếu đói quá, không có chỗ xoay sở thì cầm lấy vài chục nghìn mà đắp đổi qua ngày, việc gì phải diễn trò ngớ ngẩn như thế. Hắn nóng mặt mắng thằng bạn là đồ đểu... Thằng bạn trề môi, lu loa: - Bà con vào đây mà xem, một thằng đến đôi dép cũng không có mà đi lại đòi là chủ nợ của tôi cơ đấy?

Khốn nạn thân hắn. Đã cố phân trần, cố giải thích đầu đuôi câu chuyện nhưng chẳng ai thèm tin lời hắn. Thiên hạ đâu có dở hơi? Họ còn thừa quá nhiều minh mẫn để tranh nhau chỉ ra ngữ hắn chỉ là thằng Chí Phèo hiện đại. Trắng đen quá rõ. Một ông chủ giàu có nhất vùng mà lại nợ tiền thằng cha căng chú kiết? Chỉ có thằng điên mới tin điều ấy, mà bọn này đâu có điên?! ..

Được thể, thằng bạn hất hàm về phía tủ bát, bảo hắn đập ra lấy vài mảnh mà rạch mặt.... Hắn tím mặt vì tức. Hắn sấn đến túm ngực, tưởng sẽ đấm nát cái mũi ngắn và thấp tè của kẻ “xôi thịt” cho hả giận, nhưng không, hắn chỉ khạc bãi đờm rồi nhổ tọt vào mõm thằng bạn. Đúng, hắn sẽ chẳng làm được gì thằng bạn. Hắn không có giấy thằng bạn nhận nợ. Hắn không có người làm chứng. Hắn chỉ có niềm tin vào tình người - mà thứ đó thì giá lại quá rẻ rúng, cũng đảo điên bát nháo khó lường. Vì thế, đương nhiên hắn phải thua thằng bạn.

Đến đầu ngõ, vợ thằng bạn đứng đợi sẵn, năn nỉ xin hắn bỏ qua chuyện vừa rồi vì “thời gian qua nhà em gặp nhiều chuyện buồn quá.”. Hắn sẵng giọng: - “Chuyện nó vay tiền của tôi cô cũng biết, sao lúc nó chửi tôi cô lại lảng tránh như vậy? Hay là cô với nó rắp tâm chiếm đoạt?”. Người đàn bà ấy chỉ biết cúi đầu, ngân ngấn nước mắt: - “Ơn của anh lớn như trời biển. Số tiền đó, em hứa sẽ lựa lời để chồng em thu xếp trả. Thực ra, anh ấy đâu phải loại người như thế...”. Hắn cười gằn và định nói toẹt ra chuyện thằng chó chết ấy đã bỏ hàng lậu vào kho hàng của hắn rồi ngầm báo công an để hắn thành kẻ vỡ nợ, tù tội nhưng nhìn thấy khuôn mặt vàng ủng, nhàu nát như quả táo héo của vợ thằng bạn, hắn thấy nao lòng. Người ta cũng chẳng sung sướng gì khi phải làm vợ thằng mất dạy ấy. Cũng tủi nhục lắm chứ. Cũng ê chề lắm chứ..... Nghĩ thế, hắn đành ngậm miệng mà quay lưng rảo bước.

*

Hắn đi nhưng chẳng biết sẽ đi đâu, về đâu? Liệu hắn còn chỗ nào để tá túc?

Có đấy. Hắn vẫn còn ngôi nhà nho nhỏ ở ngoại ô, trước khi “nhập trại” hắn đã giao cho thằng em kết nghĩa trông coi, giờ hắn có thể đường đường chính chính về ngôi nhà của mình nhưng chiều qua, hắn nghe phong phanh ngôi nhà đã đổi chủ. Mọi người không biết chủ mới là ai nhưng thằng em kết nghĩa thì vẫn sống ở đó.

Nghĩ tới thằng em kết nghĩa, hắn nhoẻn miệng cười. Hình ảnh thằng bé đánh giày nhem nhuốc, ngập ngừng đưa trả ví tiền nhặt được làm lòng hắn ấm lại. Hắn rút ví thưởng cho nó trăm nghìn nhưng thằng bé khăng khăng không nhận. Nhìn khuôn mặt thông minh lanh lợi của nó, nhất là khi hiểu rõ hoàn cảnh gia đình thằng bé, hắn nảy ý định nhận nó làm em kết nghĩa. Ngoài việc chu cấp tiền ăn học, thi thoảng hắn lại dúi cho thằng em ít tiền gửi về đỡ đần bố mẹ. Thằng em cũng ngoan, ham học và chịu khó phụ việc trong nhà nên hắn thương, hắn chiều hết mực. Nhiều lần chứng kiến cảnh thằng bé chăm bẵm, chiều chuộng hai đứa con của hắn như người chú ruột, hắn mỉm cười, hài lòng với quyết định của mình.

 Hắn đã vui trở lại. Dù ngôi nhà vì lý do nào đó đổi chủ thì hắn vẫn tin thằng em kết nghĩa sẽ nhảy cẫng lên khi nhìn thấy hắn. Với niềm tin ấy, hắn phấn chấn rảo bước.

Chạy ra đón hắn không phải là thằng em kết nghĩa mà là con “Tình Nghĩa”. Thấy bóng người lạ, nó lao vút ra và ông ổng sủa. Hắn khẽ quát: - “Hư nào. Quên tao rồi sao Tình Nghĩa?” Con chó khựng lại rồi vẫy đuôi rối rít. Hắn lẩm bẩm: - “Thế chứ, phải nhận ra chủ cũ chứ. Bõ công tao yêu thương chăm sóc mày.”. “Tình Nghĩa” có vẻ mừng lắm, cứ chạy loăng quăng quanh hắn, thi thoảng lại nhoài hai chân về phía trước, cúi xuống ngửi ngửi rồi liếm liếm bàn chân lấm lem của hắn.

Một cảm giác thật dễ chịu.

Hắn cúi xuống, vuốt nhẹ hàng lông đen mượt, vỗ vỗ vào lưng “Tình Nghĩa”, nựng nó như nựng một người bạn: - “Vui lắm hả? Thế chủ của mày đâu? Chắc vẫn còn đang ngủ chứ gì? Thôi, vào đánh thức chủ mày dậy, bảo rằng tao đã về.”. “Tình Nghĩa” nằm im, đuôi ve vẩy ra chừng mừng lắm rồi chạy tót lên trước. Được một đoạn lại vòng lại rúc rúc đầu vào chân hắn, rồi lại vọt lên trước như giục hắn nhanh bước vào nhà.

Nhìn lướt căn phòng. Hắn ngạc nhiên vì sự thay đổi. Bức chân dung của hắn đã bị tháo bỏ, thay vào đấy là bức họa thằng em đang phì phèo điếu thuốc. Hắn khẽ thở dài.

Hắn ngồi quãng nửa tiếng đồng hồ thằng em mới uể oải ngồi dậy. Khuôn mặt của nó vẫn hồng hào béo tốt nhưng dưới mắt, nơi ngọa tàm thì thâm quầng, đen kịt, dấu hiệu của những ngày ăn chơi trác táng. Hắn lại khẽ thở dài.

Vươn vai. Lững thững ra bể nước súc miệng òng ọc rồi nhổ toẹt một cái, thằng em mới thủng thẳng: - “Anh về bao giờ vậy? Mà sao anh lại ăn mặc bô nhếch bô nhác thế. Thiên hạ người ta cười chết.”.

Hắn thật thà: - “Ừ, biết thế nhưng hoàn cảnh của anh giờ bi đát quá nên đành vậy. Mà... Em có khỏe không? Thời gian qua em sống tốt chứ?”

Thằng em vắt chân ngồi xuống ghế, ngáp một cái rõ dài rồi mới nhát gừng từng chữ: - “Cũng tàm tạm. Chắc thời gian qua anh sống sung túc nhỉ!”

Hắn bực. Hắn định bạt tai thằng em kết nghĩa nhưng nghĩ tới hoàn cảnh hiện tại, hắn bấm bụng cố nhịn. Hắn hiểu, thằng em đã thay đổi, cũng rặt phường giá áo túi cơm. Hắn tặc lưỡi: - “Thôi thì cũng là do số phận. Cung nô của hắn chẳng ra gì thì đành chấp nhận. Đã Tham Lang hãm địa lại đồng cung với Thiên Diêu hãm địa thì đời hắn tàn vì chữ tình là phải.”. Hắn yêu và gìn giữ thằng em còn hơn một báu vật. Hắn yêu sự “tinh quái” rất trẻ thơ của nó mà vắt mình ra để chằm bặp, dạy bảo. Đời hắn đã thiếu thốn tình cảm nên hắn dồn cho thằng em kết nghĩa đến cạn kiệt chữ tình. Vậy mà .... Hắn đã lầm, đã sai, giờ có ân hận cũng chẳng làm được gì.

Nghĩ cho cùng thì cũng tại hắn. Ngay ngày đầu “lượm” thằng em về nhà, vợ hắn đã cảnh cáo: - Anh thương người vừa phải thôi, kẻo lụy đến thân đấy. Em nhìn thằng này sẽ không có trước có sau. Đàn ông gì mà ngồi nói chuyện mắt cứ cụp xuống, không dám nhìn thẳng vào người đối diện. Lông mày lại thưa, sống mũi lại nghiêng lệch thì tử tế sao được. Hắn ôm vai vợ, cười ngất và quả quyết thằng bé sẽ ngoan, sẽ nên người, hắn không thể nhầm được... Cũng từ đó, nhà hắn thưa dần rồi mất hẳn nụ cười hạnh phúc của người vợ.

Đã ngán ngẩm về chuyện “ông em chồng” từ trên trời rơi xuống, vài tháng sau, vợ hắn càng thêm bực khi hắn lù lù dẫn vợ chồng thằng bạn về nhà tá túc. Tiền ăn đã không đóng một xu mà bữa nào thằng bạn cũng ỉ ôi cơm canh không vừa miệng. Vợ hắn cằn nhằn thì hắn lại nói câu cửa miệng: - Người ta có khó khăn mới phải ăn nhờ ở đậu. Em để ý làm gì. Vì giữ thể diện cho chồng, vì nấn ná giữ mái ấm gia đình nên vợ hắn nuốt giận. Tưởng vậy là đủ, ai dè hắn lại cao hứng lôi tiền ông nội để lại cho bọn nhỏ đưa thằng bạn vay mua nhà, mở xưởng. Không chịu được cái kiểu thương người một cách lập dị của chồng, vợ hắn nằng nặc nộp đơn ly dị. Hắn cố níu kéo nhưng không được. Vợ hắn đã hết khả năng chịu đựng. Hắn đành gom góp mua ngôi nhà này, để lại căn nhà của tổ tiên cho vợ con ở. Từ đó, hắn trở thành người độc thân bắt buộc. Từ đó, thằng em càng được hắn cưng chiều...

Đợi thằng em uống xong chén nước, hắn vào thẳng vấn đề:

- Chú à. Hoàn cảnh hiện tại của anh ...

Thằng em khoát tay ngắt lời:

- Thôi, khỏi cần. Em biết anh sẽ nói những gì. Vâng, nhà này mua bằng tiền của anh nhưng em đã làm sổ đỏ đứng tên là chủ sở hữu rồi. Anh khỏi bận tâm về ngôi nhà nữa. Còn số tiền em thu nợ giúp anh, em dùng để nuôi Tình Nghĩa ba năm cũng vừa vặn hết. Em cũng muốn trả Tình Nghĩa cho anh nhưng thấy tội nghiệp nó. Nếu theo anh, nó sống bằng gì. Em biết anh đang khốn quẫn nên em gửi anh 300 USD coi như trả nghĩa anh nuôi em ăn học nên người. Ôi! Mệt quá! Em đi ngủ đây. Xin lỗi anh. Em không tiễn anh được.

Kỳ lạ. Lúc trước hắn có vẻ bực bội, vậy mà giờ nghe những lời đểu giả của thằng em, hắn lại thản nhiên gõ gõ ngón tay xuống bàn, rồi nhếch miệng cười - Nụ cười vẫn vẹn nguyên nét kiêu bạc ngày nào.

Cầm vài tờ Mỹ kim thằng em vừa đưa, hắn xoè ra châm lửa đốt. Thằng em nhảy chồm lên giật lại: - Ông bị điên à?

- Ừ! Tao đang điên đây. Tao điên bởi nhân tình thế thái bạc hơn vôi.

Hắn cười khanh khách, cười như bị ma làm và bước thấp bước cao ra cửa. Tình Nghĩa nhìn theo hắn rồi hướng ánh mắt ai oán vào thằng em kết nghĩa. Thuận chân, thằng em đạp Tình Nghĩa văng ra cửa, chửi đổng: - Đồ chó. Biến theo chủ của mày đi cho có bạn. Tình Nghĩa chồm dậy, tru lên đau đớn rồi vọt nhanh ra cửa....

*

Hắn lại gọi rượu. Không biết ly này là thứ mấy? Hắn không biết say? Hay nỗi đau quá lớn không thể làm say hắn được? Kể cũng lạ, người khác uống rượu thì sắc mặt thay đổi, vậy mà hắn nốc tưng đấy ly rượu mà sắc mặt vẫn không thay đổi, trông có vẻ còn lãng tử hơn lúc chưa uống rượu.

Kéo cổ áo, hắn rúm ró người khi nghe tiếng chép miệng của cậu bé bán rượu: - Khổ thân. Tử tế đến ngu dại...

Hắn dướn mắt nhìn và cầm ly rượu.

Một bàn tay khẽ khàng đặt lên vai hắn.

Một giọng nói nhẹ như gió thoảng:

- Về nhà đi em. Khuya lắm rồi.

Nâng ly rượu, hắn nhếch miệng cười ruồi:

- Về ư? Về đâu? Có nhà đâu mà về?

- Về nhà anh.

- Nhà anh? Ha... ha...ha....Nhà anh.... Ừ, về nhà anh.... Ha...ha...ha...

Hắn cười.

Nghe buốt lạnh.

*

- Vào đi! Mẹ kiếp, còn cái đếch gì để mà cao đạo? VIP đấy. Phục vụ đến nơi đến chốn nghe không!

Bình thản. Hắn lướt nhìn ả trút bỏ quần áo. Cơ thể ả lộ dần. Trắng phau. Không tỳ vết.

Mẹ kiếp. Con đàn bà thối thây. Hắn lầm bầm trong miệng rồi lạnh lùng nhìn ả như nhìn một đồ vật. Ừ. Khuôn mặt đẹp, da lại trắng hồng nhưng nhiều tàn nhang thế kia thì đĩ là phải. Tội nghiệp thằng chồng, đẹp trai và tài giỏi mà cam chịu để vợ cắm sừng. Nhưng cũng tại cả thằng chồng. Đàn ông gì mà mắt cứ lúng la lúng liếng, lại ướt át như mắt con gái, khuôn mặt lại đượm nét buồn thì cái chuyện vợ chồng có vấn đề là phải. Chả trách con vợ đĩ lên đĩ xuống, đĩ ngang đĩ dọc mà thằng chồng cấm dám ho he.

Hắn nhổ nước bọt rồi kéo ả vào lòng. Bàn tay hắn từ từ xục xạo. Đôi môi hắn điệu nghệ lướt trên cơ thể của ả. Từng thớ thịt của ả giật giật. Cơ thể ả nóng hổi. Bầu vú ả căng cứng. Mùi của lá sả, mùi của giống cái hòa quyện làm hắn chơi vơi. Một cảm giác thèm muốn trỗi dậy. Hắn muốn làm nhanh, thật nhanh cho đã cơn bức bối nhưng lời dặn của thằng dẫn mối buộc hắn gồng mình chống đỡ. Hắn phải cố kéo dài thời gian để ả bị kích thích sự thèm muốn. Ả là khách sộp, là kẻ lắm tiền nên ả có những sở thích quái đản. Ả trả tiền mua vui không theo kiểu bóc bánh trả tiền mà theo thời gian hành sự và sự lão luyện của thằng điếm đực bán mình. Thằng đàn ông bán thân nuôi miệng như hắn không được phép làm cho ả mất hứng. Muốn giữ được con mồi, hắn phải tạo được sự lão luyện hơn hẳn những thằng điếm khác.

Lảng tránh ánh mắt đờ đẫn, hoang dại của ả, hắn chợt thấy kinh tởm. Hắn kinh tởm ai? Kinh tởm con đàn bà đĩ thõa đang lên cơn động đực? Hay kinh tởm kiếp trai nhục nhã của kẻ bán mình? .... Mẹ kiếp. Con đàn bà mắc dịch. Con quỷ cái khoác bộ mặt xinh đẹp. Cái loại chốn chúa lộn chồng như mày đáng phải đem bỏ rọ trôi sông. Hắn chửi thầm trong bụng và bàn tay lấn sâu vào vùng nhạy cảm quyết liệt, thô bạo. Ả rú lên đau đớn và nhìn hắn bằng ánh mắt trách giận. Hắn chùng lòng, với bao thuốc và lập bập châm lửa...

Ả đẹp. Hắn cũng thích. Nhưng ả đĩ quá, dơ bẩn quá. Ả giàu tiền nhưng lại nghèo nhân cách. Ả được mẽ người nhưng nhân phẩm lại te tua, nhàu nát. Hắn khinh thường những kẻ như ả. Hắn không thích cuộc chơi này nhưng hắn không còn sự lựa chọn... Hắn cần tiền. Hắn cần tạo dựng lại cơ nghiệp. Hắn cần được tung hô, cần được trọng vọng như ngày trước. Đời hắn không thể thiếu thứ hàng xa xỉ đó. Hắn đã quen thế rồi. Hắn thề khi kiếm đủ tiền làm vốn, hắn sẽ hoàn lương, sẽ từ bỏ nghề nhục nhã, nhơ nhuốc này....

Bàn tay hắn lại nhẹ nhàng mơn trớn. Ánh mắt hắn lại lẳng lơ, vung vẩy. Và môi hắn, lại điệu đà đĩ bợm...

Ả rướn người, vít cổ hắn xuống và ngấu nghiến hôn. Đôi môi ả tham lam, nhích dần xuống vùng bụng săn chắc của hắn. Mồ hôi hắn rịn ra. Cơ thể hắn căng cứng. Bàn tay ả lập cập... Ả trườn người và cúi xuống... Hắn vội đẩy ả ra và hổn hển thở.

Ả cau mày khó chịu.

Một bàn tay nặng trịch ấn hắn ngồi xuống.

Một giọng nói sắc gọn, rờn rợn vang lên:

- Làm bổn phận đi. Muốn chết à?

Hắn cúi mặt.

Cánh cửa sau lưng bập khóa.

*

Quán đã vắng người. 

Hắn uể oải ngồi xuống và gọi rượu. 

Hắn muốn mượn rượu để quên đi tất cả.

Đời thật chó! Đã cướp đi tất cả những tốt đẹp của hắn. Canh bạc này, hắn thua đậm quá! Thằng bạn nối khố, thằng em kết nghĩa và cả con bồ của hắn... tất cả đều giả dối. Tất cả đều lợi dụng hắn, rồi đạp hắn lún sâu vào dòng xoáy nhơ bẩn. Hắn hận những kẻ đó! Hắn thề, ngày vinh quang trở lại, sẽ thẳng tay với những kẻ đã đẩy hắn vào thảm cảnh này. Hắn đau lắm! Trước kia, hắn là ông chủ thành đạt, sang trọng, giờ hắn là thằng điếm rẻ tiền, nhớp nháp. Tất cả đều do lũ dạ thú mặt người đó gây ra. 

Hắn tự nguyền rủa mình vì hắn đã thay đổi nhiều quá. Đến cả nụ cười, ánh mắt của hắn cũng bị biến dạng. Hắn thấy nhục nhã và sợ hãi chính sự thay đổi ấy. 

Những mất mát quá lớn đã bóp nghẹt trái tim của hắn. Hắn không tin ai được nữa. Hắn không thể yêu ai được nữa. Hắn cảm thấy trái tim của hắn hình như đã bị tê liệt mọi cảm xúc, mặc dù có đôi lúc, hắn vẫn thấy trỗi dậy sự ham muốn với một ai đó, nhưng chuyện đó rất ít, chỉ thoảng qua như cơn gió lạ trái mùa. 

Đâu phải giờ trái tim hắn chai lì cảm xúc mà bảo đời hắn sẽ bình lặng theo năm tháng? Không biết và cũng không thể nói trước điều gì vì cuộc đời này khác gì một "con điếm". Hắn biết, giờ hắn đang được cung phụng, được chiều chuộng bởi những kẻ rửng mỡ, lắm tiền mà thiếu tình vì mẽ người và nghệ thuật làm điếm của hắn đã điêu luyện thuộc hàng cao thủ. Hắn cũng cảm thấy muối mặt, nhục nhã khi bị mọi người nhìn ngó bằng ánh mắt soi mói, khinh bỉ. Nhưng hắn cần tiền. Hắn cần sống để làm lại cuộc đời. Hắn phải cho lũ chó sáng mắt ra rằng hắn không dễ ngã gục. Tình yêu ư? Nhân cách tốt đẹp ư? Hắn cóc cần. Những thứ đó đã hủy hoại đời hắn, xô đẩy hắn xuống tận đáy vũng bùn nhơ nhớp. Thôi. Vái chào những thứ phù phiếm chỉ trưng bày làm hàng mẫu. Hắn đếch cần những thứ đó. 

