CON MA TRONG HỒ TẮM
*
TÌNH MA DUYÊN TỤC
(Tác giả: Người Khăn
Trắng)
Đoạn đường từ Rạch Giá về Hà Tiên không xa, chưa
đầy một tăm cây số, nhưng đường sá vào năm 1945 còn quá hẹp và xấu, nên đù cố
gắng tăng tốc mà chiếc Traction phải mất ba tiếng đồng hồ Hiệp mới tới Kiên
Lương. Nhìn đồng hồ tay, Hiệp hơi sốt ruột, đã hơn 6 giờ chiều. Đến chợ Hà Tiên
còn ngót ba chục cây số nữa mà trời tối thì liệu có kịp không?
Không có hẹn với ai ở đó, nhưng Hiệp lại ngại lái xe đường lạ trong đêm tối. Vả lại trời đang chuyển mưa nữa mà. Lúc này Hiệp mới thấy hối hận khi không nghe lời khuyên của bạn bè rằng anh không nên đi, bởi lúc khởi hành đã hơn hai giờ chiều. Hiệp vốn tính bướng bỉnh, lại muốn sáng ngày mai khi tới trình diện nhà cha mẹ vợ tương lai ở gần Mũi Nai thì anh phải tươi tỉnh, chững chạc như hình ảnh một thầy ký tòa án Lê Hữu Hiệp vốn có dưới mắt của Nguyệt và gia đình cô.
Việc Hiệp bỏ ngang công việc tòa án, đi về Hà Tiên
vào những ngày giữa tuần cũng chỉ vì anh lỡ hứa với Nguyệt rằng anh sẽ có mặt
tại nhà cô và dự đám giỗ, để nhân dịp có sự có mặt đông đủ thân nhân Nguyệt, sẽ
là một dịp tốt nhất cho anh ra mắt bên vợ, những người vốn giàu có và trọng
hình thức. Ông già của Nguyệt tuy không phải là quan chức, nhưng là một nghiệp
chủ giàu nhất nhì Hà Tiên thời đó, chính ông là người đã âm thầm giúp đỡ cho
Hiệp ăn học và khi ra trường với bằng Tú tài toàn phần, ông đã vận động để đưa
anh chàng vào ngành tòa án, giữ ngay vai thư ký tòa, một địa vị mà không phải
người trẻ mới ra trường nào cũng có được. Và để đền ơn người đã giúp đở mình,
Hiệp đã long trọng hứa sẽ làm rể nhà nghiệp chủ Ma Đại Nhơn.
Tuy gọi là trả ơn, nhưng cũng may cho Hiệp, vì
Nguyệt - cô con gái của nghiệp chủ Nhơn lại là một mỹ nhân đúng nghĩa. Cô ta
từng được mệnh danh là hoa khôi của vùng Tô Châu - Thạch Động. Khi hai ngưới
gặp nhau lần đầu tiên ở Rạch Giá, nơi Minh Nguyệt trọ học, thì cả hai đã ngỡ
ngàng nhìn nhau sau vài giây, tự dưng họ đâm ra mến nhau, hợp nhãn nhau liền!
Bởi vậy, chính Nguyệt đã từng nói với Hiệp rằng duyên của họ đúng là duyên tiền
định! Cô nàng hầu như muốn giữ chặt lấy người tình, giục Hiệp nhanh chóng tiến
hành hôn lễ, bằng cách thúc hối cha mua ngay cho hai người một căn phố lầu ở
chợ Rạch Giá, và nội tháng 8 phải làm lễ thành hôn, mặc dù cô còn đang học dở
dang lớp chuẩn bị thi bằng Thành chung. Ông Nhơn chiều ý con, nên đã yêu cầu
Hiệp phải có mặt nhân ngày giỗ ông ngoại của Nguyệt. Hiệp về Hà Tiên với lý do
như vậy. Dù đã đi về thị xã Hà Tiên mấy lần rồi, nhưng khi chạy ngang một ngã
ba bên tay trái, nhìn thấy tấm bảng đề mấy chữ "82 km là Hòn Chông",
Hiệp hơi ngạc nhiên:
- Thì ra đường đó đi về Hòn Chông, một địa danh có
thắng cảnh Chùa Hang, Hòn Phụ Tử!
Anh rà xe chậm lại nhìn kỹ con đường, định bụng
lượt về thế nào cũng rẽ vào đó xem cho biết Hòn Phụ Tử đẹp như thế nào. Vừa khi
ấy chợt trời đổ mưa. Cơn mưa đã được bào trước, nhưng Hiệp không ngờ nó lại tới
nhanh và lớn đến như vậy!
Xe hơi thì có thể đi trong mưa dễ dàng, tuy nhiên
chỉ với một người chưa quen lắm với đoạn đường quanh co trên lộ trình đến thị
xã, nên Hiệp có nới ngại. Anh nhìn thấy một ngôi nhà gần lộ, giống như cái quán
ven đường nên không kịp nghĩ ngợi, đã lái xe thẳng vào khoảng sân hẹp, đậu lại
định chờ cho bớt mưa.
Hơn mười phút qua, ngồi trong xe đóng kín cửa cảm
thấy bí, Hiệp quay kiếng xuống nhìn vào quán, vừa lúc mắt anh dừng lại chỗ một
cô gái ngồi co ro trong quán. Toàn quán không có ai khác, ngoài cô gái là khách
duy nhất. Cô ta đúng là khách, bởi ngay dưới chân cô, Hiệp nhìn thấy một túi
xách của một người đi xa. Chỉ hơi ngạc nhiên bởi ở chỗ vắng vẻ này lại có một
cô gái ngồi trong một quán ven đường, trong buổi chiều tối như thế này. Hiệp
thôi không nhìn nữa, quay kiếng xe lên, định cứ ngồi trong xe như thế cho đến
hết cơn mưa. Nhưng mưa càng lúc càng thêm nặng hạt mà không khí trong xe càng
thêm bức bối, nên Hiệp quyết định mở cửa xe, chạy vụt vào trong quán với ý nghĩ
rằng mình cũng nên trú mưa trong quán cho thoáng mát hơn.
Có lẽ chủ quán đã thấy Hiệp đậu xe và ngồi trong đó
khá lâu, nên khi anh vừa vào đã nghe lời chào hỏi:
- Quý khách cần uống nóng hay lạnh. Lạnh thì hôm
nay có nước đá mới chở từ Rạch Giá về.
- Dạ, cho tôi một cà phê nóng.
Hiệp đáp và nhìn lên, anh giật mình, bởi người hỏi
anh không phải là chủ quán, mà lại là cô gái anh thấy ngồi co ro nãy giờ!
- Tôi... tôi tưởng...
Có giọng nói từ phía trong vang lên, lần này hình
như đúng là của chủ quán thật:
- Thầy Hai uống gì gọi nó cũng được, đó là đứa cháu
của tôi, nó đang chờ xe, chớ không phải người ngoài. - Lúc này Hiệp mới chợt
giật mình khi nhìn kỹ cô gái! - Cô nàng đẹp khác hẳn con gái ở xứ này mà lâu nay
anh vẫn thấy. Cô ta lại ra vẻ là một người của thị thành với kiểu ăn mặc tuy
giản dị mà đúng cách. Bộ đồ bà ba, quần lĩnh đen, áo màu hoa cà, hợp với làn da
trắng muốt, khiến người nhìn phải sững sờ!
Ly cà phê nóng được bưng ra, mùi thơm lừng chẳng
khiến cho Hiệp bị quyến rũ bằng đôi bàn tay nõn nà, đang nhẹ nhàng đặt ly xuống
và cất tiếng mời như rót mật vào tai:
- Dạ, mời... anh!
Rồi cô nàng quay trở lại chỗ ngồi cũ, vẫn co ro như
lúc đầu, mắt nhìn ra ngoài như chẳng để ý tới ai chung quanh. Hiệp uống chưa
hết ly cà phê thì trời đột ngột ngừng mưa. Bất ngờ như lúc bắt đầu, cơn mưa lại
khiến cho Hiệp vừa ngạc nhiên vừa hài lòng. Anh nhìn đồng hồ đã hơn 7 giờ, anh
nhẩm tính:
- Phải cỡ chín giờ thì mới tớí nơi được.
Hiệp vừa đứng lên kêu tính tiền thì bà chủ quán
xuất hiện, bà hỏi thẳng vị khách trẻ:
- Cậu có về Hòn Chông không?
Rồi không đợi anh trả lời, bà ta nói luôn:
- Con nhỏ cháu đi Sài Gòn về, tới đây thì trễ giờ
nên hết xe lam về nhà nó ở nửa đường đi Hòn Chông. Nếu cậu có về qua đó thì làm
ơn...
Bỗng cô nàng lên tiếng:
- Dì hỏi mất công. Người ta về Hà Tiên mà. Thôi,
tạnh mưa rồi để con đi bộ từ từ về nhà cũng được. Sáu bảy cây số thôi mà.
Hiệp ngước nhìn cô nàng đang đứng dậy, tay xách giỏ
chuẩn bị đi, anh vụt nói: - Để tôi đưa cô về!
Bà chủ quán reo lên: - Gặp được người tốt bụng như
cậu quả là trời thương cháu tôi rồi!
Hiệp ra mở cửa xe phía trước cho cô gái lên ngồi,
anh giải thích: - Tôi không rành đường, cô ngồi trước chỉ đường cho.
- Dạ, cám ơn anh.
Cô nàng ngồi gần, phả hương thơm rất lạ vào mũi
Hiệp, khiến anh thích thú. Mặc dù không ưa phụ nữ xức nước hoa, nhưng hương
thơm từ cô gái không phải do nước hoa, nên ngay giây đầu tiên Hiệp đã có thiện
cảm và thầm nghĩ, nước hoa đâu có gì mà không ưa!
- Anh không phải là người xứ Hà Tiên này?
- Sao cô biết?
Thấy cách anh dò đường. Người gốc Hà Tiên thì không
ai là không biết đường vào Chùa Hang, Hòn Phụ Tử.
- Thú thật, tôi từ Rạch Giá qua đây.
- Đi chơi thì chắc không đúng rồi, vì không ai đi
tham quan, du ngoạn mà đi một mình. Còn thăm bà con thì chắc cũng không đúng,
bởi thăm viếng thì phải có quà cáp.
- Vậy theo cô thì tôi đi đâu?
- Đi coi mắt vợ phải không?
- Câu hỏi khiến Hiệp giật mình, ngơ ngác:
- Cô... cô lại biết...
Cô gái phá lên cười, giọng cười giòn tan rồi không
nói gì thêm, đưa mắt nhìn ra ngoài. Hiệp biết mình hố nên nói chữa:
- Tôi... tôi chỉ có ý...
Cô nàng quay lại, cười nhẹ:
- Tôi chỉ cười suông thôi chớ có ý gì đâu. Vả lại,
chuyện anh đi coi mắt vợ hay đi đâu đó là chuyện riêng của anh có mắc mớ gì đến
tôi đâu.
Xe chạy được mười phút, Hiệp bớt tốc độ và hỏi:
- Đã sắp tới chưa?
Cô nàng không cần nhìn đã nói ngay:
- Dạ chưa, phải hơn cây số nữa. Khi nào thấy ngôi
nhà bên trái có giàn hoa giấy chạy hoài theo bờ rào, đó là nhà... em.
Nàng đổi cách xưng hô một cách đột ngột, khiến Hiệp
phải lúng túng:
- Cô... cô...
- Em là Mỹ Dung.
- Còn tôi.. là Hiệp.
- Thấy nàng dạn dĩ, Hiệp nói đùa.
- Tên cô giống với tên một co gái trong truyền
thuyết của xứ Hà Tiên này quá. Nàng Phù...
Cô nàng Mỹ Dung cũng đùa:
- Nàng ta khác chữ lót. Mỹ Dung là nhan sắn đẹp,
còn Phù Dung là loài hoa mau tàn.
- À, tôi không để ý. Mà tôi cũng sơ suất nữa, ai
lại ví tên cô với một cô gái trong truyền thuyết đã ra người thiên cổ từ lâu
rồi. Người hiện tại mới đáng nói hơn phải không?
Tưởng mình nịnh một câu như vậy sẽ được hưởng ứng
nào ngờ Hiệp lại nhận được câu nói:
- Chắc gì thực tại hay hơn cái đã mất! Theo em...
Nàng kịp ngừng lại điều đang muốn nói ra. Hiệp hơi
ngạc nhiên:
- Cô định nói gì?
Nàng lắc đầu nhanh:
- Dạ không. Kìa anh cho em xuống đây.
Quả là có một ngôi nhà ngói xưa nằm khuất sau hàng
rào dài vớt nhiều hoa giấy che phủ. Hiệp cho xe ngừng lại và lịch sự bước xuống
mở cửa cho nàng. Anh không quên nói nịnh một câu nữa:
- Nhờ có cô mà tôi biết thêm đường vào Hòn Chông.
Lượt về thế nào tôi cũng ghé qua thắng cảnh này, cô sẵn sàng mời tôi ghé nhà
chớ?
Nàng cười rất tươi:
- Đâu đợi gì ngày mai, nếu bây giờ em mời thì anh
có ghé không?
Hiệp lúng túng:
- Tôi... tôi còn phải về Hà Tiên. Trời quá tối rồi.
- Vậy cám ơn anh. Anh đi cẩn thận.
Hiệp vẫy tay chào rồi leo lên xe ngay. Mở máy như
thường lệ, nhưng sao máy xe lại không chịu nổ. Kỳ vậy, mới chạy ngon đây mà...
Thử đề lại lần nữa, tiếng è è phát ra rồi tắt ngấm.
Hiệp coi lại xăng, vẫn còn hơn nửa bình, cũng không phải hết bình điện, vậy tại
sao không khởi động được máy. Loay hoay làm một mình đến gần mấy phút, chợt anh
nghe từ phía sau lưng mình, giọng lo lắng của cô nàng:
- Xe anh bị sao vậy?
Hiệp hơi ngượng:
- Cũng hẳng hiểu sao. Có lẽ... tại vì...
Anh muốn tìm một lý do để nói, nhưng vốn không rành
về chiếc xe mới mua này lắm, nên cuối cùng anh chỉ biết lắc đầu:
- Chịu thua.
Và đúng là Hiệp chịu thua thật, bởi sau gần hai
mươi phút thì hục mà vẫn không sao thay đổi được tình hình. Trời lại đổ mưa trở
lại. Cô nàng Mỹ Dung đề nghị:
- Anh phải nghỉ tạm lại nhà em thôi. Rồi sáng mai
về bên đó sớm, như thế tiện hơn.
Hiệp áy náy:
- Như vậy e không tiện...
Cô nàng trấn an:
- Anh không phải lo, ba má em hôm nay đi qua Hòn
Me, nên nhà chỉ còn mỗi mình em. Người sợ chính là em, nhưng mà...
Hiệp lại càng ngại hơn:
- Như thế lại càng không nên.
Anh còn đang phân vân thì trời mưa thật lớn, Mỹ
Dung nói như ra lệnh:
- Anh cứ để xe đó đi, vào nhà đi!
Không còn cách nào khác, Hiệp đành phải nghe theo.
Khi vào nhà rồi anh chàng mới yên tâm phần nào. Nhà rộng và khang trang, Mỹ
Dung lại không có vẻ gì là ngại sự có mặt của khách lạ. Cô giục Hiệp:
- Dù gì anh cũng phải ngủ ở đây tối nay rồi, vậy
lấy dù của em ra ngoài xe lấy đồ đạc vào, tắm rửa rồi em làm cơm cho ăn. Vừa ăn
ta vừa nói cnuyện. Em cũng cần một người bạn để hàn huyên trong khi nhà vắng
thế này.
Phải đợi nàng giục lần thứ hai Hiệp mới làm theo.
Khi trở vào anh đã thấy một mâm thức ăn nóng nấu sẵn, cô nàng thân mật nói: -
Trong lúc anh tắm thì em nấu cơm. Nhà con thức ăn tươi và ngon. Có lẽ má em
đoán em sẽ về hôm nay!
Hiệp thấy nàng tự nhiên thì cũng đở phải e ngại.
Anh tắm xong thì đã thấy một mâm cơm dọn sẵn. Anh tự hỏi sao cô ta có thể nấu
thức ăn nhanh như vậy. Tuy nhicn, Hiệp cũng không còn thời gian suy nghĩ, nàng
đã giục cầm đũa: - Anh ăn đi, như thế mới không chê cơm nhà nghèo chứ!
Mỹ Dung vừa ăn vừa tiếp thức ăn cho khách, nàng còn
nói huyên thuyên đủ thứ chuyện, khiến cho bữa cơm qua nhanh và Hiếp ăn rất
ngon! Ăn vừa xong thì chẳng hiểu sao, anh lại cảm giác như mình buồn ngủ từ
thuở nào vậy, mắt nhướn không lên:
- Tôi... tôi...
- Dậy! Dậy nhanh đi anh, má em về tới!
Tiếng giục của cô nàng khiến dù đang say ngủ, Hiệp
cũng phải bật dậy ngay. Anh hỏi:
- Mấy giờ rồi?
- Chắc là gần sáng. Má em đột ngột về mà không báo
trước, may mà vừa rồi có người đưa đồ đạc về trước, nói khỏang vài chục phút
nữa má về tới.
Hiệp nhớ lại những gì xảy ra đêm qua, anh ái ngại:
- Tối qua bỗng dưng tôi buồn ngủ quá, chắc cô không trách chớ!
Mỹ Dung càng hối thúc:
- Anh thay đồ nhanh rồi đi đi. Bữa về ghé lạl em,
em sẽ nói với mà anh là bạn học từ Rạch Giá về chơi. Còn bây giờ...
Hiệp thay đồ xong anh chợt nhớ ra:
- Ờ còn chiếc xe nữa không biết khởi động nó có
được không?
Anh ra xe, chuẩn bị tinh thần là sẽ đẩy hay nhờ
người đi rước thợ tới sữa. Tuy nhiên, vừa đề lần thứ nhất máy xe đã nổ giòn
tan, êm ru. Hiệp ngơ ngác:
- Chiếc xe này điên chắc!
Lái xe đi được một quàng. Hiệp quay lại nhìn, anh
ngỡ mắt mình bị hoa, bởi đi xa lắm. Nhưng chẳng hiểu sao nhìn lại đã không còn
thấy ngôi nhà đâu? Chỉ toàn là ruộng và xa xa là rừng...
Hiệp muốn quay xe lại để xác minh, nhưng thấy mặt
trời vừa ló dạng, sợ chạm mặt bà mẹ của Mỹ Dung. Nên anh nhấn ga, xe vọt tới
với nguyên nỗi thắc mắc trong lòng.
Ra tới ngã ba Kiên Lương, cố nhìn nhưng Hiệp cũng
không thấy cái quán lá ven đường hôm qua đâu. Anh nghĩ có thể mình lộn chỗ,
nhưng rõ ràng hôm qua nó nằm ngay ngã ba này mà?
Mải lo nhìn tìm, suýt nữa xe của Hiệp chạm phải một
xe khác chạy trờ tới. Anh hú vía vội rồ ga thẳng về Hà Tiên. Trời sáng mát mẻ,
nên Hiệp chạy rất nhanh, chỉ khoảng nửa giờ sau là anh đã vào thị xã.
Nhờ ngủ được một giấc đầy, lại mới thay quần áo
sạch, nên Hiệp mạnh dạn chạy thẳng tới nhà vợ tương lai. Vừa đậu xe ngay cổng,
Hiệp đã thấy một người đàn bà lớn tuổi từ trong bước ra, trên tay bà ta ôm khư
khư cái khung ảnh mới. Khi bà ta đi ngang rất gần với mình, Hiệp chợt nhìn vào
tấm ảnh lộng trong khung, và thảng thốt kêu lên:
- Kìa, sao lại như vậy?
Khuôn mặt người trong ảnh đập vào mắt Hiệp, anh tưởng
chừng như mình đang mơ ngủ, phải nhướng đến lần thứ hai anh mới lại kêu lên lần
nữa:
- Mỹ Dung!
Nghe anh gọi, người phụ nữ kia khựng lại và hỏi:
- Cậu gọi ai?
- Mỹ Dung! Phải đây là.. là My Dung?
Thật bất ngờ, bà ta đáp ngay:
- Đúng. Nó là Mỹ Dung, con gái tôi!
Bước ngay xuống xe và không cần giữ ý. Hiệp chụp
ngay cái khung ảnh, hỏi lại người phụ nữ:
- Cô gái trong ảnh này đúng là Mỹ Dung, nhà ở đường
ra Hòn Chông?
Kinh ngạc trước thái độ của Hiệp, bà ta nhíu mày
hỏi: - Cậu biết con gái tôi?
Vừa khi ấy, có tiếng oang oang từ trong nhà:
- Hiệp về tới phải không con? Ra đón anh Hiệp,
Nguyệt ơi!
Họ ùa ra, khiến cho câu chuyện giữa Hiệp vừa người
đàn bà kia phải gián đoạn. Bà ta vụt đi thật nhanh, phút chốc đã khuất ở góc
đường.
Thấy Hiệp nói chuyện với bà ta, ông Nhơn hỏi:
- Con bị bà ý làm gì vậy?
Hiệp hỏi luôn:
- Bà ta là ai vậy và cái khung hình trên tay bà ấy?
Ông Nhơn tặc lưỡi:
- Oan gia đấy mà! Chị ta gây rối, khùng điên. Bữa nay biết con sẽ về nên
ba không đuổi chị ta đi, chớ gặp bữa khác thì...
Minh Nguyệt kịp bước ra, đã vội lên tiếng:
- Anh để ý làm gì chuyện tầm phào đó. Ối, xứ này họ
thấy nhà em giàu nên hễ có bất cứ chuyện nhỏ chuyện to gì họ cũng kéo tới. Bà
này có đứa con bị xe nhà mình gây tai nạn, nên mới...
Cô ta nói tới đó thì cũng ngừng ngang, Ông Nhơn phá
tan không khí mà ông cảm thấy khó chịu đó: - Thôi, vào nhà đi con. Để xe đo
chút nữa tụi tài xế đem rửa.
Minh Nguyệt tự nhiên như Tây, cặp tay Hiệp đi sóng
đôi với cha mình vừa hỏi huyên thuyên: - Bộ đi vào nửa đêm sao giờ này đã về
tới đây rồi?