Hắn gọi rượu, nhấp môi và vô thức thở dài.

Một ánh mắt đăm đăm nhìn hắn.

Một cảm giác rất lạ nhen nhúm trỗi dậy. 

Hắn thót người lại, sợ có điều gì không ổn sắp sảy ra.

Giả bộ kéo lại chiếc mũ, chỉnh lại dáng ngồi, hắn liếc thật nhanh về phía ánh mắt đang đăm đắm ánh nhìn.

Ai nhỉ? Hắn đâu có biết người này? Nhưng mà khuôn mặt ấy, ánh mắt ấy trông quen lắm? Hình như đã gặp ở đâu mà hắn chưa nhớ ra? ... Hắn nhếch miệng cười ruồi: - Đuỵt mẹ! Giờ hắn đã nghèo, đã hèn, không muốn bị người khác coi thường, rẻ rúng nên rất sợ gặp những người quen cũ...

- Anh trai. Em ngồi cùng được không?

Hắn liếc nhìn. Một gã thư sinh với nụ cười đàng điếm đang ngập ngừng bước tới. Ồ! Một thằng bóng. Trông cũng đẹp trai, ra vẻ con nhà tử tế đấy chứ. Tiếc thật... Dạo này sao lắm đồng cô thế? Mẹ kiếp. Đến thằng bạn nối khố, đầy nam tính, thay người yêu như thay áo cũng bỗng dưng chuyển hệ... 

Không trả lời. Hắn lẳng lặng nâng ly rượu và nhếch miệng cười khẩy.

Gã thư sinh khẽ khàng kéo ghế ngồi xuống, gượng gạo bắt chuyện:

- Anh... có chuyện buồn à? Chuyện tình cảm phải không? ... Em cũng đang thất tình đây… Muốn có người tâm sự quá.... 

Hắn nhướng mắt nhìn gã trai như nhìn vật thể lạ, rồi hất hàm, giọng khinh khỉnh:

- Gay à? Lại cái à? Đuỵt mẹ, đéo phải khẩu vị của anh mày! Lượn ngay cho nước trong!

Gã trai tái mặt, thoáng chút bối rối, gượng cười, giọng mềm như bún:

- Anh nhầm rồi. Em cũng đang thất tình như anh nên muốn có bạn rượu để tiêu sầu... Cho em được mời anh bữa rượu này nhé. Nào, uống đi anh! Không say không về...

Ô hố! - Hắn chửi thầm - Mẹ thằng lại cái này còn thích làm trò! Cái kiểu ăn mặc bóng bẩy và ánh mắt nhìn giai ướt át của mày thì chệch đếch đi đâu được? Thất tình? Muốn có bạn rượu để tiêu sầu? Nghe mùi mẫm cứ như phim Hàn Quốc! Kệ mịa mày! Ừ thì uống. Ừ thì không say không về. Xem ngữ mày chịu được mấy “phát” mà đòi nhắng nhít? 

Hắn chỉ chiếc ghế, rồi hất hàm ra hiệu bảo gã trai ngồi xuống.

Cầm chai rượu, rót đầy 2 ly, hắn hất hàm: 

- Thích xỉn à? Gọi thêm vài chai đi. Chén một, chén một được chứ?

Gã trai hớn hở:

- Dạ! Được! Được ạ!

- Nào thì uống! Nào thì không say không về!

Thế là cả hai, cứ chén một, chén một, cứ như uống nước cho đã cơn khát. 

Càng uống hắn càng thấy gã trai này lạ lắm, quen lắm. Hắn cứ nhìn, nhìn chằm chằm làm gã trai đỏ mặt, bối rối. Hắn thấy tiếc cho gã trai trẻ thật nhiều. Hình thức, tri thức và văn hóa ứng xử ăn đứt khối thằng, vậy mà lại gay... Hắn không còn giữ khoảng cách nữa mà kéo ghế xích lại gần rồi choàng tay qua người gã, cử chỉ có phần thân tình, hơi ngả ngốn:

- Này. Anh thấy mày quen lắm. Không lẽ anh đã lên giường với mày. Không thể! Uầy... Nhưng mà sao nhìn mày anh cứ thấy quen quen, không biết đã gặp ở đâu.

Đẩy gã trai trẻ ra xa, hắn dụi mắt, nhìn rất kỹ rồi lại lẩm bẩm:

- Không thể!... Nhưng... rõ ràng là quen lắm...

Gã trai hơi biến sắc mặt, vội nâng ly rượu, choàng tay qua người hắn, bả lả cười:

- Nào anh... trăm phần trăm để sáng mai đón ngày mới hưng phấn hơn...

Hắn nâng chén rượu, nheo nheo mắt, cụng với gã trai rất tình tứ: 

- Anh thích mày rồi đấy! Nào rót tiếp đi! Uống nữa đi! Không say không về!

Lại uống! Lại cứ chén một, chén một! Lại nói, mà toàn nói những chuyện từ ngày xưa, ngày hắn còn ở trên đỉnh vinh quang đã cưu mang, giúp đỡ bao người... Rồi hắn bật khóc, khóc rống lên như một đứa trẻ. Gã trai ôm hắn thật chặt, giọng cũng ngân ngấn lệ: 

- Em biết... Em biết mà... Anh cứ khóc đi... Khóc cho vơi uất ức...

Hắn đẩy gã trai ra, giọng đứt ruột:

- Anh không ngờ đời anh lại có ngày phải làm một thằng điếm...

Hắn bật cười chua chát. 

Rồi hắn líu lưỡi, lắp bắp mãi mới xong một câu. 

Rồi hắn gục mặt xuống bàn.

Gã trai choàng tay xốc hắn đứng dậy, giọng hụt hơi, lí nhí:

- Anh... về nhà chứ?

Hắn lắc đầu, yếu ớt đẩy gã trai bằng giọng nhừa nhựa của thằng say:

- Không được. Thằng lại cái. Biến đi để tao được yên.

Gã trai dúi vào tay hắn một xấp tiền. 

Hắn khẽ dướn mắt nhìn xấp tiền rồi lảo đảo ra xe cùng gã.

Trời sắp đổ mưa thì phải...

*

Hắn tỉnh giấc. Một cảm giác thật lạ. Không như những lần đi khách khác, tỉnh giấc là thấy đầu nặng chịch, mồm miệng đắng ngắt, người bải hoải, rã rời... lần này, tâm trạng hắn thật thư thái, sảng khoái. Có cái gì đó rất yên tĩnh, rất ấm áp, rất khác thường. Hắn khoái với cảm giác này.

Cố nằm. Hắn cố nhớ đêm qua đã làm những gì với gã trai trẻ nhưng thật lạ, khó khăn lắm, hắn mới mang máng nhớ được là hình như lúc kéo gã trai trẻ vào lòng, định đặt nụ hôn lên môi gã theo thói quen “nghề nghiệp” thì hắn bị gã đẩy ra, đổ oặt xuống giường. Và hình như, gã trai trẻ đã đứng dậy, ân cần đắp chăn cho hắn, vỗ về hắn bằng giọng trìu mến: - “Ngủ đi anh! Ngủ đi ân nhân của em!”, rồi khép cửa, bước ra ngoài.

Hắn cố nhớ nhưng chỉ nhớ được vậy. Rượu đã làm hắn quên? Hay cuộc chơi đêm qua tẻ nhạt hơn mọi bận nên hắn không nhớ?

Hắn kéo chăn lên cao, liếc vội vào bên trong. Hắn ngạc nhiên vì chăn gối rất thơm tho và ấm hơi người... Tuyệt nhiên không thấy dấu vết của cuộc “vật lộn” “mua bán cuộc tình”: Chăn chiếu không nhầu nhĩ, xô lệch và cũng không có mùi ngai ngái, nồng nồng khó chịu như mọi bận. Hắn nhắm mắt lại, hít thật sâu rồi từ từ thở thật nhẹ để tận hưởng giây phút sảng khoái thật hiếm hoi trong kiếp đĩ đực bán mình.

Chuông đồng hồ điểm chín tiếng bính boong, bính boong...

Hắn hất chăn, ngồi dậy. Hắn dụi mắt vì thấy cảnh vật rất quen thuộc. Tiến lại bức chân dung gã trai với nụ cười đàng điếm, kiêu bạc treo phía cầu thang, hắn dụi mắt thêm lần nữa. Hắn loạng choạng, loạng choạng, rồi ngồi bệt xuống cầu thang. Hắn không tin vào mắt mình. Rõ ràng là bức chân dung của hắn. Bức chân dung mà thằng em kết nghĩa đã thẳng tay vứt bỏ. Hắn cố suy đoán nhưng không thể đoán được gã trai trẻ là ai? Sao gã lại đưa hắn trở về ngôi nhà của hắn? Sao gã biết mà trang trí lại ngôi nhà hệt như thời hắn chưa gặp nạn? Còn thằng em kết nghĩa thì sao? Chẳng lẽ ngôi nhà này đã thuộc quyền sở hữu của gã trai trẻ? Đây là mơ hay là thực? Cúi xuống, thấy “Tình Nghĩa” đang liếm liếm bàn chân, ngoe nguẩy đuôi nhìn hắn tỏ vẻ mừng rỡ, hắn ôm lấy “Tình Nghĩa” rồi òa khóc tức tưởi như một đứa trẻ...

Lá thư từ trong túi áo rơi ra. Hắn cúi xuống nhặt, rồi chậm rãi đọc.

Anh!

Ân nhân của em!

Cám ơn Trời Phật đã cho em tìm được anh, đã cho em cơ hội trừng trị những kẻ vong ân bội nghĩa, hãm hại anh, đẩy anh xuống cảnh đời không khác gì địa ngục.

Em là cậu bé ở Hưng Yên của 12 năm trước, trong một lần mải chơi, lạc đường về nhà, may gặp được anh thương tình chở về tận nhà...”

Hắn ngừng đọc và lần lần về ký ức, nhớ lại chuyện của 12 năm trước…

Hôm ấy, sau khi làm việc với mấy đại lý ở Hải Phòng, lẽ ra hắn về thẳng Hà Nội nhưng nghĩ sao hắn lại rẽ vào Hải Dương gặp gỡ đại lý mới. Tàn cuộc nhậu cũng đã hơn 10 giờ đêm, hắn giục lái xe phóng nhanh về Hà Nội. Khi gần đến thị trấn Bần Yên Nhân (Hưng Yên), hắn bảo tài xế dừng xe để hắn tranh thủ “giải quyết nỗi buồn”. Giật mình khi thấy một đứa trẻ đang ngồi thu lu dưới gốc cây, hắn đến bên đứa trẻ, nhẹ nhàng hỏi:

- Sao cháu lại ngồi đây đêm hôm thế này?

Đứa trẻ có vẻ cảnh giác, lấm lét nhìn hắn, không trả lời. Hắn phì cười, vỗ vai đứa trẻ:

- Chú không phải là người xấu, cháu à. Nếu cháu tin chú, cho chú biết địa chỉ, chú sẽ đưa cháu về tận nhà.

Đứa trẻ vẫn cảnh giác nhìn hắn, không nói.

Hắn rảo bước ra xe. Khi mở cửa lên xe, đứa trẻ mới giật giọng: - Chở cháu về nhà với...

Hắn nhớ, dọc đường, đứa trẻ ấy luôn quay đầu giấu mặt, chỉ cho biết tên làng xã và khi đến đầu làng, nhất quyết đòi xuống, không chịu để ô tô đưa vào làng.

Hắn cúi xuống đọc tiếp:

Và em cũng là cậu bé của 8 năm trước, trong một lần về Hà Nội thăm người bạn đang nằm viện, bị kẻ gian giật trộm đồ....”

Hắn chau mày cố nhớ cậu bé của 8 năm trước bị mất đồ là ai trong vô số những người hắn đã gặp? Hắn chịu! Hắn không nhớ được.

Hắn cúi xuống đọc tiếp:

“Khi những người khác giương mắt đứng nhìn thì không biết anh ở đâu, phóng xe đuổi theo và lao vào tên cướp, lấy lại đồ cho em. Dù bị rách quần áo, trầy xước cả hai tay nhưng anh vẫn tươi cười vỗ vai em, ân cần nhắc nhở: - Ra thành phố, cẩn thận giữ đồ, thanh niên à. Rồi lên xe phóng đi, không chờ câu cám ơn của em.

Sững người khi nhận ra ánh mắt trìu mến, giọng nói ấm áp của vị ân nhân 4 năm trước, em chạy đuổi theo nhưng không kịp. Anh lẫn vào dòng người tấp nập của phố thị nhanh quá. Em cầu Trời Phật cho em được gặp lại vị ân nhân để nói câu cám ơn. Em hy vọng, Trời Phật sẽ chứng cho lòng thành của em, sắp xếp cơ duyên để em gặp lại vị ân nhân đặc biệt của mình.

Cách đây 4 năm, vâng, đúng ra là hơn 4 năm anh ạ.

Một lần vào TÌNH NHÂN QUÁN, em vô tình nghe anh chủ quán rượu kể chuyện về cuộc đời một vị khách đặc biệt, một “điếm đực nổi tiếng” đất Hà thành, bằng thái độ xót thương, quý trọng. Tò mò, em cố ngồi đợi xem vị khách đặc biệt đó là người thế nào? Và đêm đó, em bàng hoàng khi biết anh chính là vị khách đặc biệt của TÌNH NHÂN QUÁN. Em đau xót cho ân nhân của mình và lên kế hoạch âm thầm thay ân nhân trừng trị bọn vong ân bội nghĩa, bọn lừa thầy phản bạn, đòi lại sự công bằng cho ân nhân của mình.

Ngôi nhà này, em đã lấy lại giấy tờ đầy đủ từ tay thằng em kết nghĩa của anh. Nó thua bạc, gán nhà trả nợ theo đúng kịch bản mà em cùng nhóm bạn thân dàn dựng. Giờ nó đã được trả về với cái nghề mà ngày xưa anh đã nhặt nó lên, cưu mang nó, cho nó thành người tử tế. Anh mở ngăn kéo tủ, giấy tờ nhà đất và cả sợi dây chuyền “bảo bối” mà anh rất quý, bị thằng bạn nối khố của anh chiếm đoạt, em để cả trong đó.

Số tiền thằng bạn nối khố lừa đảo, em cũng đã đòi lại và chuyển vào tài khoản cá nhân của anh. Em không đủ lòng nhân ái để nương tay với kẻ đã đẩy ân nhân của mình vào tù, hòng chiếm đoạt tài sản của ân nhân, nên sau khi dùng các chứng cứ phạm pháp “uy hiếp”, bắt tên khốn kiếp phải trả lại anh số tiền đã chiếm đoạt, bọn em đã chuyển cho nhà chức trách những bằng chứng phạm pháp của nó, bắt nó phải trả giá cho những tội ác đã gây ra. Em tin, anh sẽ mỉm cười, gật đầu với những việc bọn em đã làm.

Anh!

Ân nhân của em!

Thực lòng, em rất vui và thấy thú vị khi vào vai diễn cùng anh đêm qua. Có lẽ đấy sẽ là một kỷ niệm đẹp, khó quên vì rất đặc biệt của em với ân nhân của mình. Em tin, chắc chỉ anh em mình mới có kỷ niệm đặc biệt đó. Tiếc là lúc này, khi anh đang đọc lá thư của “gã trai đẹp gay nặng”, em lại không được trực tiếp nói với anh câu:

- Ân nhân! Em cám ơn anh nhiều, nhiều lắm!

Giờ, khi anh đang đọc lá thư này, có lẽ em đã ở sân bay Nội Bài, chuẩn bị sang đoàn tụ cùng vợ con bên Nhật.

Vâng! Nhất định khi trở về Việt Nam em sẽ đưa vợ con đến chào anh. Lúc bấy giờ, em sẽ thoải mái được nói lời cám ơn anh, cám ơn vị ân nhân đặc biệt của mình.

p/s: Anh!

Chị vẫn còn yêu anh nhiều lắm. Hãy đến làm lành với chị để các cháu được sống trong vòng tay yêu thương của cả bố, cả mẹ.

Em!

Người chịu ơn anh cả đời!”

Hắn bước ra sân, ngước mắt nhìn bầu trời xanh ngắt. Tiếng họa mi nhà ai lảnh lót làm hắn lặng người, rồi bất chợt hắn mỉm cười....

Không hiểu sao, hắn cười mà khóe mắt lại cay cay, rưng rưng lệ...

*

Hà Nội, mùa hè năm 2006.

 

KHÚC TRẦM CẢM

(Tác giả: Trương Quế Chi)

 

1.

Không thể hát được đâu điệp khúc trầm cảm những lúc như thế này! Ngồi bó gối lâu thế kia chút nữa lại đau chân! Khóc thêm thì vệt chì kẻ mắt màu đen trôi đi hết, thế là thôi cá tính, thôi ấn tượng, mặt mũi là một bức tranh nham nhở.

Khúc ca trầm cảm bây giờ cũ rích và hết thời! Nghe là mệt! Nhìn ca sĩ kiêm tác giả còn mệt hơn! Không phải vỗ ngực xưng tôi, không phải tuyên ngôn mệt mỏi mà cũng chẳng cần im lặng giả vờ khiêm tốn! Còn có gì ngoài điệp khúc trầm cảm thì mang hết ra đây!

Tôi hát câm lặng. Bờ sông hiện ra bằng những màu sáng loà. Tôi không biết tô vẽ thêm gì cho những bức tranh của mình. Chỉ có những sắc màu đặc quánh quấn lấy cọ vẽ của tôi. Bật cười. Tranh này rẻ tiền bán nhiều trên đường Hàng Đào, Hàng Gai. Tranh này rẻ tiền không mang chút nội dung hay hàm ý nghệ thuật tử tế. Lại bật cười.

Cảm xúc non trẻ của tôi sinh ra tội nghiệp đến thế, có lỗi đến thế, rẻ tiền đến thế! 18 tuổi. Sinh viên năm nhất Kinh tế ứng dụng. Du học sinh ở Pháp. Thang điểm trung bình 12,5/20, đứng thứ hạng 30/90 trong lớp. Hàng ngày ngoan ngoãn đi giữa thư viện, giảng đường. Hàng ngày ngoan ngoãn tự nấu ăn, giặt giũ, đi chợ rau biết súplơ, bắp cải, cà chua, biết tự bổ sung vitamin C bằng 2 cân táo xanh bán rẻ. Hàng ngày ngoan ngoãn biết lùng sục đi tìm xem những chương trình nghệ thuật miễn phí, biết đi trông người tàn tật 6h/ tuần lấy tiền mua khung tranh, màu, xem phim đạt giải Cannes, mua báo và vào bar với bạn bè ngồi một góc uống chocolate nóng.

Bạn bè rủ hút thuốc, sao mày không hút thuốc? Tao không hút thuốc, không có lợi cho sức khoẻ. Sao mày không hút, buồn cuời, bọn tao hút vì thói quen, để xả stress, sao mày không hút, hút thuốc cho đỡ buồn mày? Tao không hút, năm 15 tuổi tao thử rồi, 1 năm tao chỉ hút 2 lần, bây giờ tao không thích hút nữa, hút thuốc không đỡ buồn, bọn mày đuổi nỗi buồn đi, còn tao giữ nó ở lại. Sao mày không hút thuốc? 18 tuổi. Lạc lõng trong bar với chocolate nóng.

Tôi nhìn thấy Dương lần đầu tiên năm 15 tuổi. Ngồi trong quán vụng về như một người mơ ngủ. Dương có đôi mắt đẹp và buồn đến nỗi, lần đầu tiên gặp Dương, lần đầu tiên nhìn vào đôi mắt Dương, tôi bật ý nghĩ đầu tiên rằng Dương là người tôi tìm kiếm, là người tôi chờ đợi.

Tôi ngồi nép lại, ngộp thở, nhìn Dương một quãng lâu. Không khí trong quán cafe Phố Cổ trôi như một cánh diều. Trong những phút giây ấy tôi không nói được gì. Năm tôi 15 tuổi non dại, vẫn cất dưới ngăn tủ truyện “Cánh buồm đỏ thắm” của Alexandre Grin. Vẫn ngồi hoang hoải từ từ uống ba cốc càfê trứng, đôi mắt hướng về Dương một cách không chủ ý. 18 tuổi, tôi vẫn non dại mua thêm truyện “Hoàng tử bé” của Saint Exupéry cất dưới ngăn tủ. Vẫn chờ uống đủ 3 cốc càfê trứng, thở mạnh, chờ Dương ghé thăm quán trong 3 năm. Vân vê chơi trò xé giấy định đoán số phận.

Lần thứ hai gặp Dương năm 18 tuổi. Dương đi một mình. Vẫn vụng về như một người mơ ngủ. Vẫn đôi mắt buồn và đẹp đến nỗi nước mắt tôi lại trào ra. Bật ý nghĩa đầu tiên Dương là người tôi tìm kiếm, là người tôi chờ đợi. Tôi thở mạnh. Tiến đến gần Dương. Tôi không biết nói gì. Dương không phản ứng gì. Im lặng. Tôi biết năm năm sau nữa, Dương cũng không biết nói gì. Không khí cánh diều trong quán cafe chao nhẹ. Tôi chỉ nhớ mình câu đầu tiên tôi nói hoàn toàn không ăn nhập với những gì tôi nghĩ “Anh có thuốc hút không?”.

2.

Không thể hát được đâu điệp khúc trầm cảm những lúc thế này! Mày xử sự như một con điên! Áo ngực khoét sâu trông lố lăng, mất cả thuần phong mỹ tục! Không phải cứ thích bôi lăng nhăng, rồi đưa tý sex, tý nude vào mà là nghệ thuật! Không phải lên tiếng biện minh, không phải cười khẩy, không phải giả đò ngoan ngoãn! Khóc thêm nữa cũng không nhìn ra chân lý! Những điệp khúc trầm cảm qua thời gian là hết ngay giá trị! Còn có gì ngoài điệp khúc trầm cảm thì mang hết ra đây!

Những bức tranh của tôi không mang bao giờ mang nổi một hình hài có thể đoán định. Khi vẽ, tôi thấy mình bẩt ổn, bất ổn từ những ngón chân bám vào đất mềm. Khi vẽ, tôi thường cởi giầy và mang trên mình bộ quần áo rộng nhất có thể. Hiệu ứng tâm lý bất ổn.

Tôi thường nhìn mình đáng thương sau mỗi lần không thể vẽ nổi những ý nghĩ chật căng trực bung ra ngoài. Những bức tranh bất ổn. Đàn hồi và di động. Tôi không thể tính toán trước mỗi lần cầm bút. Khi hứng thú muốn khoe với bạn bè những bức tranh mới hoàn thành, tôi thường ê a về những miếng vải bố vô dụng. Không thể may quần áo, không thể vẽ lại và không có tương lai. Khi bạn đang có một tương lai hoàn hảo thì những dự kiến bất trắc sẽ bị gạt ra ngoài. Như thế mới là một người thông minh.

Bạn bè Pháp thắc mắc tại sao tôi học Kinh tế Ứng dụng. Còn khi tôi đi du học, bạn bè trong nước ai cũng chúc mừng. 18 tuổi. Tôi biết thế nào là đánh đổi. Đến nhà ông bà nội, “Gia đình rất tự hào về con”. Đến nhà ông bà ngoại, “Gia đình rất tự hào về con”. Đến nhà bác, “Gia đình rất tự hào về con”. Đến nhà cô, “Gia đình rất tự hào về con”. Về nhà, “Gia đình rất tự hào về con”. Thằng em tôi năm nay 8 tuổi còn thuộc lòng “Trong thời đại mới, kinh tế là ngành chủ chốt…”.

Bạn nên hài lòng khi bạn đã làm tất cả mọi người hài lòng. Chỉ những bức tranh của tôi là lạc lõng. Tranh tôi hát lên bằng những gam màu không sắp xếp, nhộn nhạo – những gam màu biết thở dài… Giống cảm giác của tôi. Khi ba tôi về nhà treo trịnh trọng bằng khen “Gia đình văn hoá” trên tường với cái khoá quần còn kéo dang dở, lòi một ít vải trắng lót bên trong, tôi biết ông vừa từ phòng cô A hay cô B, cô C nào về, để thử nốt tất cả các tư thế ông tìm được trên các trang mạng.

Nhưng mà tôi nói làm gì, tôi làm gì có quyền nói, cả mẹ tôi nói làm gì, bố tôi là người thông minh, mẹ tôi biết không có cô nào lấy được xu nào từ ví tiền của ông, thế là mẹ tôi yên tâm, thế là mẹ tôi hài lòng, thế là mẹ tôi vẫn tung tẩy qua qua lại lại các beauty salon và các vũ trường dạy nhảy cổ điển. Tranh của tôi hát lên bằng những hình hài không đường viền. Tôi luôn đợi mình hét lên, hất tung những suy nghĩ bất ổn của mình. 18 tuổi. Lạc lõng với một cái máy tính nối mạng cùng Icon của Yahoo Messenger luôn để chế độ Invisible.

2 tháng nữa tôi đi du học. Tôi không cảm thấy tiếc nuối gì. Có Dương ở bên tôi. Tôi không có những hành trình cụ thể khi đi với Dương. Một giờ cố định, Dương nhắn tin, tôi ngoan ngoãn ở nhà ngồi đợi; ngày không nhắn tin, tôi đi lo nốt những việc lặt vặt cho cuộc sống du học. Tôi không bao giờ mở miệng chào Dương, Dương chỉ thích nắm lấy bàn tay tôi, tôi ngồi sau xe Dương và phó mặc. Không nhiều lời. Tôi có cảm giác mình có thể đi bất cứ đâu khi dựa vào tấm lưng gầy của Dương.

Dương hay đưa tôi tới bãi sông. Bãi đất mềm và thơm. Tôi nằm dựa đầu, Dương xoa nhẹ mái tóc tôi. Dương hay kể về những kỷ niệm ngày thơ bé. Dương hay cười một mình. Đấy là nụ cười buồn nhất tôi được thấy. Tôi hay khóc khi nhìn thấy Dương. Tôi hay khóc khi nắm bàn tay Dương. Tôi hay khóc khi Dương xoa đầu tôi. Mỗi lần thấy mắt tôi nhoè nước, Dương lại hôn lên trán tôi.

Tôi không hiểu tại sao mình vẫn thấy bình thản khi nghĩ đến ngày đi học đến gần, ngày xa Dương đến gần. Tâm trí của tôi không sao tìm nổi một chút gợn sóng đấu tranh chống đối.

Ngày cuối cùng tôi ở lại Hà Nội, chiều chạng vạng tối, giữa những khóm lau cao vút mọc dày bên triền sông, Dương hôn lên môi tôi, hai bàn tay nhẹ lần cởi khuy áo sơmi tôi mặc. Tôi không ý thức mình đang làm gì, thấy tất cả chao nhẹ, với một nhịp điệu khoan thai như những câu chuyện Dương vẫn kể cho tôi nghe.

Khi Dương cởi nút cài chiếc áo ngực của tôi, tôi vẫn thấy mình bình thản. Khi khuôn mặt Dương cúi xuống chạm gần bầu ngực, không hiểu sao tôi bật khóc. Mái tóc xoà phía trước không che hết đôi mắt của Dương. Dương ôm gọn tôi vào lòng, chao nhẹ người như đang hát ru. Cứ như thế, Dương ôm tôi như qua hàng thế kỷ, thời gian như dài ra và dịu. Tiếng tôi nấc đứt quãng: “Em yêu anh…Em yêu anh…Em yêu anh…Em yêu anh…Em yêu anh…Em yêu anh…”…

3.

Không thể hát được đâu điệp khúc trầm cảm những lúc này! Tỏ ra thành tâm chiêm nghiệm ở tuổi mày là thứ mốt lãng nhách! Không cần phải kêu gào cô đơn, không cần khoe những thành tích điên dại vô nghĩa hiệu ứng đặc biệt của thứ cô độc thời thượng! Không phải xù lông tự bảo vệ mình bằng kiến thức non trẻ! Thời những điệp khúc trầm cảm qua rồi! Còn có gì ngoài điệp khúc trầm cảm thì mang hết ra đây!

Hai sắc màu tôi ưa thích là màu đen và màu đỏ. Tủ quần áo tôi mở ra rặt màu đen. Đứa bạn thân bên Pháp, Simon, mỗi sáng đứng trước cửa nhà tôi, hét toáng lên gọi đi học cùng “Woman in black ! It s time!” (Bà áo đen ơi, đến giờ rồi! – BT) nghe rất hình sự và buồn cười. Nó cao kều, ngộ nghĩnh, thông minh, rất có năng khiếu trong kịch nghệ và không thích con gái. Simon hay doạ và trêu tôi rằng nếu mày yêu một thằng đẹp trai, giỏi giang như tao thì mày cần kiểm tra ngay giới tính nó có vấn đề không.

Mỗi lần như thế, tôi lại hát bài hát “Ziggy, anh ấy tên là Ziggy, tôi như đang điên lên vì anh ấy, anh ấy không giống những người con trai khác, nhưng tôi yêu anh ấy và đó không phải tội lỗi, ngay cả khi tôi biết anh ấy sẽ chẳng bao giờ yêu tôi”.

Simon rất hay quan tâm đến những ngày tôi bị rơi vào vùng không khí loãng, không cảm giác và có một đôi mắt vô hồn. Nó bảo mày làm gì thì làm nhưng mà đừng tự hành xác mình như năm 15 tuổi, tao sẽ giấu hết kim trong phòng mày, đừng nghe rock và đừng đâm kim vào những ngón tay, mày có mỗi đôi bàn tay này để vẽ.

Những ngày như thế, buổi tối, tôi nằm ngủ trên giường của Simon, khép mắt lại là thấy khuôn mặt của Du. Du là bạn gái thân của tôi hồi cấp 3, tự tử vì bị trầm uất. Nhưng Simon dường như đã quen với những ngày tôi mất trọng lượng, thành ra đúng ngày đúng giờ là có nhu cầu an ủi, có nhu cầu đưa tôi về nhà ngủ trên giường nó, có nhu cầu cho tôi uống nước siro chanh mát lạnh. Vì mỗi tuần, nó vẫn cùng tôi lùng sục đi xem 2 bộ phim – một trong những tác nhân khiến tôi luôn cảm thấy mình vỡ vụn.

Khi xem phim “Brokeback Moutain” của Lý An, chính nó là người bịt miệng tôi để chặn tiếng khóc oà tôi trực trào ra trong rạp. Tôi vẽ nhiều bức tặng Simon, toàn những bức mà theo nó nói “tao không nhìn ra mày vẽ con gì, đứa nào, thôi thì lúc tao thích ra cái gì thì nó sẽ ra cái đó, nói chung mày là họa sĩ trừu tượng hạng bét”.

Tôi chỉ hay cười xoà, tôi biết nó vẫn thường đi khoe khắp nơi các tác phẩm của tôi và rằng nó là bạn của một nghệ sĩ. Những bức hoạ không lời và nham nhở. Tôi chưa bao giờ hết hứng thứ với đỏ, đen hay những gam màu khác, chỉ có màu vẽ thôi, chỉ màu sắc thôi, không sông, không núi, không nhà, không cây, không bầu trời, chỉ có màu và con người thôi. Gần đây, tôi quệt nhiều sắc trắng hơn, trắng như khuôn mặt của Du.

Tôi thấy Du đi theo tôi chậm rãi, hình thành cho tôi thói quen quay đầu lại sau vài bước chân. 18 tuổi. Lạc lõng trong cầu thang tối với khuôn mặt Du ở ngay phía sau lưng.

Tôi về nghỉ hè. Nhắn cho Dương. Dương bảo Dương không ở Hà Nội. 1 năm không nhiều thông tin liên lạc. Tôi gửi email. Gửi tin nhắn. Gửi thư tay. Dương hồi âm cho tôi 2 lần. Những điều ấy không quan trọng. Tôi thấy mình ngoan ngoãn. Không khác năm 15 tuổi thơ dại là mấy. “Cánh buồm đỏ thắm”, “Hoàng tử bé” theo tôi sang Pháp, theo tôi về Việt Nam. Tôi chỉ ở lại Hà Nội có 1 tháng, thì tuần cuối cùng Dương nhắn tin, gặp tôi ở quán càfê cũ hai đứa gặp nhau lần đầu tiên.

Tôi lại ngồi thở mạnh, chờ đến cốc càfê trứng thứ 3 thì Dương xuất hiện. Dương. Vẫn đôi mắt buồn ấy, vẫn dáng vẻ vụng về ấy. Nhưng không hiểu sao lần này, đầu óc tôi hoàn toàn trống rỗng. Dương đi với một người đàn ông khác, nhìn cũng vụng về. Tôi, trong thoáng chốc không hiểu lắm những gì sắp diễn ra với mình. Tôi vẫn ngồi ngoan ngoãn, chờ cái nắm tay chào dịu mềm của Dương. Nhưng Dương nắm tay người đàn ông kia.

Tôi không biết nói gì, bắt đầu từ đâu… Tư thế ngoan ngoãn không giúp tôi nhớ đủ chi tiết cuộc trò chuyện, tôi chỉ nhớ mang máng Dương giới thiệu người lạ mặt kia là bạn trai mới của Dương và hai người đang sống ở Sài Gòn. Khi Dương bỏ đi, Tôi lại thấy mình rơi vào vùng không khí loãng.Tôi vẫn ngồi yên bất động… Sau một nụ cười hắt, tôi đứng dậy và thấy xung quanh nhoè đi.

4.

Không thể hát được đâu điệp khúc trầm cảm những lúc này!

Tranh của tôi. Những sắc màu đặc quánh. Không hình hài nào đoán định được. Tôi không có quyền từ chối hay tước bỏ bản năng màu của mình. Tôi thây kệ nó ngô nghê. Tôi thây kệ nó vô nghĩa. Tôi thây kệ nó rẻ tiền. Nghệ thuật của tôi ngồi đau khóc cùng tôi trong không khí ẩm ướt của ngôi chùa.

Không thể hát được đâu điệp khúc trầm cảm những lúc này! Tôi muốn ngủ lặng đi một chút. Tan trong mùi hương trầm. Tan vào màu vàng của giấy đốt. Tan vào sự rộng lượng của Đức Phật. Giá như tôi cuộn người ngủ thế này được mãi mãi…

Không thể hát được đâu điệp khúc trầm cảm những lúc này!

 

NGƯỜI ĐÀN BÀ CÔ ĐƠN

(Tác giả: Nguyễn Cẩm Hương)

 

Phần I

Nhàn đã tứ tuần nhưng vẫn là gái trinh. Mà Nhàn đâu phải loại kém nhan sắc gì. Thậm chí Nhàn còn được tạo hóa ban cho một thân thể đậm đà nữ tính. 14 tuổi Nhàn đã nây nẩy cặp mông, khuôn ngực vun cao sau lần áo mỏng. Vậy mà Nhàn vẫn vô tư cởi trần cùng đám bạn trai nhảy ùm xuống sông tắm. Mỗi lần thấy Nhàn như vậy, mẹ lại nhăn mặt lẩm bẩm. 

Nhàn vẫn vô tình nghe mấy chú tán tễu với nhau: "Con bé Nhàn sau này lớn lên khối anh chết"; "Tướng con bé ấy ấy mà, vô phúc cho anh nào chân yếu tay mềm, còn anh nào cứng vía thì cứ gọi là sướng hơn tiên". Hí hí, ha ha, họ cười bả lả hể hả cứ như nàng là một đề tài hấp dẫn lắm. Cũng có khi nàng nghe được những lời tử tế hơn: "Con bé Nhàn có đôi mắt ướt và cặp môi mọng là đào hoa lắm đấy, nhưng cũng khổ". Nhàn không hiểu vì sao... lại khổ. 

Học cấp ba Nhàn đã có một thân hình hoàn hảo thiếu nữ, trong khi bọn con gái khối đứa vẫn phẳng như cá thờn bơn. Nhàn bắt gặp những ánh nhìn lén của bọn con trai. Nếu chẳng may có gã trai nào ngồi cạnh Nhàn thì chúng như bị phong. 

Hồi đó gần nhà Nhàn có ông họa sĩ tuổi đã trung niên nhưng dáng vẻ vẫn rất trẻ trung hào hoa. Mỗi lần đi học về là Nhàn lại chạy sang nhà ông để xem ông vẽ và nghe kể chuyện về nền hội họa trên thế giới, về cái đẹp vĩnh hằng của nghệ thuật. 

"Cháu có thân hình của nữ thần Aphrodied. Đó là tuyệt tác của tạo hóa, cũng là tài sản vô giá của nghệ thuật". Ông họa sĩ bảo với Nhàn như vậy khi nàng đồng ý làm người mẫu để ông lưu lại một tuyệt tác của tạo hóa. Nhưng Nhàn không bao giờ được nhìn thấy "nàng Aphrodiet" hiện hình trên tấm phông của người hoạ sĩ. "Trong nghệ thuật, sự chỉn chu có khi lại trở thành tai họa. Cháu có biết cả thế giới nát óc để tìm cho Thần Vệ Nữ một đôi cánh tay hoàn hảo không? Thật nực cười khi họ nhận ra rằng bức tượng ấy thật tuyệt vời khi thiếu đôi tay". 

Nhàn được biết có một người đàn bà đẹp đã bay khỏi bức tranh của ông. "Cháu biết không, ngưòi đàn bà thực sự đẹp khi không nhận ra cái đẹp của mình, sự hồn nhiên bao giờ cũng là cái đẹp vĩnh cửu". Nhưng Nhàn đã đánh mất vẻ hồn nhiên vì Nhàn đã biết yêu thân thể mình từ cái nhìn của ông hoạ sĩ. Nàng yêu ông họa sĩ bằng một tình yêu con trẻ. 

Có thể cứ là như thế, có thể sẽ là khác đi, nếu không có sự đột nhiên biến mất của ông. Nhàn đi học về, thảng thốt đứng trước cánh cửa khóa im ỉm của căn nhà ông họa sĩ. Ghé mắt vào bên trong, nàng chỉ thấy những tấm vải phủ kín những bức tranh vẽ dang dở, đồ đạc đã gọn ghẽ. 

"Chú Tiến đi thực tế thực tiếc gì ấy. Chú ấy gửi cho con mấy bức tranh kia kìa, bảo thích thì đóng khung mà treo" - Mẹ đang nấu cơm trong bếp nói vọng ra. 

Cầm cuộn giấy buộc bằng một sợi dây vải, Nhàn mở ra. Đó là những bức tranh phong cảnh, tuyệt không có bức nào là tranh thiếu nữ và nhất là bức mà nàng đang mong. Mảnh giấy với những dòng chữ to nguệch ngoạc như cố tình thờ ơ: "Cháu Nhàn, chú đi xa một thời gian. Bức tranh vẽ cháu chú vẫn chưa hoàn thành. Còn cháu, chú luôn mong cháu có một hạnh phúc tròn đầy". 

Đêm đêm, nàng mơ thấy ánh mắt thăm thẳm của người họa sĩ, mơ những ngón tay dài vung vẩy chiếc bút lông như múa trên tấm toan. Mơ vành môi rộng phủ kín lên môi nàng ngọt ngào ấm áp. Ngực nàng căng tức đau đớn vì thèm muốn bàn tay mềm mại của người họa sĩ vuốt ve lên thân thể nàng như đã từng vuốt ve trên những bức tranh màu. Nàng đã biết yêu với một tình yêu đàn bà, nhưng người đàn ông ấy không trở lại. 

Người hoạ sĩ ấy không trở lại một lần nào. Nhàn nghe người ta bảo chú bị một căn bệnh nan y, nên phải trở về quê để người thân chăm sóc. Một buổi sáng nàng quặn lòng nhìn người nhà chú Tiến đến thu dọn đồ đạc, có một vài bức tranh hình như là còn dang dở, họ đem đốt đùng đùng cùng với những rác rưởi ở trước cửa. Nàng chui vào một góc kín, khóc. Không hiểu nàng thương những bức tranh hay thương người họa sĩ. 

Nàng kiên quyết thi vào Đại học Mỹ thuật, mặc mọi người trong gia đình gàn và năm đầu nàng bị trượt. 

Tranh của anh là cạm bẫy vô hình

Cho mắt em sa vào trong đó

Tâm hồn anh là cửa phòng rộng mở

Em bước vào lạc lối, bơ vơ.

Nàng đề mấy câu thơ vào bức tranh nhỏ nhất của chú Tiến, luôn treo ở đầu giường suốt mấy năm học đại học. Nàng không yêu ai được, lạ thật. Nàng trở thành đề tài bàn tán. Một thân thể phồn thực như thế mà suốt tối thứ bảy và ngày chủ nhật chỉ để lăn ra học vẽ. "Tại nó chẳng có năng khiếu gì cả mà cũng đòi học cái môn đòi hỏi tài năng". Nàng im lặng, nàng thờ ơ. Không có một người con trai nào khiến trái tim nàng rung động. Đêm đêm nàng lại mơ, những giấc mơ ân ái với người đàn ông đã đánh thức bản năng đàn bà trong nàng. 

Phần II

Đã hơn 20 năm trôi qua, Nhàn đã có tất cả những gì mong muốn, nhưng thực ra Nhàn lại chẳng có gì ngoài những giấc mơ. Đôi khi Nhàn cũng thấy cô đơn, nhưng chỉ thoảng qua vì nàng quá bận rộn với công việc của một lãnh đạo cơ quan văn hóa. Có thể Nhàn vẫn tự bằng lòng như thế, nếu như... 

Vâng nếu như không có cái buổi chiều hôm ấy, cái buổi chiều như thường lệ Nhàn vẫn lên tập thể dục trên cái ban công phía sau tầng hai, nơi chỉ để phơi quần áo và đặt vài chậu cây cảnh cho mát mắt. Trời bỗng nổi gió sau một ngày nóng ngột ngạt. Nhàn bước ra đứng sát vào lan can để tận hưởng cơn gió chiều hứa hẹn một trận mưa. 