Biết không thể bịa chuyện hoàn toàn được, nên Hiệp
tìm cách nói khéo: - Anh về quá trễ, lại quên đường vào nhà, nên phải ghé hotel
ở tạm.
Minh Nguyệt ré lên: - Sao một mình mà dám ngủ ở
khách sạn! Hay là đã ngủ với...
Ông Nhơn phải nói đở cho con rể tương lai:
- Nó làm vậy là đúng đó. Bộ con nghĩ ai ngủ khách
sạn cũng đều ngủ với ai đó hay sao!
Nguyệt nhéo chồng tương lai một cái đau điếng:
- Được cha vợ bênh, sướng há!
Hiệp bước theo họ mà đầu óc cứ nghĩ về chuyện bức
ảnh lúc nãy. Khi đã vào nhà rồi, nhân lúc Minh Nguyệt ra nhà sau pha trà. Hiệp
mới hỏi ông bố vợ:
- Hồi nãy ba nói người đàn bà ôm khuôn hình đó tới
đây phá, mà phá cái gì vậy?
Hơi ngạc nhiên về sự quan tâm của con rể, nhưng ông
Nhơn văn đáp:
- Số là anh của con Nguyệt, thằng RôBe lỡ vụng trộm
với một cô gì mà ba không chấp nhận, ba ngăn không cho chúng nó lấy nhau. Không
ngờ một bữa kia nghe tin con nhỏ nhảy sông tự tử! Chuyện này làm sao ba ngăn
được, và ba cũng đâu co xúi giục hay nhúng tay vào cái chết của con nhỏ đâu.
Vậy mà năm nào cũng vậy, hễ tới ngày giỗ con nhỏ đó thì mụ ta lại cầm tấm hình
tới đây làm trận làm thượng. Mà thằng RôBe thì đã đi lấy vợ từ lâu rồi, ở xa
lắc xa lơ.
- Nhưng... có phải nhà cô ấy ở trên đường vào Hòn
Chông không?
Ông Nhơn ngạc nhiên:
- Sao con biết?
- Nhưng con nói là có phải cô ấy ở đường đi Hòn
Chông không? Mà nhà cô ấy có mấy chị em? Còn có ai cỡ tuổi nàng không?
Trước một loạt câu hỏi như tra vấn của Hiệp, ông
Nhơn phải hỏi lại:
- Con sao vậy, Hiệp. Chuyện của họ thì mắc mớ gì
đến con?
Hiệp chợt giật mình, ấp úng: - Dạ con... con...
Minh Nguyệt đem trà lên, chỉ nghe loáng thoáng nên
hỏi lại: - Chuyện gì vậy?
Ông Nhơn hình như cũng không muốn con gái mình bàn
sâu thêm câu chuyện giữa ông và Hiệp đang bàn, nên vội nói:
- Ba hỏi nó chuyện chuẩn bị lễ cưới mà.
Minh Nguyệt sà xuống bên cạnh Hiệp, chẩu môi ra
nũng nịu:
- Em muốn phải có hai phù dâu, hai phù rể hà! Anh
kiếm đâu đủ hai người đi. Còn em kiếm phù dâu.
Để cho qua chuyện, Hiệp gật đại:
- Thì có gì khó đâu. Anh sẽ lo.
Suốt trong bữa cơm trưa hôm ấy, hầu như Hiệp chỉ ậm
ừ cho qua, ai nói gì anh cũng gật. Đến nỗi Minh Nguyệt phải cảnh cáo: - Anh tơ
tưởng đến ai mà đầu óc như kẻ mộng du vậy? Coi chừng em đó nghen!
Hiệp lại phải xuống nước: - Anh muốn cảm mà. Có lẽ
tại toi qua không quen chỗ lạ nên mất ngủ.
Ăn cơm xong, thay vì phải ở lại chơi một ngày nữa
như đã hứa, nhưng Hiệp viện lẽ: - Sáng sớm mai con phải nộp và báo cáo với cơ
quan biện lý về một vụ án lớn, nên tối nay con phải về để nghiên cứu tài Iiệu.
Con xin phép ba con về.
Anh quay sang trấn an Nguyệt:
- Đầu tuần này, tức ba bữa nữa anh sẽ trở lên và
chở em đi may áo cưới.
Nguyệt cười híp mắt:
- Em sẽ ra ngoài Rạch Giá bắt anh chở đi Sài Gòn
mua đồ, chớ không thèm sắm đồ ở Rạch Giá đâu!
- Cũng được. Vậy anh về nhé!
Đưa Hiệp ra tận xe, cô nàng dặn đi dặn lại:
- Đi mà ghé chỗ này chỗ nọ sẽ hiết tay tôi! Tôi có
mật thám đó nghe!
Hiệp một phần đã quen đường, phần nữa là do quá nôn
nóng, nên chỉ vài chục phút sau đã nuốt gọn quãng đường mấy chục cây số. Lần
này vào ban ngày sáng rõ, anh quan sát kỹ lại chỗ cái quán bên đường. Đúng là
không hề có. Chỉ có một mái lá tạm bợ của một người ngồi vá vỏ xe. Khi Hiệp hỏi
về cái quán thì người đàn ông trung niên tỏ ra ngạc nhiên:
- Ở đây Iàm gì có quán xá nào.
Hiệp biết chắc là không có, bởi vài cây số quanh đó
là đồng không mông quạnh, không làm sao có một cái quán mà đã biến mất chỉ
trong một đêm. Anh tần ngần một lúc rồi quyết định chạy thẳng vào chỗ ngôi nhà
nàng Mỹ Dung. Sự hồi hộp âu lo của Hiệp đã có ngay kết quả sau đó. Chẳng hề có
ngôi nào với giàn hoa giấy trước cổng như anh từng thấy!
Hỏi một vài người qua đường thì có ngườt biết,
người không. Ngời biết thì nói:
- Nguyên cả đoạn đường này trước kia chỉ có duy
nhất ngôi nhà của một người làm nghề đi biển. Nhưng vào mùa bão lớn ông ta đi
mãi không về, ở nhà vợ con chờ đợi mỏi mòn, rồi lần lượt bỏ đi tìm phương sinh
sống.
Một người con lớn thì đi làm xa lâu ngày cũng không
người nào trở lại. Riêng bà mẹ và cô con gái thì đi ở đợ cho một nhà giàu trên
thị trấn Hà Tiên, nhưng sau nghc nói có chuyện gì đó mà họ trở về không đủ hai
người.
Nói tới đây, ngưới ấy chỉ khẽ lắc đấu rồi đạp xe
tới. Hiệp cố chạy thco năn nỉ lắm thì ông ta mới chỉ tay vào trong cánh đồng và
nói: - Tôi chỉ biết có vậy. Còn muốn hiểu thêm thì cậu nên đi vào chỗ cánh đồng
kia, nó có một nghĩa trang...
Ông ta nhất quyết không nói gì thêm, đạp xe đạp
thật nhanh rồi chỉ thoắt cái đã không còn thấy đâu.
Hiệp lưỡng lự, bởi chỗ anh đang đậu xe muốn đi vào
cánh đồng kia thì chỉ có cách duy nhất: xắn quần lội bộ qua một đoạn ruộng đồng
mà anh biết chắc là sình lầy nhiều hơn là đất liền.
Nhưng cuối cùng Hiệp cũng phải đi. Quả đúng như anh
tiên liệu, phải hơn nửa tiếng đồng hồ sau anh mới tới được khu nghĩa địa chỉ có
hơn chục nấm mồ, mà người muốn đem xác đi chôn chắc chắn là phải di chuyển bằng
ghe xuồng, chớ không thể đi bộ được.
Và Hiệp đã tìm ra điều không mong tìm, đó là một
ngôi mộ mà trên mộ bia có lồng bức ảnh chân dung một người con gái đẹp:
- Mỹ Dung.
Bức chân dung ấy giống hệt như khung hình mà người
đàn bà kia ôm trong lòng ngày hôm qua!
- Trời đất ơi, Mỹ Dung sao?
Hiệp lặng người đi rất lâu. Nhớ lại khỏang khắc
ngồi chung xe với cô nàng, rồi một đêm ngủ lại nhà cô nữa. Hiệp bắt rùng mình.
Anh đứng giữa khu nghĩa địa hoang vắng đó rất lâu với bao thắc mắc hoang mang
ngổn ngang trong lòng.
Trở ra xe, thay vì chạy đi ngay, Hiệp quyết định
đậu lại đó chờ. Nếu hỏi anh chờ gì thì tức thời Hiệp sẽ chẳng trả lời cụ thể
được, bởi có thể anh chờ xem may ra có thể gặp Mỹ Dung. Mà cũng có thể anh hy
vọng sẽ chạm mặt lần nữa với người đàn bà ôm bức ảnh.
Cuối cùng, Hiệp đành thất vọng. Bởi gần một buổi
chiều chờ đợi như vậy, anh chỉ thêm bối rối và đành phải lủi thủi ra đi.
Lúc Hiệp chạy xa rồi thì ở quãng đường anh vừa đậu
xe có một cô gái đầu đội nón lá che khuất cả mặt xuất hiện, đứng nép vào một
thân cây và gục xuống, đôi vai run run. Hình như cô ta khóc!
Vừa ở tòa án bước ra, Hiệp đã thoáng thấy một người
đàn bà hai tay ôm trước bụng vật gì đó, bước đi rất nhanh như đang chạy trốn.
Anh thảng thốt gọi ngay: - Bà ơi!
Hiệp chạy bộ qua đường rất nhanh, nhưng cũng không
làm sao bắt kịp người kia, bà ta đi nhanh đến nỗi Hiệp cũng phải ngạc nhiên.
Anh chỉ có nước gọi to hơn: - Bà ơi!
Lần này Hiệp mừng rỡ bởi ngườt đàn bà đã quay lại
nhìn. Hiệp reo lên khẽ: - Chính là bà ấy!
Bà ấy mà Hiệp nói ở dây chính là người ôm khung
hình hôm trước, tức là bà mẹ của Mỹ Dung!
- Bác, chờ con với!
Hiệp không ngại có nhiều người đang nhìn mình, anh
chạy nhanh thêm và cuối cùng bắt kịp người nọ. Anh thấy trên tay bà ta vẫn khư
khư giữ bức ảnh như bữa trước:
- Bác đi đâu ra tận đây? Cháu mời bác vào quán nước
kia, cháu cần hỏi điều này một chút.
Ngần ngừ chớ không từ chối, cuối cùng bà ta theo
chân Hiệp bước vào một quán vầng gần đó. Vừa ngồi xuống, bỗng người phụ nữ lên
tiếng:
- Tôi đi tìm cậu đây!
Hiệp ngạc nhiên:
- Sao bác biết cháu ở ngoài này mà đi tìm? Mà tại
sao...
Bà ta đặt bức ảnh xuống bàn, hỏi đột ngột:
- Cậu còn nhớ nó không?
Hiệp không giấu nổi xúc động, đáp ngay:
- Cô Mỹ Dung đây mà, sao cháu lại không nhớ!
Bà ta nhẹ gật đầu:
- Nó đó. Vậy cậu có sẵn lòng giúp ón không?
Hiệp hơi bất ngờ, nhưng cũng kịp đáp:
- Dạ, sao lại không! Nhưng cháu phải làm gì?
- Báo thù!
- Báo thù cho ai? - Hiệp trợn tròn đôi mắt, hỏi
lại.
- Cho Mỹ Dung mà cậu quen. - Giọng bà ta đanh lại.
Không thể nào ngờ được, Hiệp lúng túng thấy rõ:
- Cháu, cháu làm sao có thể... ý cháu muốn nói,
cháu chỉ...
Không để ý tới thái độ của Hiệp, bà vẫn tiếp tục
nói: - Người ta đã vùi dập một đời con gái của nó, rồi khi nó có thai, họ lại
nhẫn tâm bảo nó phá
Bà nói đến đó rồi quá xúc động, nghẹn lời không còn
nói tiếp được nữa. Hiệp hiểu tất cả, anh lặng người đi một lúc rồi hỏi:
- Có phải tác giả vụ này là tên RôBe không?
Bà mẹ Mỹ Dung lắc đầu:
- Không phải. Mà chính là... lão Nhơn.
Câu tiết lộ khiến cho Hiệp như bị sét đánh ngang
tai, anh run giọng hỏi:
- Có đúng vậy không?
Bà không đáp, vụt đứng dậy và nói gọn một câu:
- Mỹ Dung nó kỳ vọng ở cậu nhiều Iắm. Nó bảo, chính
nó mới có duyên nợ vớt cậu, vậy cậu làm sao đó thì làm.
Bà bước đi nhanh, để lại đó khung ảnh. Hiệp định
chạy theo thì bà ấy đã nói với lại:
- Cậu hãy mang khuôn ảnh đó tới giao cho cô vợ chưa
cưới của cậu, ắt mọt việc sẽ như ý!
Bà ta đi khuất bóng rồi mà Hiệp vẫn chưa biết phải
làm sao. Cuối cùng phải đành cầm bức ảnh đứng dậy vừa đi vừa tránh để mọi người
nhìn...
Cái khó nhất của Hiệp là làm sao dám đưa ảnh này
cho Minh Nguyệt xem, như lời người đàn bà dặn? Mà không làm thì anh lại ngại vô
cùng, nhất là sau khi nghe cả ông Nhơn nói về bà già này, như có điều gì đó
khúc mắc, đáng thương cho cô gái tên Mỹ Dung...
Đang đi băng qua đường, chợt có tiếng gọi to:
- Anh Hiệp!
Nhìn lại thấy Minh Nguyệt đứng đó, đang vẫy tay
gọi. Hiệp điếng hồn. Anh còn lạ gì tính ghen khủng khiếp của cô vợ chưa cưới
này!
- Qua đây. Em đợi nãy giờ. Anh đi đâu vậy, em vào
tòa án kiếm, người ta nói anh đi về sớm, hẹn với cô nào phải không?
Bức ảnh trên tay Hiệp lúc này phải chi nó biến đi
đâu được cho anh nhờ! Hiệp run thấy rõ, khiến cho Minh Nguyệt khi tiến lại gần
đã vụt hỏi:
- Anh bị bệnh hay so vậy? Coi mặt màv anh tái xanh,
còn tay chân sao run dữ vậy?
Cô nhìn xuống tay Hiệp, thấy anh cứ ôm khư khư
khuôn ảnh, liền định giằng lấy và hỏi:
- Cái gì vậy?
Hiệp như kẻ phạm tội bị bắt quả tang, luống cuống
suýt làm rơi khuôn hình xuống đất!
- À ảnh... ảnh của.. của người bà con.
Minh Nguyệt giằng mạnh và cầm được khuôn ảnh trong
tay. Cô vừa trông thấy người trong ảnh thìhá hốc mồm, rồi tay chân như rụng
rời, để rơi khung ảnh xuống đường, vỡ toang!
- Nguyệt! Em sao vậy?
Minh Nguyệt ngất xỉu ngay sau đó khiến cả Hiệp và
nhiều người đi đường hoảng hốt đở cô dậy. Hiệp khó khăn lắm mới vừa cứu người
yêu vừa nhặt khung ảnh bể lên. Anh tự trách:
- Phải chi mình giấu kịp.
Vừa khi ấy Minh Nguyệt tỉnh lại. Hiệp chờ đợi một
cơn bão táp ập tới, nhưng hơi lạ, cô nàng đưa mắt nhìn Hiệp rồi nhẹ mỉm cười: -
Cám ơn anh đã giúp cho em.
Trong đời Hiệp có lẽ đây là điều bất ngờ nhất. Vợ
sắp cưới của anh mà hiền dịu như vậy chắc mặt trời sắp mọc hướng tây đây!
- Em...
Không đợi Hiệp nói hết. Minh Nguyệt đã chủ động
ngồi dậy, rồi thật bất ngớ, tự tay cô gom hết các mảnh vở của khuôn ảnh và nhẹ
nhàng nói với Hiệp:
- Mình về nhà anh, em đi đường hơi mệt, trưa nay
anh có dẫn em đi ăn tiệm được không?
Lại chuyện lạ đây! Thay vì xưa nay toàn là những
lời ra lệnh và những câu nói bướng bỉnh, sao bây giờ Minh Nguyệt của mình lại
thay đổi như vậy? Hiệp không tin vào mắt và tai mình, nên hỏi lại:
- Em thật sự không sao chớ?
Nàng lại cười và đáp nhẹ nhàng:
- Dạ, em không sao.
Rồi nàng kéo tay Htệp đi, âu yếm như nhiều cặp tình
nhân khác mà lâu nay Hiệp thèm muốn.
- Em...
Nàng giục anh:
- Về nhà đi, em nói chuyện này cho nghe!
Hiệp bước đi mà cảm giác như mình đang nằm mơ. Anh
bước vào nhà trọ mà quên cả đáp lại lời chào củ bà chủ nhà. Bà phải lên tiếng
lần nữa:
- Cậu Hiệp bữa nay có vợ sắp cưới đi bên cạnh rồi
quên hết mọi người há!
Lúc ấy, chính Minh Nguyệt phải nói đở cho anh:
- Xin lỗi dì Hai, tại ảnh đang bị bệnh. Con đưa ảnh
về cạo gió.
Nàng nói xong kéo nhanh Hiệp vào nhà và đóng cửa
phòng lại. Bấy giờ Hiệp mới hoàn hồn, anh ngẩn ngơ hỏi: - Em... thay đổi tính,
tuyệt vời vậy.
Lần đầu tiên là ngày được ông Nhơn hứa gã tới nay,
Hiệp mới bế cô nàng lên quay một vòng, vừa reo lên sung sướng:
- Tính em như vậy anh khoái quá!
Minh Nguyệr ghé sát vào tai Hiệp, nói rất khẽ nhưng
đủ nghe: - Em là Mỹ Dung đây!
Hiệp buông nàng ta xuống, suýt làm nàng ngã nhào,
Minh Nguyệt kêu lên:
- Anh làm sao vậy?
Hiệp lắp bắp: - Em... em vừa nói... nói...
- Em là Mỹ Dung đây!
Xưa nay Minh Nguyệt ít khi đùa nên Hiệp còn chưa
tin. Cho đến khi cô nàng lại sà vào lòng Hiệp lần nữa và nói thật rành rọt:
- Cám ơn anh vừa rồi đã giúp má em mang khuôn hình
đưa cho... Minh Nguyệt, và nhờ vậy mà hồn em đã nhập được vào cô ấy. Để từ nay
trong xác Minh Nguyệt là hồn của em. Anh có thương em không?
Hiệp thừ người ra, chưa biết nói thế nào cho phải.
Nói không thì anh không nói được, mà nói có ngay tức khắc làm sao anh có thể...
- Thôi, gần em đi, rồi anh sẽ hiểu.
Đám cưới giữa Hiệp và Minh Nguyệt vẫn tiến hành y
như dự tính. Trước ngày cưới mt hôm, bỗng Minh Nguyệt nói nghiêm túc với cha: -
Con muốn ba dựng lại ngôi nhà cho bà Hai Lễ ngoài Hồn Chông.
Ông Nhơn trố mắt nhìn con và hỏi trong sự kinh
ngạc: - Xây nhà cho má con Mỹ Dung? Bộ con không nhớ chuyện bà ấy luôn phá rối
nhà mình. Đã tố giác ba ra quan trên, nếu không nhờ nhà mình có thế lực, chi
nhiều tiền nên mới yên ổn tới ngày nay sao?
- Nhưng con muốn trước khi lấy chồng. Ba không
chiều con được sao? - Minh Nguyệt vẫn dịu gịong.
- Ừ, thì được rồi...
Đám cưới con gái rượu của nghiệp chủ Nhơn làm rầm
rộ chưa từng thấy. Hầu như cả Hà Tiên thời đó chưa có đám gả con nào lại rình
rang đến như thế. Do bắt rể, nên nhà trai từ Rạch Giá đưa chú rể lên Hà Tiên
rồi khi về thì về mà không có Hiệp cùng đi theo. Ngay đêm cưới, Hiệp đã khiến
mọi người ngạc nhiên khi cùng với Minh Nguyệt xuất hiện giữa mọi người và tuyên
bố:
- Sau khi chúng tôi cưới nhau thì sẽ hiến hết tài
sản này cho công việc bác ái, từ thiện, cúng chùa. Chúng tôi giử lại một số vốn
nhỏ để làm ăn. Và cũng xin cáo biệt mọi người thân quen ở thị xã này, vợ chồng
chúng tôi sẽ chuyển về Hòn Chông để ở.
Ai nấy ngạc nhiên chưa hiết thực hư ra sao thì lúc
đó ông Nhơn sắc diện tiều tụy, bước ra nói:
- Tôi đồng ý cho con và con rể làm chuyện đó, từ
nay cái tên Đạt Nhơn chỉ xin mọi người đừng nhắc tới nữa.
Ông nói xong thì biến mất vào nhà trong. Suốt buổi
tiệc không ai nhìn thấy ông ở đâu nữa. Sáng hôm sau, mọi người bàng hoàng khi
nghe tin ông Nhơn tự lái xe lao xuống biển ở gần ngã ba sông Dương Thành. Những
biến cố đến dập đó khiến mọi người sửng sốt, không hiểu tại sao lại co những
chuyện lạ lùng ấy xảy ra. Chỉ có Hiệp và Minh Nguyệt là bình tĩnh. Họ tuy đứng
ra lo toan mọi việc hậu sự cho ông Nhơn chu đáo, nhưng không hề thấy họ đau
buồn thái quá... Mà cũng đúng thôi. Người mang xác thân là Minh Nguyệt kia lại
là người bị con ngưới vừa nằm xuống hại tan nát cuộc đời. Làm sao cô nàng có
thể nhỏ lệ khóc thương được.
Ngay khi chôn cất xong cho ông Nhơn, đôi vợ chồng
trẻ rời bỏ ngay ngôi nhà và ra đi, chẳng biết là đi đâu. Bởi ngôi nhà mà họ có
ý xây lại ở đường đi ra Hòn Chông cũng chỉ là dự tính mà thôi.
Chẳng còn ai nhìn thấy họ xuất hiện nữa...
MIẾU 3 CÔ
(Tác giả: Người Khăn
Trắng)
Thiên Hương con gái út của ông bà Phát Đạt, chủ
hãng xuất nhập cảng 18 ngành lớn tại thành phố Sài Gòn vào những năm 1950...
sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu có, nên đương nhiên cô gái rượu
Thiên Hương được nuông chiều và hưởng mọi ưu đãi hơn nhiều bạn bè đồng trang
lứa.