Chưa bao giờ Nhàn để ý nhìn xuống khu nhà phía dưới, nơi có những khoảnh sân hẹp, những căn bếp cũ kỹ cùng những vòi nước chảy rả rích suốt ngày. Nhưng hôm nay nàng lại nhìn xuống, có thể vì tiếng dội nước khá mạnh, thật hiếm hoi ở khu thiếu nước này. Và nàng chợt giật lùi lại, bởi ở phía dưới ấy, nàng đã kịp nhìn rõ một thân thể đàn ông đang tắm, trần truồng. Nhàn nhăn mặt bực mình, tại sao anh ta không tắm trong nhà tắm.... 

Nhàn vội lẻn vào nhà, nhẹ nhàng như sợ có ai nhìn thấy. Nằm vật ra giường, nàng nhắm mắt lại như để quên đi cái hình ảnh chỉ như một cái chớp mắt, thế mà sao nó cứ hiển hiện thật rõ nét, dù chỉ nhìn được từ phía sau lưng, nhưng cũng đủ để nàng nhận ra một thân thể đàn ông với những thớ thịt cuồn cuộn, nâu bóng dưới làn nước chảy. 

"Cộc cộc cộc..." - tiếng gõ cửa, nhẹ nhàng và nhẫn nại. Nhàn thoáng khó chịu vì sáng nay là chủ nhật. "Chị gì ơi, có phải nhà chị rơi cái áo tối qua không?". Chết rồi, đêm qua mưa to gió mạnh, nàng quên mất là nàng còn có đầy một dây phơi quần áo chưa kịp lấy vào. 

- Của chị phải không? Nó rớt sang nhà tôi, nguyên cả cái mắc đấy - Người đàn ông nói khi chị vừa kịp ló đầu ra. 

- Vâng, đúng rồi, cám ơn anh. 

"Không có chi". Người đàn ông cũng vội vã quay đi và vào căn nhà ngay bên cạnh. Té ra là người đàn ông tắm hôm qua. Một khách thuê mới, hay là một chủ mới? Căn nhà đó ọp ẹp ẩm thấp lắm, đến nỗi sinh viên cũng không muốn thuê cơ mà. Nhàn biết chủ chính của căn nhà đó đã vào Sài Gòn từ lâu, để lại cho một người bà con trông coi và nhờ bán, nhưng người này không chịu bán mà muốn kéo dài thời gian để cho thuê kiếm tiền nên căn nhà không được sửa chữa. Nàng chợt thấy xấu hổ, chẳng biết anh ta có phát hiện ra cái ban công nhà nàng và chính nó là nguyên nhân khiến nàng quên rút quần áo vào không? 

Hôm đó nàng về muộn vì có nhiều cuộc tiếp đãi khách khứa. Thực ra nàng cũng rất ít khi ăn cơm nhà. Có một mình nấu nướng cũng lích kích. Nàng về đến nhà thì trời đã tối om, sờ tay bật điện, sao thế này? Mất điện ư? Không phải, xung quanh các nhà khác vẫn sáng trưng. Nàng mở toang cửa đẩy xe vào, một mùi khét lẹt bốc lên, mùi khét của cháy điện. Nàng lần tìm cái đèn tích điện, bật lên. 

Chà, lúc này nàng mới sực nhớ ra, sáng nay đi làm vội quá, nàng đã quên rút cái ấm điện. Trời ơi, biết làm thế nào đây, nàng rất sợ đụng đến điện, nàng định rút điện thoại nhắn tin cho cậu em trai đến sửa. Nhưng nàng chần chừ vì bỗng nghĩ đến người hàng xóm mới. 

May quá, nhà bên mở cửa, nàng rụt rè gọi: "Anh gì ơi!". Một cậu thanh niên còm nhom đang ngồi trên giường với cái bàn học nhỏ xíu ngẩng lên: "Cô hỏi gì ạ?", "À à, cô muốn nhờ sửa điện giúp cô với, cô không biết gì về điện cả nên...". "Điện thế nào ạ?" - Người đàn ông từ dưới bếp chạy lên, xoa bàn tay ướt vào vạt áo. 

Rồi anh ta quay ngay vào trong nhà lôi đủ những dụng cụ cần thiết cho việc sửa chữa, lạ thật cứ như anh ta đã biết trước việc này". “Chị soi đèn để tôi nối cầu chì nhé, cháy cầu chì thôi mà", "Xong rồi", đèn bật sáng. Sáng đến nỗi nàng cảm thấy ngượng ngập. "Cám ơn anh, anh mới chuyển đến đây ạ, lát nữa mời anh sang uống nước nhé". "Vâng, không có chi". Nàng tắm rửa dọn dẹp qua loa rồi pha một ấm trà, nhưng không thấy anh ta sang. Sáng sớm khi nàng dắt xe ra ngoài thì đã thấy nhà khóa cửa. Họ đi đâu mà sớm thế? 

Dạo này nàng hay thích về nhà nấu cơm ăn chứ không ăn linh tinh ở ngoài nữa. Có hôm nàng về rất sớm, mua hẳn một con cá to, kỳ cạch nấu nấu nướng nướng, cứ như chuẩn bị thi nấu ăn, rồi nàng múc một bát canh to bưng sang nhà anh hàng xóm. Cho mà nói như phân bua: "Tôi thèm ăn canh dấm cá, mua con nhỏ thì không ngon, mua con to thì ăn không hết, nên tiện thể tôi nấu luôn...". 

Chủ yếu nàng muốn cám ơn những việc mà anh đã giúp nàng. Nào là cái quạt điện vẫn kêu sòng sọc, vào tay anh một loáng đã êm ru. Cái ấm điện cháy, nàng định vứt đi, anh bảo đưa anh đi thay, chỉ mất chục ngàn. Cái ổ cắm điện bị lỏng, cắm phích cứ phải ấn ấn xoay xoay mãi mới vào điện, anh kỳ cạch một lúc là đâu vào đấy. 

Đó là chưa kể cái cửa sổ đã lâu rồi đóng không khít, anh bào bào sửa sửa thế nào mà đóng khít khao như cửa mới. "Sao mà anh làm cứ như thợ ấy" - Nàng tấm tắc. "Thì tôi vốn là thợ mà lị, trước khi làm một thợ xe ôm lành nghề thì tôi vốn là một thợ tiện lành nghề của một xí nghiệp cơ khí lớn nhất tỉnh. Sau đó xí nghiệp ít việc, lương không đủ sống, tôi bỏ đi làm thuê linh tinh, làm mộc làm nề, nên mới biết lắm nghề thế". "Bố con anh thuê căn nhà này làm gì, ở như vậy ảnh hưởng đến sức khỏe lắm?". "Chúng tôi ở tạm thôi, cháu nó có tiêu chuẩn ở trong ký túc xá, nhưng vì bà mẹ tôi ốm nặng đang phải nằm ở bệnh viện K, tôi phải ra đây chăm sóc cụ, nên thuê nhà để hàng ngày có chỗ đi đi về về. Cháu nó cũng đến ở cho vui thôi". 

Phần III

Té ra nàng cũng là người thích nấu ăn và nấu ăn cũng ngon ra phết. Mỗi khi bố con anh hàng xóm tấm tắc khen những món ăn nàng đem sang, nàng thấy sung sướng như chưa hề có một niềm hạnh phúc nào như vậy. 

Tuy nhiên anh hàng xóm chạy xe ôm lắm khi cũng đến khuya mới về. Đã thế, mấy hôm nàng để ý không thấy anh ở nhà, dấu hiệu là không nghe thấy tiếng tắm rửa oàm oạp phía sau. Từ hôm bắt gặp anh tắm nuy đến nay, Nhàn không dám lên ban công một lần nào vào buổi chiều nữa. 

Nhiều khi nàng nhận ra nàng chỉ nhìn thấy anh ta với một thân thể nâu bóng cuồn cuộn những bắp thịt chứ không phải bằng bộ quần áo bộ đội cũ kỹ. "Bố cháu phải ở luôn trong bệnh viện, mấy hôm nay bà cháu mổ" - Cậu con trai trả lời không mấy mặn mà, làm nàng không dám hỏi cặn kẽ. 

Nàng mua hai hộp sữa bột, đứng đợi trước cổng bệnh viện suốt cả buổi chiều. Nàng đoán không sai, chắc chắn anh phải đi ra ngoài mua cái gì đó. Và nàng đã gặp anh. "Chị, cám ơn chị" - Anh run run nói, mắt không dám nhìn nàng. "Không có gì, tôi thật vô tâm, không biết bà cụ lại nặng thế". 

Nàng rủ anh cùng đi ăn chiều. Nàng đã từng ăn cùng với nhiều đàn ông, nhưng sao lần này nàng lại thấy hồi hộp đến thế. Một bữa cơm bình dân ngoài quán, nhưng nàng có cảm giác như đang được ăn trong một gia đình. Nàng được gắp thức ăn mời anh, hỏi anh món này món kia ăn có được không? Tất cả điều này hình như trước đó là người khác dành cho nàng. 

Cơn bão lớn sắp đổ bộ vào thành phố, chỉ trong vòng đêm nay. Đài truyền hình thông báo khẩn cấp. Tuy nhiên sống giữa thành phố, chẳng mấy ai quan tâm cho lắm, người ta chỉ sợ nhất là mất điện. Nàng cũng ngại mất điện nên về sớm, qua chợ mua ít thức ăn chuẩn bị cho bữa chiều và có thể cho cả ngày mai, nàng cố ý mua cho cả bố con anh hàng xóm. 

Trời vừa sập tối, thì những cơn gió mạnh đã va đập những cánh cửa ầm ầm, và điện vụt tắt. Nàng bật công tắc chiếc đèn tích điện để bàn rồi đóng chặt cửa, nằm dài trên giường, chẳng còn lo gió thổi tắt đèn như dạo trước. Thật giá trị nhất chuyến đi Móng Cái vừa rồi là mua chiếc đèn này, chứ không như một lô các đồ điện tử đã lần lượt giở chứng. 

Rồi nàng bỗng bật dậy, xách vội cây đèn sang nhà anh hàng xóm. Khi cửa vừa mở, chút sáng duy nhất lập lòe trong nhà vụt tắt ngấm, nhưng nàng nhận ra, cậu sinh viên đang ngồi trước chiếc bàn với ngọn nến vừa tắt còn vương một làn khói mỏng. "Cháu dùng chiếc đèn tích điện này mà học, cô không làm gì tối nay cả". Mắt cậu sinh viên sáng lên: "Vâng, cháu cám ơn cô, sáng mai cháu phải thi hết môn rồi". Nàng quay về, cũng chợt nhận ra, nhà nàng chẳng có một cây nến nào. Đang mò mẫm nhờ những tia chớp bên ngoài, chợt nàng nghe tiếng anh hàng xóm đứng trước cửa: "Chị cầm cây nến mà thắp chứ, tối thế biết lối nào mà lần. Tôi biết chị không trữ nến đúng không?". "Vâng, vâng, anh cho tôi mượn, để tôi tìm cái bật lửa đã". "Tôi mang sẵn đây, để tôi thắp luôn cho chị". 

Anh bật máy mấy lần nhưng ngọn lửa không đậu được. "Để tôi đóng cửa cái đã, gió quá" - Nàng vội vàng chạy ra đóng cửa. Nhưng vội thế nào mà nàng va vào ngưòi anh, làm anh tưởng nàng vấp ngã nên giơ tay đỡ, trong một tích tắc, nàng đã chạm sát vào người anh, cũng trong tích tắc nàng nhận ra cái thân thể rắn chắc nóng ran, có mùi xà phòng thơm rẻ tiền nhưng nồng nàn sạch sẽ. "Ối chết, xin lỗi" - Nàng lập cập nhoài khỏi tay anh, anh rời ra rồi bỗng dưng níu lại ôm choàng lấy nàng. Hơi thở anh gấp gáp nóng hổi. Nàng cũng thở gấp gáp nhưng không muốn thoát khỏi anh, nàng áp vào ngực anh, mặc kệ cho vòng tay anh ghì chặt. 

Tất cả diễn ra trong im lặng, chỉ có tiếng thở nhẹ cùng tiếng gió ào ào bên ngoài, giật tung những chiếc lá khô rơi xào xạc. Vũ điệu của hai đôi bàn tay cứ mỗi lúc một xoắn xuýt hơn, bấu chặt hơn như không tải nổi cơn cuồng phong trong hai thân thể. Họ lăn ngay ra cái nền lát gạch hoa lạnh tanh vẫn không dập được sức nóng của dục tình. 

Anh chỉ còn kịp nhoài tay đóng vội cánh cửa rồi lao vào nàng khi đó chỉ còn là một Eva... "Em..." - "Anh..." - Tiếng nói bật ra khi vũ điệu cơ thể sắp kết thúc, như tiếng gọi sơ khai của loài người. Hình như bên ngoài gió đã thôi gào thét, những hạt mưa lộp bộp rơi xuống, bão đã tan, ở thành phố ít khi phải chịu những cơn bão lớn. 

Nàng rã rời như vừa trên thiên đường rơi xuống mặt đất. Anh cúi xuống nói khẽ khàng: "Chị Nhàn, tha lỗi cho tôi, tôi... tôi không thể kiềm chế nổi". "Anh về đi" - Nàng quay mặt giấu những giọt nước mắt nóng hổi từ từ ứa ra. 

Đã mấy ngày rồi nàng tránh mặt anh, mà hình như anh cũng vậy. Chẳng lẽ buổi sáng anh đi thật sớm và cố tình về thật muộn? Mà thực ra nàng đâu có giận anh. Đã một tuần trôi qua, nàng không thể chịu nổi. "Bố có nhà không, cô muốn nhờ sửa cái lò vi sóng, nó bị..." - Nàng chưa nói hết câu thì cậu con trai đã trả lời cộc lốc: “Bố cháu không có nhà". "Vậy khi nào bố về...". 

"Bố cháu không về đây nữa, bố cháu đưa bà cháu về nhà rồi, à cháu gửi cô cái đèn". "Thôi cháu cứ cầm lấy mà dùng, cô có cái khác rồi". "Không, cái đèn này ngồi học nhức mắt lắm". "Hay tại hôm đó cháu học khuya quá, chứ thỉnh thoảng dùng khi mất điện thì ...". "Hôm đó cháu cũng đâu có dùng, học một lúc thấy nhòe mắt cháu phải tắt đi đấy". Nàng thấy chân như sắp khuỵu xuống. Nàng cố nói thật tự nhiên: "Thôi, cháu cứ để đấy, cô về đây". 

Nàng nằm trên giường không biết đã bao lâu, nhưng không tài nào ngủ được. Mắt nàng mở trừng trừng nhìn lên trần nhà. Trên đó là hình ảnh người đàn ông đang tắm, thân thể bóng loáng lăn tăn những hạt nước đọng trên bờ vai nâu sậm. Nhiều đêm nàng đã muốn ghì siết lấy cái thân thể ấy. 

Không giống với những đêm nàng ân ái với hình bóng người họa sĩ của nàng. Nó không đẹp đẽ lãng mạn, nhưng lại quá sôi sục và ngọt ngào. Nàng bật dậy và nàng muốn vẽ, một ngọn lửa đam mê nghệ thuật bùng cháy trong lòng. Tại sao không phải là một bức người đàn ông tắm nhỉ. Xưa nay người ta cứ bận tâm với những vẻ đẹp muôn kiểu của đàn bà khỏa thân, mà không biết đến sự khỏa thân của đàn ông tắm mới tuyệt làm sao. 

Nàng biết từ khi là một họa sĩ đến giờ, nàng chưa hề vẽ nổi một bức tranh nào cho ra hồn. Vậy mà nàng vẫn đang lãnh đạo cả một nhóm họa sĩ có tầm cỡ hẳn hoi kia đấy. Nàng ngồi bật dậy, lấy giá vẽ và vẽ như lên đồng. Những đường cọ cứ vung vẩy, lúc miết một cách quyết liệt, lúc lại run rẩy như không dám chạm vào tấm toan. Đến gần sáng thì nàng gục xuống thiếp đi. 

Bức chân dung một người đàn ông vừa như rõ nét lại vừa như nhòe đi trong làn nước đang chảy từ trên vai xuống. Nàng đi làm mà tâm trạng để hết ở nhà. Bao giờ về đến nhà nàng cũng vội chạy lại chỗ bức tranh để ngắm, mà như không phải để ngắm. Nàng hồi hộp muốn xem nó thế nào, như một cậu bé trồng cây, hàng ngày sốt ruột muốn đến xem cây đã lớn chưa. Nàng cảm thấy như một ngày nào đó người đàn ông trong bức tranh sẽ bước ra... 

Một ngày, nàng đi về và nhặt được một phong thư, không tem, không tên người gửi, người nhận, nó được nhét vào khe cửa nhà nàng. Trong thư là một dòng chữ rắn rỏi: 

"Chị Nhàn, tôi đã trả nhà và dọn về quê rồi. Tôi biết chị giận tôi lắm vì tôi đã không gặp chị để chào một lời từ biệt. Nhưng có lẽ như vậy tốt hơn cho chị. Tôi ra đi thực sự rất thương chị, và cả nhớ nữa, mặc dù có thể chị không thèm tình thương của tôi. Nhưng điều này tôi phải nói. Tại sao chị phải như vậy. Tại sao chị không sống đúng với bản thân mình. Tôi luôn mong chị có một hạnh phúc mà đáng ra chị phải có. Tha lỗi cho tôi. 

Chào chị". 

Nàng lại chỗ bức tranh, gạt tấm vải phủ. Người đàn ông đẹp như tượng thần Davit, nhưng quay lưng lại phía nàng. Vẫn chỉ là bức tranh. Nó không bao giờ trở thành cái thân thể đã đem lại cho nàng những giây phút ngọt ngào, sự rung cảm đê mê của thể xác, cái niềm sung sướng mà bao nhiêu năm nàng vẫn chỉ tưởng tượng mơ hồ. Nàng cũng chợt hiểu rằng vì sao người họa sĩ năm xưa đã không vẽ trọn bức tranh nàng khỏa thân và ra đi không hề trở lại.

 

NƠI MẶT TRỜI LẶN

(Tác giả: Nguyễn Cẩm Hương)

 

Anh vẫn như xưa. Cảm giác đầu tiên khi cánh cửa phòng bật mở, tôi bước vào sau câu giới thiệu oang oang của người nhân viên hành chính: "Có chị nhà báo dưới thành phố muốn gặp anh". Anh ngẩng lên nhìn tôi ngỡ ngàng rồi bỗng dịu lại ngay như có làn gió thổi, nhường cho một nụ cười thật xã giao.

Anh cán bộ hành chính thủ tục vài câu rồi ý tứ rút lui. Anh cũng mải cọ mấy mấy cái chén cáu bẩn để che giấu một sự lúng túng nào đó. "Em đi công tác?". Tôi gật, không thể nói thêm rằng đó chỉ là cái cớ. Tôi đã phải trở thành kẻ "man mát" để được nhận chuyến đi này.

Anh vẫn từ tốn pha trà, chậm rãi rót cho tôi, cho anh. Tôi bắt đầu ngại không biết uống xong chén trà, anh sẽ nói gì với tôi.

"Em chắc mệt, đường lên đây xấu lắm". Tôi lại gật nghẹn lời không muốn kể cho anh rằng: Chuyến xe có đến hai phần ba số người bị nôn mửa. Còn tôi lại không. Thực ra tôi không còn tâm trí đâu để mà nghĩ đến đường với xá. Tôi chỉ nghĩ đến cái giây phút gặp anh.

Một cô gái thập thò ngoài cửa, anh quay lại bảo tôi: "Bây giờ em về phòng nghỉ kẻo mệt. Sáng mai hãy bàn kế hoạch làm việc".

Anh cùng tôi đi theo cô gái phục vụ. Căn phòng khách ẩm thấp, có dễ cả năm chưa hề có ai đến ở. Vừa mở cửa tôi đã được "thưởng thức" một luồng hơi mốc thếch, khiến tôi hắt xì hơi liền mấy cái. Anh nhìn tôi ái ngại: "Trên này ít khách, với lại huyện còn nghèo, phòng khách chưa được trang bị hiện đại như ở dưới xuôi". Cô gái phục vụ cầm cái chổi lau cũng mốc meo khua khoắng một hôig để xua muỗi làm bụi bay mù mịt. Xong cô cầm khay nước đi rửa.

Tôi bước vào, rón rén ngồi xuống giường, ngao ngán nhìn căn phòng. Anh chỉ tay ra phía ngoài: "Giếng nước ở đằng kia, en ra đó rửa. Có nhà tắm đấy".

Thấy anh cứ luýnh quýnh khổ sở, tôi đâm thương hại "Anh cứ lên làm việc đi, mặc em". Giọng anh thểu não: "Chiều nay anh phải tiếp đoàn Truyền hình tỉnh, em thông cảm...".

Tôi cắn chặt vành môi, muốn anh đi nhanh khỏi để tôi còn thả phanh cho những giọt nước mắt đang chực lăn xuống má.

Ra đến cửa anh bỗng quay lại, nhìn tôi với ánh mắt nhìn kỳ lạ. Chân tôi run lên, tôi đang có cảm giác như sắp khuỵ xuống. Nếu như anh bước lại phía tôi chỉ một bước nữa thôi, có lẽ tôi sẽ đổ nhào vào anh như một thân cây bị đốn gốc.

Nhưng anh không bước lại, chỉ thấy cặp môi anh khẽ run run, chắc anh định nói điều gì nhưng ngay lập tức anh quả quyết bước đi.

Chuyến công tác của tôi đợt này mang trọng trách là phải viết cho được một bài phóng sự điều tra về tệ nghiện hút đang thành mối nguy kịch ở các bản vùng cao trong tỉnh. Hơn nữa lại có nguồn tin, các băng hình "tươi mát" cũng đang tràn lên cả thị trấn miền núi heo hút này. Lạ thật, viết phóng sự điều tra mà Tổng biên tập báo tôi lại gọi điện lên huyện báo trước; Ông nói: "Yên trí, cô lên sẽ được đón tiếp chu đáo". Trước khi đi ông phó Tổng biên tập chào tôi bằng cái cười nhếch mép: "Chúc cô hoàn thành được nhiệm vụ". Còn anh bạn cùng phòng, đáng lẽ là phần việc của anh thì luôn nheo mắt nhìn tôi rồi buông lửng một câu: "Rất cảm ơn bạn". Tôi chẳng hơi đâu bận tâm về họ, tôi đang nóng lòng, tôi đang khấp khởi...

Cô bạn thân cùng cơ quan tiễn tôi ra bến xe buýt mới hỏi nhỏ: "Chắc mày định cho ông ấy một vố hả?". Tôi bực mình quát lên: "Im đi, cả lũ chúng mày...". Tôi định nói cả lũ chúng mày như loài chó đói, chỉ chờ dịp để vồ nhau. Nhưng sợ bạn tôi giận đành im lặng. Tôi không thể tâm sự với ai. Ai thông cảm cho tôi? Một người đàn bà đã có chồng. Anh cũng vậy, đã hơn mười năm, chắc anh cũng yên ổn cả rồi. Vậy mà từ bấy đến nay tôi vẫn canh cánh một nỗi ước ao được gặp lại anh dù chỉ một lần, để làm gì nhỉ? Để xem anh sống ra sao, có hạnh phúc không? Chưa hẳn thế. Nhưng đơn giản là tôi mong gặp anh đến khốn khổ.

Anh vẫn đẹp, dù ở cái xứ rừng thiêng nước độc. Mà sao anh không già đi nhỉ. Hay là tôi đã già?

Hai ngày làm việc với Uỷ ban huyện, tôi như thượng khách. Hết phó Chủ tịch lại đến Chủ tịch gặp gỡ tiếp đón, chủ yếu là ăn tiệc. Hết ăn sáng đến ăn trưa, chưa nguôi bụng lại phải ăn chiều.

Đó là chưa kể các trưởng ban còn muốn mời riêng tôi tại nhà. Có lẽ họ muốn tăng thêm phần thân thiết.

Tôi chưa bao giờ thấy mệt như những buổi "làm việc" thế này. Có lẽ nếu ai gặp phải trường hợp như tôi mới biết thương các sếp. Đừng tưởng làm sếp là sướng lắm đấy.

Tôi đóng chặt cửa phòng, duổi người trên tấm đệm mốc xì, nhưng vẫn sảng khoái hơn phải ngồi trong các phòng khách để nghe mà chửng nghe được gì, để cười như cười trước ống kính, để nói những lời không phải của mình. Kiều này có lẽ tôi phải điện về cơ quan xin hoãn bài phóng sự chứ nghe bản báo cáo của phó Chủ tịch phụ trách văn xã thì tôi phải viết bài cơ ngại mới đúng.

Anh vẫn như cái bóng, lảng xa tôi, hay anh nhường tôi cho các lãnh đạo? Mà oan cho anh, tôi cũng như con lắc, chẳng biết mình đang lắc theo cái máy nào, cứ luẩn quẩn trong dãy nhà của Uỷ ban huyện. Nhưng công việc của tôi cần anh, anh là trưởng phòng văn hoá.

Có tiếng gõ: "Cộc, cộc...". Tôi vờ ngủ không lên tiếng. Bên ngoài tiếng chị phục vụ nhắc khẽ: "Chị ấy mệt ngủ say, trưa nay em thấy mấy bác ép chị uống nhiều bia quá". Bước chân nhẹ nhàng xa dần. Tôi nhận ra anh. Dù đã mười lăm năm nhưng tôi vẫn nhớ như in tiếng bước chân của anh khoan thai, nhẹ nhõm.

Hồi ở ký túc xá sinh viên vào mùa thi, bọn con gái chúng tôi dặn nhau: Hễ người yêu đứa nào đến thì hé cửa ra bảo: "Nó không có nhà". Khi tiếng chân xa dần chúng tôi mới cười phá lên rồi kháo nhau như mồ bò: "Khổ thân chàng, phải đạp xe những bốn năm cây số cơ đây, mà hôm nay trăng lại đẹp thế". Anh biết thừa những trò của chúng tôi, nhưng không giận.

Anh học bên trường Sư phạm, tôi học Tổng hợp. Cả hai cùng dân xã hội. Anh khoa Sử, còn tôi khoa Văn. Nghe có vẻ chéo giò thế nào. Đáng lẽ anh phải học Tổng hợp, còn tôi Sư phạm mới đúng. Bọn cùng phòng lúc nào cũng nhiếc tôi: "Rồi đời mày cũng thành cô giáo làng mất thôi". Tôi lại chúa ghét nghề giáo. Không phải tôi không yêu trẻ, chỉ vì tôi ngại đứng trên bục giảng. Tôi thích bay nhảy, đi đây đi đó... Thỉnh thoảng đi bên anh tôi cũng thấy lo lo. Nhỡ may anh phải về một làng quê nào đó, liệu tôi có theo nổi anh không? Nhưng hồi đó chả cái gì lấn át được tình yêu. Chúng tôi thường xuyên gặp nhau vào những chiều thứ bảy, hoặc có khi suốt cả những buổi tối trong tuần. Học khoa văn cũng nhàn. Chỉ khi vào mùa thi mới phải học ngày học đêm. Chúng tôi đi chơi thành kỷ lục, từ sáu giờ tối đến hai giờ sáng. Khoa văn chúng tôi thì coi đó là thường, nhưng bên Sư phạm anh có vẻ khổ sở hơn, ít ra anh cũng phải chịu cái "búa rìu" trêu chọc.

Lần tôi sang trường anh chơi, bọn con trai nói kháy nhau: "Mày biết không, thằng Hưng đã đẩy được 'niên đại' đi chơi với người yêu lên tới ba giờ sáng rồi nhé". Tôi thẹn đỏ mặt, còn anh chỉ cười trừ.

Bọn con gái phòng tôi ghét cái mác Sư phạm của anh, nhưng cũng phải công nhận: Tôi may mắn. Anh là bộ đội đi học, vốn là kính Hải quan. Người anh chắc lẳn như cá dưa, nước da nâu sậm. Khuôn mặt đầy ấn tượng. Bọn bạn có đứa tấm tắc: "Trông đẹp như Thần Đa - Vít". Tôi thì "chết" vì đôi mắt anh. Một đôi mắt có tròng hơi nâu trông êm như màu biển nắng, đôi lúc nó lại cháy lên như lửa.

Anh quả là người của biển, từ dáng người đến tính cách. "Dữ dội và dịu êm, ồn ào và lặng lẽ"*. Tôi gặp anh trong ngày lễ mùng tám tháng ba được tổ chức tại phòng ký túc xá sinh viên. Anh đi cùng với người bạn và trở thành nhân vật mới lạ trong đám bạn trai của cả phòng chúng tôi. Hôm ấy tôi có đến ba bạn trai mang hoa đến tặng, người nào cùng kèm thêm ánh nhìn tha thiết.

Tôi chia đều nụ cười cho cả ba. Ai cũng tưởng mình được, nhưng ai cũng ngấm ngầm nỗi ghen tuông. Lúc chia tay ra về, anh chàng đi bộ đội đen kịt trong góc phòng chẳng ai để ý, đến trước mặt tôi nói một câu xanh rờn: "Chủ nhật sau tôi đến thăm Hân nhé". Thế mời liều chứ. Chưa ai dám làm quen với tôi kiểu ấy. Tôi nhếch mép cười kiêu ngạo và thích thú.

Chủ nhật sau tôi bỗng quên bẵng, theo mấy đứa bạn ngoại trú về nhà chúng nó làm bún riêu cua. Mãi tối tôi mới về. Bọn bạn trong phòng tranh nhau trách tôi: "Hôm nay mày để cái Thảo mất béng ngày chủ nhật". "Sao?". "Nó phải tiếp khách thay mày chứ sao nữa". "Ông bộ đội ấy à, có phải khách của tao đâu?". "Chúng tao cũng tưởng thế, hoá ra tìm mày". "Nhìn kỹ đẹp giai ra phết nhá, mỗi tội hơi 'si đèn đèn' thôi". "Lính Hải quân phải đen chứ". Cái Thảo bênh vực: "Tao chúa ghét con trai mà da cứ trắng bung bủng". Rồi nó lại gần tôi nói thì thầm: "Tối mai đừng đi đâu đấy nhé. Anh ấy hẹn". Tôi nguẩy mặt: "Ôi dào, thây kệ".

Nhưng tối đến, tôi lại ngấm ngầm trang điểm, ăn mặc tươm tất rồi leo lên giường đọc sách, chờ đợi. Cả tiếng chẳng giở được trang nào, tôi sốt ruột vì muộn mà anh chưa đến. Bọn bạn bấm nhau cười rúc rích: "Dạ thưa ngài Linh mục, hôm nay ngài đi giảng đạo mà quên đeo cây thánh giá ạ". Tôi biết mình bị lộ tẩy, quăng quyển sách bỏ ra ngoài. Vừa chạy xuống hết chân cầu thang đã thấy anh lững thững trước mặt: "Ơ kìa, sao anh đến muộn thế?". "Anh đến lâu rồi, nhưng ngại lên phòng. Biết em thế nào cũng xuống". Thôi chết, lại để lộ bem cả sự chờ đợi của mình, thật vô duyên quá. Tôi lúng túng định giở lại cái bài "muôn thuở" của nữ sinh viên: chủng chẳng, lạnh lùng trước một gã trai đang muốn "trồng cây si". Nhưng muộn rồi, không trở lại được nữa. Hình như anh cũng hiểu được điều đó, anh kéo tôi ra khỏi cơn bùng nhùng của lý trí. Như có ma lực, tôi đồng ý đi chơi với anh mà chẳng cần anh phải tốn công nài nỉ. Ngay cái tối hôm đó, buổi làm quen đầu tiên, tôi đã bị anh chàng ăn sóng nói gió nhấn chìm bằng những nụ hôn điên cuồng như bão biển.

Chúng nó bảo tôi: "Chắc cái Hân ăn phải bùa yêu". Suốt ngày tôi ngẩn ngẩn, ngơ ngơ như kẻ mắc chứng hoang tưởng. Suốt ngày làm thơ về biển. Đầu giường tôi treo đầy các mảnh tranh cắt dán có hình ảnh biển. Tôi nghiện hôn anh, lúc nào cũng nghĩ gặp anh để hôn. Cái hôn mặn chát như muối, môi tôi rộp lên như ăn phải ớt, nên lần nào đi chơi về cũng không giấu được.

Nhưng anh không phải sinh ra từ biển mà từ một miền rừng xa lắc xa lơ.

Quả bom đầu tiên ném vào tình yêu của chúng tôi là cái quyết định nhận công tác của anh. Anh được phân về Sở giáo dục tỉnh nhà. Tôi khóc sưng mắt. Đêm cuối cùng đi chơi chúng tôi tự đẩy "niên đại" từ sáu giờ tối đến sáu giờ sáng, kịp cho anh đi chuyến tàu bảy giờ. Anh không ôm hôn tôi cuồng nhiệt mà lặng lẽ xiết vòng eo tôi bằng đôi tay cứng như sắt.

Hai năm sau chỉ là những lá thư, những nụ hôn qua giấy cùng lời yêu như những câu cải lương.

Anh trở thành thầy giáo vùng cao. Tôi cũng xin về tỉnh nhà, nhưng ở một tờ báo lớn của thành phố. Quê tôi rộng, có đầy đủ cả miền biển lẫn miền rừng. Anh cùng tỉnh nhng chúng tôi ít có dịp gặp nhau. Tôi chờ đợi anh, anh chờ đợi tôi. Cả hai cùng mệt mỏi và quả bom thứ hai ắt phải nổ.

*

Mới bảnh mắt, tôi còn chưa kịp rửa mặt. Anh nhân viên hành chính đã chỉnh tề khúm núm trước cửa phòng tôi: "Mời chị đi ăn sáng, hôm nay đồng chí phó Chủ tịch dặn mời chị tới dự cuộc họp của đoàn thanh niên các xã bàn về chuyển đổi cơ cấu cây trồng". Tôi hoảng quá vội vàng thay đổi nét mặt tỏ vẻ rầu rĩ thê thảm: "Hôm nay tôi bị mệt, choáng đầu lại lâm râm đau bụng. Anh cho tôi xin phép miễn ăn đi. Nhờ anh báo với các anh cho tôi nghỉ ngày hôm nay".

"Vâng, để tôi nói lại, à chị có cần gì không? Y tá?". "Không, tôi tự chữa được. Tôi có mang theo thuốc đây, à tôi muốn nhờ anh...".

"Chị cứ nói".

"Anh nhắc anh Phong là tôi muốn gặp anh ấy có chút việc".

"Được, chị yên tâm".

Không phải đợi lâu, anh đến ngay như đã chờ sẵn.

"Em bị ốm?". Tôi lắc đầu cười cho anh yên tâm: "Em mệt mỏi cái trò này rồi. Em muốn đi chơi, thật tự do. à, vùng quê anh cũng gần đây nhỉ. Bố mẹ anh có còn ở đấy không?".

"Em không tưởng tượng nổi đâu, bố anh là ông ké, mẹ anh là bà mế. Các em gái anh, mặc áo cánh, quấn váy, đội khăn...".

"Thì làm sao? Em càng thích. Em chưa bao giờ được biết một bản vùng cao thực sự. Mang tiếng lên miền núi mà cứ luẩn quẩn ở cái phố huyện này thì chán chết".

"Vậy em thực sự muốn đi?".

"Liệu cái 'Min khù khơ' của anh có đưa em đi được không đấy?".

"Được chứ, nếu em không chê".

"Nhưng anh phải bí mật đấy nhé".

Anh hẹn đón tôi ở chân dốc của thị trấn. Tôi phải lùi ra khỏi Uỷ ban như kẻ chạy trốn. Cả hai lấm lét vội vã hệt hai kẻ ngoại tình.

Cái "Min" của anh té ra khoẻ như con sói rừng, xông xáo, len lách được hết mọi chỗ. Tôi chưa phải đi bộ đoạn nào. Mặc dù đường đất ở đây mà để các nàng "Người tình trăm năm" hay "Nữ hoàng áo đỏ" thì phải gục từ lâu rồi.

Chỉ có lưng anh là đẫm mồ hôi. Hồi xưa anh đèo tôi đi chơi trên chiếc xe đạp Thống Nhất "không chuông, không phanh, không gác-đờ-bu", lưng anh cũng ướt đẫm như thế và tôi áp má mình vào đó rồi bảo:

"Để nó sang cả mình em".

Chúng tôi cười rung cả xe, anh nói: "Má em làm anh mát hẳn". Bây giờ tôi thở dài nhìn từng dòng mô hồi đang chảy rịn qua áo anh.

Đường đến bản kể ra cũng không xa lắm, nhưng ngoằn ngoèo khúc khuỷu, lên dốc xuống dốc chúng mặt. Tôi đau ê ẩm cả người mà không dám kêu ca. Mặt trời đứng bóng chúng tôi mới đến nơi. Đám con nít túa ra tồng ngồng trố mắt nhìn tôi. Một vài phụ nữ ngừng việc kín đáo dõi theo, ánh mắt không ra thân thiện cũng chẳng ra ác cảm.

Anh đưa tôi lên sàn. Mẹ anh chạy ra đón. Hai mẹ con núi líu ríu với nhau bằng tiếng địa phương. Bà kéo tôi vào nhà rồi bỏ ra ngoài đi đâu không rõ. Anh nói: "Mẹ anh đi kiếm cái gì ăn đấy". "Sao lại phải đi kiếm?". "Nhà ăn cơm rồi, bây giờ sang nhà em gái anh, nó lo được".

Tôi cũng đã đói ngấu, nên không thấy áy náy gì. Với lại không hiểu sao đến đây tôi thấy thoải mái như ở nhà. Bà mẹ anh cũng phúc hậu và hiền khô như mẹ tôi. Cả nhà anh cũng vậy, trở về nơi chôn rau cắt rốn anh như thành một người khác hẳn, một trai bản thực thụ.

Chúng tôi ăn cơm lam chấm muối vừng. Anh bảo có thịt ướp khô nhưng sợ em ăn không quen, dễ đau bụng. Tôi bảo: "Em ăn thế này ngon chán". Vừa ăn tôi vừa quan sát căn nhà, nom không khác lắm những ngôi nhà sàn mà tôi đã được thấy trên phim ảnh. Chỉ tội đồ đạc tuềng toàng xơ xác quá. Có lẽ bố mẹ anh nghèo. Phải thôi, từng ấy năm anh đi xa, từng ấy người con đã yên bề gia thất. Hỏi bố mẹ anh còn lại gì cho riêng mình? Mãi không thấy ông cụ đâu, tôi bèn hỏi. Anh đổi sắc mặt buồn bã nói: "Ông cụ ở ngoài chòi kia cùng với em rể anh". Nhận ra trong lời nói của anh có gì u ẩn, tôi nảy ý tò mò: "Em đi thăm cụ có được không?". Anh im lặng, cúi mặt rầu rầu rồi miễn cưỡng đưa tôi đi.

Cha anh giống con kỳ đà phơi khô, cong queo, mốc thếch. Chỉ có hai hố mắt là biểu hiện của sự sống nhưng cũng chỉ như hai đốm hương tàn. Người chồng của cô em gái thì khá hơn. Hắn còn đủ sức khoẻ để trợn mắt và quát nạt người vợ nếu không vừa ý. Cả hai đều dúm dó xộc xệch trong đống chăn đệm hôi rình, xung quanh bừa bãi những dọc tẩu và bát đĩa đen kịt.

"Bản này nhiều người nghiện lắm, em có muốn đi quan sát không? Đủ cho em viết đến ba bài phóng sự đấy". Giọng anh cay đắng. Tôi hiểu ý thở dài, cảm thấy không còn hứng thú gì nữa.

Chiếc Min lại nhảy chồm chồm, tôi nín thở tím lấy áo anh. Có lần tôi tuột tay suýt văng xuống đất. Anh quay lại bảo: "Không túm chặt là lăn xuống vực đấy". Đến đoạn đường bằng bỗng anh dừng xe tắt máy. Tôi ngơ ngác. Anh bảo: "Nghỉ chút, mệt quá, đằng nào tối cùng về tới nhà, anh đi quen rồi lo gì". Nhưng tôi lo, không phải lo trời tối mà lo cho tôi và anh.

Anh đẩy xe vào rệ đường, chỉ tổi ngồi cạnh một gốc cây si. Anh cũng ngồi xuống đó, tựa lưng vào thân cây. Trời chiều tím ngắt, hoang vu. Nắng đã tắt sau các mỏm núi nhưng bầu trời vẫn sáng, xanh trong, bồng bềnh những cụm mây trắng xốp như bông. Tôi cũng ngả lưng vào thân cây nghển mặt nhìn những con chim rừng tao tác gọi nhau về tổ: Anh nghĩ gì, có nhớ đến những kỷ niệm xưa chăng? Ngày ấy nếu ngồi thế này anh chẳng để tôi yên. Thiên nhiên kể cũng đa tình nên nó cũng đồng loã với ý nghĩ tội lỗi của tôi. Gió mơn man như bàn tay ve vuốt, không gian tĩnh lặng như tờ. Có thể nghe được cả tiếng thở sinh sôi của muôn loài trong bạt ngàn xanh thẳm. Người ta bảo đấy là tiếng rừng, cũng âm u tha thiết, cũng ào ạt sục sôi. Đừng tưởng chỉ có biển mới có những âm thanh mang nỗi khát khao thôi đâu.

Hình như anh đang xoay người lại. Bàn tay thô tháp của anh đặt hờ lên vai tôi. Và tôi nhận ra cái mùi đàn ông ấy, cái mùi nồng khét mồ hôi nhưng quyến rũ như men. Không thể tỉnh táo, tôi quên đứt mười lăm năm đã trôi qua, chỉ còn biết nhắm mắt cồn cào chờ nụ hôn rát bỏng thuở nào. Nhưng rồi trời đất bỗng tối sầm lại, tôi chơi vơi như đang rơi xuống vực, ngạt thở như đang chìm xuống sông. Tôi hét lên: Không, cứu tôi với, tôi phải sống.