Ngay từ khi chuyển từ tiểu học sang đệ nhất cấp,
thay vì vào học một trường trung học danh tiếng tại Sài Gòn như Ao Tím,
Chassecloup Laubat.... Thiên Hương được cha mẹ gửi vào một trường Dòng ở Đà Lạt
được chế độ nội trú. Do vậy mỗi năm về thăm nhà chỉ vào dịp nghỉ hè hay lễ tết.
Lúc đầu Thiên Hương phản đối dữ dội bằng cách tuyệt
thực mấy ngày liền trong nhà nội trú, bởi làm sao một cô gái mới lớn đang ham
chơi, ham vui với nhiều bạn đồng trang lứa lại có thể bị giam hãm trong bốn bức
tường trường nội trú nhà Dòng với chỉ toàn học trò nữ!
Các bà sơ trong trường Dòng ngay tuần lễ đầu tiên
đã có ý định trả con bé bướng bỉnh về với gia đình, nếu không có sự xuất hiện
của một chàng trai 18 tuổi. Chuyện hơi lạ, nhưng đó là sự thật và là bước ngoặt
trong cuộc đời của Thiên Hương. Chàng trai ấy là Thái, học sinh đệ nhị cấp đang
chuẩn bị thi tú tài phần 2 vào cuối năm ở Sài Gòn. Anh chàng là con một gia
đình trí thức trung lưu ở Đà Lạt, nên thỉnh thoảng về thăm nhà trên đó. Vào
cuối tuần năm ấy Thái tình cờ có mặt bên bức tường rào cao của nhà Dòng, đúng
lúc cô bé Thiên Hương vì không chịu nổi cảnh tù túng của trường nội trú nên bắt
chước bạn bè tìm cách leo rào ra ngoài.
Hầu hết dân leo rào đều có kinh nghiệm nên những
chuyến trốn đi rồi quay về của họ đều êm xuôi, trót lọt. Chỉ có Thiên Hương
đúng là dân tay mơ, mới trốn lần đầu, nên thay vì nối hai tấm trải giường vào
nhau rồi cột một đầu ở cành cây bên trong, một đầu thòng ra ngoài và cứ thế đu
ra, Thiên Hương vừa mới xuống khỏi đầu tường chưa tới một mét thì dây vải đã sút
mối nốt và cô bé rơi tự do xuống mặt đất cách gần hai mét.
Tưởng chết. Thiên Hương nhắm mắt lại sau khi thét
lên một tiếng. Nhưng lạ thay, cô cảm thấy té thật êm, như có ai đỡ bên dưới. Mở
mắt ra, suýt nữa Hương đã kêu lên lần nữa, bởi đang bế cô trên tay là một cậu
con trai mặt còn non choẹt nhưng có nụ cười rất người lớn.
- Anh...
Thái, chàng trai "định mệnh" của cô bé
trốn tường rất ga lăng: - Tấm thân này mà đo đất thì còn gì là mình hạc xương
mai nữa, cô bé!
Thiên Hương dù đang hết vía nhưng cũng kịp bật dậy
làu bàu:
- Dám ôm người ta...
Chẳng một chút tự ái, Thái lịch sự giới thiệu:
- Mình là Thái nhà ở gần đây. Còn đàng ấy chắc là
mới trốn trường lần đầu?
Như vớ được phao giữa dòng, Thiên Hương quên hết e
thẹn:
- Nhà ở gần đây hả? Vậy cứ cuối tuần ra đây đỡ giùm
tấm thân bé bỏng này nhé.
- Và kiêm luôn hướng đạo, dẫn đường chứ gì?
Thiên Hương nhún vai rất "đầm":
- Cái đó còn tùy...
Họ gần tuổi nhau, nên rất dễ thân thích, nhất là
khi biết Thái cũng từ Sài Gòn lên. Hương đã hỏi thẳng: - Mình về nhà cậu chơi
được không?
Thái cũng có cử chỉ rất "Tây":
- Oui, mademoiselle (Vâng, được thôi tiểu thư).
Thiên Hương như chim được xổ lồng, chạy tung tăng
về phía trước, làm Thái phải gọi giật lại:
- Ở phía này cơ!
Họ sóng đôi bên nhau như đôi bạn đã quen biết lâu
ngày, và mãi khi về gần đến nhà Thái, anh chàng mới hỏi:
- Đàng ấy tên gì vậy, chưa xưng ra?
- Thiên Hương!
Thái buột miệng khen:
- Hương thơm của trời!
Thiên Hương sửa lại:
- Mình khoái được gọi là hương sắc của trời hơn.
- Ô, cái nào cũng "très jolie" (đẹp
tuyệt) cả!
Họ thân nhau từ hôm ấy. Nhờ thế Thiên Hương thôi
không tuyệt thực nữa và cũng chẳng còn ôm gối khóc mỗi đêm như trước nữa. Trái
lại, cô nàng cứ mong ngóng cho mau đến chiều thứ bảy để được leo tường và được
anh chàng đẹp trai đón sẵn dẫn đi chơi khắp nơi ở Đà Lạt và sau đó còn được về
nhà anh chàng ăn những bữa cơm gia đình thật vui.
Thái ở nhà ôn bài thi một tháng và lại phải trở
xuống Sài Gòn thi tú tài toàn phần năm ấy. Anh chàng thi đậu và có được ba
tháng hè ở Đà Lạt trước khi vào đại học. Phần Thiên Hương thay vì về nhà cha mẹ
như mong ước buổi đầu, vậy mà hôm ba má lên đón, cô bé đã từ chối thẳng thừng:
- Con không thích về nhà nữa. Về rồi lại phải đi,
con không chịu nổi cảnh chia tay.
Đó là một cách nói. Thật ra cô nàng chỉ muốn ở lại
Đà Lạt với mối tình đầu của mình. Suốt ba tháng hè đó chàng trai vừa tròn 18
tuổi với cô nàng tuổi 16 đã bắt đầu những ngày đẹp nhất của cuộc tình - Từ Thủy
tạ, Hồ Xuân Hương, cho đến Thung Lũng Tình Yêu, hồ Than Thở, thác Cam Ly... nơi
nào cũng có dấu chân của họ.
Đó là khởi đầu của cuộc tình, nhưng cũng là khởi
đầu của một bi kịch về sau...
Sáu tháng sau. Khi Thái đã vào học đại học năm thứ
nhất, thì cũng là lúc ở Đà Lạt cha mẹ Thiên Hương đã đích thân lên tận trường
chính thức xin với các sơ cho con gái mình nghỉ học. Họ không giải thích thật
lý do cho Thiên Hương nghỉ học, nên lúc mới nghe Hương đã phản đối ầm ĩ. Đến
khi suy nghĩ lại thì cô chợt vui, bởi chuyển về Sài Gòn có nghĩa là sẽ ngày
ngày gặp người yêu!
Tuy nhiên, niềm vui của Thiên Hương đã bị dập tắt,
ngay ngày đầu trở lại nhà, Thiên Hương đã đối diện với một bi kịch: cha mẹ
Hương mời cơm một người bạn làm ăn tại nhà, và trong bữa ăn đó Hương được đưa
ra giới thiệu với những câu nói như sét đánh ngang tai. Mẹ Hương nói với khách:
- Cháu nó còn hai năm nữa mới lấy tú tài 2, nhưng
ngay bây giờ hai bên chúng ta có thể hứa với nhau một lời về hôn ước của chúng
nó.
Ông Phát Đạt nói cụ thể hơn:
- Ngay tuần này anh chị có thể cho tiến hành lễ
hỏi. Hai năm sau thì cưới.
Thiên Hương nãy giờ đứng ghe mà như từ trên trời
rơi xuống, tưởng chừng như chỉ mẹ mình đang nói về ai đó... Cho đến khi mẹ cô
kéo tay con chỉ về phía hai người khách:
- Đây là hai bác Phúc Lợi, cha mẹ của Thiên Phúc,
người sẽ là chồng của con sau này. Con hãy chào hai bác đi.
Thiên Hương không còn tự chủ được, cô cắn chặt đôi
môi như muốn bật máu ra, rồi vụt chạy ra ngoài như người bị ma đuổi!...
* *
*
Vân Hạnh, 18 tuổi con của một nhà tư sản, chủ một
đồn điền thuộc loại nổi tiếng ở vùng đất đỏ. Nổi tiếng không chỉ vì bề thế làm
ăn, mà còn là một trong hai cô con gái của ông bà chủ. Mà trong số này Vân Hạnh
thuộc hàng hoa khôi. Cô nàng tuy mới ở tuổi 18, nhưng đã làm chết mê chết mệt
hàng vài chục những vương tôn công tử đương thời. Hầu hết những kẻ trồng cây si
đều thuộc hàng có máu mặt của Sài Gòn...
Nhưng, không như mọi người nghĩ, không đúng như ước
của cha mẹ, người lọt mắt xanh của Vân Hạnh lại là một anh tú tài nghèo, người
thất cơ lở vận phải rời Sài Gòn lên tận vùng đất đỏ để xin làm chân thư ký quèn
tại đồn điền cao su Nguyễn Đình.
Câu chuyện tình của đôi trai gái không đồng giai
cấp này bắt đầu từ một chén mủ cao su.
Hôm ấy Vân Hạnh, Như Lan hai chị em con ông chủ
theo cha lên đồn điền để dự một buổi dạ vũ do chính ông chủ, cha của hai cô gái
đứng ra tổ chức để chiêu đãi quan chức cấp lớn của Pháp. Khách dự gồm hơn trăm
người có máu mặt thời ấy. Họ đến vì nể nang sự giàu có của chủ gia một phần,
nhưng bởi sức hút của nhan sắc hai cô con gái rượu của Nguyễn Đình thì nhiều
hơn. Gia đình khách mời nào cũng dẫn theo các cậu con trai quý tử của họ với
một mong ước duy nhất: con họ sẽ lọt được vào mắt xanh của hai vị tiểu thư họ
Nguyễn, đặc biệt là Vân Hạnh.
Buổi chiều trước tiệc dạ vũ, xe đưa cả nhà Nguyễn
Đình lên tới đồn điền.
Thấy còn sớm, chính Vân Hạnh đã đòi được đi ra vườn
cao su chơi. Trái với cô em, cô chị Như Lan thì tỏ ra kiêu kỳ, đã bài bác ý
tưởng của em:
- Có gì ngoài mấy gốc cao su mà chơi. Tao mệt muốn
chết, chỉ muốn nằm ngủ một giấc trước khi buổi tiệc bắt đầu.
Thấy chị không muốn đi. Vân Hạnh rủ người tớ gái
cùng đi. Cô còn dặn:
- Chị đừng nói với ba tôi là đưa tôi ra rừng nghe.
Như chim xổ lồng, Vân Hạnh chạy nhảy tung tăng giữa
mặt đất dầy những lá cao su rụng. Nhũng hàng cây thẳng tắp ngút mắt đã làm cho
cô thích thú vô cùng.
Cứ chạy ôm hết gốc cây này đến gốc cây kia làm cuộc
trốn tìm với cô tớ gái.
Mải mê chạy giỡn, chỉ một lúc sau họ đã đi khá xa.
Người tớ gái phải nhắc:
- Cô Ba đừng đi xa quá kẻo trời tối.
Vân Hạnh một khi đã vui rồi thì có trời cản. Cô vừa
chạy thẳng tới phía trước và nói vọng lại:
- Chị không đi thì cứ đi về, tôi sẽ tự về khi nào
mỏi chân.
Chạy một mạch đến khi cảm thấy mệt, cô bé mới dừng
lại vịn gốc cao su nghỉ. Chợt nhìn thấy chén hứng nhựa đang bắt đầu có những
giọt nhựa trắng chảy xuống.
Thật là hình ảnh ấn tượng mà trước đây dù đã vài
lần theo cha lên đây nhưng Hạnh chưa bao giờ tận mắt thấy nên trố mắt nhìn. Rồi
không ngăn được sự tò mò, Vân Hạnh đưa mấy ngón tay chấm vào chén mủ đặc biệt
đó.
Cảm giác đầu tiên là sự mát lạnh, nhưng sau đó khi
rút ngón tay lên thì cô bé mới hoảng hết: Mủ cao su quấn chặt lấy ngón tay,
càng ngọ nguậy, thì các ngón tay lại càng dính vào nhau!
Vân Hạnh quýnh quáng đưa bàn tay còn lại chụp vào
các ngón tay đang dính mủ. Nó lại thê thảm hơn, chỉ trong vài giây sau cả hai
bàn tay cô gần như dính liền vào nhau.
Cô bé bướng bỉnh sắp òa lên khóc vì chẳng biết làm
sao chợt có ai đó chụp vào tay cô với chiếc khăn mùi xoa trắng tinh, kèm câu
nói: - Phải dùng cái này thì mới gỡ rối được, thưa tiểu thư.
Nhìn lại thấy người đang nắm tay mình là một chàng
trai lạ. Suýt nữa Hạnh đã kêu thét lên. Nhưng như đã đoán trước anh chàng kia
lịch sự nở nụ cười hiền hòa.
- Tôi là thư ký trong đồn điền này, cô đừng sợ. Cứ
đứng yên để tôi giúp cho.
Bàn tay thuần thục, chỉ lát sau thì cả hai tay Vân
Hạnh đã sạch trơn. Tuy nhiên, thấy ở các kẽ tay còn rít, anh chàng lại rất bất
ngờ kéo ngay vạt áo sơ mi đang mặc lên lau một lần nữa. Hạnh muốn ngăn anh ta
lại nhưng không còn kịp, cho đến khi cử động thấy không còn vướng víu gì, cô
mới lên tiếng:
- Cám ơn anh. Chiếc áo của anh...
Chàng tai mỉm cười thân thiện:
- Đâu có sao, dân làm cao su thì ai mà không dính
mủ. Có mủ mới có tiền!
Bây giờ Hạnh mới chợt lo: - Trời sắp tối rồi...
Cô quay bước về, nhưng chợt nhớ mới lên tiếng:
- Anh tên gì?
- Phú.
- Tôi là Vân Hạnh.
Chàng trai tên Phú đã mau miệng:
- Là con ông chủ.
Vân Hạnh đang hối hả quay về nên không kịp nói thêm
câu nào. Đến lúc đi vài mươi bước rồi cô mới quay lại thì bắt gặp chàng đang
đứng lặng nhìn theo... Buổi dạ vũ hôm đó tự dưng Hạnh kêu đau bụng và xin không
ra dự. Khi cha mẹ cô vào bắt ra thì Hạnh cố làm như đau dữ dội, nên bà mẹ cô đã
lo ngại thật sự:
- Có lẽ con nhỏ không quen gió độc ở xứ này nên như
thế. Tui nói rồi, có tiệc tùng gì thì tổ chức ở Sài Gòn, lên làm chi cái đất
đầy những chướng khí chết người này chẳng biết!
Thấy Vợ cằn nhằn và vốn cưng cô con gái út nên dù
đám khách ngoài kia đều mong muốn Vân Hạnh xuất hiện. Ông Nguyễn Đình cũng đành
phải ra ngoài với lời cáo lỗi.
Cô chị Như Lan thì tất khoái, bởi vắng cô em gái
như thỏi nam châm thì cô sẽ trở thành cục nam châm hút hết các chàng trai đêm
nay.
Và thay vì phải trở về Sài Gòn ngay sáng sớm hôm
sau nhưng viện cớ là quá mệt, đi không nổi, nên Vân Hạnh xin ở lại một ngày
nữa. Chiều con, nên ông bà Nguyên Đình đã để lại bà vú già lo chăm sóc cho Vân
Hạnh, còn họ và Như Lan thì về trước.
Ngay khi ba mẹ vừa rời khỏi đồn điền thì Vân Hạnh
đã tung mền ngồi dậy, gọi người tớ gái hỏi liền:
- Ở đây có ai là thư ký tên Phú?
Chị người làm vốn đã phục vụ lâu năm nên khá rành:
- Dạ có. Thầy Phú làm ở văn phòng bên kia, còn ở ngôi nhà nhỏ phía sau, cách
đây vài trăm thước.
- Anh ta ở... một mình?
Chị người làm gật đầu:
- Chỉ có một mình. Nghe nói chưa vợ con gì hết. Từ
ngày lên đây đến ba, bốn năm rồi cũng chẳng thấy người thân nào lên thăm.
Chỉ hỏi bấy nhiêu đó thôi. Hạnh cho người tớ gái đi
ra. Và ngay sau đó cô đóng vai trò của cô chủ nhỏ, đã đột ngột viếng thăm văn
phòng của đồn điền. Cô bước vô phòng làm việc của gần một chục nhân viên, đảo
mắt một vòng mà không hỏi một ai. Có vài nhân viên biết mặt cô chủ nên kính cẩn
đứng lên chào rất lễ phép. Số còn lại cũng làm như vậy. Có người lên tiếng hỏi:
- Thưa cô chủ, cô có cần gì không?
Không trả lời câu hỏi, cô hỏi lại:
- Nhân viên ở đây chỉ bấy nhiêu người đây sao?
Một bác lớn tuổi vội đứng lên đáp:
- Dạ, còn thư ký Phú đang có việc ngoài rừng.
Hạnh lễ phép chào mọi người rồi bước nhanh Chẳng ai
hiểu mục đích cuộc viếng thăm đột xuất của cô chủ nhỏ nên thấy lo lo...
Chỉ có Vân Hạnh là thấy vui vui khi không chạm mặt
"thầy ký" Phú trong văn phòng đông người. Cô đi thẳng ra rừng và lúc
ấy mới thấy rối, bởi vườn cao su đến mấy trăm mẫu, lối đi nào cũng giống nhau
biết đi hướng nào để không bị lạc đường?
Cũng may, ngay trước tầm mắt của Hạnh là một ngôi
nhà sàn nhỏ, mà chợt nhớ lại lời chị người làm nói. Cô nghĩ đó là nhà của Phú.
Không một chút nghĩ ngợi. Hạnh bước thẳng về hướng đó.
Nhà đóng cửa, cả cửa sổ và cửa cái, mặc dù không có
khóa ngoài nhưng Hạnh đoán là không có người ở trong. Nhìn đồng hồ tay thấy mới
hơn mười giờ. Hạnh chép miệng:
- Phải đến trưa anh ta mới về...
Cô lưỡng lự một chút, cuối cùng mò trong túi áo ra
một chiếc khăn tay màu trắng thơm phức nước hoa định đặt nó ở khe cửa sổ, nhưng
để vào rồi lại lấy ra, thấy không ổn.
Không có cách nào đặt chiếc khăn mà chủ nhà khi về
mở cửa có thể nhìn thấy ngay và hiểu rằng có người đã để lại chiếc khăn mà thầy
ký đã lấy ra lau mủ cao su cho người chưa từng quen biết...
Lại lưỡng lự một hồi nữa, chợt Hạnh phát hiện cửa
cái chỉ khép hờ. Cô đánh bạo đưa tay đẩy vào. Cửa mở dễ dàng. Bên trong nhà khá
đơn sơ. Chỉ một chiếc giường cá nhân với một chiếc gối, một chăn đắp được xếp
ngay ngắn. Một tủ quần áo nhỏ, một bàn viết, trên vách treo khá nhiều tranh vẽ.
Có lẽ do chủ nhân ngôi nhà đã vẽ...
Biết là hơi quá đáng khi tự tiện thâm nhập nhà
người khác, nhưng lúc đó chẳng hiểu sao Vân Hạnh lại đánh liều bước rón rén
vào. Không khí trong nhà khá ấm cúng, dễ chịu.
Chỉ tính bước vô tìm chỗ để chiếc khăn rồi ra ngay
nhưng chính sự ấm cúng của gian nhà đã làm cho Hạnh lưu lại thêm. Cô bước tới
bên bàn viết, nhìn mấy quyển sách xếp ngăn nắp, trên bàn là một xấp giấy trắng
còn nguyên, có lẽ chủ nhân đang định viết gì đó...
Bỗng cô nhìn được mấy dòng chữ ở đầu trang. Chữ
viết khá đẹp, rất bắt mắt.
Và đặc biệt nhất là ở nội dung. Dù không muốn đọc
trộm nhưng Vân Hạnh cũng liếc thấy mấy chữ: "... cô nàng như một bông hoa
lạ từ trên trời rơi xuống, làm sáng rực lên cả một góc rừng cao su vốn xám xịt
một màu buồn tẻ. Mình đã liều lĩnh nắm lấy bàn tay như những búp hoa đỏ, mặc dù
là để giúp nàng lau mủ cao su, nhưng nghĩ lại mình thấy đáng ăn mấy bạc tay vì
tội liều. Nhưng cũng chính vì thế mà cho tới bây giờ mình vẫn còn bồi hồi, chắc
là sẽ mất ngủ hôm nay và còn nhiều hôm nữa..."
Đoạn viết chỉ bấy nhiêu đó, nhưng Vân Hạnh đọc
xong, lại phải đọc lại lần nữa và cứ nghĩ nó dài ra... Cô cười một mình khi
biết anh chàng đang viết về mình.
Thì ra...
Một tiếng kẹt ở cửa làm cắt đứt mạch suy nghĩ của
Hạnh. Phú bước vào đột ngột và cả hai đều sửng sốt nhìn nhau.
- Cô...
- Anh...
Họ chỉ thốt được nửa tiếng đó rồi lúng túng nhìn
nhau... mãi mấy mươi giây sau Hạnh mới lắp bắp nói:
- Tôi... chỉ...
Cô đưa chiếc khăn tay tới trước mà không nói thêm
lời nào. Còn Phú thì sau phút đột ngột đó đã lấy lại bình tĩnh:
- Tôi đi ra ngoài ít khi khóa cửa, vì trong nhà
chẳng có gì đáng giá...
Vân Hạnh cũng bình tĩnh hơn, cô chỉ tờ giấy đang
viết dở dang hỏi:
- Cái này mà mất thì anh có tiếc không?
Lúc này Phú mới chợt giật mình, anh chàng biết cô
nàng đã đọc.
- Tôi... tôi...
- Viết về ai đó mà không được phép của người ta là
có tội đó nghen.
Cô đút chiếc khăn tay vào lại túi mình:
- Định đem chiếc khăn này để đền lại anh, nhưng anh
đã viết như vậy thì thôi...
Cô bước ra cửa. Phú chợt móc trong túi mình ra một
chiếc khăn dính đầy mủ cao su và cười:
- Nó vẫn còn dùng được mà!