Tôi cố mở bửng mắt. Vùng vẫy khỏi vòng tay anh lao điên dại vào một lùm cây rập rạp, bàn chân như không chạm đất, chỉ nghe tiếng tim đập loạn xạ như muốn vỡ toang lồng ngực, rồi tôi đổ sụp xuống, hai bàn chân xây xước tứa máu. Nhưng tôi hiểu, anh đã ở cách xa tôi, tôi hoàn hồn, vì mình đã "sống", đã không "rơi xuống vực", không "chìm xuống sông".

Anh lẳng lặng hái lá bóp chân cho tôi rồi giục tôi lên xe về kẻo tối. Hoàng hôn rừng rờn rợn như ở vương quốc ma quỷ. Chúng tôi tiếp tục lên đường, run rẩy và lạnh lẽo. "Con sói rừng" lại nhẫn nại làm cái công việc của mình.

"Bao giờ thì em về, công việc đến đâu rồi".

"Có lẽ ngày mai, tư liệu cũng tàm tạm. Em sẽ viết một bài ca ngợi thành tích văn hoá huyện anh".

Anh cười khùng khục trong cổ họng. Tôi ngồi sau không sao đoán nổi nụ cười lạ lùng ấy mang ý nghĩa gì. Anh quàng tay ra sau nắm lấy tôi rồi kéo sát vào người: "Ôm chặt vào, ở đây chỉ có rừng biết thôi". Tôi áp má vào lưng anh cảm thấy lòng ấm lại.

Bỗng "con sói rừng" lao ầm ầm xuống một đoạn dốc đầy sỏi đá. Tôi sợ hãi ôm chặt lấy anh. "Trời tối rồi, anh đi từ từ thôi kẻo cho cả hai xuống vực đấy". "Không rơi xuống vực được đâu. Tay lái anh vững lắm. Vả lại có rơi thì cũng rơi rồi phải không em?".

Lại những cái bắt tay nhớt nhát lành lạnh, lại sủi ngầu bia bọt, gần hết buổi sáng tôi mới hoàn thành xong thủ tục chia tay với lãnh đạo huyện. Ai cũng tỏ ra lưu luyến trong ánh mắt đỏ bia. Ai cũng giành giật lời chia tay trong những khuôn miệng bóng nhầy thịt mỡ.

Anh đưa tôi về thăm nhà. Vợ anh khá trẻ, cười hiền ngây ngô, mời tôi thật niềm nở. Bầu vú căng sữa ướt dấp dính trên ngực áo. Hai đứa bé nhìn tôi ngơ ngác. Tôi chia kẹo cho chúng rồi hỏi một trong hai đứa: "Cháu học lớp mấy rồi?". "Lớp hai ạ". "Còn cháu?". Chị vợ nhanh nhảu trả lời thay con: "Cháu chưa học lớp nào cả, còn con chị đang đi học lớp năm đấy". Tôi ngạc nhiên nhìn anh, cảm thấy thương cho chị.

Bước ra khỏi nhà anh, tôi thấy lòng bỗng dưng trống vắng. Phố huyện giữa trưa đường vắng ngắt. Tôi thơ thẩn dạo qua các dãy hàng quán. Nơi đây đang tấp tểnh bước vào "công cuộc" đô thị hoá vùng rừng. Cũng dàn nhạc xập xình, ka-ra-ô-kê oe oé, cũng biển quảng cáo phoóc mi ka xanh xanh đỏ đỏ. Những chiếc váy tây bay phần phật trên thân thể các ma-nơ-canh. Thỉnh thoảng một chiếc xe tải chở đầy các sản phẩm của rừng hối hả chạy qua, ném vào hai dãy hàng lớp bụi như thể "ân huệ" của thời "mở cửa". Tôi hình dung đến một ngày nào đó những khu rừng trước mặt kia cũng biến thành những con đường, những dãy nhà ngập bụi như thế này. Rừng phải nhường chỗ cho con người, cho những kẻ chiến thắng.

"Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu".

Tôi rẽ vào một cửa hiệu cho thuê băng hình, lèo tèo khoảng vài chục cái băng để trong tủ kính đã xỉn mờ. Bên ngoài là một sạp hàng bán văn hoá phẩm, cũng cũ kỹ không kém. Chị bán hàng chào mời đon đả đến nỗi tôi nghĩ mình không thể lại đi ra không.

"Ở đây cho thuê băng hình có chạy lắm không hả chị?".

"Cũng kiếm được, cả thị trấn có vài cái đầu vi đi ô nhưng họ mượn luôn ấy, đến nỗi chả còn băng cho họ mượn nữa".

"Thường phim loại nào là chạy nhất hả chị?".

"Băng chưởng Hồng Kông".

"Thế ở đây họ không kiểm tra băng hình à".

"Có đấy, chúng tôi cũng không dám chứa các loại băng xấu, nhưng chả cấm được. Thằng con trai ông phó Chủ tịch Khúc nó chứa cả đống, tôi phải thuê lại của nó nếu có khách cần".

Anh dong xe đi giữa đường nghiêng ngó tìm tôi. Tôi chạy ra gọi bị anh cau có một cách vô lý.

"Em còn đi đâu nữa thế. Anh tìm em mãi. Muộn rồi, mau lên xe, anh đưa ra bến. Chỉ còn mỗi chuyến cuối cùng trong ngày, nói mãi tay lái xe mới chịu đợi đấy". Tôi cuống cuồng theo anh. Bến xe đã vãn người. Chiếc ô tô buýt duy nhất ttrên bên xe đang bóp còi inh ỏi. Mấy bộ mặt ló qua cửa xe tỏ vẻ khó chịu.

Đến trước cửa xe, anh giữ tôi lại, mắt nhìn đi nơi khác, nói ngập ngừng:

"Hân này, thông cảm cho anh. Anh không có quyền gì. Vợ anh sau kỳ cữ sẽ được biên chế chính thức ở Văn phòng Uỷ ban. Còn anh...".

"Nhanh nhanh lên các vị ơi, chia tay gì mà lâu thế hả".

"Thôi em hiểu rồi anh đừng nói nữa".

Tôi giằng cái túi du lịch trên tay anh nhảy vội lên xe. Chiếc ô tô nổ máy, rung lên sòng sọc như con thú bị trọc tiết, phụt lại đằng sau đám khói mù mịt làm nhoè mờ cả khuôn mặt anh.

 

NGƯỜI BẠN CỦA BA

(Tác giả: Nguyễn Cẩm Hương)

 

Bà Tư đang múc dở chè cho khách bỗng tuột tay đánh rơi cái cốc đánh "choét" xuống nền gạch, mặt đờ như cái bánh đa nhúng nước khi cô Hằng ghé tai nói nhỏ: "Thằng Thẹo bị bắt".

Không kịp dọn cái cốc vỡ, cũng không cả một lời giải thích cho khách hiểu sự cố vừa rồi, bà vọt đứng dậy, xô chiếc ghế ra ngoài tong tả chạy. Cô Hằng nhìn theo trút một hơi thở dài nhè nhẹ rồi thế vào chỗ bà ngồi ban nãy nhoẻn miệng cười với đám khách đang trố mắt ngạc nhiên. "Dạ, không có gì đâu ạ, bà ấy về nhà có tí việc, em trông hàng giúp, các bác ăn thêm...".

Bà Tư chạy đến đầu ngõ đã thấy trước cửa nhà người xe lố nhố vây quanh. Nhưng mọi việc có lẽ đã xong. Anh cảnh sát khu vực đang xua tay giải tán đám người hiếu kỳ. Trông thấy bà, anh vội trao lại chiếc chìa khoá rồi bảo: "Có lệnh khám nhà khẩn cấp, bác thông cảm". "Con tôi đâu, nó có tội gì?". "Chuyện đâu có đó, bác cứ bình tĩnh". Chừng như không muốn giải thích gì thêm, anh nhìn bà với ánh mắt chia sẻ rồi vội vã quay gót.

Trong căn nhà cấp bốn ẩm ướt và lạnh như một nhà mồ, bà Tư ngồi bất động, mắt đăm đăm dõi ra phía cửa, cũng không hề nghĩ rằng, trời chiều đã buông, bóng tối đang ập xuống, cần phải bật đèn và thổi cơm chiều. Điều bà đang nghĩ lúc này là chờ một người chắc chắn sẽ đến.

Minh xách túi ni lông có hai chiếc bánh mì kẹp thịt bọc trong tờ báo, ngạc nhiên thấy căn nhà tối om, anh bước vào, cất tiếng gọi: "Cô Tư ơi, sao không bật đèn?".

Bà Tư vẫn ngồi thu lu bên mép giường trong bóng tối, không thay đổi tư thế chỉ buông giọng lạnh như hồn ma: "Anh đến vì chuyện thằng Thẹo bị bắt sáng nay?".

Minh không trả lời ngay. Anh trải tờ báo đặt hai chiếc bánh mì rồi nói thủng thẳng: "Con biết cô cũng chưa cơm nước gì, con mua bánh mì, cô cháu mình cùng ăn rồi con đi trực luôn". "Chứ không phải chuyện thằng Thẹo?". Minh thấy nóng sau gáy như thể ánh mắt bà Tư đang thiêu đốt anh. "Con biết, nhưng em Thẹo đã đi quá xa rồi. Tang vật vẫn còn nằm sờ sờ trong nhà". "Cái gì vậy?". "Dạ. Hêrôin". "Trời!". Bà Tư giơ cả hai cánh tay lên trời gào lên rồi đổ vật xuống thành giường. Minh vội vàng chạy lại đỡ bà. Nhưng bà Tư gạt tay anh ra và ngẩng phắt lên: "Có phải chính anh đã ra lệnh bắt nó? Anh có biết nó chính là... là đứa con tôi yêu nhất trên đời này không?". Minh trót cắn dở miếng bánh mì và bỗng bị tắc nghẹn trong cuống họng. Anh biết nói thế nào cho bà Tư hiểu. Khi cái tên Thẹo bớt đỏ được hình thành trong chuyên án cũng là khi anh mắc bệnh mất ngủ từ đó đến nay.

Bà Tư bỗng sụp xuống chân anh, nước mắt trào lên đầy hai khoé mắt: "Con là công an, hãy cứu em, miễn sao nó được sống. Cô có thể nuôi nó ở tù chứ không thể mất nó". "Kìa, cô đừng làm thế, cô hãy bình tâm đi". Minh đỡ bà Tư đứng lên rồi vội vàng chạy ào ra cửa như chạy trốn.

Đã mấy năm nay bà Tư đối với anh như người ruột thịt. Đó là người đàn bà mà ba anh trước khi mất đã trối trăng lại rằng: "Ba có một người bạn gái cùng quê, cùng chiếu đấu thuở thiếu thời. Khi nào ba mất, con hãy báo cho bà ấy biết".

Sau khi gọi điện thông báo cho họ hàng nội ngoại, bạn bè gần xa, Minh mới sực nhớ đến người mà ba dặn. Anh đánh điện với ý nghĩ hững hờ: "Xa thế, chắc gì bà ấy sẽ đến." Thế nhưng người bạn của ba đến sớm nhất lại chính là bà Tư. Cùng đi với bà còn có cậu con trai mà bà bảo: "Nó trượt đại học rồi, đi với má cho khuây khoả". Bà thắp nén hương cho ba Minh, lầm rầm khấn rất lâu rồi quay lại bảo cậu con trai đứng nghệt mặt nhìn cỗ quan tài sơn đỏ: "Con vào thắp hương lạy bác đi con. Đây là bác Chính, bạn chiến đấu của má ngày xưa".

Một tuần ở lại giúp việc tang gia cho gia đình Minh như một người trong họ, trước khi ra về, bà nắm tay Minh nói nghẹn ngào: "Cô thương con mồ côi mẹ từ sớm, nay lại mất ba. Họ hàng bên nội cũng chẳng có ai. Nếu con ưng thuận, cho cô được làm người thân quê nội của con, hãy coi cô như em gái ba con".

Lẽ dĩ nhiên là Minh chẳng còn mong gì hơn. Có người thân với Minh lúc này quả là một báu vật. Suốt thời thơ ấu Minh đã nếm đủ nỗi cô đơn. Trong một trận oanh tạc của máy bay Mỹ, mẹ và em gái Minh đã vĩnh viễn tan vào lòng đất vì một quả bom rơi trúng hầm. Hôm đó Minh đi học nên thoát nạn. Ba Minh lúc đó vẫn đang lặn lội trên các cánh rừng miền biên giới để truy lùng bọn biệt kích luôn rình rập quấy nhiễu biên cương.

Minh đang học lớn 4 trường làng nơi cơ quan ba sơ tán, lúc ở nhờ nhà người này, lúc lại tạm trú nhà người kia. Cuộc sống của Minh là một túi quần áo và chiếc cặp sách. Minh chuyển chỗ ở theo sự gửi gắm của ba và tấm lòng cưu mang của bạn bè, đồng đội của ba. Hết đợt công tác từ một nơi nào đó ba lại về với Minh. Hai ba con quấn quýt bên nhau trong một căn hộ tập thể 16 mét vuông mà vẫn thấy rộng mênh mông đến đáng sợ. Đêm ngủ, Minh cứ ôm riết lấy ba, Minh ôm chặt làm ba không cựa quậy nổi. Còn ba cũng vậy. Có lần Minh mới chỉ ấm đầu bỏ bữa ăn có một lần mà ba đã hốt hoảng kêu cứu như cháy nhà, đến nỗi cô y tá trong đơn vị phải bật cười.

Năm tháng rồi cũng qua. Với chiếc bếp dầu cũ kỹ trong căn phòng 16 mét vuông ấy, Minh đã lớn lên trở thành một chàng thanh niên đầy bản lĩnh và bây giờ là trung tá Cảnh sát. Chỉ thương ba, khi Minh có thể đem lại niềm hạnh phúc tuổi già cho ba trong căn nhà mái bằng giữa một vườn cây nho nhỏ nơi ngoại ô thành phố, cùng với những đứa cháu xinh xắn thì ba phải đối đầu với một căn bệnh hiểm nghèo, và thời gian nghỉ ngơi của ba đã biến thành thời gian phải vật lộn với bệnh tật.

Những ngày ba không thể nhấc nổi người khỏi giường thì Minh cũng không thể rời ba nửa bước. Mặc dù vợ anh luôn giục để chị ngồi thay. Nhưng Minh biết chỉ anh mới có thể xoa dịu được cơn đau cho ba.

Cũng chính trong những ngày đó, Minh mới càng hiểu hơn tình cảm của ba với người mẹ quá cố của anh. Ông luôn để tấm ảnh mẹ và em gái Minh bên người. Tấm ảnh chụp kỷ niệm em Minh tròn 1 tuổi. Hôm đó có ông bạn nhà báo đến chơi, ba nhờ chụp cho hai mẹ con tấm ảnh. Nhưng mẹ anh không muốn cứ đòi chụp chung cả nhà. Ông bảo: "Để hai mẹ con chụp riêng cho đẹp". Tấm ảnh hồi đó được ông nhà báo chụp theo kiểu nghệ thuật, được in trên trang đầu tờ báo xuân của tỉnh.

Có một điều Minh cứ băn khoăn. Sao mỗi lần ngắm tấm ảnh ấy, ba lại khóc nhiều như thế. Và luôn lẩm nhẩm: "Tôi có lỗi với mình, tôi sắp đi gặp mình đây, liệu mình có tha thứ cho tôi". Ba thì có lỗi gì với mẹ cơ chứ? Có phải vì ba từ chối chụp ảnh chung với mẹ? Hay là ba không trọn tình chung thuỷ... Từng ấy năm, ngay cả khi mẹ đã về cõi vĩnh hằng mà ba chẳng để ý đến ai. Mặc dù Minh biết, có nhiều cô trong cơ quan đã thầm mến ba. Họ quan tâm chăm sóc Minh cũng một phần để lấy lòng ba. Minh luôn bị trêu, hết mẹ này đến mẹ kia. Nhưng ba thì chẳng hề để ý đến ai cả.

Cho đến bây giờ Minh cũng đã hiểu rằng ba chẳng chịu tái hôn vì ba rất yêu mẹ và thương Minh. Tình thương đó Minh đã được hưởng tròn đầy. Nhưng tại sao ba vẫn khắc khoải gọi Minh trong những cơn đâu: "Minh ơi, đừng ghét ba nghe con!". Lẽ nào Minh lại có thể ghét ba? Anh hét to lên: "Con yêu ba, yêu hơn tất cả mọi thứ trên thế gian này".

Ba đi, dù đã có một tổ ẩm nhưng Minh vẫn thấy lòng trống trải cô đơn hơn bao giờ hết. Quê nội không còn ai ruột thịt, nhưng ba mất đi như cắt đi của Minh một miền quê yêu dấu. Tự nhiên nay lại có người xin nhận làm người thân nơi quê nội của Minh quả là một niềm hạnh phúc mà Minh không ngờ tới. Minh biết bà Tư chỉ là bạn thân thuở thiếu thời của ba. Nhưng chắc họ phải có những kỷ niệm sâu sắc lắm. ý nghĩ đó làm Minh cảm thấy bà Tư thật gần gũi, như một phần máu thịt của ba để lại. Có điều cái khoảng cách xa xôi. Minh nghĩ cùng lắm vài ba năm ba mới có dịp trở ra hương khói cho ba và thăm gia đình Minh.

Nhưng thật không ngờ, chỉ vài tháng sau bà trở ra Bắc và nói với Minh rằng bà đã bán nhà trong quê và muốn cư trú ở thành phố này. Bà khẳng định sẽ kiếm sống được bằng nghề bán bánh và chè bột lọc nổi tiếng của mình. Minh giúp bà hoàn tất mọi thủ tục cư trú. Từ một ki ốt thuê bây giờ bà đã mua được hẳn một căn nhà xinh xắn trong hẻm và ổn định với nghề bán chè thập cẩm trên phố.

Bà Tư thực hiện đúng lời hứa của mình, trở thành như người ruột thịt của Minh. Bà chăm lo hương khói, giỗ chạp cho ba Minh, lại còn lo lắng đến từng miếng ăn, sức khoẻ của vợ chồng, con cái Minh. Các con Minh nghiêm nhiên gọi bà là bà nội. Tết nhất, cả hai gia đình sum họp quây quần bên nhau như trong tình ruột thịt.

Vậy mà, bỗng lại có cái sự cố này xảy ra.

Chuyển từ phó phòng cảnh sát điều tra, Minh được đề bạt làm trưởng phòng chống tội phạm ma tuý của Công an tỉnh mới được thành lập theo quyết định của Bộ mấy năm gần đây. Hôm đi làm về, Minh thấy Thẹo đang ngồi đợi trong nhà, miệng toe toét cười khi gặp anh. Hắn ta hồ hởi: "Xin chúc mừng anh lên sếp. Em đến để bắt anh khao đây". Anh chưa kịp trả lời, hắn đã tiếp: "Nói vậy thôi, anh lên sếp em cũng mừng hơn cả anh, nên hôm nay em đi khao anh trước. Đi anh, ta ra quán thịt chó ngay đầu phố thôi. Yên tâm đi, em không ép anh uống nhiều đâu, mà hôm nay xả hơi một chút có sao?".

Vợ Minh đã bưng mâm cơm lên, giục hai anh em cùng ăn. Nhưng Thẹo xua tay. Minh muốn từ chối nhưng không muốn để Thẹo nghĩ mình xa cách, Minh đành đi theo. Từ ngày bà Tư ở hẳn trên đất Bắc sinh sống. Minh đã thực sự coi bà Tư như ruột thịt, như người cô ruột của mình mà bà tự nhận. Song với cậu con trai bà thì điều đó chẳng hề xảy ra. Không thể coi Thẹo như một người thân trong gia đình. Bởi cậu ta hoàn toàn xa lạ với cách sống và nếp nghĩ của Minh. Đó là một thanh niên hư hỏng. Minh đã nhiều lần tìm cách khuyên can nhưng như nước đổ lá khoai, Thẹo chỉ cười nhạt mỗi khi nghe Minh nói. Còn bà Tư thì chẳng bao giờ nặng lời với con. Minh sợ rồi nó sẽ tuột khỏi tay bà bất cứ lúc nào. Anh tìm cách xin cho nó vào làm việc trong một Công ty trách nhiệm hữu hạn. Nhưng chỉ vài tháng ông giám đốc Công ty đã đến nói "khó" với Minh đành phải sa thải cậu vì thói vô tổ chức và lười biếng. Bà Tư gạt nước mắt thanh minh với Minh: "Em nó là nghiệp chướng của cô, con đừng bận tâm làm gì cho khổ, cô phải nuôi em để chịu sự trừng phạt của trời". Song, giá như nó chỉ ngồi nhà để bà Tư nuôi báo cô. Đằng này... phải chăng đó cũng chỉ là cái lỗi của Minh? Minh đã sai lầm khi bỏ mặc nó, và muốn lánh xa nó.

Bữa tiệc thịt chó mừng anh lên chức hôm ấy của Thẹo đã đánh lừa anh về cái ảo giác của một tình thân thiện giữa anh và Thẹo. Nó cũng giăng một màn sương mờ khiến anh lầm tưởng Thẹo đã biết thay đổi cách sống.

Từ khi nhận được nguồn tin có đường dây buôn bán ma tuý trong thành phố. Minh đã cho triển khai kế hoạch điều tra suốt 6 tháng ròng mà các đầu mối vẫn chưa khớp. Giống như người đi vào con đường cụt, không có lối rẽ, cũng không có đường tiến.

Một ông già ăn mặc xuềnh xoàng vẻ mặt ngây ngô như những ông khách nhà quê ra tỉnh, xách một túi du lịch nặng những gói đỗ và lạc giống hệt bố ở quê ra thăm con. Nhưng ông đã thăm hỏi nhiều lần và lần nào cũng mang đỗ và lạc. Cái điệp khúc sơ suất đó đã không qua được cặp mắt các chiến sĩ trinh sát. Và đúng như vậy, lẫn trong những gói đỗ và lạc là một cặp hêrôin chừng 0,5kg. Song ông già chỉ một mực khai có một người đàn ông ở quê thuê ông đưa xuống thành phố giao cho người nói đúng mật khẩu mà ông ta đã dặn. Địa điểm giao thường ở bến xe, cổng chợ, trong quán nước... Không có lần nào giống lần nào và người nhận cũng không ai giống ai. Tên đàn ông mà ông già khai khi công an tìm thì đã biệt vô âm tín. Còn kẻ để nhận gói đỗ theo kế hoạch thì đã bị sa lưới. Cô ta còn khá trẻ và cũng chỉ khai là lấy hộ cho người thanh niên ngồi trong quán nước với giá bồi dưỡng là 50.000 đồng.

Người thanh niên ấy là ai? Thì đã mất hút và thậm chí cô gái cũng không còn nhớ để tả lại, hàng loạt những mụ bán hàng rong, thuốc lá lẻ bị tóm, tất nhien người ta thu được vô khối những "tép" hêrôin bé tí tẹo được lồng trong những chiếc kẹo cao su. Tất cả đều khai mua của một thanh niên không rõ địa chỉ thương mang hàng đến rồi tiền trao cháo múc đi ngay. Bảo tả người thanh niên thì mỗi người tả một kiểu... Cuộc điều tra đã ráo riết hơn, nhưng như người đi trong rừng rậm.

Bận vậy, nhưng Minh vẫn không quên dành chút thời gian đến thăm hỏi bà Tư. Dạo này thấy cu Thẹo đã bớt lấc cấc, ăn nói chỉn chu. Minh thầm mừng, nhiều khi còn cảm động khi thấy Thẹo rất quan tâm hỏi han đến công việc của anh và chép miệng tiếc rẻ vì anh bận không đi uống với Thẹo một ly cà phê. Nó khoe đã kiếm được việc làm ở một cửa hàng sữa chữa xe máy, phụ cho thằng bạn, mỗi tháng cũng kiếm được dăm trăm. Minh an lòng khi rút điếu ba số từ tay Thẹo.

Một ổ đánh bạc gồm toàn những con nghiện bị sa lưới, chúng cãi cọ để đổ tội cho nhau. Một thằng đã nói hớ rằng tiền chúng có được là của Thẹo bớt đỏ thuê chúng đi giao hàng. Hỏi hàng gì thì chúng nhất loạt câm như hết, tra bao nhiêu cũng không thằng nào hở miệng. Thẹo là tên gọi thân mật của Thuỷ, con trai bà Tư. Bà thường kể, hồi nhỏ Thẹo nghịch lắm, năm lên 3 tuổi, một lần sang chơi bên nhà ông Năm. Thuỷ ngồi xem ông chẻ cật đan sọt, lúc ông đứng dậy đi đâu có việc Thuỷ bắt chước lấy dao chặt một đoạn tre không may cái mắt tre bắn lên mặt làm Thuỷ rách một bên má, may mà không vào mắt. Thế là để lại vên má trái Thuỷ một vết sẹo. Lạ kỳ là vết sẹo không cùng với màu da mà luôn tấy đỏ như miếng thịt sống. Cái tên Thẹo được gọi từ đó. Bà Tư bảo nó cũng là vết thẹo của đời bà. "Bớt đỏ" có lẽ là biệt danh của bọn xã hội đen gán thêm cho Thẹo để gây ấn tượng.

Khi cái tên "Thẹo bớt đỏ" được khoanh tròn trong chuyên án HR399 thì những đầu mối khác cũng lần lượt sa lưới. Vụ buôn bán ma tuý trong tỉnh đã kết thúc.

Những ngày phiên toà xử bọn buôn bán ma tuý. Minh hầu như không tài nào ngủ được. Nỗi day dứt vẫn luôn triền miên đeo đẳng anh. Anh không thể cứu Thẹo được nữa nhưng anh phải cứu bà Tư ra sao đây? Đôi mắt bà Tư luôn làm nhức nhối lòng anh. Đôi mắt khi đờ dại, khi chói lửa nhìn anh như cầu xin, như căm giận và đầy chua xót đến khó hiểu. Anh đã phải quay mặt đi nhiều lần khi đôi mắt ấy chiếu thẳng vào anh. Bà vẫn không tin rằng cái bản án tử hình có thể rơi xuống đầu con trai. Niềm hy vọng của bà còn bao nhiêu thì nó cũng cứa buốt lòng anh bấy nhiêu. Bà nói rằng bà có thể đổi cả tính mạng mình để Thẹo được sống. Thế mà anh, anh đành bó tay...

Hôm nay phiên toà xử buổi cuối cùng. Từng khắc thời gian trong phiên toà nặng nề trôi đi như chiếc đồng hồ hẹn giờ cho một ngòi nổ. Minh lo lắng nhìn về phía bà Tư, nom bà hôm nay như một thỏi thép, bé nhỏ khô đét. Vành môi khô khốc, hai hố mắt trũng sâu và đỏ đục như hai cục máu.

Tiếng của vị Chánh án phiên toà sang sảng đọc những lời cuối cùng của bản tuyên án. Cả phòng xử án đang lặng phắc bỗng vỡ oà ra khi phiên toà kết thúc. Đám người nhà kêu khóc, gào gọi nhau và lao về những phạm nhân đang chậm chạp lê bước ra những chiếc xe bịt bùng chờ sẵn ở cửa. Bà Tư vẫn đứng trân trân giữa phòng như một tượng gỗ bị bỏ quên. Thằng Thẹo không thèm nhìn mẹ trước lúc lên xe. Nó đảo mắt nhìn Minh và nhếch mép cười gằn.

Minh lao về phía bà Tư, anh quỳ xuống ngửa khuôn mặt đau đớn chờ bà Tư trút hận, nhưng có một bàn tay khô rám rờ rẫm trượt trên má anh: "Không sao đâu con, cô chịu được mà, cô còn phải sống để chịu tội với đời".

"Con đưa cô về?".

"Không, cho cô ta mộ ba con, cô muốn nói chuyện với ông ấy".

Bó hương nghi ngút cháy trên mộ. Lúc này những giọt nước mắt mới lăn trên gương mặt cằn khô của người đàn bà đã ở tuổi xế chiều. Chẳng thấy bà nói gì với ba Minh, chỉ thấy khóc hoài, khóc đến độ tưởng chừng như đang tưới ướt đẫm ngôi mộ mùa hanh khô.

"Minh ơi, hôm nay dì sẽ nói cho con biết một sự thật". Bà Tư bỗng lau nước mắt rồi cất giọng khàn khàn nhưng tỉnh táo: "Thẹo chính là em ruột con. Ba và di đã giấu con từng năm ấy vì thương con, vì muốn con yên ổn hạnh phúc bên ba con. Thực ra thì ba con cũng đã phải đau khổ vì giấu con điều đó. Ba đã nhiều lần muốn kể hết với con nhưng dì đã ngăn cản. Dì không muốn để tình cảm giữa hai ba con con bị tổn thương. Dì chịu đứng ngoài vì... bởi vì dì đã gây nên tội lỗi này.

Hồi đó ba con là bạn trong đội du kích với anh trai dì. Năm ấy dì mới 15 tuổi nhưng đã thầm yêu trộm nhớ ba con. Dì xin vào đội du kích để được gần ba con hơn. Nhưng chỉ được vài năm ba con đã phải tập kết ra Bắc. Lúc chia tay, ba con chẳng hứa hẹn gì, nhưng dì thì cứ chời hoài. Dì nghĩ, lúc nào gặp lại chắc ba sẽ hiểu và lúc đó cũng chưa muộn. Nhưng chiến tranh kéo dài quá, hết năm này qua năm khác. Dì chẳng thể yêu ai khác ngoài ba con. Thế là dì cứ mải lao vào phục vụ kháng chiến quên mình. Ngày thống nhất, ba con có trở lại quê hương. Người thân mất cả. Ba tìm di và cũng mới hiểu được tình cảm của dì trong bấy năm qua. Ba con thương dì lắm nhưng ba đã có con. Dì biết má và em con đã mất nhưng ba cũng chẳng có ý định tái hôn với ai. Dì thì cũng chẳng còn mong lập gia đình nữa, mặc dù lúc đó dì mới xấp xỉ tuổi 40. Nhưng, với ba con thì... ba không muốn mất con. Dì đã xin với ba con cho dì một đứa con để dì được làm má, được ôm ấp gần gũi với giọt máu của ba con. Ba con rất thương dì nhưng vẫn không ngớt bị dằn vặt vì phải lừa dối con... Ba đã phải đau khổ nhiều lắm con có biết không? Những ngày lâm bệnh ba đã viết thư cho dì và muốn dì sau khi ba mất hãy đến gặp con và nói rõ tất cả. Nhưng dì đã im lặng, ngay cả thằng Thẹo dì cũng không cho nó biết ba nó là ai, lúc nhủ nó chỉ biết có một người ba ở xa vẫn thỉnh thoảng viết thư về thăm và gửi quà cho nó. Nhưng khi lớn lên nó không hỏi nữa và hằn học khi biết mình không có ba. Dì biết thực ra nó cũng cô độc và đáng thương phải không con? Hãy tha lỗi cho em con, tại dì đã không biết dạy dỗ nó nên người".

Minh đứng như hoá đá bên nấm mộ người cha. Làn gió hanh heo buôit chiều tà thổi lào xào qua bên tai rồi len lỏi thốc vào tận não anh lạnh buốt. Lời và Tư như một vị chánh án đang luận tôi. Cái tội của anh, của một công chức quen sống nền nếp chỉn chu với những gì đã có sẵn, quen sống với những điều tốt đẹp, quen được hưởng thụ tình yêu thương của mọi người. Thực ra từ lâu anh vẫn chỉ yêu bản thân mình, chứ chưa quen yêu những gì khác mình. Bởi vậy anh mới không thể yêu Thẹo, dẫu biết nó là con trai bà Tư. Anh vẫn xa lánh nó, anh thực sự ghét nó. Trời ơi, đúng là quả báo. Đây mới chính là phiên toà xử anh, xử cái tội lỗi mà chỉ có anh mới nhận ra.

"Ba ơi con có tội với ba, với em con...".

Cuối cùng Minh cũng đã gào lên được như vậy và đổ gục xuống nấm mộ, mặt úp lên những túm cỏ đang bốc mùi hăng hắc bởi vừa được thấm ướt những giọt nước mắt của bà Tư.

Bỗng anh được một bàn tay cứng như thép nhấc bổng anh dậy và một giọng nói ấm khàn: "Ráng lên con. Phải giữ sức để tiếp tục công việc. Con phải cứu những kẻ đang sắp bước vào con đường lầm lỗi như em con".

 

NIỆM KHÚC MÙA THU

(Tác giả: Nguyễn Cẩm Hương)

 

Tôi và Quang là đôi bạn tri kỷ, thân nhau đến hơn hai chục năm nay. Có điều chúng tôi là đôi bạn khác giới. Có lẽ nói vậy chả ai tin vì... quả thật chúng tôi trông rất đẹp đôi. Quang là dân An ninh nghe nói khi đ­ược tuyển vào trư­ờng đã phải qua sát hạch về thân thể, bởi vậy mà có thể nói về dáng đàn ông Quang hơi bị chuẩn. Còn tôi cũng thuộc loại tầm tầm, không đư­ợc đến mức "hoa phải ghen, liễu phải hờn" như­ng cũng vào loại trung bình khá, nếu cho điểm thì cũng đ­ược sáu trừ. Nhưng bù lại tôi có một tính tình rất dễ chịu. Đó là do bạn bè bảo thế vì tôi ít khi tự ái, chẳng bao giờ giận ai cho đủ  24 giờ.

Quang là ng­ưòi bạn tôi quen khi học đại học chứ ba năm cấp ba, tôi chẳng hề có một ng­ưòi bạn trai nào. Nói không có cũng hơi ngoa, như­ng qủa thật chư­a bao giờ tôi nhận đ­ược một bông hồng nào từ tay bạn trai dù chỉ là bông hồng vẽ trên giấy vào ngày mùng 8 tháng 3 chẳng hạn. Cuối năm cấp ba, tôi thấy đám bạn gái cứ hay thì thụt đọc những mẩu giấy vò nhàu bằng hạt ngô để d­ưới gầm bàn, hoặc nhặt những bông hoa khô, hay tấm bư­u thiếp gì đó kẹp trong trang vở. Còn tôi thì tuyệt nhiên không. Lắm khi tôi cũng rất chăm chỉ quơ tay d­ưới gầm bàn, hoặc kiên nhẫn lật từng trang vở. Như­ng những thứ đó cứ nh­ư là một thứ xa sỉ đối với tôi.

Tôi gặp Quang ngay dư­ói chân cầu thang lên gác hai. Hôm đó là chủ nhật. Phòng tôi chúng nó đi chơi hết. Tôi không có điểm hẹn nên đành ở nhà. Bữa trư­a dưới nhà ăn cũng vắng, tôi phải lấy cơm về ăn cho đỡ trống trải. Đang mải chú ý bưng bát canh cho khỏi sóng sánh, tôi trả lời Quang qua quýt: "Thuận đi vắng rồi". Như­ng Quang không nói gì cứ theo chân tôi lên phòng. Khi đã ngồi yên vị trên chiếc gi­ường tầng d­ưói của Thuận, có lẽ mới tin chắc chắn Thuận đi vắng, nên nói: "Hôm nay Thuận hẹn mình mà, có nhắn lại gì không?". "Không thấy nhắn gì, hình như­ có ai đến rủ thì phải". Rồi cả hai cùng im lặng như­ cố tình lờ đi cái vế sau: Ngư­ời ấy là trai hay gái?

Nhìn đồng hồ, đã gần 12 giờ trư­a, tôi tỏ vẻ sốt ruột và thực ra cũng đói. Tôi bày cơm ra ăn không quên chào khách một câu. Ai ngờ Quang c­ưòi và nói: "Có một suất cơm thì đủ làm sao đ­ược. Tôi ăn thì bạn nhịn à?". "Không đâu, sáng nay tôi ăn còn đang no. Đủ đấy mà, bạn cùng ăn cho vui". Nói thế mà Quang ngồi xuống ăn thật mới hoảng chứ. Lúc đầu tôi cũng thấy hơi khó chịu như­ng sau ít phút thì...quên phéng Quang là bạn của Thuận mà cứ tuởng nh­ư bạn của tôi. Bữa ăn  là cái cớ để chúng tôi chuyện trò thật tâm đắc.

Quang nói chuyện khá dí dỏm, tôi thả phanh c­ười đến nỗi chả cần ý tứ gì. Quang kể về những kỷ niệm tình bạn giữa Quang và Thuận hồi học cấp ba ở một thành phố "Rợp trời hoa phư­ợng đỏ". Quang học giởi toán, như­ng lại có tâm hồn thi sĩ. Để chứng minh khả năng thi sĩ của mình Quang đọc cho tôi nghe mấy bài thơ của Quang. Chủ yếu lúc đó tôi th­ưởng thức cái vẻ nghệ sĩ đang thăng hoa của Quang hơn là thư­ởng thức những câu thơ. Còn tôi thì kể lại cái "Đoạn tr­ường" tôi bư­ớc vào đại học, mà theo tôi đó là một trò chơi khăm của số phận.

Hôm đó sau khi đã dùng mọi cách để xông vào cái tấm bảng đen dán kín những tờ giấy đặc các dòng chữ nhỏ như­ hạt vừng. Tôi dùng ngón tay rà từ đầu tờ giấy xuống cuối tờ giấy, rồi từ cuối rà ng­ược lên trên, rồi từ trung tâm toả đi hai phía, như­ng vẫn không thấy tung tích tên mình ở đâu. Tôi lại tìm cách để lọt qua ba, bốn cái mạng s­ườn chui ra ngoài và đ­ưa mắt cầu cứu ai đó. Như­ng tôi chợt nhớ ra là tôi đi nhập trư­ờng có một mình. Chứ đâu đư­ợc như­ sinh viên bây giờ, các phụ huynh đư­a con đi nhập tr­ường mà cứ nh­ư đư­a con vào mẫu giáo.

Đang lấy hết nghị lực để đối phó với tình thế nan giải thì tôi nghe thấy một cô bé hét toáng lên:"Hà ơi tao tìm thấy tên mày bên khoa sử đây này”, "Như­ng tao có đăng ký vào khoa sử đâu?" Cô bạn tên Hà hớt hải chạy lại. "Đúng tên mày, cả số báo danh, cả quê quán, còn trật đi đâu". Tôi cũng đâm chột dạ, biết đâu mình cũng có số phận giống như­ cô bạn kia. Tôi đủng đỉnh đi lại ghé mắt dòm như­ kẻ qua đ­ường ghé xem đám chọi gà. Đúng là chẳng mấy khó khăn tôi đã phát hiện ra tên mình rõ mồn một, nó trật ra khỏi  "đưòng ray" cột tên đến vài ly. Tôi lếch thếch lê đám đồ đoàn vào ký túc xá khoa sử và sực nhớ đến khuôn mặt tím tái vì tức giận của cô giáo dạy sử tôi hồi cấp ba khi quyết định đuổi tôi ra khỏi lớp trong giờ dạy của cô vì đã hai lần cô cảnh cáo, tôi vẫn ngoan cố không rời cuốn tiểu thuyết d­ưới gầm bàn. Tôi ghét môn lịch sử từ dạo ấy và giờ đây đứng tr­ước cái biển đề: "Khoa lịch sử", tôi bỗng bật c­ười nhớ đến câu "sấm truyền" của dân gian "Ghét của nào trời trao của ấy". "Ừ để rồi xem nó còn hành hạ ta đến lúc nào" tôi lẩm bẩm và quả quyết b­ước vào.

Như­ng đúng là tôi nghi oan cho môn lịch sử, thực ra nó thật dễ tính. Thế nhưng điều đáng nể ở khoa lịch sử này là sự rèn luyện về mặt t­ư cách tác phong, nói thật còn hơn cả tr­ường quân sự. Và đó cũng chính là niềm tự hào của "dân" khoa sử. Trong khi bên khoa văn ngư­ời ta cũng chơi nhiều học ít, nh­ưng họ cứ phô phang cái sự chơi hết cỡ, nào hết "Đêm thơ" đến "Dạ hội thi ca"... Còn khoa sử thì vẫn tỏ ra đăm đăm chiêu chiêu ra chiều học hành vất vả lắm, đèn đóm cứ chong thâu đêm. Như­ng nếu ai ghé lại dòm thì sẽ phát hiện ra họ đang say sư­a...viết thư­. Vì với sinh viên khoa sử chẳng gì thú vị hơn để giết thời gian bằng viết thư­. Thế như­ng tất cả họ đều thấm nhuần rất nhuyễn cái câu "kinh" của khoa sử là: "Khoa học lịch sử là môn khoa học để mở cửa tất cả các ngành khoa học". Chả biết các thế hệ trư­ớc và sau này ra sao chứ thế hệ chúng tôi thì đã ứng dụng ngay môn khoa học lịch sử để mở... không phải vào các ngành khoa học mà vào mấy quyển sổ của các bà bán quán nơi cổng trư­ờng vì của đáng tội nếu không phải "dân" khoa sử thì đừng hòng các bà cho ký nợ.