Hạnh đứng sựng lại, rồi chẳng hiểu sao cô móc chiếc
khăn củ mình ra, đặt vào tay Phú, còn chiếc khăn dính mủ cao su của Phú thì cô
giật lẹ và nhét vào túi. Xong đi nhanh ra ngoài. Cô nói với lại:
- Như vậy là huề nhé... "thầy ký"!
Đó, mối tình của họ bắt đầu như vậy đó. Vậy mà
khắng khít, đính chặt còn hơn nhựa cao su dán vào nhau. Từ đó, cứ chiều chứ bảy
là Vân Hạnh lại đòi lên đồn điền cho bằng được thay vì đi Vũng Tàu, Long Hải
chơi với gia đình. Ban đầu ba má Hạnh chỉ ngạc nhiên sao cô con gái cưng của
mình lại thay đổi nếp sống nhanh như vậy?
Nhưng lần hồi họ phát hiện ra chuyện động trời. Đối
với họ việc con gái con chủ đồn điền mà yêu một người làm công là một chuyện
như trời long đất lở, không thế nào chấp nhận được.
Kết cuộc là thầy ký Phú bị đuổi việc, cho một số
tiền và buộc phải đi định cư ở một vùng xa xôi trên cao nguyên. Vân Hạnh thì
hụt hẫng đau khổ và đã vài lần tìm cách tự tử...
* *
*
Thu Hà sinh ra trong một gia đình nghèo. Cô bé lớn
lên trong cảnh túng thiếu của cha mẹ, cùng một bầy anh chị em sáu người. Những
tưởng Hà sẽ không được học hành hoàn chỉnh, bởi hoàn cảnh thiếu trước hụt sau
ấy...
Tuy nhiên với sự siêng năng, chăm chỉ nên Hà đã
vượt qua tiểu học, rồi trung học. Năm đệ tứ. Hà thi đậu trung học đệ nhất cấp,
rồi học lên ban tú tài.
Đang học đệ tam thì bước ngoặt cuộc đời Hà bắt đầu,
khi cô đi dạy kèm tại nhà một đại tư bản ngành đồn điền. Ông Nguyễn Đình. Tại
đây số phận đã đưa đẩy để Thu Hà gặp Tuấn, người anh cả của Vân Hạnh và Như
Lan.
Là con cả của đại tư bản, việc kế nghiệp cha là
đương nhiên đối với Tuấn, nhưng tính tình của chàng trai này thì lại hoàn toàn
ngược lại với ông chỉ biết kinh doanh và tiền bạc, do vậy bất cứ lúc nào được
cha nhắc đến chuyện kế nghiệp thì Tuấn luôn dửng dưng. Niềm đam mê duy nhất của
Tuấn là đi đây đi đó để giúp đỡ người nghèo, trẻ mồ côi. Do vậy, khi gặp Thu
Hà, cô học trò nghèo đi dạy kèm thì con tim nhân hậu của Tuấn đã xao xuyến.
Họ đã yêu nhau một cách tự nhiên như bao nhiêu đôi
trai gái khác. Nhưng họ quên rằng rào cản lớn nhất mà họ phải vượt qua chính là
gia đình. Cụ thể là nhà tỷ phú đồn điền Nguyễn Đình.
Sau sự cố cô con gái út Vân Hạnh yêu chàng thư ký
đồn điền, hai ông bà Nguyễn Đình đã căng thẳng đầu óc để đối phó, cản ngăn và
vừa yên tâm sau màn hạ độc thủ bằng cách đuổi thư ký Phú đi mất tiêu, trở về
thì họ hết sức kinh ngạc khi phát hiện một quả bom nổ chậm khác đang ở trong
nhà.
Hôm đó lúc vừa trong bệnh viện trở về sau ca tự tử
bằng thuốc ngủ ca Vân Hạnh, đang ngồi nghỉ mệt ở phòng khách thì anh con cả
bước ra, tay trong tay với Thu Hà. Trước cái nhìn kinh ngạc của cha mẹ, Tuấn đã
bình tĩnh thưa thật mọi chuyện:
- Thưa ba má, con và Thu Hà yêu nhau, chúng con xin
làm đám cưới sau khi Hà xong tú tài toàn phần…
Chưa để con nói hết câu, bà Nguyễn Đình đã quát
lên:
- Mày vừa nói gì hả?
Lâu nay vốn buồn lòng vì thái độ dửng dưng với công
việc kinh doanh của đứa con trai cả, nay ông Nguyễn Đình như lửa cháy đổ thêm
dầu, thuận tay ông chụp chiếc gạt tàn thuốc trên bàn ném thẳng về phía Tuấn kèm
tiếng quát:
- Thằng bất hiếu, cút đi khỏi mắt tao!
Chẳng biết vô tình hay cố ý, chiếc gạt tàn đã bay
trúng thẳng vào mặt Thu Hà. Tội nghiệp cô bé đang khúm núm nép bên mình người
yêu đã gục ngay xuống, máu đầm đìa trên gương mặt xinh đẹp. Mặc cho Tuấn hốt
hoảng ôm thân thể Thu Hà. Ông bà Nguyễn Đình thản nhiên bước về phòng riêng.
* *
*
Bị chấn thương khá nặng, nhưng may mắn không nguy
hiểm đến tính mạng. Thu Hà phải nằm bệnh viện đến cả tuần. Tuấn ở cạnh người
yêu suốt những ngày đó và cũng từ lúc đó Tuấn thề với lòng là sẽ không bao giờ
trở lại mái nhà mà cha mẹ chỉ là những người chỉ biết có đồng tiền, quên hết
mọi thứ trên đời...
Và tuy nằm cùng bệnh viện với Vân Hạnh, cách nhau
chỉ vài phòng, mỗi khi ông bà Nguyễn Đình vào thăm con gái đều đi ngang và nhìn
thấy nhưng chưa bao giờ Thu Hà được họ ghé hỏi thăm một tiếng. Cô buồn tủi là
đương nhiên, mà Tuấn cũng vừa buồn vừa hận. Đợi những lúc Vân Hạnh ở một mình,
Tuấn đã vào tâm sự và an ủi em gái.
Khi biết chuyện Thu Hà bị nạn, Vân Hạnh đã khóc rất
nhiều và có lần đã thốt lên:
- Em không chết được thì có sống em cũng sống với
người mình yêu. Anh Hai có dám như vậy không?
Tuấn xiết chặt tay em:
- Anh ủng hộ em và ngược lại em cũng đứng về phía anh
và Thu Hà chứ?
Vân Hạnh vui trong ánh mắt:
- Chắc chắn như vậy. Để tối nay nếu khỏe em sẽ qua
thăm chị ấy.
Bất ngờ Hạnh hỏi: - Anh Hai có biết ba má đuổi anh
Phú đi đâu không?
Tuấn gật đầu:
- Chưa chắc là chính xác nhưng anh nghĩ một nơi nào
đó ở Đà Lạt.
- Đà Lạt thì đâu có xa.
Tuấn tỏ ra rành chuyện: - Không xa lắm nhưng đồn
điền trà thì từ Đà Lạt đi vào khá hiểm trở. Em nhớ đồn điền trà của ba má
không?
Vân Hạnh gật:
- Em có nghe nói nhưng chưa tới đó lần nào.
- Phú bị đẩy ra đó với một điều kiện ngặt nghèo,
khó lòng trở về.
Hạnh mừng thầm, cô tự hứa với lòng: "Giá nào
mình cũng gặp lại Phú..."
* *
*
Từ hôm ở bệnh viện trở về, Vân Hạnh gần như sống
biệt lập trong phòng riêng của mình. Cô không xuất hiện trong các bữa cơm gia
đình, cũng không ra ngoài mỗi khi có mặt cha mẹ ở nhà.
Người trước kia thường đi ra ngoài hoặc chuyện trò,
vui chơi cùng cô là Như Lan. Kể từ lúc xảy ra chuyện thì hầu như Vân Hạnh cũng
không muốn gần. Hai chị em trước ngủ chung phòng, nhưng từ lúc trở về nhà thì
chính Hạnh đã mang đồ đạc cá nhân sang căn phòng trống bên cạnh để ở hẳn.
Tuấn cũng đi khỏi nhà, trong số anh chị em chỉ duy
có Vân Hạnh là đồng cảm với anh mình, vậy mà từ lúc ra đi Tuấn cũng không hề
liên lạc gì. Giữa Hạnh và Thu Hà từ lúc đó cũng thân tình hơn, thương yêu nhau
hơn. Có lẽ mối cảm thông này bắt nguồn từ sự đồng cảnh ngộ ngang trái như nhau.
Phần ông Nguyễn Đình thì có lẽ sợ làm căng hơn nữa
thì con gái sẽ tự tử lần nữa, nên họ không còn kiểm soát quá chặt như trước. Họ
để Hạnh sống tự do theo ý cô và dành hẳn chiếc xe hơi mới mua cho Hạnh muốn lái
đi đâu tùy thích. Một phần có lẽ cũng do ông bà đã quá tự tin khi nghĩ đã cắt
đứt sự liên lạc giữa Hạnh và thư ký Phú. Phần nữa họ cũng muốn Vân Hạnh được
dịp giao du với bạn bè khác, nhất là trong giới thượng lưu để cô có cơ duyên
gặp được ai đó, quên hẳn mối tình trái ngang kia đi.
Vân Hạnh hầu như chẳng bữa vào về trước bảy giờ
tối. Có hôm Như Lan muốn làm lành với em gái, đã đề nghị được đi chung xe ra
chợ mua đồ, nhưng Hạnh đã thẳng thừng từ chối:
- Khi nào chị đi tìm được Phú về đây thì chị em mới
còn có nghĩa là chị em. Còn không...
Như Lan biết lỗi mình, cũng chính vì cô đã mét mọi
chuyện về mối quan hệ giữa Vân Hạnh và Phú lại còn thêm mắm dặm muối để cha mẹ
làm quyết liệt chuyện chia cắt tình yêu của họ.
Một mình lái xe đi hết nơi này đến chỗ nọ, giao du
với đủ thứ bạn bè. Tuy nhiên không như mong đợi của ông bà Nguyên Đình, hầu hết
người Vân Hạnh kết giao không một ai trong giới giàu có. Trong số bạn học cũ
mới. Hạnh chỉ toàn lựa những người trong giới bình dân, lao động để kết giao.
Và chiều thứ bảy hôm đó cuộc hẹn của Vân Hạnh không
phải với bạn trai mà là với hai cô gái: Một người học chung trường với Hạnh,
dưới cô một lớp từ năm tiểu học và một người nữa là Thu Hà.
Sau khi nằm bệnh viện ba ngày, Thu Hà xuất hiện và
nghỉ hẳn việc dạy kèm tại nhà Hạnh, nhưng mối liên hệ giữa họ lại trở nên thắm
thiết hơn. Do đó khi nhận được lời rủ của Hạnh, hẹn gặp tại một quán vùng ngoại
ô thì Thu Hà đã nhận lời ngay. Tuấn biết chuyện đòi cùng đi nhưng Hà cương
quyết không cho:
- Chuyện con gái với nhau, đàn ông đi làm gì?
Vân Hạnh, Thu Hà đến nơi trước. Về người khách thứ
ba. Thu Hà cứ thắc mắc mãi:
- Ai vậy Hạnh?
Vân Hạnh ra vẻ bí mật:
- Cũng không lạ, nhưng để gặp sẽ biết.
Khi người đó tới thì Thu Hà ngạc nhiên vô cùng, reo
lên: - Thiên Hương!
Thiên Hương nhỏ hơn hai người một tuổi, học dưới
một lớp ở tiểu học cho đến khi Hương chuyển lên Đà Lạt học trường Dòng. Tuy ít
gần, nhưng do thân nhau từ nhỏ nên lúc nào gặp lại nhau họ mừng hơn là chị em
ruột.
Cuộc hội ngộ thật bất ngờ, chính Thiên Hương phải
lên tiếng:
- Em cứ tưởng chị Vân Hạnh rủ đến gặp ai, không ngờ
là chị. Sao, chị Hà đã ra trường chưa?
Siết chặt tay cô bạn nhỏ. Hà mắng yêu:
- Xa mặt cách lòng nên quên hết rồi. Mình hơn cậu
một lớp, mà năm nay cậu đệ tam phải không?
Vân Hạnh chen vào: - Mới lớp đệ tứ thôi. Bỏ học từ
đầu năm thì làm sao lên đệ tam được.
Thu Hà ngạc nhiên:
- Ủa, sao bỏ học? Nghe cậu học ở Đà Lạt mà.
Vô tình bị chạm vào nỗi đau, Thiên Hương sẽ không
vui nhưng Vân Hạnh vẫn kể lại sơ lược chuyện Hương và Thái bị gia đình ngăn
trở. Và cuối cùng cô nói một câu mà cả ba đều nhìn nhau:
- Ba đứa con gái bị chính cha mẹ mình cướp mất tình
yêu!
Trong nỗi cảm thông sâu sắc họ cùng siết chặt tay
nhau và nước mắt cùng tuôn trào. Hồi lâu Hạnh mới nói:
- Hương sống ra sao bấy lâu nay?
Cười héo hắt. Hương đáp chán chường: - Mình chỉ còn
biết vẫn đi tìm Thái trong vô vọng.
Hạnh nhẹ lắc đầu: - Mình đâu hơn gì bồ. Cha mẹ mình
còn ác hơn, họ dùng tiền bạc và cả thủ đoạn nữa, đày Phú đi biệt tăm.
Giọng Thiên Hương càng buồn hơn:
- Thái bị ba má mình làm nhục nên bỏ học trở về Đà
Lạt. Mình lên đó tìm, nhưng chẳng ai biết Thái đi đâu, cả năm nay không liên
lạc về.
Hỏi đến chuyện của Thu Hà thì chính Vân Hạnh lại kể
rõ hơn: - Anh mình đã bỏ nhà đi từ cả
tháng nay đến Hà cũng không biết tin. Hôm qua mình nghe trong nhà nói ba má
mình đã hoàn tất thủ tục để anh ấy đi du học ở Pháp. Một kiểu chia cắt tình cảm
của anh Tuấn và Hà. Mình phản đối, nhưng hiện tại mình còn nghĩa lý gì với gia
đình nữa...
Bữa tiệc hội ngộ giữa ba người bạn gái đã biến
thành tiệc nước mắt. Ai kể lại chuyện mình cũng bằng sự chán chường. Sầu thảm
và cuối cùng là khóc. Thiên Hương có vẻ bi thảm hơn, cô tỏ ra hối tiếc:
- Chính mình đã hại Thái. Anh ấy nhà tuy nghèo
nhưng ham học và học giỏi, nếu không yêu mình thì chỉ mấy năm nữa anh ấy tốt
nghiệp, tương lai rạng rỡ trước mắt.
Hạnh cũng chẳng hơn gì:
- Phú đang yên ổn với đồng lương khiêm tốn, nhưng
như thế cũng đủ để anh ấy sẽ học tiếp trong vài năm tới. Gia đình anh ấy ở tỉnh
xa chỉ trong cậy vào mình anh ấy thôi.
Thu Hà từ đầu chỉ lẳng lặng nghe và thở dài. Hạnh
phải lay vai:
- Hà có ý kiến gì đi chứ...
Thu Hà khóc. Với cô, cú sốc vừa rồi là quá nặng.
Vừa mất người yêu vừa bị ông bà Nguyễn Đình đến tận nhà xỉ vả làm nhục, đến nỗi
giờ đây mỗi khi ra khỏi nhà cô không dám ngẩng nhìn mọi người.
- Hay là thế này...
Vân Hạnh đề xuất:
- Bọn mình đi Đà Lạt.
Thiên Hương ngạc nhiên:
- Lên đó làm gì?
Thu Hà cũng nói:
- Mình bây giờ chán mọi thứ, chẳng thiết đi đâu.
Giọng Hạnh trở nên nghiêm túc:
- Mấy người có nhớ trên đường đi Đà Lạt, qua đèo
Bảo Lộc có mấy ngôi chùa nhỏ vắng vẻ?
Như hiểu được ý Hạnh, Thiên Hương reo lên:
- Đi tu!
Hạnh xiết tay bạn:
- Bồ dám không?
- Có gì đâu mà không dám. Đi tu là bỏ lại trần gian
những phiền lụy, sân si. Mình cũng đã từng nghĩ...
Vân Hạnh nói như một người đang thuyết giảng giáo
lý:
- Chỉ có chốn ấy mới làm cho mình thanh thản. Mình
sẽ quên được bên kệ kinh. Mình sẽ...
Thu Hà chợt hỏi:
- Nhưng ai cho mình vào đó tu? Mình nhớ nơi đó chỉ
có mấy cái am cở rất nhỏ, không phải chùa...
Thiên Hương tỏ ra rành rẽ:
- Đúng là không có chùa lớn. Nhưng cần gì, miễn là
có chỗ để mình ở cùng nhau. Mình chỉ cần ở cùng nhau, không cần tu cũng được.
Vân Hạnh tính chi li hơn:
- Ba đứa con gái mà ở chỗ vắng vẻ đó thì khó yên.
Chỉ có trong lốt nâu sồng thì mới ổn. Mình nghĩ, am hay cốc vắng, bỏ hoang càng
tốt. Quan trọng là mấy bồ có dám không đã?
Trong một phút bốc đồng cả ba cùng ôm chặt lấy nhau
nhau, giọng quyết tâm:
- Không hối tiếc gì cả!
Vân Hạnh vạch chi tiết:
- Sẵn mình có xe, chính mình sẽ lái và bọn mình
cùng đi ngay sáng mai. Lên tới đó mình sẽ cho xe xuống vực, còn bọn mình thì
leo lên chỗ cái am cũ trên núi.
- Đồng ý chưa?
Cả ba đồng thanh:
- Cùng nhau!
* *
*
Thật đúng giờ. Lúc bảy giờ sáng, cả ba đã gặp nhau
ở một góc đường. Mỗi người chỉ mang theo một túi quần áo như một cuộc du lịch
ngắn ngày. Vân Hạnh chu đáo hơn, cô bảo:
- Phải mua theo gạo, muối, tương chao và nhiều
lương khô. Mình sẽ tự lực khá lâu chứ chẳng có ai giúp đỡ đâu.
Họ khởi hành lúc tám giờ. Hạnh lái xe rất giỏi, lại
là xe nhà quen tay lái nên hơn năm giờ sau cả bọn đã lên tới chân đèo Bảo Lộc.
Đường vắng nhưng leo dốc khá nguy hiểm, nên Hạnh
cho xe chạy thật cẩn thận. Một phần là phải để mắt tìm địa điểm cái am cũ trên
triền núi. Vừa trông thấy, Thiên Hương đã reo lên:
- Ở trên kia kìa!
Cả ba xuống xe và cùng sóng bước leo dốc lên am như
những tín đồ đi tìm đất thiêng để thăm viếng. Phải mất hơn mười phút họ mới lên
tới nơi. Đó là một am cũ, được xây bằng gạch, nhưng có lẽ từ lâu lắm rồi không
có người ở hoặc lui tới nên khắp nơi nhện giăng, bụi bám đầy. Thiên Hương hơi
đăm chiêu khi nghĩ đến những ngày phải sống ở một nơi như thế này...
Tuy nhiên Vân Hạnh thì lại hài lòng, cô nắm tay hai
bạn siết chặt, như để động viên họ:
- Nơi này là tốt rồi. Vừa gần đường lộ nhưng lại
tránh được sự tò mò của người đời. Mình chịu ở đây. Cho dù mai mốt các bồ có ai
đó bỏ cuộc giữa chừng thì mình cũng quyết ở lại một mình.
Cả Hương và Thu Hà đều nêu quyết tâm:
- Tụi này theo Hạnh đến cùng. Chúng ta không còn gì
để mà luyến thế nữa...
Hạnh giục:
- Vậy thì chúng ta mau xuống xe đem đồ đạc lên đây
rồi mình còn tìm cách đẩy xe xuống vực nữa.
Cả ba lại theo nhau trở xuống. Thiên Hương gợi ý: -
Thu Hà mang đồ lên cùng với mình, để Hạnh lo vụ cái xe.
Hai người hì hục đem ba va li đồ cùng với mấy thứ
như gạo, muối, lương khô và nồi nêu soong chảo lên am. Xong Hương bảo:
- Hà ở trên này lo quét dọn sơ cho có chỗ để đồ,
còn mình trở xuống giúp Hạnh.
Trong khi đó thì Hạnh đã nổ máy cho xe ra sát mép
vực. Dù chả quen việc này, nhưng cô nghĩ chỉ cần vô số, rồi mở cửa bước xuống,
sau đó đưa tay đẩy xe tới một chút là chiếc xe sẽ lao xuống vực sâu. Như thế là
hết, cắt đứt mọi liên hệ với gia đình, với quá khứ...
Và cô làm đúng như thế. Nhưng oan nghiệt thay, khi
Hạnh cố sức đẩy cánh cửa xe đang mở tới trước, chiếc xe chuyển động và lao
nhanh hơn dự đoán của cô. Cùng lúc một chân Hạnh bị vấp cục đá ngã chúi về
trước, tay cô vướng vào tay nắm cửa chiếc xe. Chiếc xe lôi theo cả Vân Hạnh!
Thiên Hương vừa tới, cô chứng kiến toàn bộ cảnh
rùng rợn vừa rồi với sự hoảng hốt tột cùng, cô há to mồm kêu thét lên:
- Hạnh!
Rồi như một quán tính, hoặc do một động lực vô hình
nào đó đã đẩy Hương về phía vực. Cô còn kịp nhìn thấy Hạnh văng ra chới với rồi
mất hút dưới vực sâu thăm thẳm.
Không còn tự chủ được nữa. Thiên Hương nhắm nghiền
đôi mắt lại, người ngã trong tình trạng vô thức về phía vực sâu.
Thu Hà đang ở trên am tự dưng cô nghe những âm thanh
kỳ lạ, đã vội lao nhanh xuống. Vừa kịp nhìn thấy Thiên Hương rơi từ mép vực
xuống.
Đang chới với bên bờ vực. Thu Hà chỉ còn kịp kêu
lên một tiếng thảng thốt, rồi như có ai đó từ phía sau đẩy tới. Toàn thân cô
gái tội nghiệp đã rơi theo hai bạn của mình!
Lúc đó trời vừa hoàng hôn. Trên đỉnh Bảo Lộc sương
xuống nhiều và trời tối rất nhanh...
* *
*
Ngay đêm hôm đó khi đang ngon giấc bỗng bà Nguyên
Đình kêu to rồi ngồi bật dậy. Ông cũng dậy theo ngạc nhiên:
- Bà sao vậy?
Sờ tay chân, trán, mặt của vợ đẫm mồ hôi. Ông Đình
Nguyễn lo lắng:
- Bà gặp ác mộng?
Người đàn bà thường khi rất đanh đá, giọng sắc lẻm,
giờ bỗng òa lên khóc rất thảm hại. Ông Đình phải gắt lên:
- Chuyện gì vậy?
Lúc này bà mới ôm lấy ông, giọng run run:
- Tôi thấy con Hạnh và hai đứa bạn nó nữa, trong đó
có con Thu Hà bồ thằng Tuấn, đứa nào người cũng đầy máu, tóc tai rũ rượi. Nó
đứng ở đây nè, nhìn tôi mà khóc chứ không nói gì hết...
Ông Nguyễn Đình thở phào:
- Tưởng gì, chứ còn ba cái chuyện mộng mị...
Nhưng bà vẫn không ngưng khóc:
- Vía tôi thấy rõ ràng lắm, con Vân Hạnh như muốn
nói gì đó với tôi nhưng chưa kịp thì có ai đó kéo nó đi, nó biến mất. Tôi lo
quá, làm sao đây ông?
Bật đèn sáng lên, ông Nguyễn Đình gọi to:
- Như Lan dậy đi sang ba hỏi!
Như Lan còn ngái ngủ, vừa bước sang đã bị mẹ hỏi
dồn:
- Con Vân Hạnh đi đâu từ sáng đến giờ?
Như người ở cõi trên. Như Lan lắc đầu:
- Con làm sao biết được...
Cả vợ chồng Nguyễn Đình đều chạy sang phòng riêng
của Hạnh. Mở cửa ra chẳng thấy ai, chợt ông bước hẳng lại bàn phấn cầm lên một
mẩu giấy nhỏ với những dòng chữ của Hạnh:
"Thưa ba má.
Con bất hiếu đã từ lâu làm ba má mất vui và lo lắng
nhiều. Nay con quyết không làm phiền ba má nữa. Con sẽ chọn một nơi thật xa,
một nơi không có những phiền toái của cuộc đời, để gởi thân nơi đó. Ba má đừng
tìm con bởi con muốn như vậy!
Xin ba má tha thứ cho con..."
Ông buông thõng một câu:
- Nó bỏ nhà đi rồi.
Bà giật lấy lá thư, vừa đọc xong đã chết điếng:
- Không xong rồi! Giấc mơ vừa rồi...
Trong ngày đó chẳng hẹn mà cha mẹ của Thiên Hương
và Thu Hà cũng đều chạy qua kể chuyện gần giống như giấc mơ của mẹ Vân Hạnh.
Má Thiên Hương kể:
- Nửa đêm tôi nghe tiếng con Thiên Hương kêu má ơi
cứu con, khi tôi mở mắt ra nhìn thấy nó đứng kế bên con Hạnh với một đứa nữa,
cả ba máu me đầy người như bị tai nạn xe cộ gì đó...
Ông Nguyễn Đình lúc đó mới hoảng:
- Chiếc xe! Chết rồi, con Hạnh lái xe đi...
Ông gọi mấy tài xế trong nhà hỏi thì ai cũng đáp:
- Đúng là sáng sớm này cô Tư có lái xe đi nhưng
cũng tưởng như thường khi cô vẫn đi...
Chị người làm trong nhà thuật lại:
- Khi đi cô Hạnh có biểu tôi lấy cho mấy cái nồi,
chảo và ít đồ nấu bếp, cả gạo nữa, tôi hỏi đi đâu thì cô nói đi chơi với mấy
người bạn. Mà cũng lạ, từ nào giờ cô Hạnh có quen nấu nướng gì đâu?
Bà Đình phụ họa:
- Khi nấu cơm còn không biết vo gạo làm sao nữa thì
đem theo nồi niêu để làm gì. Hay là nó đi xa lâu ngày?
Ông Đình gắt:
- Thì nó đã viết trong thư đó, nó đi luôn mà.
- Nhưng đi đâu mới được, mà tại sao có cả Thu Hà
nữa?
Đó là sự lên tiếng của Tuấn. Từ cả tháng nay đây là
lần đầu tiên anh trở về nhà. Thấy Tuấn, bà mẹ mừng quýnh: - Tuấn ơi, đi tìm tụi nó đi con!
Tuấn kể:
- Hồi nửa đêm con cũng thấy Thu Hà hiện về, mặt mày
giập nát, máu me đầy người. Cô ấy không nói gì chỉ đứng khóc rồi sau đó biến
đi...
* *
*
Chọn lựa mãi, cuối cùng ông Hồng Phát quyết định
lấy vùng đất thung lũng dưới chân đèo Bảo Lộc để lập trang trại. Nhiều người
hỏi mỉa mai ông:
- Bộ hết chỗ sao ông lại chọn cái lòng chảo như
chốn địa ngục này để lập ấp?
Ông Hồng Phát nói riêng với từng người, không để ba
cậu con trai nghe:
- Mục đích của tôi là muốn ba thằng phá gia chi tử
này sống cách ly với mọi người nên mới chọn nơi đây, chứ đâu phải không biết.
Nhìn ba cậu con trai tuổi sung sức, nhưng xem ra
cậu nào cũng yểu điệu như thục nữ, mấy người bạn ngán ngẩm:
- Ba bảy hai mốt ngày là tụi nó bỏ trốn khỏi đây
hết, lúc đó ông ở một mình với ma!
Ông Hồng Phát cười gượng:
- Đành phải thử xem sao, chứ hồi năm ngoái tôi đưa
tụi nó về Cần Thơ. Vô tận trong chốn khỉ ho cò gáy vậy mà chỉ bốn ngày là chúng
bỏ về Sài Gòn hết. Anh biết thằng lớn tên Thanh đó đã phá của tôi hết hai cái
xe hơi, một căn phố lầu. Còn thằng Dương, em kế nó thì bán nguyên hai chiếc xe
hàng chở cá. Thằng Ngọc là em út tưởng khá hơn, nhưng mới chưa đầy một năm nó
đã ăn cắp bằng khoán nhà đem đi cầm cố đến hai lần, tôi phải đi chuộc về thiếu
điều tán gia bại sản vì chúng nó.
Rồi ông thở dài, nói tiếp:
- Tất cả tiền của chúng đều đổ vô mấy đứa vũ nữ và
sòng bạc Đại Thế Giới, Kim Chung hết.
Một người bạn lắc đầu:
- Đã chứng nào thì rồi vẫn tật nấy thôi. Ông có đưa
chúng xuống đây thì rồi cũng có ngày chúng trốn đi thôi.
- Biết vậy, những dù sao thì cũng phải làm. Mà mấy
ông nên nhớ, con đường từ trên lộ cái xuống đây chúng ta phải nhờ những người
thượng dẫn đường, có lúc còn phải võng đưa đi thì mới vượt qua được mấy con
suối, khe sâu vực thẳm. Tôi hy vọng sự hiểm trở này sẽ cầm chân chúng lâu hơn.
Đợi cho đến lúc tôi với má nó bán hết tài sản, gom lại vốn rồi về quê làm ăn.
Lúc đó chúng nó có về cũng chẳng sao.
Ông Hồng Phát tổ chức cũng khá hợp lý: Ông mướn
người phát hoang năm mẫu đất rừng, sau đó cho trồng giống thông ba lá, là loại
thông sắp tuyệt chủng ở Đà Lạt. Theo ông, việc trồng thông tuy lâu có huê lợi
nhưng lại là cách tốt nhất để buộc chân ba cậu phá gia chi tử. Thanh lớn nhất
làm nhiệm vụ cai quản chúng, Dương đã từng học ngành canh nông nên quán xuyến
phần kỹ thuật.
Riêng cậu út Ngọc thì lo việc điều động nhân công
về giờ giấc, công việc, tiền công thì ông trả trực tiếp cho những người thượng
ở trong túi để họ giúp việc trồng trọt, chăm sóc rừng, lại trả trước sáu tháng
một lần, nên ba cậu con trai hầu như không ai nắm tiền để chi tiêu.
Ông cất một ngôi nhà lớn ở giữa trang trại để ba
người cùng ở. Nhưng cả ba đều phản đối, đòi ở riêng. Ngọc nói: - Con chỉ muốn ở
một cái chòi nhỏ cũng được miễn là cái thế giới riêng của con, để con sáng tác
thơ văn.
Biết đâu con út của mình có năng khiếu văn chương,
nên ông Hồng Phát thuận theo, nhờ người dựng cho Ngọc căn nhà sàn rất xinh ở
một góc vườn. Thanh thấy vậy cũng đòi:
- Con và Dương ở chung nhưng nhà có hai cửa cái
hướng về hai hướng khác nhau, để mạnh ai nấy ra vào, sinh hoạt riêng tư. Con
muốn có thì giờ nghiền ngẫm quá khứ để quên nó đi.
Dương cũng nói: - Con sẽ tạo một khu vườn ương riêng
để nghiên cứu các loại giống cây trồng. Vậy ba mua về cho con các loại hạt, đủ
loại hết.
Thấy các con đề có ý muốn trụ lại như vậy, ông Hồng
Phát thấy yên tấm lòng vô cùng. Ông ra về lòng mừng thầm nghĩ rằng, hy vọng lần
này kế hoạch của ông sẽ không thất bại.
Ông trở về Sài Gòn thu xếp công việc. Những dự tính
như thu gom tài sản, bán nhà... không ngờ diễn ra nhanh hơn dự tính. Chỉ hai
tháng sau là xong. Vợ chồng ông chuyển cả về Cái Răng. Cần Thơ lập nghiệp.
Ba tháng sau ông trở lên Bảo Lộ Phải mất cả nửa
ngày ông mới tới được trang trại. Và việc thấy đủ mặt cả ba cậu con trai làm
ông vui sướng khôn tả.
Nhất là tất cả họ lại trong trạng thái khỏe mạnh,
vui vẻ, yêu đời hơn sự tưởng tượng của ông.
Ngọc mau mồm mau miệng nhất trong ba anh em, đã lên
tiếng ngay: - Ba khỏi lo gì nữa cho tụi
con. Anh Dương đã gieo được lúa để có gạo ăn, ảnh còn trồng được nhiều rau,
trái mà không đợi giống của ba đem lên. Tất cả đều do có người mang tặng. Còn
anh Thanh thì ngày nào cũng đi vào núi để tìm thông giống và săn bắn, đồ ăn
thừa, có thể bán nữa! Còn con thì... viết được gần nửa cuốn tiểu thuyết khi nào
xong sẽ nhờ ba đem về Sài Gòn in.
Ngạc nhiên về chuyện đó, ông thử hỏi:
- Không đứa nào muốn bỏ về Sài Gòn sao?
Cả ba đều dứt khoát:
- Tụi con sẽ ở luôn nơi đây. Mà không chừng... cưới
vợ sinh con nữa!
Nghe như chuyện cổ tích, ông Hồng Phát cười ngất tỏ
vẻ không tin. Thanh xác nhận y như thật:
- Tụi con sẽ cưới vợ ở đây!
Ở lại trang trại ba ngày, ông Hồng Phát âm thầm tìm
hiểu xem có phải ba đứa con mình đã tìm gặp các cô gái trong vùng núi này và
kết họ? Nhưng ông chỉ mất công vô ích. Vùng vực sâu hẻo lánh này chỉ những
người Thượng bản khai sinh sống, còn cô gái trẻ thì cô nào cũng mình trần, da
mốc thâm sì và hầu như không bao giờ chịu tới gần người Kinh. Dứt khoát họ
không phải là đối tượng của ba đứa con ông.
Cuối cùng ông cũng tìm ra một kết luận cho riêng
mình: các con ông đã thích nghi với công việc và đã thật sự hồi tâm biết suy
nghĩ, biết lo tu thân...
Khi ra về ông vui lắm...
* *
*
Nhưng chắc chắn có một điều mà người cha tội nghiệp
kia không bao giờ biết: Đó là cả ba đều đã thật sự có... người tình!
Bắt đầu chuyện của Ngọc, cậu út mê văn chương, tâm
hồn lãng mạn...
Hôm đó vào giữa tháng, răng tròn và sáng vằng vặc
soi khắp khu thung lũng, đẹp như một bức tranh thủy mặc. Ngồi từ trong phòng
trên nhà sàn nhìn ra, Ngọc bất giác buột miệng ngâm mấy câu thơ tình.
Chợt có người cất ngang dòng thi hứng của anh:
- Đúng là thi sĩ đa tình!
Giật mình, Ngọc quay lại nhìn và vô cùng sửng sốt khi
thấy đứng giữa phòng riêng của mình là một cô gái mặc bộ quần áo lụa màu hồng
đẹp như tiên nga!
- Cô... cô là...?
Thấy Ngọc lúng túng, cô gái tiến lại gần hơn và
nhoẻn miệng cười đến đất trời cũng nghiêng ngả đắm say:
- Khách vào nhà mà chẳng mời ngồi sao?
Bấy giờ Ngọc mới ấp úng:
- Cô làm sao cô... vô phòng được, khi cửa phòng tôi
đã cài then?
Quả nhiên cửa ra vào vẫn còn cài then bên trong. Cô
gái lại giữ nguyên nụ cười:
- Chỉ vì như vậy mà tôi không được cho phép ngồi
phải không?
Ngọc đành phải đứng lên nhường chiếc ghế duy nhất
cho cô nàng ngồi, nhưng cô gái đã chủ động ngồi ngay lên giường ngủ vừa nũng
nịu nói:
- Mệt muốn đứt hơi, lại bị lạnh nữa, phải chi được
phép nằm nghỉ một lát có lẽ thích lắm đây.
Vừa nói cô nàng vừa ngả ra nằm tỉnh bơ như người
quen thân. Ngọc càng khó xử hơn:
- Cô... cô là... cô là...
Cô gái mắt nhắm nghiền, giọng buồn ngủ thật sự:
- Người ta bị lạnh cả đêm, có thể là bị cảm lạnh
rồi cũng nên...
Rồi cô ta thả hồn vào giấc điệp. Ngọc chẳng có cách
nào khác, đành ngồi đó nhìn vị khách không mời. Lúc này anh chàng càng thẫn
thờ, xao xuyến mãnh liệt hơn trước sắc đẹp phi thường của cô gái đang ngủ.
Tưởng chừng như đây không phải là thực tế, mà là một giấc mơ nào đó... cho đến
khi cô nàng lên tiếng mà mắt vẫn nhắm nghiền: - Người ta sắp chết rồi sao nhẫn
tâm không cứu vậy?
Như có sự thúc giục vô hình nào đó, Ngọc bước tới
đưa tay sờ lên trán cô gái và định đi tìm thuốc cảm. Chợt cô gái đưa tay nắm
chặt lấy tay Ngọc, giục giã:
- Hãy cạo gió giúp đi. Nhanh lên!
Ngọc nghe theo như cái máy. Anh hơi gượng khi kéo
áo cô gái lên để thoa dầu, nhưng cô gái không e thẹn gì, còn rướn người lên để
cho Ngọc dễ kéo áo lên. Phần da thịt cô ta hiện ra trước mắt trắng muốt, làm
cho Ngọc như hoa mắt, mặt nóng ran, trống ngực đánh liên hồi...
Cạo xong phần lưng, tự động cô gái xoay lại phần
ngực. Thấy Ngọc còn đang do dự, cô nàng giọng yếu ớt giục:
- Cạo luôn ngực nữa mới đở.
Ngọc làm theo và gần như lúc đó những ngón tay anh
không còn do mình tự điều khiển nữa. Cứ nhìn vào bộ ngực phập phồng lên xuống
hai mắt Ngọc lúc mờ, lúc tỏ hơi thở cũng phập phồng theo.
Đến một lúc tự dưng cô gái kêu lên:
- Em lạnh quá, lạnh đến chết mất!
Ngọc bừng tỉnh, đưa tay sờ vào da thịt cô nàng thì
bất giác kêu lên:
- Lạnh như băng! Trời ơi...
Cô nàng vẫn nói: - Không còn cách nào khác nữa.
Phải nằm đè lên người em thì mới cứu được em thôi. Em chết mất, trời ơi!
Tiếng kêu của nàng như mũi kim xuyên con tim Ngọc,
anh không còn tự chủ nữa, nhanh nhẹn leo lên nằm úp thân lên người cô gái.
Và cứ thế...
Lát sau Ngọc có cảm giác là toàn thân cô nàng đã ấm
trở lại. Hơi thở cô ta đều hơn. Nhưng phần Ngọc thì từ từ chìm vào giấc ngủ
sâu...
Ngọn đèn dầu đã cháy hết tim, từ từ tắt lịm...
* *
*
Chuyện của Thanh thì bắt đầu từ một buổi trưa. Lúc
đó Thanh đang nghỉ chân bên bờ suối sau một buổi sáng lội bộ đi gần khắp cánh
rừng tìm cây giống.
Không tìm được cây, Thanh quay sang săn bắn, công
việc mà gần như ngày nào anh cũng làm. Nhưng thật không may, hôm nay Thanh bắn
đến gần hai chục mũi tên mà chẳng làm bị thương một con thỏ. Chán nản Thanh đã
ngồi nghỉ, rồi gió mát làm anh thiếp đi lúc nào không hay...
Chợt có tiếng ai rên gần đâu đó khiến Thanh choàng
tỉnh. Trước mắt anh là một cô gái người Kinh tuổi chưa đến 20, đang ngã quị
trên thảm cỏ xanh, máu ở một bên vai cô chảy ướt cả áo.
Chẳng thể nhận thức được là đang tỉnh hay mơ. Thanh
lên tiếng:
- Cô bị sao vậy?
Đáp lại câu hỏi của Thanh chỉ là những tiếng rên
yếu ớt. Xem chừng cô gái đã quá kiệt sức rồi, nên Thanh bước nhanh tới định đỡ
nàng ta lên. Tuy nhiên, khi vừa chạm vào Thanh đã phải kêu lên:
- Cô lạnh quá! chắc là...
Thanh nhanh tay bế xốc cô gái lên định đưa về nhà
mình. Nhưng vừa lúc ấy một cơn mưa to ập đến, nên dù không muốn Thanh cũng phải
bế cô nàng đi ngược theo dòng suối, nơi anh nhớ rõ có một túp lều bỏ hoang của
những thợ đốn gỗ.
Căn lều tuy đã cũ, cũng đã lâu không có người ở,
tuy nhiên nó vẫn còn kín đáo, đủ sức che mưa. Đặt cô gái xuống, bấy giờ Thanh
mới nhìn kỹ, cô ta đẹp như một cô gái thành thị, cách ăn mặc thì đúng là một
người từ thành phố tới.
Đã lâu lắm rồi không được nhìn thấy nhan sắc như
thế này nên Thanh cứ ngồi nhìn mê mẩn, quên cả việc cứu chữa vết thương cho cô
ta.
Mãi đến khi cô gái tỉnh lại, rên mấy tiếng nhỏ thì
Thanh mới chợt giật mình, anh chạy ra ngoài tìm nhúm lá cây mà những người dân
thiểu số quanh vùng chỉ dẫn dùng để trị thương, đem trở vô tìm cách kéo vai áo
ra để đắp thuốc. Nhưng loay hoay mãi mà chẳng làm sao kéo được tay áo quá chật.
Đột nhiên Thanh thấy người con gái đưa tay lên cởi nút áo và tuột nhanh cả phần
trên, để lộ ra phần vai bị thương. Một vết thương khá sâu. Nhúm lá được đắp vào
có hiệu quả tức thì, máu không còn chảy nữa. Lúc này cô gái cũng đã tỉnh lần.
Cô lấy một mũi tên còn dính máu, đưa cho Thanh xem:
- Ai đâu mà quá ác độc, bắn em mũi tên này, may mà
chưa chết...
Thanh giật mình khi nhận ra đó là mũi tên của mình.
Anh lẩm bẩm:
- Lúc nãy mình bắn trúng con thỏ mà?
Có gái nghe được giương mắt nhìn Thanh:
- Anh đã bắn?
Thanh càng lúng túng hơn:
- Tôi... tôi bắn con thỏ. Bắn trúng nó rõ ràng...
Lại một tiếng rên đau đớn. Cô gái dường như quá đau
nên chụp cả hai tay vào người Thanh bóp mạnh. Dù rất đau nhưng Thanh cố chịu
dựng và anh hơi yên tâm vì lúc ấy hai bàn tay cô gái đã không còn lạnh buốt như
lúc nãy.
- Suýt giết người mà chỉ đắp chút thuốc là xong
sao? Thanh gỡ tay cô nàng ra, nhưng cô ta vẫn cố bấu chặt như cố tình giữ anh
lại, lúc này Thanh mới pha trò được một câu:
- Tôi không bỏ đi đâu, đừng lo!
Vòng tay không còn bấu đau nữa mà là ôm nhẹ nhàng,
rất dễ chịu. Thanh thầm mong cô ta cứ giữ yên như vậy...
- Anh là người Đà Lạt xuống đây đi săn?
- Không, tôi ngụ ở đây. Ở trang trại đàng kia. Còn
cô? Sao lại lạc tới chỗ thâm sơn cùng cốc này?
- Tôi ở Sài Gòn, lên đây đi săn cùng bố tôi sáng
nay, bị lạc và bị nạn. Giờ chẳng biết bố tôi ở đâu rồi?
Bấy giờ giữa họ đã có vẻ thân tình hơn, Thanh
hỏi: - Cô tên gì?
- Diệu Anh.
- Tôi là Thanh, anh cả của nhóm ba anh em độc thân
ở trang trại này.
Giờ cô gái mới cười. Cô ta bật dậy như chưa hề bị
thương và còn cười đùa: - Tôi chỉ một mình mà đến ba hàng độc thân. Vậy biết
chọn ai bỏ ai?
Thanh dang rộng hai vai như khoe thân hình to khỏe
của mình:
- Như vầy chắc không đến nỗi tệ?
- Cái đó còn tùy...
Cơn mưa bên ngoài đã dứt. Cô gái có vẻ lo lắng:
- Bây giờ mới gay, chẳng biết làm thế nào để trở về
Đà Lạt!