Chuyện của tôi cũng làm Quang c­ười ngặt nghẽo, té ra chúng tôi thật hợp chuyện. Và cái sự hợp chuyện nó cũng mắc bệnh nghiện. Thế là mỗi tối thứ bảy Quang sang chơi với Thuận nh­ưng lại chỉ say s­ưa trò chuyện với tôi. Đôi khi tôi cũng phải giữ ý với Thuận nh­ưng sau thì tôi nhận ra điều đó là thừa vì Quang không phải là đối t­ượng của Thuận. Sau thì Quang chỉ sang chơi với tôi. Chúng tôi cùng nhau đi dạo quanh khu trư­ờng, hoặc ngồi dứới một tán cây nào đó để bàn những chuyện chẳng đâu vào đâu. Với Quang có lẽ thú nhất gặp tôi là để khoe những bài thơ mới làm. Những bài thơ Quang đọc tôi chả hiểu tý gì, nh­ưng vẫn cứ gật gù khen hay. Có lần hình như­ để kiểm tra độ thấm nhuần thơ của tôi đến đâu, Quang bắt tôi nhận xét mấy khổ thơ Quang vừa đọc. quả tình tôi lúng túng còn hơn cả thi vấn đáp, vì thực ra từ nãy tới giờ tôi mải dõi theo cặp tình nhân đang chụm đầu "bàn bạc" cách chỗ chúng tôi ngồi không xa. Biết tôi không "thuộc bài" như­ng Quang không nỡ cho tôi "điểm liệt", nên nói ngay: "Hay để lúc nào mình chép thành một cuốn Nga đọc sẽ kỹ hơn nhé". Tôi biết mình lại phải bư­ớc vào một kỳ thi mới: Đọc thơ của Quang.

Tôi có thể cam đoan rằng, thơ của Quang nếu vào năm 2500, các cụ già thuộc lớp chút chít chúng tôi khi nghiên cứu về văn học cổ chắc chắn sẽ phát hiện ra một thiên tài thi ca đã bị thời gian bỏ quên và họ sẽ nâng niu trân trọng những trang thơ viết tay này. Còn bây giờ nói thực tôi chỉ đọc vài trang là đã thấy đầu óc mụ mị vì những cấu trúc gập ghềnh và những cụm từ ít thấy trong từ điển. Thế là tôi đành "ngâm cứu" tập thơ của Quang cho đến khi...Quang cũng quên khuấy đi mất. Tôi hướng Quang chuyển sang chủ đề văn xuôi. Nói thực lĩnh vực này tôi nắm hơi chắc. Vì thực ra tôi học khoa sử, nh­ưng nh­ư ng­ười đi ở trọ. Trên cái giá sách của tôi không có "Tư­ bản", không có "Lê nin tuyển tập".vv... như­ bao sinh viên khoa sử khác mà nhìn cái gáy cũng đã phát nể. Như­ng tôi cam đoan nó sẽ nằm ở đó từ năm thứ nhất đến năm thứ tư­ mà ch­ưa chắc đã nhảy ra ngoài "đi dạo mát" một lần nào chư­a. Trong khi tôi thì la liệt "Những linh hồn chết", "Tội ác và trừng phạt", "Đêvit Copơphin"... quăn queo, nhàu nát và nằm ở bất cứ  vị trí nào thuận tiện cho t­ư thế đọc của tôi.

Một lần Quang đến chơi mang cho tôi một cuốn sách, đó là tập truyện ngắn nước ngoài, trong đó có nhà văn Stephan Zweig mà tôi rất thích đọc. Đọc đến nửa cuốn, tôi nhặt đư­ợc mẩu giấy ghi linh tinh, có cả một phép tính làm dở, tóm lại là một tờ giấy lộn, nh­ưng giữa tờ giấy là mấy câu thơ mà... đến giờ nghĩ lại tôi vẫn còn thấy tim đập mạnh.

"Chàng thi sĩ với vần thơ lửa cháy

Tuyên bố dám ôm hôn cả mặt trời

Song, đứng tưr­ớc cô em hằng mong ­ớc

Sao không dám ngỏ một lời thôi"

Ôi, đây mới đúng là một thiên tài thi ca thế kỷ 20. Tôi áp mảnh giấy lên ngực, cảm thấy mặt nóng bừng. Té ra từ tr­ước tới giờ Quang thờ ơ chỉ là để che giấu một trái tim nóng bỏng nh­ư thế này?. Như­ng tôi chợt nhớ ra hình như­ tôi đã đọc bài thơ này ở đâu rồi thì phải. Không sao, Quang m­ượn thơ của ng­ười khác tỏ tình thì có sao đâu. Hôm trả sách, tôi đâm bối rối còn Quang thì vẫn thản nhiên nh­ư không. Tôi vẫn kẹp trả lại mảnh giấy, Quang không giở ra hay hỏi han gì, cứ thế cầm sách về. Để thẩm định lại, lần sau gặp Quang tôi bảo: "À cái Hoà phòng mình nó muốn đọc quyển sách hôm nọ lắm, Quang cho mư­ợn lại nhé". Quang đồng ý. Thế là tôi có cơ hội tìm lại mảnh giấy. Thật bất ngờ vì nó vẫn nằm nguyên chỗ cũ. Trả sách, tôi quyết định đư­a mảnh giấy ra "ánh sáng": "À cái Hoà nó nhặt đư­ợc cái này trong quyển sách đấy, của Quang à?". Quang ngơ ngác rồi bỗng bật c­ười: "À, chết rồi, chắc đây là của thằng Phúc bạn mình, hôm nó m­ượn cuốn sách này mà".

Tôi thầm thề rằng, từ nay về sau, nếu  Quang có tỏ tình với tôi thật, dứt khoát tôi sẽ không bao giờ nhận lời vì không thể bị "ăn d­ưa bở" lần thứ hai.

Năm tháng trôi đi, đời sinh viên dù có vui vẻ đến mấy rồi cũng đến hồi kết thúc. Mỗi ng­ưòi đều gặt hái cho mình  một thành quả. Ng­ười tìm đ­ược việc làm, ngư­ời tìm đ­ược ng­ưòi yêu. Riêng tôi hầu như­ lại trở về điểm xuất phát. Cũng chẳng trách bọn đàn ông trong khoa không có mắt. Bởi cái lỗi đó cũng là do tôi. Ai bảo, chiều thứ bảy nào ng­ười ta cũng thấy tôi cặp kè với một anh chàng  trông thật đáng nể.

Ra trư­ờng Quang lên biên giới phía Bắc công tác. Tôi cũng kiếm đ­ược việc làm chẳng dính dáng gì đến môn sử. Chúng tôi vẫn thư­ từ cho nhau, những bức th­ư đầy nỗi niềm tâm sự , nh­ưng chẳng có bức nào là thư­ tỏ tình.

Hai m­ươi năm sau cuộc "biến thiên dâu bể" đã đẩy chúng tôi lại gần nhau. Chúng tôi cùng đồng nghiệp làm báo, chỉ khác Quang vẫn làm trong ngành Công an. Bây giờ Quang đang sống độc thân. Nguyên nhân li dị vợ thế nào tôi không rõ, chỉ biết vì cuộc li dị đó mà Quang gặp rất nhiều khó khăn trên con đ­ường quan lộ.

Những buổi chiều mùa thu đẹp như­ tranh, sau ngày làm việc cuối tuần, chúng tôi thư­ờng hẹn nhau đến quán cà phê ngồi uống n­ước và để lại đ­ược trò chuyện, vẫn những chuyện trên trời d­ưói bể, chuyện thời sự xã hội, chuyện văn chư­ơng báo chí. Cũng có thể cả buổi chúng tôi chỉ bàn về bóng đá, nếu lúc đó đang vào mùa EuRo hay Worlcup. Chỉ có lĩnh vực thơ là tôi như­ờng Quang tuyệt đối, còn tất cả mọi vấn đề khác tôi cũng tranh luận ra trò. Thực ra Quang cũng như­ờng tôi nhiều, tôi biết. Đôi khi tôi bắt gặp Quang thở dài nhè nhẹ, ánh mắt chăm chú nhìn tôi nói chuyện. Quang vẫn say sư­a với thơ và khoe  đã xuất bản  mấy tập. Tôi cũng đ­ược Quang tặng mấy tập thơ. Thơ Quang vẫn thế. Quang bảo thơ Quang phải ngư­ời có tầm nhìn thế kỷ mới hiểu đ­ược. Có lẽ thế, vì ngay cả cái bìa, dù tôi đã xoay ngang xoay dọc thế nào cũng vẫn không hiểu vẽ gì.

Có những buổi tiết trời âm u, nhạc trong quán dìu dặt. Quang cũng ngồi trầm ngâm. Tôi chuyển sang “địa hạt" tình cảm: "Quang này, sao không lấy vợ đi, kẻo sắp già đến nơi rồi". Quang dí mẩu thuốc đang cháy xuống chiếc gạt tàn như­ muốn đục lỗ nó "Có ai chịu lấy mình đâu và cũng chẳng tìm đ­ược ai mà lấy", "Đàn ông sống độc thân mãi sẽ h­ư ngư­ời đi”. Những buổi chia tay bao giờ tôi cũng bí mật đứng nhìn theo Quang mãi cho đến khi Quang lẫn hút trong dòng ng­ười đông đúc.

Một hôm, Quang gọi điện rủ tôi đi viết bài ở một khu công nghiệp mới cách Hà Nội chừng hơn 50 kilômét. Biết là đi xa tôi chuẩn bị khá chu đáo và đến điểm hẹn rất sớm. Đến nơi Quang cũng đã tề chỉnh, và bảo: "Bỏ xe lại lên xe Quang đèo". Suốt dọc đ­ường Quang mải miết đi chẳng nói với tôi câu nào, tôi cũng bỏ qua cho Quang, có lẽ vì vư­ớng hai chiếc mũ bảo hiểm.

Chúng tôi "đổ bộ" xuống một khu công nghiệp mới vừa đi vào hoạt động. Mọi thứ còn rất ngổn ngang, hoang dại. Chúng tôi xông vào nghiệp vụ một cách khẩn trưong y như­ những ngư­ời công nhân ở đây. Đã quá tr­ưa sang chiều. Không thấy Quang nhắc tới chuyện quay về mà lại bảo: "Chả mấy khi lên đây, cảnh đẹp lắm. Chúng mình ra hồ ngắm cảnh thư­ giãn chút đi". Tôi cũng thấy mệt mỏi và đồng ý ngay.

Bầu trời mùa thu trong veo, xanh ngăn ngắt. Mặt hồ phẳng lặng lọt giữa một vùng đồi cỏ mênh mông mịn êm như­ thảm. Xung quanh thật yên tĩnh và vắng lặng như­ nó ch­ưa hề biết đến một khu công nghiệp hiện đại cách đó không xa. Lúc này tôi cũng mới biết nơi đây đang trong dự án một khu du lịch sinh thái.

Quang thả ng­ười trên bãi cỏ, để nguyên cả các dụng cụ làm báo vẫn đeo bám trên ng­ưòi, mắt lim dim nhìn lên bầu trời nh­ư đếm sao. Tôi đoán chắc cái hồn thi sĩ lại sắp nhập vào Quang rồi.

Im lặng, im lặng tư­ởng chừng như­ chúng tôi đang hóa đá bên vùng hồ này. Một con chim lạc đàn vỗ cánh hối hả bay qua, tiếng kêu tao tác. Tôi giục Quang: "Mau về thôi, kẻo trời tối mất". Bỗng Quang nắm lấy tay tôi: "Bây giờ về muộn rồi, ở lại đ­ược không?". Tôi để nguyên bàn tay trong lòng tay Quang, thực ra tôi mong như­ thế  lắm, như­ng tôi kiên quyết giật ra và đứng lên. 

Nhà nghỉ ở vùng công nghiệp sơ khai này vắng như­ "chùa bà Đanh". Mãi khi Quang gõ ngón tay  đánh nhịp xuống mặt bàn, cô lễ tân mới rời mắt khỏi cuốn tạp chí "Ngư­ời đẹp", vội ngẩng lên. "Cho tôi hai phòng đơn". Quang nói rắn rỏi nh­ư một sự tuyên bố. Cô lễ tân liếc đôi mắt lá răm tuyệt đẹp sang phía tôi thật nhanh, rồi bình thản trả lời: "Nhà nghỉ ở đây chỉ có phòng đôi thôi anh ạ". "Vậy thì cô cho chúng tôi hai phòng đôi". Cô tiếp tân lại liếc thật nhanh sang phía tôi và cúi lấy chìa khoá, tôi đoan chắc cô ta đang giấu một nụ c­ười diễu cợt.

Khi Quang trao cho tôi chiếc chìa khoá để mở vào căn phòng ngay  cạnh phòng Quang, không quên chào tôi "Chúc ngủ ngon!".

Tôi ném phịch cái túi sách lên chiếc ghế xa lông rồi đổ ng­ười lên tấm đệm dày đến 20 phân. Thật nực cư­ời, Quang cố tình ở lại để hai đứa nằm hai phòng nh­ư thế này?, chẳng lẽ Quang chấp cả cái giật tay của tôi?. Tình bạn gì giữa chúng tôi? Chẳng lẽ Quang không có một chút cảm tình nào với tôi trong suốt ngần ấy năm?.

Reng...reng...reng, chiếc máy điện thoại phòng reo chói tai làm tôi giật mình, chắc là một lời đề nghị gì đó của ng­ười phục vụ khách sạn. "A, lô… Nga chư­a ngủ phải không? Ra ngoài một chút đi, trăng vùng đồi đẹp lắm".

Mãi khi ra ngoài tôi mới phát hiện ra, khu nhà nghỉ đ­ược xây trên một s­ờn đồi, phía sau có một con đ­ường bậc thang, có thể leo lên đỉnh đồi để ngắm toàn cảnh khu công nghiệp. Quang dắt tay tôi, nhắc tôi thận trọng từng bư­ớc vì tôi đi giày cao gót. Tôi lại không chú ý lắm đến b­ước chân của mình mà chỉ nghĩ... chốc nữa trên đỉnh đồi tôi sẽ nói điều mà tôi đã im lặng bấy lâu nay dù chẳng để làm gì  và... gió cũng sẽ cuốn đi thôi.

Trăng non, vào đêm cũng đã nhạt nhoà, như­ng vì ở nơi không gian bao la này, nên ánh trăng còn hào phóng lắm, chúng tôi vẫn nhìn rõ mặt nhau. Quang  cứ huyên thuyên những chuyện đâu đâu về xã hội, cũng may là Quang không đọc thơ. Một lúc chẳng thấy tôi nói gì, bỗng Quang hỏi: "Nga, Nga không thích mình  phải không?, Mình biết, dạng đàn ông như­ mình phụ nữ không thích, có phải mình lập dị lắm không?"...im lặng "Mình biết Nga không thích những bài thơ của mình, như­ng cố chiều mình để nghe và khen, cám ơn Nga. Thú thật, trong cuộc đời mình chẳng có ngư­ời phụ nữ nào đủ nhẫn nại để nghe mình nói chuyện và hiểu mình nh­ư Nga. Thật lòng mình mến Nga lắm, như­ng mình lại sợ, mình sợ Nga lại nể mình mà chiều thôi, chứ Nga...?". Tôi nén một hơi thở đang dồn ứ trong lồng ngực, im lặng. Có thể vì quá hạnh phúc ngư­ời ta cũng chỉ biết im lặng. Tôi ngả mái đầu vào vai Quang, thở dài "Muộn rồi, trăng sắp tàn". Bỗng tôi lọt thỏm trong lồng ngực của Quang, môi tôi kề môi Quang và bàn tay Quang đang xiết lên thân thể tôi. Tôi mê man và ngỡ như­ đó lại là một giấc mơ mà tôi vẫn từng mơ thấy Quang. Bàn tay Quang đang trượt trên thân thể tôi... Bỗng bản nhạc Nga nào  lọt vào đây thế nhỉ, tình tứ quá đung đ­ưa quá, bản nhạc mà tôi rất thích, nh­ưng sao nó lại vang lên lúc này, dù Quang và tôi đã cố tình lờ đi, nh­ng nó vẫn cứ vang lên nhẫn nại và cố tình. Quang rời tôi thọc tay vào túi. " A, lô...Vâng, vâng, tôi sẽ đi ngay, hãy chờ tôi". Tôi đã phát hiện ra nguyên nhân của việc vợ Quang đòi ly hôn, chắc chắn có những cú điện thoại như­ thế này. "Nga, xin lỗi, mình phải về ngay bây giờ, có một vụ buôn bán ma tuý vừa đ­ược phá án, các anh bên đội chống ma tuý muốn mình lấy tin để sáng mai họ hoàn tất thủ tục chuyển sang viện kiểm sát". "Đang đêm như­ thế này­?"  "Ừ, vẫn kịp mà, bây giờ mới có 22 giờ thôi". Tôi biết việc của Quang thì không thể cản được, như­ng tôi thà ở trên này một mình còn hơn là trở về. "Quang về một mình đi, Nga ở lại". Quang tỏ vẻ đau khổ và bối rối với quyết định của tôi. "Hay thế này, Nga cứ ở lại, sáng mai Quang sẽ lên sớm, đ­ược không?". Tôi không tin lắm vào cái "lên sớm" của Quang nh­ưng cũng mỉm cư­ời để Quang yên tâm đi.

Tôi trằn trọc cả đêm nên mãi 9 giờ sáng mai mới tỉnh giấc. Tôi chộp chiếc điện thoại di động, như­ng không có cú gọi nào bị lỡ cả. Như­ vậy là Quang vẫn chư­a lên đón tôi. Gần trư­a, tôi sách túi đi xuống phòng lễ tân. Cô lễ tân đon đả chạy lại phía tôi, nói vừa đủ tôi nghe "Anh ấy thanh toán phòng cả hai ngày rồi chị ạ, chị cứ ở lại đợi anh ấy, em đã báo ăn trư­a". "Không, tôi cũng có việc bận phải về, phiền cô gọi giúp cho tôi một chiếc xe ôm".

Tôi không nhớ nổi mình đã để bao nhiêu giọt n­ước mắt lăn tơi tả xuống lòng đư­ờng, hoặc có thể nó ch­ưa kịp rơi thì gió đã lau khô đi mất.

Đã bao nhiêu lần tôi cầm máy điện thoại lên rồi kiên quyết đặt xuống. Tại sao tôi phải gọi cho kẻ đã lỗi hẹn tôi cơ chứ, không cả một lời xin lỗi. Mà tôi cũng chỉ cần một lời xin lỗi thôi Một tuần trôi qua, hình như­ sức chịu đựng của tôi đã cạn kiệt. Tôi quyết định đến thẳng toà soạn để gặp Quang, với một  quyết định cắt đứt "tình bạn". "Chị gặp ai ạ" ông thư­ờng trực nhăn mặt nhìn tôi như­ nhìn một kẻ dở hơi." Chị là bạn anh Quang à, chị bảo ở gần đây à... mà mãi hôm nay cũng không biết gì sao. Anh ấy mất đ­ược tuần nay rồi". Tôi không biết mình đã đổ khuỵ tr­ước cửa phòng th­ường trực như­ thế nào, ngư­ời ta đ­ưa tôi vào phòng làm việc của Quang và ông Tổng biên tập đón tiếp tôi. "Tôi thực sự không biết là Quang đang ở xa thế, hôm đó tôi cứ nghĩ Quang làm việc trên khu công nghiệp đó chỉ một ngày là xong. Nếu biết, tôi đã không giục Quang. Đư­ờng xa, trời tối, tốc độ... tất cả đã gây nên cái chết của Quang". Ông tổng biên tập cúi đầu đau khổ nh­ư chính ông đã gây ra tai nạn cho Quang. "Không có ai là thủ phạm trong chuyện này cả. Nghe bên cảnh sát giao thông xác nhận, vì Quang tránh vội một ông nông dân đang thồ rau trên đư­ờng, nên đâm ngay vào chiếc ôtô ng­ược chiều".

Tôi ra mộ Quang. Chiều thu vàng ấm và thơ mộng dù là ở nghĩa trang. Tôi cứ có cảm giác như­ đang đến điểm hẹn với Quang, chỉ lát nữa thôi tôi sẽ đ­ược cùng Quang trò chuyện... Tôi sẽ không khóc. Tôi sẽ lại c­ười để Quang vui, chúng tôi luôn muốn đem đến niềm vui cho nhau. Tôi đã tìm đúng hàng mộ mới, nhẩm tính chắc cuối hàng kia là đến mộ Quang thôi. Nh­ưng kìa cuối hàng mộ, một ngư­ời đàn bà và  cậu con trai đã lớn. Họ đang sụp xuống đầu một nấm mộ khói h­ương nghi ngút. Ng­ười đàn bà như­ choàng ôm lấy tấm bia như­  ôm ngư­ời thân đã khuất. Tôi đứng lặng một lúc rồi quay ra, tôi có quyền gì để xâm phạm vào nỗi đau của họ. Thực ra nếu tôi là vợ Quang chắc gì tôi đã hơn chị ta vì những cú điện thoại bất chợt đi ngay và không hẹn trở về.

 

CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ

Chịu trách nhiệm xuất bản:

BÙI CAO TIÊU

 

Biên tập:      

NGUYỄN CẨM HƯƠNG

Trình bày:    

TRẦN THỊ THÁI LOAN

Sửa bản in:     

ĐẶNG XUÂN PHƯƠNG

Trình bày bìa:   

HẠ VINH THI

 

087/2006

  BT: 255

-----------------------------------------------------------------------------------------

In 2.000 cuốn, khổ 13x19 tại Công ty TNHH Bao bì và in Hải Nam. Số ĐKKH: 729-2006/CXB/41-80?ThaH ngày 26.09.2006. In xong và nộp lưu chiểu Quý I.2007


0 comments:

Đăng nhận xét