Thanh nhìn mặt trời thấy còn sớm, nên bảo:
- Tôi cũng chỉ mới lên xứ này chưa lâu nên không
rành đường rừng núi quanh đây. Vậy cô nên ở lại, chờ vài bữa xem người nhà cô
có trở lại tìm hay không. Còn nếu không thì tôi sẽ thuê người Thượng đưa cô
đi...
Cô ta le lưỡi rùng vai:
- Ở lại nơi cái chòi này?
Thanh cười:
- Ai lại thế. Trang trại tôi có đủ tiện nghi, nếu
cô Diệu Anh không ngại ba chàng độc thân thì về đó tạm mấy hôm, vừa điều trị
thêm vết thương.
Từ phút ấy đúng là phút giây định mệnh của Thanh...
* *
*
Dương dậy thật sớm, anh dặn hai anh em còn ở nhà: -
Tôi ra rừng, vô bản người Thượng để tìm giống cây và nghiên cứu thổ nhưỡng, lúc
nào xong mới về.
Anh chàng nói vọng vào cho Thanh và Ngọc nghe chứ
thật ra từ cả tuần rồi chưa hề thấy họ thức sớm như trước đây. Cứ đóng cửa
phòng ở miết trong đó...
Anh còn nghe Ngọc nói vọng ra từ nhà sàn:
- Đã bảo rồi, đừng gọi mà.
Dương không đi sâu vào rừng mà đi ngược lại về phía
thung lũng gần con đường đèo Bảo Lộc. Nơi đó có dòng suối chảy qua, nước quanh
năm mát rượi, mà thường khi nếu không gấp gáp chuyện gì Dương vẫn thường hay
đắm mình dưới dòng nước mát đó hàng giờ liền.
Buổi sáng hôm đó trời khá đẹp, ánh nắng rọi xuyên
qua cành lá xuống mặt nước trong xanh, cộng với tiếng róc rách làm thành một âm
thanh và cảnh sắc mà bất cứ ai nhìn thấy cũng phải rung động bồi hồi. Dương cảm
thấy trong người uể oải nên thay vì đi tìm cây thuốc trước, anh lại nẩy ra ý
nghĩ sẽ tắm suối một chặp để thư giãn.
Dòng nước mát quả có tác dụng rất tốt, chỉ ngâm
mình vài phút Dương đã cảm giác thư thái, cứ muốn nhắm mắt ngủ một giấc. Do đã
khá quen với đoạn suối này nên Dương ôm một gốc cây trôi giữa dòng rồi cứ thế
thả mình lềnh bềnh theo nước trôi mà không cần quan sát hai bên bờ suối.
Chợt đến một đoạn nước nông. Dương cảm giác như va
chạm một vật gì đó khác thường, anh nhìn lại kêu lên:
- Một người!
Quả là một người đang nằm vắt ngang thân thể nửa
trên bờ nửa dưới suối.
Lại là một phụ nữ!
Dương nhìn thấy dòng máu từ thái dương cô gái thì
hốt hoảng gọi to:
- Cô ơi, có sao không?
Cô gái im lặng, nhưng nhìn hơi thở nhấp nhô ở ngực
áo Dương hiểu là cô ta còn sống. Không chậm một giây. Dương bế xốc cô nàng lên
và chuyển lên bờ, tìm một chỗ bằng phẳng đặt xuống. Việc đầu tiên là xé vạt áo
lau khô chỗ vết thương ở thái dương và băng lại để cầm máu.
Khoảng năm phút sau cô gái tỉnh lại, nhìn thấy
Dương, cô hoảng hốt bật dậy ngay:
- Ông là...
Dương cố tạo vẻ thân thiện:
- Tôi ở trang trại gần đây, vừa rồi nhân đi tắm
suối thì gặp cô bị nạn.
Cô gái chưa hết vẻ sợ hãi, hai tay ôm ngực, mắt
nhìn láu liên khắp nơi như sợ có ai theo đuổi. Dương phải trấn an:
- Nơi này ngoài cô và tôi ra thì không có một ai
khác. Người ta gọi đây là thế giới khác mà.
Cô gái vẫn chưa yên tâm:
- Họ rượt đuổi theo tôi, họ sẽ bắt tôi lại, tôi...
- Họ là ai?
Cô gái im lặng hồi lâu mới kể lại chuyện: - Tôi bị gia đình ép gả cho một tên nhà giàu
lớn tuổi hơn cha mình. Ông ta mang tôi lên Đà Lạt, đi ngang qua đèo tôi lợi
dụng xin đi tiểu và lao xuống vực.
Dương kêu lên: - Sao cô dại vậy, cô có biết là mình
đồng xương sắt mà rơi xuống đây cũng nát tan ra, nói chi con người.
Nhìn một lượt khắp người cô gái. Dương hỏi:
- Cô xem còn bị thương ở đâu nữa không?
Cô gái thử cử động chân tay rồi lắc đầu:
- Không sao cả. Có lẽ lúc sáng này tôi đã rơi lên
một tàng cây rồi sau đó rơi xuống dòng suối sâu...
Dương chép miệng:
- May quá cho cô. Đúng rồi, ở cách đây vài trăm mét
thượng nguồn của dòng suối này, nơi đó rất sâu, nước từ đó đổ về đây. Có lẽ cô
đã rơi và trôi từ đó xuống tấp vô chỗ này...
Thấy cô nàng thương tích không nặng lắm nên Dương
gợi ý: - Thương tích của cô không biết
thế nào hay là tôi đưa cô về trang trại nghỉ tạm, đợi người nhà cô tới tìm...
Cô gái cắt ngang:
- Không bao giờ! Nếu họ tới tìm thì tôi thà đi luôn
vô từng sâu cho hổ beo ăn thịt còn dễ chịu hơn.
Dương đưa tay cho cô ta nắm và đứng dậy:
- Cô đi được chứ?
Thử bước tới, chợt cô nhăn mặt có vẻ đau. Dương
phải cúi người xuống bảo:
- Cô không thể đi được rồi, hãy lên lưng tôi cõng
cho. Đừng ngại.
Mà cô gái chẳng chút ngại ngùng, bám trên lưng
Dương một cách tự nhiên.
Con đường từ suối về nhà ngót gần cây số lại gập
ghềnh khó đi, nhưng sao cõng thêm một cô gái trên lưng mà Dương vẫn không hề
thấy mệt. Anh thầm nghĩ và cười một mình...
Vì không muốn để Thanh và Ngọc nhìn thấy, nên Dương
đưa ngay cô về phòng riêng. Và để cho cô gái an tâm. Dương bảo: - Đây là nhà
riêng của ba anh em chúng tôi. Mỗi người một thế giới riêng, chẳng ai phạm vào
ai. Họ cũng chẳng thắc mắc gì việc có người lạ. Cô sẽ nghỉ trên giường kia, còn
tôi sẽ ngủ ngoài hàng ba này, chỗ này đêm đêm tôi vẫn nằm đọc sách và ngủ quên
nhiều lần.
- Nhưng...
- Cô đừng ngại, tôi chưa bao giờ làm điều gì xằng
bậy với ao. Nhất là hiện tại tôi đang... tu tâm.
Nếu tinh ý Dương sẽ thấy cô gái quay đi chỗ khác và
mỉm cười.
Dương thường khi rất ít nói, lầm lì nhất trong số
ba anh em, vậy mà hôm nay anh ta lại hoạt bát lên hẳn. Vừa lăng xăng lo dọn dẹp
phòng, chuẩn bị che chắn chung quanh giường ngủ vừa giải thích:
- Tuy đây là phòng riêng, nhưng còn có tôi nên cô
cần phải riêng biệt hơn. Trong phòng này có đủ tiện nghi cả, nào phòng tắm,
phòng vệ sinh và cả bếp riêng. Hai anh em khác của tôi cũng có thế giới như thế
này nên mạnh ai nấy lo, không bao giờ họ sang đây. Nếu lỡ có gặp họ ngoài sân
thì cô cứ nói là... bạn ở Sài Gòn lên. Mà cô quý danh là gì, tôi biết được chứ?
- Thu Nga.
- Tôi là Dương.
Đêm hôm đó lần đầu tiên trong phòng ngủ của Dương
có mặt một người con gái. Đầu hôm Dương nằm ngủ ở hàng hiên, nhưng từ nữa đêm
về sáng thì chằng còn thấy bóng dáng anh chàng ở bên ngoài nữa...
* *
*
Một tháng sau, ông Hồng Phát lại trở lên trang
trại. Nhưng thay vì được những người thiểu số ở vùng núi đưa vượt rừng vượt
thác, thì lần này ông Hồng Phát phải vô cùng khổ sở mò mẫm đi một mình đến gần
nửa đoạn đường.
Nguyên là bởi chẳng làm sao tìm được bóng dáng ai
để mà nhờ. Tìm đến nhà cửa họ thì vắng tanh, kể cả nương rẫy của họ cũng không
có người, kể cả người già và trẻ con cũng đi đâu mất cả.
Phải đến khi trời đứng bóng, lúc mà đôi chân ông
Hồng Phát đã rã rời và đầy vết trầy xước thì ông mới gặp được một già làng.
Người này đã khá quen mặt, những lần trước đã từng đưa cha con ông Hồng Phát
vào trang trại. Hỏi về sự vắng mặt khó hiểu của mọi người ở phía ngoài kia, già
A Dúp giọng đầy lo lắng:
- Họ đã bỏ làng chỉ bởi... sợ ma!
Thấy chuyện lạ ông Hồng Phát hỏi tới:
- Có chuyện như vậy sao?
Già Dúp kể: - Cách đây gần nửa lần trăng tròn thì
xảy ra chuyện hai thanh niên đi săn đã bị chết giữa rừng, mà người nào cũng bị
moi ruột gan ra!
- Ai đã làm chuyện đó?
Già Dúp đưa hai tay lên trời:
- Chỉ có Giàng mới biết.
- Mấy con ma đó ở đâu mà ra? Sao mấy lần trước tôi
lên lại không nghe nói.
Nhìn vào ông Hồng Phát với vẻ hơi lạ và mãi một lúc
già Dúp mới nói tiếp:
- Nó ở chỗ mấy thằng con của ông!
- Cái gì? Tại sao là các con tôi?
Gà Dúp móc trong lưng ra một chiếc lắc đeo tay bằng
bạc có khắc mấy chữ Thanh - Dương - Ngọc và nói: - Có phải của con ông không?
Cầm vật chứng trên tay, ông Hồng Phát gật đầu xác
nhận:
- Đúng là của con tôi rồi. Cả ba đứa, mỗi đứa đều
đeo chiếc lắc giống như vầy từ nhỏ. Nhưng ông lấy ở đâu ra?
Kéo ông Phát tới một gốc cây to, già Dúp chỉ về
phía trước và nói:
- Đêm nào người làng tôi cũng nhìn thấy ba cái bóng
trắng xõa tóc dài chạy lướt trên mặt cỏ từ trong trại của ông ra ngoài. Chúng
đi vào các làng của chúng tôi và phá phách. Hễ đàn ông nào vô phước đi ra ngoài
thì đều gặp nguy. Chính tôi đã liều bám theo chúng mấy đêm liền... cho đến cái
đêm mà hai thằng con trai nhà bà Hơnen bị hại thì tôi nhặt được chiếc vòng này
bỏ lại chỗ đó.
Không thể tin được nhũng điều vừa nghe, ông Phát
xua tay:
- Không thể nào như thế. Các con tôi ở với nhau,
làm gì có con gái nào vô đó? Hay là ma rừng ma xó gì đó trong bản làng của các
ông?
Già Dúp giận dữ: - Ma của người chúng tôi không ác
độc như vậy! Và ma của chúng tôi không mặc đồ trắng, xõa tóc dài như ma của
người Kinh các ông.
Nghĩ nếu có hỏi thêm chỉ rối trí, ông Hồng Phát nhờ
già Dúp đưa mình vào trang tại. Nhưng già Dúp chỉ hứa:
- Tôi chỉ đưa ông vô tới đầu thung lũng thôi, tôi
không vô trang trại ông nữa.
Mặt trời hơi ngả về Tây thì họ tới nơi. Ông Phát
một mình vô trang trại và cũng hơi ngạc nhiên bởi sự vắng lặng khác thường nơi
đây. Thấy cửa nhà của Thanh và Dương đều khóa chặt ông đi sang nhà sàn của Ngọc
thì cũng thấy cửa đóng, tuy không khóa ngoài nhưng dường như không có Ngọc ở
nhà.
Ông cất tiếng gọi đến lần thứ ba vẫn không nghe trả
lời, nghĩ có lẽ các con ông đã ra rừng nên ông Phát bước tháo lui. Chợt có một
thứ âm thanh nghe là lạ phát ra từ trong nhà. Giống giọng của Ngọc?
Hoảng hốt, ông Phát bước lên thang chạy tới đẩy cửa
vào. Trước mắt ông một cảnh tượng hãi hùng: Ngọc nằm trên sàn nhà, người trần
truồng, còn trên cổ thì hai dòng máu chảy ra đã đông đặc lại.
Đưa tay sờ mũi thấy Ngọc vẫn còn thở. Ông Phát hét
to lên:
- Thanh ơi! Dương ơi! Sang đây.
Mặc cho ông kêu gào, chẳng thấy bóng dáng Thanh,
Dương đâu. Linh tính điều không lành. Ông Phát chạy sang tông cửa phòng họ và
một lần nữa ông kinh hãi khi thấy cả hai nằm thiêm thiếp trên giường, người gầy
rạc.
Phải mất cả giờ gào thét khản cả cổ, cuối cùng ông
Phát mới thấy già Dúp xuất hiện cùng một số dân bản. Già Dúp nhìn ba chàng trai
trong tình trạng đó, đã có nhận xét:
- Họ bị ma quỷ hại rồi. Đích thị là ba cái bóng ma
áo trắng đó chứ chẳng ai vô đây.
Nhìn kỹ trên gối ở cả ba phòng ngủ của ba chàng
trai đều còn vương lại nhiều sợi tóc phụ nữ dài và đen. Nhưng khi đưa lên mũi
ngửi thì già Dúp cảm thấy mùi tanh rất khó chịu. Ông già kêu lên:
- Mùi này giống như mùi xác chết!
Ông Hồng Phát cũng có cảm nhận như vậy. Nhưng vì
quá lo cho sự an nguy của các con nên ông giục mọi người:
- Kệ những sợi tóc đi, hãy giúp tôi đưa các con tôi
đi cứu chữa giùm, tôi lạy các ông.
Già Dúp tỏ ra khá rành chuyện tà ma, ông nói:
- Bị chuyện này có chở đi nhà thương cũng vô ích.
Để tôi chữa cho.
Ông đích thân đi ra rừng, hơn nửa giờ sau trở vô
với một nhúm cỏ và nắm lá trên tay. Ông bảo mọi người: - Trong lúc tôi đổ thuốc
cho họ thì ai đó hãy giúp tôi nấu ba con gà, lấy nước cất cho họ uống khi tỉnh
lại.
Phương pháp chữa bệnh ấy tỏ ra có hiệu quả. Khoảng
vài giờ sau thì cả ba đều tỉnh lại. Trong số đó có Ngọc là yếu hơn và tỏ ra vẫn
còn kinh hoàng khi nhìn thấy mọi người. Anh kêu thét lên từng chặp:
- Đừng! Đừng hút máu tôi!
Riêng Thanh và Dương thì cứ mở mắt ra rồi lại nhắm
nghiền lại, ai thính tai lắm thì mới nghe họ gọi rất khẽ trong miệng:
- Đừng đi, Thu Nga. Đừng đi...
- Diệu Anh, anh muốn chết cùng em, chờ anh với!
Ông Hồng Phát cũng muốn phát điên với ba đứa con
của mình. Ông bất lực nhìn họ như nửa sống nửa chết, như điên như dại mà thở
dài...
Già Dúp và đám dân bản lần lượt ra về. Trước khi đi
già Dúp còn nói với lại: - Nơi này không ở được đâu, hãy đốt trại mà đi đi!
Không trả lời, những trong ý nghĩ của ông Hồng Phát
cũng đã tính tới điều tương tự như vậy...
* *
*
Trên đường lên Đà Lạc, không lần nào Thái gặp rắc
rối như lần này chuyến xe đò anh đi đang chạy bon bon từ Sài Gòn lên một cách
ngon lành, bỗng dở chứng khi lên đến giữa đèo Bảo Lộc. Chính bác tài xế cũng
ngạc nhiên càu nhàu:
- Chiếc xe mới làm lại máy, nó chạy hai chuyến rồi
đâu có triệu chứng hư hỏng gì...
Bác tài xuống xe, dở nắp capô kiểm tra máy thấy
không có gì bất thường, lại leo lên xe nổ máy thử. Xe nổ máy ngon lành! Lúc đó
Thái và hành khách đang xuống nghỉ chân, được kêu gọi trở lên xe đi tiếp. Thái
bước lên sau cùng...
Tuy nhiên điều lạ đã xảy ra: lúc Thái vừa lên xe
thì máy đang nổ bỗng tắt. Bác tài đề lại thì vẫn không chạy. Lại yêu cầu xuống
xe tránh cho xe tuột dốc và Thái là khách đầu tiên bước xuống. Lạ thay khi Thái
vừa đặt chân xuống đất thì tự nhiên máy xe lại nổ! Thái bực dọc bước trở lên
và... máy xe lại trở chứng!
Việc này lặp lại đến lần thứ tư. Đến Thái cũng ngạc
nhiên, anh thử không lên xe lần sau cùng và bảo tài xế.
- Anh thử tắt máy rồi đề lại xem sao?
Tắt, mở máy một cách dễ dàng như chẳng có gì xảy
ra. Nhưng hễ Thái bước lên là máy lại cứ ì ra đó, làm cách nào cũng không hoạt
động. Cuối cùng một vị khách lớn tuổi phải có ý kiến:
- Hình như cậu này quá nặng bóng vía!
Một người khác cũng góp vào:
- Thường mấy người nặng vía đi xe hay gặp trục trặc
lắm.
Thái phát cáu lên:
- Làm sao biết nặng hay nhẹ? Tôi đi xe cũng trả
tiền như mọi người và đã đi hơn chục năm nay trên con đường này mà có gặp gì
đâu?
Đến lần thứ sáu vẫn còn rắc rối, đợi đến khi Thái
bước xuống xe, bác tài xế phải lên tiếng năn nỉ Thái:
- Cậu làm ơn giúp mọi người đi về nhà sớm. Tôi trả
tiền xe lại cho cậu, lát nữa còn mấy chuyến xe nữa lên cậu đi giùm...
Một hành khách ngồi gần Thái đã chủ động chuyển
chiếc túi xách của anh xuống như một thái độ dứt khoát đuổi vị hành khách xúi
quẩy xuống cho rồi!
Dù muốn phản đối, nhưng trước tình thế đó Thái đành
phải chấp nhận, Anh ngán ngẫm đứng một lúc rồi lê bước từ từ lên đỉnh đèo, hy
vọng đón được chuyến xe khác để về nhà nghỉ ngơi.
Đi chưa được trăm mét bỗng một cơn mưa như trút
nước đổ xuống. Mưa trên vùng cao là vậy, chợt đến không đoán trước được.
Nhìn quanh tìm một nơi khả dĩ có thể đứng trú mưa,
chợt Thái nhìn lên phía núi và thấy một cái miếu. Không chút lưỡng lự, Thái cố
leo lên các bậc đá thật nhanh để lên đó. Anh nghĩ, dù sao vẫn tốt hơn đứng chịu
trận giữa đèo trơ trọi như thế này.
Lên đến nơi thì đôi chân Thái đã mỏi nhừ, anh thấy
cửa miếu không đóng nên bước luôn vào. Bên trong rối om, thoạt nhìn không thấy
gì...
Mùi ẩm mốc xông lên mũi đến khó chịu, nhưng Thái
vẫn cố chịu, bởi giờ phút này ngoài nơi đây thì không còn nơi nào khác để trú
mưa.
Ngồi khoảng mười lăm phút thì mắt đã quen với bóng
tối. Thái đảo mắt một lượt. Không có bệ thờ, cũng không tượng hay bất cứ vật gì
thường thấy của một ngôi miếu. Ngoại trừ...
Thái chú ý đến mấy vật gì đó như túi xách đang đặt
dưới sàn còn ngổn ngang.
- Như vậy là có người ở?
Sẵn bao diêm trong túi, Thái vừa bật lên vừa lên
tiếng: - Có ai trong miếu không, tôi xin tá túc...
Chẳng có ai đáp. Khi đó Thái đã nhìn rõ có ba chiếc
túi xách và một bao căng đầy những vật gì đó bên trong...
Đưa tay chạm vào thì thấy bụi đã bám, chứng tỏ
chúng đã được để ở đó khá lâu.
Chợt anh kêu lên: - Cái này...
Một trong ba túi xách gây sự chú ý của Thái. Anh
bước tới cầm lên và thấy rõ cái thẻ nhỏ ghi mấy chữ Thiên Hương trên đó.
- Của Thiên Hương!
Thái không thể lầm được, chính anh cùng Hương đã đi
mua chiếc túi này tại chợ Đà Lạt khi Thiên Hương còn học nội trú trên đó. Đánh
bạo mở túi ra, rõ ràng đều là quần áo của Hương. Thái kêu lên thảng thốt: -
Thiên Hương, em ở đây mà! Hương ơi!
Trời đang mưa, sấm rền vậy mà tiếng gọi to của Thái
vẫn vang ra bên ngoài.
Anh gọi đến hơn mười lần đến khàn cả cổ mà vẫn
chẳng ai đáp lại.
Thái như điên cuồng thoát chạy ra ngoài bất chấp
gió mùa. Vừa chạy vừa gào thét, gọi tên Thiên Hương.
Như anh đã gọi trong tuyệt vọng từ sáu tháng trước,
khi hay tin Hương mất tích.
Cho đến khi cơn mưa dần tạnh thì Thái cũng lả người
đi, anh quỵ ngã ngay trước cửa miếu.
* *
*
Chuyến xe chót lên Đà Lạt vù chạy, bỏ lại hai hành
khách vừa mới xuống xe trước đó mười lăm phút khi xe bị hỏng máy.
Tuấn bực tức nói: - Họ đỗ thừa tại mình mà xe chết
máy trên đèo và lợi dụng lúc mình đi vệ sinh đã bỏ chạy, quân khốn kiếp!
Phú bình tĩnh hơn, chỉ chép miệng than:
- Từ đây về tới thị trấn Bảo Lộc cũng mất cả năm
bảy cây số, biết đi làm sao đây?
Tuấn vẫn còn ấm ức vì bị vu cho là người nặng bóng
vía, anh đấm đấm tay lên trời:
- Xe họ hư máy là tại xe cũ, chứ sao lại đổ thừa
mình chứ!
Phú nhớ lại và bất giác nói:
- Mà kể cũng lạ thật, tại sao mỗi lần hai người
mình bước lên xe thì máy lại không nổ nữa. Hễ mình bước xuống thì máy lại nổ?
Họ đã thử đến hơn chục lần chứ bộ... Anh có thấy kỳ không anh Tuấn?
- Ờ thì cũng kỳ... nhưng mình không tin chuyện dị
đoan bậy bạ đó.
Phú cười như mếu:
- Nhưng cánh tài xế họ tin và cả các hành khách họ
cũng nghĩ như vậy mới chết mình!
Tuấn nhìn đồng hồ tay và càng lo thêm:
- Đã hơn năm giờ rồi, làm sao về Đà Lạt đây? Thái
chờ trên đó chắc là lo lắm đây, mình đã hẹn Thái chắc chắn là bọn mình sẽ cùng
gặp ở nhà Thủy Tạ mà...
Nghe nhắc đến Thái, Phú hỏi:
- Mình chưa biết mặt Thái, nhưng nghe anh Tuấn nói
thì Thái tội lắm phải không?
Tuấn thở dài:
- Kề từ khi Thiên Hương mất tích cùng với Vân Hạnh
và Thu Hà, thì Thái gần như điên như dại, bỏ cả học hành, cứ đi lang thang khắp
chốn để tìm. Mình và cậu tuy cũng đau khổ nhưng vẫn còn bình tĩnh hơn nó...
Phú nghe nhói trong tim khi nghe Tuấn nhắc lại
chuyện đau lòng. Anh cúi gầm mặt không nói gì... mãi hồi lâu anh mới bảo Tuấn:
- Cám ơn anh Tuấn đã lặn lội lên tận vườn trà cho
em hay chuyện Vân Hạnh. Nếu không chắc là còn lâu lắm, em vẫn đinh ninh Hạnh
vẫn còn ở nhà.
Tuy cơn mưa vừa ngớt nhưng gió vẫn thổi mạnh và
lạnh hơn. Phú có kinh nghiệm sống ở vùng này hơn, nên bảo:
- Trời này sẽ còn mưa nữa đây, mà mưa lớn nữa. Mình
liệu mà tìm chỗ trú mưa, kẻo...
Chợt Phú kêu lên:
- Ở trên kia có cái gì giống như nhà!
Tuấn nhìn theo thì cũng nhận ra lờ mờ một ngôi
miếu, anh chán nản:
- Chỉ là một ngôi miếu hoang, mình từng nhìn thấy
mỗi lần đi qua đây.
Nhưng Phú vẫn tỏ ra quan tâm: - Một ngôi miếu lúc
này có vẫn hơn không. Mình lên đó trú mưa đi.
Tuấn không hề muốn, nhưng lúc này chẳng còn cách
nào hơn nên sau vài giây do dự, anh gật đầu:
- Được rồi, mình cứ lên trên đó khi nào nhìn thấy
có ánh đèn xe đi lên thì mình chạy xuống chặn họ lại quá giang.
Trời không còn sáng nữa, nên việc leo lên dốc có
hơi vất vả. Phải hơn năm phút sau họ mới lên tới gần ngôi miếu, Tuấn đi trước,
chợt anh khựng lại nhìn thấy có vật gì đó trước cửa miếu, anh kêu lên:
- Có người kìa!
Rõ ràng có người nằm sóng soài trước cửa miếu. Phú
nhanh chân hơn, bước tới cúi xuống và reo lên:
- Anh ta còn thở anh Tuấn ơi!
Tuấn bước đến sát hơn và lần này đến lượt anh kêu
lên: - Thái đây mà!
Họ đỡ Thái vô trong miếu. Bật diêm sáng lên, soi rõ
mọi vật. Tuấn không kiềm chế được xúc động khi nhìn thấy chiếc túi xách màu đỏ:
- Đây là...
Anh lao tới mở vội túi xách ra và nhận từng món
trong đó. Tất cả là của Thu Hà. Đúng là của Thu Hà rồi! Phú cũng lấy chiếc túi
xách màu đen còn lại, vừa mở ra thì chính Tuấn hét lên:
- Cái đó là của Vân Hạnh!
Vừa lúc đó Thái cũng vừa tỉnh lại. Anh vô cùng ngạc
nhiên khi thấy hai người.
- Sao lại...
Tuấn mừng lắm:
- Cậu đã tìm gặp họ rồi phải không?
Thái ngơ ngác: - Gặp ai?
- Thiên Hương, Vân Hạnh, Thu Hà.
Thái nhìn sang những chiếc túi xanh và bất giác kêu
to: - Thiên Hương!
Niềm hy vọng vừa lóe lên trong Tuấn và Phú đã tắt
lịm sau khi Thái kể chuyện đã chạy tìm khắp nơi mà chẳng có tăm hơi gì.
Tuấn nhìn bụi bặm bám bên ngoài các túi xách, anh
càng thất vọng hơn: - Họ đã ở đây khá lâu rồi, cứ nhìn bụi bặm thì biết.
Phú lục lọi túi thức ăn và xác nhận điều đó:
- Thức ăn đã hư thối từ lâu rồi, chứng tỏ họ chưa
ăn đã...
Thái không dám tin vào sự thật:
- Nhưng họ để đồ đạc ở đây rồi đi đâu? Họ là con
gái thì đi đâu xa được.
Tuấn cũng nói: - Khi đi Vân Hạnh lái xe. Vậy để xe
ở đâu mà lại lên đây? Hay là...
Mấy lời nói của Tuấn đã làm cho Thái và Phú sững sờ.
Họ nhìn nhau không nói gì nhưng hình như đều có chung một ý nghĩ...
Tuấn kéo tay hai bạn: - Đi! Ta xuống dưới kia!
Họ lao xuống đường rất nhanh. Tuấn vẫn là người dẫn
đường, anh giục:
- Hồi nãy trước khi lên đây tôi nhìn thấy một chiếc
xe bỏ nằm bên vách núi, ta tới đó xem.
Đường đèo dốc quanh co, lại tối thăm thẳm, vậy mà
ba chàng trai vẫn băng băng lao đi. Khoảng hai mươi phút sau thì tới chỗ chiếc
xe. Họ thất vọng ngay, bởi đó là một chiếc xe tải nhẹ cũ.
Quá thất vọng, họ đều ngồi bệt xuống cạnh chiếc xe.
Lát sau có ánh đèn pha từ dưới dốc quét lên. Rồi một chiếc xe tải nặng chạy lên
khá chậm. Khi nhận ra có người bên cạnh chiếc xe chết máy, tài xế hỏi nói
xuống: - Xe "ban" hả? Có cần
giúp đỡ gì không?
Tuấn nhanh miệng: - Không phải xe của chúng tôi.
Tôi muốn hỏi, gần đây anh có thấy chiếc xe du lịch nào bỏ lại đây không?
Một chị đi buôn ngồi bên cạnh tài xế vọt miệng nói:
- Không có xe nào bỏ lại, chỉ có một chiếc lọt xuống vực này mà thôi. Nhưng lâu
lắm rồi...
Cả ba chàng đều lao ra bám cửa xe, hỏi dồn:
- Chị nói rõ hơn được không. Tai nạn thế nào?
Chị kia giục tài xế:
- Tới chỗ bằng phẳng kia dừng lại một chút.
Chị ta thuộc loại người lắm điều thích huyên thuyên
chuyện thiên hạ, nên đây là dịp để trổ tài:
- Tui đi buôn bán qua lại con đường này thường ngày
nên chuyện gì xảy ra tôi cũng biết. Chuyện chiếc xe lao xuống vực đó ít người
biết lắm, chỉ có tôi đã vô tình nghe được một người dân thiểu số dưới thung
lũng bên dưới đèo kể lại. Họ thấy chiếc xe lao xuống và nhiều người rơi ra.
Thấy ba chàng trai đang lo lắng tội nghiệp, nên bác
tài xế đề nghị:
- Các cậu leo lên xe, tui đưa giúp về Đà Lạt rồi
tính sau. Chuyện của bà này kể đâu đã xác thực gì.
Cả ba đều buông tay cùng lúc không bám cửa xe nửa.
Phú khoát tay:
- Cám ơn, anh đi đi, tụi tui ở lại có chút việc.
Bác tài cảnh giác: - Trời này mà ở lại trên đèo là
nguy hiểm lắm đó nghen.
Mặc cho lời cảnh báo, cả ba vẫn thẫn thờ đứng trơ
trọi giữa đêm đen với nỗi lòng nặng trĩu...
* *
*
Họ tìm cách xuống thung lũng. Phú là người mở đường
bởi anh người sống ở vùng rừng núi lâu năm. Đầu tiên họ theo hướng phía gần
chân đèo đi ngược lên. Đây là con đường xa và nguy hiểm, nhưng chẳng còn cách
nào hơn, bởi bấy giờ đang là mùa mưa, nước ở các dòng suối dâng cao và luôn gây
nguy hiểm cho người vượt qua nó.
Cũng may cho họ, vừa rời khỏi chân đèo một quãng
hơn cây số họ đã gặp một người dân địa phương. Anh ta là người thiểu số nói
được tiếng Kinh nên sau khi nghe Phú hỏi về tung tích những chiếc xe bị rơi,
anh ta chỉ ta về phía trước:
- Cách đây hơn năm cây số ở đó thường có tai nạn
rơi xe. Người ở thung lũng đều tránh xa không dám dựng nhà nơi ấy...
Có người dẫn đường nên việc đi đứng của ba người đỡ
nguy hiểm hơn.
Trong số họ có Thái là tỏ ra suy sụp hơn cả. Từ lúc
tỉnh dậy đến giờ lúc nào Thái cũng luôn miệng gọi Thiên Hương và đi đứng cứ như
người mộng du.
Tuấn phải nhắc nhở:
- Cậu như thế thì làm sao đi tìm kiếm cho được. Dù
sao cũng đã đến nước này rồi, phải dũng cảm đương đầu với thực tế chứ...
Tuy mạnh miệng nói với Thái như vậy nhưng trong
lòng Tuấn tan nát, rối bời không hơn gì bạn. Tình yêu đối với Thu Hà đã làm cho
Tuấn sống mà như chết suốt gần sáu tháng qua. Anh đã bỏ cả suất khi Pháp du học
theo lệnh cha mẹ và bỏ nhà đi tìm Vân Hạnh và Thu Hà ở khắp mọi nơi. Anh đã từng
lên Đà Lạt mấy lần và do đó mới gặp được Thái và nảy ra ý nghĩ tìm Phú để cùng
đi tìm những người họ yêu thương.
Chỉ có Phú là lúc nào cũng im lìm luôn giấu tình
cảm của mình, dù trong lòng anh cũng chẳng khác gì hai bạn cùng cảnh ngộ. Nhất
là lúc anh bị ông bà Nguyễn Đình làm áp lực buộc anh phải chấp nhận lưu đày lên
đồn điền trà, nơi mà sự khắc nghiệt không thua gì thung lũng dưới vực sâu này.
Anh đã chịu đựng sự chia lìa với Vân Hạnh đến hơn sáu tháng, nhưng luôn tin
tưởng rằng người yêu anh sẽ chờ đợi và cuối cùng sẽ được tái hợp cùng nhau.
Người dẫn đường đưa họ vượt qua một thác nước nhỏ,
men theo con suối nước chảy siết đưa về phía gần chân đỉnh đèo, anh ta bảo: - Ở
đoạn đó xe thường xuyên rơi xuống, có lúc có xác người trôi về phía này, người
làng vớt được và đem chôn ở chỗ kia.
Anh ta chỉ về một đồi thấp, nơi có hơn chục ngôi mộ
cỏ đã mọc xanh rì. Phú sốt ruột hỏi:
- Làm cách nào đi về phía đó nhanh hơn?
Người dẫn đường xua tay:
- Nơi đó không tới được đâu. Xe trên đèo lúc nào
cũng có thể rơi xuống đầu các anh.
Tuấn cương quyết: - Anh cứ đưa chúng tôi tới gần
nơi đó, rồi chúng tôi sẽ tự đi.
Khoảng một giờ sau họ tới giữa con suối, ngước nhìn
lên trên thăm thẳm, Tuấn bất giác than:
- Như thế này mà xe rơi xuống làm sao sống nổi!
Cả ba người đều không ai bảo ai, đã lặng người mấy
mươi giây. Thái, người yếu đuối hơn cả, nắm lấy tay Tuấn run run hỏi: - Làm sao
bây giờ anh Tuấn?
Tuấn chưa biết tìm lời gì để an ủi, chỉ nghe Phú
kêu lên: - Có một chiếc xe trong hốc đá
đằng kia!
Theo hướng tay của Phú Tuấn nhìn theo và hốt
hoảng: - Xe đó là xe của Vân Hạnh!
Chiếc Simca 9 sơn hai màu xanh và đen nổi bật giữa
hốc đá, cả bảng số xe nữa, đứng cách hơn năm mươi thước vẫn nhìn rõ. Tuấn chẳng
ngại chướng ngại phía trước, vạch cỏ gai bước nhanh về phía chiếc xe. Lại gần
mới nhận ra phần đầu xe đã bị giập nát, các cửa xe đều bung ra, nhưng đuôi xe
thì vẫn nguyên vẹn.
Cả ba người trong trạng thái lo sợ, bước từng bước
đến bên xe đưa mắt nhìn vào trong... Trong xe chẳng hề có ai, dù là một bộ
xương người.
Thái đã khóc ngất từ nãy, anh vịn vào vai Tuấn như
nhờ sự tiếp sức, miệng thì lẩm bẩm: - Thiên Hương có thể còn sống không, anh
Tuấn?
Phú tỏ ra rành hơn: - Thường những người ngồi trong
xe rơi xuống vực đều bị bắn tung ra ngoài. Ta hãy tìm chung quanh đây...
Một cuộc lùng sục cật lực cho đến lúc trời xế trưa
vẫn chưa thấy gì. Hơi nản lòng, Tuấn đề nghị: - Chúng ta vào trong bản kia nghỉ
trưa, chiều tìm tiếp.
Thái chưa muốn đi khiến Tuấn phải nhắc lại lần nữa:
- Họ đã rơi xuống đây sáu tháng rồi, có tìm gặp cũng chỉ là...
Tuấn bỏ lửng câu nói, cả ba cùng đi về phía làng.
Người dẫn đường còn chờ họ trên đồi, anh ta chỉ về phía một trang trại lớn: -
Muốn nghỉ ngơi thì vô trang trại bỏ hoang kia kìa.
- Trang trại sao lại bỏ hoang? Phú hỏi.
Anh dẫn đường nói rõ:
- Đây là trang trại của một ông từ Sài Gòn lên lập
cho ba người con trai. Nhưng họ chỉ ở được ba bốn tháng thì suýt bỏ mạng...
Tuấn ngạc nhiên: - Sao vậy?
- Họ bị ma bắt hồn!
Cả ba bị cuốn hút vào câu chuyện ma. Khi anh ta kể
đến việc có ba con ma nữ thì Thái là người nhạy cảm hơn cả, đã kêu lên:
- Thiên Hương không thể là ma được!
- Nhưng có ai bảo Thiên Hương là ma bao giờ? Tuấn
bảo.
Tuy nhiên càng nghe người dẫn đường kể thì chính
Tuấn cũng thấy giống những người yêu của họ. Cho đến khi được đưa lên ngôi nhà
sàn thì chính Thái đã reo lên khi nhìn thấy chiếc lược cài tóc nằm trên giường:
- Cái này là của Thiên Hương!
Chính Thái đã mua tặng Hương chiếc lược màu tím có
hình con bướm vàng với hai chữ TH lồng vào nhau.
Đúng là Thiên Hương từng sống ở đây? Cô ấy còn ở
đây! Thái chạy khắp trong ngoài nhà lùng sục, vừa kêu to: - Thiên Hương! Hương
ơi.
Anh chàng dẫn đường lắc đầu: - Anh ta điên rồi!
Chính cô gái ma từng vào căn nhà sàn này và làm cho con trai út ông chủ trang
trại gần mất mạng, sao lại là người yêu của anh chàng này!
Ở những căn phòng khác. Tuấn và Thái đều tìm gặp
những vật dụng của Thu Hà và Vân Hạnh. Cầm trên tay chiếc khăn quàng cổ màu
hồng nhạt mà khi lên đồn điền. Hạnh đã choàng cũng như đã từng quàng cho Phú
lúc Phú bệnh. Ở một góc khăn còn hằn rõ hai chữ VH do chính tay Phú ghi.
Tuấn thì nhặt được một chiếc đồng hồ đeo tay để
trên bàn viết của một căn phòng. Chiếc đồng hồ đó là quà tặng của anh cho Thu
Hà lúc hai người quen nhau được một tháng nhân lần Tuấn đưa người yêu đi chèo
ghe ở Phú Định.
Người dẫn đường kể đầy đủ chuyện ba con ma nữ hại
ba đứa con trai chủ trang trại Hồng Phát. Câu chuyện ông kể làm Tuấn, Phú và
Thái nghe lạnh cả người...
* *
*
Cuối cùng thì chính Phú cũng tìm được ba bộ xương
người nằm ở một bãi đá phía hạ nguồn dòng suối. Anh nhận ra sợi dây chuyền mặt
vàng có lộng hai chữ VH còn đeo ở xương cổ.
Họ mang cả ba bộ xương lên và ngay hôm đó họ đặt
giữa miếu hoang một mâm nhang đèn trịnh trọng. Lễ cúng chỉ với những nải chuối
rừng và cả ba chàng trai đều ngồi ở các góc phòng trên tay ôm ba bộ xương,
người thừ ra, mắt nhìn về phía trời xa...
Ngày hôm sau và cả tuần sau nữa, họ vẫn như những
người hóa đá ngồi lặng yên trong miếu...
Rồi đến một hôm bỗng dưng họ biến mất chẳng để lại
chút tăm hơi nào...
Có tin đồn rằng cả ba do quá đau khổ và chán chường
đã mang theo xương cốt người yêu đi sâu vào vùng rừng núi để chôn chặt cuộc đời
còn lại...
Cũng có tin nói rằng trong một đêm tăm tối, mưa gió
bão bùng, vì quá tuyệt vọng của ba đã lao mình xuống vực...
Chẳng ai biết điều nào là đúng. Chỉ có điều là kể
từ khi ấy những người chạy xe qua đèo Bảo Lộc đều kháo nhau rằng đêm đêm họ
thấy có ánh đèn trên ngôi miếu hoang. Thỉnh thoảng còn có tiếng khóc trên đó
vọng xuống...
Có người còn quả quyết rằng chính họ đã từng nhìn
thấy ở đoạn đèo gần ngôi miếu thỉnh thoảng xuất hiện ba bóng con gái mặc toàn
đồ trắng. Họ đứng ủ rũ bên đường gần bờ vực. Có khi lại thấy họ đứng giữa ngã
ba như chờ đón xe lên xuống.
Nhiều tài xế nói rằng nếu lái xe qua đó mà không
thành tâm khấn vái thì rất dễ hoa mắt, xe rất dễ bị rơi xuống vực. Có người còn
quả quyết rằng dù gia đình ông Nguyễn Đình và Phát Đạt không biết cụ thể về cái
chết của các con họ, nhưng tự dưng họ rất sợ đi qua đường đèo Bảo Lộc.
Rồi chẳng biết do ai mà ngôi miếu hoang trên núi đã
được trùng tu, có bệ thờ, có bàn hương và có người thường xuyên đến lễ cúng, và
ngay cạnh miếu mọc lên ngôi mộ bia, nhưng ai cũng biết để chôn tượng trưng ba
cô gái chết oan. Cũng từ đó người ta gọi ngôi miếu ấy là Miếu Ba Cô và mộ ba
oan hồn...
Gọi riết thành danh. Sự linh ứng cũng ngày càng
tăng. Dân đi buôn rất tin tưởng và thường dừng xe lại cúng. Không nghe có sự
phá phách nào từ những oan hồn trong miếu...
CON MA TRONG HỒ TẮM
(Tác giả: Tam Tang)
Chúng tôi quen nhau khi còn học chung ở một trường
đại học tại tiểu bang
Chúng tôi mua nhà vào mùa Đông nên cái hồ vẫn được
che phủ bằng tấm bạt! Tôi ước mong cho mùa Hè chóng tới để tha hồ bơi lội trong
đó! Rồi thì mùa Hè cũng tới, chồng tôi gở tấm bạt phủ và cọ rửa đáy hồ trước
khi xả nước vào! Anh ấy làm theo lời chỉ dẫn của một người bạn Mỹ để chúng tôi
không còn phải lo lắng gì khi tắm! Số là tôi sinh trưởng ở một tỉnh miền Tây
tại Việt
Trưa thứ Bảy đầu tiên sau khi hoàn tất việc sửa
soạn cho hồ, tôi thích thú nhảy ngay xuống và bơi thoải mái qua lại từ đầu hồ
tới cuối hồ! Bơi được chừng 15 phút, tôi nhoài lại gần cái thang và giữ lấy nó
cho đỡ mệt! Bỗng tôi có cái cảm giác là có một bàn tay nào đó nắm lấy cổ chân
tôi! Nhìn qua làn nước trong suốt tận đáy hồ, tôi không thấy ai cả! Nhưng chân
tôi vẫn như bị ai nắm lấy! Tuy chồng tôi nằm đọc báo trên ghế ở cái deck ngay
bờ hồ, tôi không gọi anh ấy vì sợ cho là nhát nhúa! Nhưng tôi cũng không giám
ngâm mình lâu hơn!
Hôm sau chúng tôi lại xuống tắm, vừa nhảy xuống bơi
được một vòng thì cái cảm giác bị nắm chân lại đến với tôi! Lạ một điều là cái
bàn tay vô hình đó chỉ nắm lấy chân tôi chứ không kéo ghị gì cả nên tôi vẫn bơi
lội thoải mái! Chỉ thấy như chân mình bị nắm thôi! Tôi cố đập chân thật mạnh để
xem cái cảm giác đó có biến đi không! Không, nó như bám chặt lấy chân tôi! Đâm
sợ tôi bơi vào bờ và leo lên ngồi cạnh chồng trên deck! Một lúc sau tôi làm như
vô tình hỏi:
- Anh có cảm thấy bị vướng víu gì trong khi bơi
không hả?
- Đâu có gì đâu em! Rất thoải mái, nước trong mát
anh rất thích! Mình cùng bơi nghe em!
Rồi anh ấy nhảy xuống bơi mấy vòng và ra hiệu cho
tôi nhảy xuống hồ! Bất đắc dĩ tôi phải làm theo! Lạ thay tôi không có cái cảm
giác bị nắm như khi tôi bơi một mình trong hồ! Tôi suy ra có lẽ do tôi sợ vẫn
vơ vì hồi bé hay nghe kể chuyện "ma da" mà ra thôi! Mà ma da thì ở
sông, ở hồ chứ đâu có khi nào tôi nghe nói là có nó trong hồ tắm đâu! Đúng là
tôi sợ vẩn vơ rồi! Tuy tự nhủ như vậy, nhưng sau này mỗi khi ra tắm là tôi đợi
chồng tôi nhảy xuống rồi mới nhảy theo! Mọi việc êm đẹp và tôi cứ theo đó mà
theo để khỏi bị cái cảm giác kia làm sợ hãi và khó chịu!
Gần cuối mùa Hè năm đó là sinh nhật thứ 26 của tôi!
Vợ chồng tôi tổ chức tiệc sinh nhật tại nhà và mời anh em, họ hàng, cùng bạn bè
đến dự! Chồng tôi không uống rượu, chỉ khi nào đi dự tiệc tùng thì anh ấy mới
uống một lon bia cho vui thôi! Còn tôi thì chỉ cần một ngụm rượu cũng đủ làm cho
say rồi! Nhưng vì là tiệc sinh nhật của tôi, nên họ bắt tôi uống mấy ly rượu
nhỏ, và để tiệc được vui tôi không thể từ chối được! Xong tiệc, mọi người xúm
nhau nói chuyện một lúc rồi từ giả ra về! Vợ chồng tôi dọn dẹp và bỏ chén dĩa
vào máy rửa! Thấy mặt tôi đỏ bừng vì rượu chồng tôi bảo là hãy nằm trên sofa
nghỉ cho tỉnh rượu đi! Anh ấy xuống basement dọn dẹp dưới đó một chút vì mấy
đứa nhỏ con của bạn bè, họ hàng xuống chơi bày bừa bộn dưới đó!
Đang nằm thiu thiu bổng có một ma lực nào đó bảo
tôi hãy đứng dậy và đi ra hồ tắm! Tôi nghe theo như một kẻ mất hồn! Chân tôi
bước ra hồ rồi tự nhảy xuống đó! Cái cảm giác bị ai nắm chân lại đến với tôi!
Lần này cả hai chân tôi bị nắm và tệ hại hơn là chúng kéo tôi xuống đáy hồ! Tôi
vùng vẫy mà không sao thoát được hai bàn tay đó! Mở miệng ra thì bị nước vào,
tôi uống mất mấy ngụm vào bụng! Nhưng khi tới đáy hồ thì bản tính tự nhiên tìm
cái sống đã thúc đẩy làm tôi trở lên mạnh mẻ! Tôi đạp thật mạnh để trồi lên mặt
nước, vừa cố ngáp thở được hai hơi, đôi tay đó lại kéo ngược tôi xuống đáy hồ
trở lại! Không, tôi không thể chết như thế này được! Tôi mới có 26 cái xuân
xanh, tôi còn quá trẻ để mà chết! Bản năng sinh tồn cho tôi thêm sức mạnh và
tôi vùng lên mặt nước một lần nữa! Đôi bàn tay đó chẳng để cho tôi thở lâu lấy
sức, chúng lại kéo mạnh tôi trở xuống đáy hồ! Tôi cố mở miệng kêu cứu nhưng
nước tràn vào miệng làm tôi sặc sụa! Bụng tôi đã chứa khá nhiều nước rồi! Tôi
cảm nhận được điều đó! Trong cơn nguy ngập, tôi nghĩ đến chồng, đến cha mẹ, đến
anh chị em tôi! Không! Không, tôi chưa muốn chết! Chúng tôi mới cưới nhau được
một năm thôi! Tôi mới chỉ hưởng được cái hạnh phúc vợ chồng này chưa đầy một
năm, tôi chưa sinh cho chồng tôi một đứa con trai và một cô con gái như chúng
tôi đã hằng ước mong! Tôi chưa trả được tí gì cho công ơn dưỡng dục của cha mẹ
tôi! Tôi không thể chết được! Nhưng ai cứu được tôi bây giờ!
Trong cái giờ phút cuối cùng đó, tôi cố nhoài người
lên một lần cuối! Tôi vẫn cảm nhận là đôi bàn tay kia đang kéo tôi trở xuống,
trước lúc ngất đi tôi cảm thấy có đôi tay quàng qua người mình! Tôi chỉ còn một
thoáng nghĩ trước lúc hôn mê là đôi tay kia tới mang tôi về cõi chết!
Khi tôi tỉnh dậy thấy mình trong bệnh viện, bên
giường là gương mặt lo lắng của chồng và bố mẹ tôi! Tôi mừng rở mặt dàn dụa
nước mắt! Tôi không biết tại sao mình còn sống và ở trong đây! Ai đã cứu tôi
khỏi đôi bàn tay quái quỷ đó! Đợi tôi định tỉnh một hồi, chồng tôi mới nhỏ nhẹ
nói:
- Anh vừa ở basement lên, không thấy em đâu cả! Anh
gọi nhưng không ai trả lời, vào phòng ngủ cũng không thấy em! Anh chạy ra sau
thì thấy tay em thò vẫy vùng trên mặt nước và đang chìm dần! Anh hoảng quá nhảy
xuống vớt em lên rồi kêu 911! Họ đến làm hô hấp nhân tạo và chở em vào đây!
Cũng may em chưa chìm lâu nên không nguy đến tính mạng!
Tôi còn mệt nên chẳng nói gì hết! Hôm sau, họ cho
tôi xuất viện! Về nhà tôi mới kể cho chồng nghe về việc tôi đã trải qua! Tôi
giám chắc là trong hồ tắm có "ma da" vì nó đã cầm chân tôi từ ngày
đầu tiên rồi! Việc này không phải do tôi tưởng tượng ra đâu! Chồng tôi bán tín bán
nghi vì anh ấy là người sùng đạo lắm và không tin có ma quỷ hiện hình trên thế
gian này! Nhưng thấy tôi quá khẳng định nên anh ấy chiều lòng và cùng tôi ghé
qua nhà hàng xóm hỏi thăm! Ông bà hàng xóm là một cặp vợ chồng Mỹ già, họ không
có con cái! Thấy chồng tôi hỏi thăm về cái hồ tắm phía sau nhà, bà già tái mặt
không giám hở lời! Ông già mời vợ chồng tôi vào nhà chơi rồi thủng thẳng nói:
- Thấy cô còn sống là chúng tôi mừng cho cô lắm! Ba
người đàn bà trước kia đã từng ở căn nhà đó không được may như cô đâu! Mà tôi
nghe nói phụ nữ Á Đông các cô ít ai uống rượu lắm, phải không? Sao mà cô lại bị
chìm trong hồ kìa! Tôi thấy hơi lạ đó!
- Đúng đó bác ạ! Chúng tôi không uống rượu, nhưng
hôm đó là sinh nhật của cháu nên bạn bè ép uống một hai ly nhỏ, nhưng vì không
quen nên cháu bị say đó!
- Thảo nào! Con ma trong hồ tắm đó chỉ kéo phụ nữ
say rượu thôi!
- Sao lại có chuyện đó hả bác? Bác nói là có con ma
trong hồ tắm! Vậy ra hồ nhà cháu có ma thật sao ạ?
- Vâng cô ạ! Nhiều người không tin, nhưng tôi ở đây
đã 15 năm rồi, và đã chứng kiến cái chết của ba phụ nữ tại hồ nhà cô rồi đó! Bộ
các cháu không hay biết gì về lịch sử của cái nhà đó sao?!
- Tụi cháu lần đầu mua nhà nên có biết gì đâu! Ông
realtor có nói gì về điều này đâu! Thấy nhà rẻ lại ở địa điểm tốt nên tụi cháu
mua ngay thôi!
- Thôi để tôi kể cho cô chú nghe về chuyện này:
"Nạn nhân đầu tiên là vợ của người chủ đầu của căn nhà đó, một hôm chồng
đi vắng bà ta uống rượu quá độ rồi lạng quạng sao đó mà té xuống hồ chết! Chiều
tối khi chồng về khám phá ra vợ mình chìm dưới hồ, liền kêu cảnh sát, nhưng bà
ta đã chết lâu rồi! Bác sĩ giảo nghiệm và quy cái chết của bà ta là do tai nạn
- Say rượu rồi té xuống hồ chết đuối - Ông ta buồn lắm và bán nhà đi nơi khác
để quên đi nỗi đau mất vợ! Gia đình thứ hai mua căn nhà này được chừng 1 năm,
một ngày kia khi người chồng đi làm về không thấy vợ đâu, chạy ra sau tìm, và
thấy vợ bị chết chìm trong hồ! Ông ta kêu 911 và họ cũng không cứu được bà ta!
Bác sĩ giảo nghiệm đưa đến cùng một kết quả như cái chết của người đầu tiên! Do
tai nạn vì say rượu! Ông chồng ở thêm một thời gian rồi cũng bán căn nhà cho
người khác! Vợ chồng chủ mới này đã trung niên, và có 2 người gái con tuổi
choai choai đang học trung học! Họ sống yên ổn được chừng hai năm thì sự việc
lại xảy ra! Đứa con gái lớn bị bồ ruồng rẩy, một bữa kia cô ta một mình ở nhà
lấy rượu uống giải sầu! Khi cha mẹ cô ta về nhà đã thấy cô ấy chết dưới đáy hồ
rồi! Bác sĩ và cảnh sát đưa ra kết luận như những lần trước! Họ làm việc theo
khoa học và không tin vào thế giới vô hình nên các giả thuyết khác về sự trùng
hợp của ba cái chết này đều bị họ gạt đi! Nhưng vợ chồng tôi thì tin là có cái
gì đó đằng sau ba cái chết này! Chúng tôi đoán là cái hồ tắm đó có quỷ, và nó
chỉ lựa phụ nữ say rượu để kéo xuống đáy hồ thôi! Hôm thấy xe cứu thương tới
nhà anh chị, vợ chồng tôi đã bảo nhau là lại thêm một nạn nhân nữa của cái hồ
quái quỷ kia! May mắn là cô không chết! Cô có thấy điều gì khác lạ không?
- Dạ, mỗi lần cháu xuống hồ tắm một mình, cháu đều
cảm thấy một bàn tay vô hình nắm lấy chân cháu! Nhưng nó chỉ nắm thôi chứ không
làm gì khác! Đến hôm cháu bị say rượu thì như có ai xúi bẩy cháu nhảy xuống hồ,
và lần này nó kéo cháu bằng cả hai tay xuống đáy hồ! May mà chồng cháu thấy
kịp, không thì cháu đã cùng chung số mạng với ba người kia rồi!
- Chúng tôi chúc mừng cô đã thoát nạn, từ giờ về
sau phải cẩn thận nhé!
Chúng tôi từ giả họ ra về! Câu chuyện này làm tôi
sợ lắm nên tôi thuyết phục chồng tôi bán nhà đi nơi khác ở! Anh ấy ngần ngừ
nhưng sau vài lần cố gắng tôi cũng làm anh ấy xiêu lòng! Chúng tôi gọi realtor
để họ bán giùm nhà! Trong khi chờ đợi bán nhà, chúng tôi không giám bén mảng ra
hồ tắm nữa! Vì còn là mùa Hè nên chúng tôi thường mở cửa sổ vào ban đêm cho
mát! Chồng tôi lên giường một lúc là ngủ say như chết! Còn tôi từ hôm nghe
chuyện về cái hồ thường trằn trọc, khó ngủ, và bị ám ảnh bởi con ma dưới đó! Cứ
gần nửa đêm là tôi lại nghe tiếng đập nước ầm ầm như có người vẫy vùng trong
hồ! Tôi nghe nhưng vì sợ nên cố nằm yên không giám động đậy! Có đêm tôi liều
đánh thức chồng dậy để anh ấy nghe tiếng động, nhưng ngay lúc đó tiếng vùng vẫy
bổng im bặt làm tôi bị chồng rầy vì tội phá giấc ngủ! Để kiểm xem điều mình
nghe có đúng không, một sáng tôi mở cái slide door nhìn ra deck, điều tôi nghe
không phải do tưởng tượng! Nước còn đọng vũng trên deck dù trời không mưa cả
tuần rồi, và không ai trong chúng tôi tắm ở đó cả! Tôi kéo chồng ra xem mấy
vũng nước để minh chứng là những tiếng động tôi nghe là đúng! Chồng tôi không
nói gì nhưng anh ấy hành động ngay, bằng cách xả hết nước trong hồ ra rồi phủ
nó lại bằng tấm bạt dùng để phủ trong mùa Đông! Tôi yên tâm là sẽ không còn
nghe tiếng vẫy vùng trong đêm nữa!
Nhưng tôi đã lầm! Khuya đó thay vì nghe tiếng đập
nước thì tôi lại nghe tiếng đàn bà rên rỉ, khóc tỉ tê từ sau hồ vọng về! Tiếng
khóc, tiếng rên nghe rợn cả người! Tôi cố bịt tai lại nhưng tiếng vọng ai oán
này vẫn lọt vào tai! Tôi chịu không nổi nhưng không giám tự mình ra đóng mấy
cái cửa sổ lại! Tôi đành phải đánh thức chồng và nhờ anh ấy ra đóng giùm mấy
cửa sổ! Tiếng rên không vọng vào nữa! Tư đó hằng đêm tôi luôn nhớ đóng tất cả
các cửa sổ trước khi đi ngủ!
Rồi nhà tôi cũng bán được, tuy là bị lỗ hết cả 10%!
Không sao! Miễn bán được là tốt rồi! Tạm thời chúng tôi thuê tạm một town house
để ở! Cả hai chúng tôi đều có việc làm tốt nên việc mua nhà mới sẽ không có gì
khó cả, nhưng lần này chúng tôi phải điều tra kỹ về cái mà mình sẽ mua, và dù
rất thích bơi lội tôi nói với chồng là không mua nhà có hồ tắm nữa! Một lần
cũng đủ làm tôi tởn tới già rồi! Một hôm khoảng ba tháng sau, khi đi sắm đồ
trong Mall, chúng tôi tình cờ gặp vợ chồng người mới mua căn nhà đó! Sau khi
bắt tay chào hỏi xã giao, chồng tôi vẻ mặt băn khoăn lên tiếng:
- Thưa, ông bà sống bình yên trong căn nhà mới chứ
?
- Cám ơn anh chị, chúng tôi vẫn bình an cả !
- Chúc mừng ông bà! Nhưng tôi có điều băn khoăn
trong lòng mà nếu không nói ra tôi sợ nó sẽ cắn rứt chúng tôi sau này! Số là
cái hồ tắm sau nhà không phải là một cái hồ bình thường! Đã có tới ba người đã
chết ở dưới đó rồi đó! Xin ông bà hãy thật cẩn thận!
Ông ta cười to ra vẻ tự tin lắm:
- Cám ơn anh chị đã nhắc cho điều này! Trước khi
mua nhà chúng tôi đã điều tra kỹ về nó rồi! Tuy không tin ma quỷ nhưng tôi cũng
đề phòng hết rồi! Vả lại nhà quá rẻ tội gì không mua, phải không anh chị ?! Ha
ha hạ, Xin lỗi, tôi chỉ nói đùa một chút cho vui thôi, anh chị đừng giận nhé!
Thật ra sau khi mua nhà, chúng tôi đã mời Cha đến làm phép trừ quỷ, và còn hơn
thế nữa chúng tôi đã thuê người phá bỏ cái hồ, đổ đầy đất và trồng cỏ lên rồi!
Không còn gì phải lo lắng nữa!
- Chúc mừng ông bà! Chúng tôi phải đi đây, xin chào
ông bà nhé!
Trong lúc lái xe về, chồng tôi như hơi tiếc nói:
- Tại sao lúc đó mình không biết đường làm như ông
ta nhỉ !
- Thôi đi anh! Bây giờ có cho ở không em cũng nói
"No, thanks" thôi anh ạ !
Ông chủ nhà mới đã đúng, chúng tôi ở vùng này đã cả
chục năm rồi mà không nghe có gì lạ xảy ra trong căn nhà đó nữa! Có lẽ con ma
dưới hồ tắm đã bị Cha xứ làm phép đuổi mất, hoặc nó đã không còn chổ ở mà phải
dọn đi nơi khác chăng!
LIÊN TỎA
(Tác giả: Bồ Tùng Linh)
Chàng thư sinh Dương Vô Uý lập nhà học giữa cánh
đồng vắng, bên sông Tứ. Ngoài nhà học là một bãi tha ma đầy những nấm mồ vô
chủ.
Về đêm, gió lộng vào hàng cây dương vi vu như tiếng
nước vỗ vào bờ.
Đêm nọ, chàng thắp đèn đọc sách và cảm thấy buồn vì
cảnh cô liêu. Chợt chàng nghe văng vẳng tiếng ngâm thơ bên ngoài. Tiếng ngâm
vừa dứt rồi lại ngâm tiếp, cái giọng tha thiết làm sao. Cái tiếng ấy nhỏ và êm
như tiếng thiếu nữ nên chàng nghi là hồn ma cô nào về trêu ghẹo mình.
Sáng hôm sau, chàng đi quanh nhà quan sát kỹ thì
không thấy có dấu chân ai để lại, nhưng lại vớ được một giải lụa màu tím nằm
trong đám cỏ gai. Chàng liền đem về treo bên cửa sổ.
Đêm ấy trời vào canh hai, chàng lại nghe tiếng ngâm
thơ như hôm qua. Dương tò mò trèo lên ghế nhìn qua cửa sổ, tiếng ngâm thơ chợt
ngừng, chàng nghĩ là chắc có ma rồi nhưng lại nảy ra ý muốn gặp mặt.
Đêm sau nữa Dương núp bên tường rào đợi hết canh
một, bỗng thấy một thiếu nữ thong thả từ đám cỏ gai đi ra, miệng ngâm nga xem
ra còn ảm đạm hơn những đêm trước. Chàng hắng giọng, cô gái chợt biến mất trong
đám cỏ gai.
Đêm sau nữa, Dương lại phục sẵn im lặng chờ đón.
Đợi nàng bước ra và ngâm vừa dứt hai câu thơ cũ, chàng ngâm tiếp liền hai câu
nữa cho trọn bài tứ tuyệt: - Lòng riêng
oán hận không ai biết.
Cơn lạnh se lòng bóng nguyệt soi.
Ngâm rồi đợi mãi không thấy gì chàng đành trở vào
nhà. Chưa kịp tắt đèn đi ngủ thì chàng thấy thiếu nữ từ ngoài bước vào, thẹn
thùng lên tiếng: - Thiếp bấy lâu không dám ra mặt vì e gặp kẻ phàm phu tục tử,
không ngờ chàng là người phong nhã.
Dương vui vẻ mời nàng ngồi rồi ôm choàng lấy, chàng
có cảm giác người nàng ẻo lả như bông hoa.
Chàng bèn hỏi thăm quê quán thì nàng đáp:
- Thiếp ở Lũng Tây, theo cha trôi dạt đến đây. Hai
mươi năm trước thiếp mười bảy tuổi và đã chết vì bạo bệnh, xác vẫn chôn ở bãi
cỏ gai lạnh lẽo. Hai câu thơ thiếp đọc là tâm sự của một nỗi lòng u uất. Thiếp
định làm trọn bài nhưng mới được hai câu thì chàng đã nối theo thành bài, thiếp
xin cảm tạ.
Dương ôm nàng một lát thì cảm thấy động tình, bèn
đòi chuyện trăng hoa, nàng cự tuyệt:
- Thiếp là ma chứ chẳng phải người trần, ăn nằm với
chàng là giết chàng đấy. Nhưng thiếp làm sao nỡ hại chàng?
Dương nghe xuôi tai, không đòi hỏi gì nữa, chỉ ôm
nàng trong lòng mà đùa giỡn. Chàng nhìn đôi hài thêu rất đẹp của nàng, thấy
thiếu một giải lụa buộc bèn hỏi, nàng đáp: - Hôm nọ lúc chạy trốn thiếp đã đánh
rơi mất một bên giải lụa.
Dương cười:
- Để ta đền cho nàng!
Chàng bước đến cửa sổ, tháo dải lụa hôm trước vớ
được đưa cho nàng. Cô gái buộc hài xong, xem thấy cuốn sách chàng đang để trên
bàn học, chợt nàng nhìn thấy tập "Liêu xương cung từ" liền ngậm ngùi
nói: - Khi xưa lúc còn sống thiếp rất thích đọc cuốn này. Giờ thấy đây thật mơ
màng như trong mộng.
Rồi nàng bàn chuyện văn chương, từ đấy Dương mới
biết nàng cũng giỏi tài thi phú, thông tuệ uyên thâm. Suốt đêm đó đôi trai gái
hàn huyên bên nhau và đã xem như bạn quí.
Từ đó, đêm nào nàng cũng đến và cẩn thận dặn Dương:
- Ngày càng bé thiếp vốn rất nhát gan, mong chàng giấu kín chuyện này. Nếu
người khác biết chuyện sẽ đàm tiếu, thiếp không chịu nổi đâu.
Rồi hai người đằm thắm bên nhau còn hơn cả vợ chồng
thật.
Dương thường nhờ nàng sao chép văn bài sách vở, chữ
nàng rồng bay phượng múa, trông rất tươi sáng. Nàng lại rất yêu thơ, tự đóng
chép thành tập một trăm bài để ngâm nga giải sầu.
Nàng bảo chàng mua đàn tì bà, sắm bàn cờ để cùng
nhau tiêu khiển hằng đêm. Chỉ đến lúc ánh bình minh vừa ló dạng nàng mới vội mở
cửa đi mất.
Sáng nọ, lúc Dương còn say giấc nồng bù lại việc
thức ban đêm thì người bạn học Tiết Sinh đến chơi. Tiết ngạc nhiên vì nhà có
bàn cờ và đàn tì bà - những thứ mà xưa nay Dương không biết chơi. Tò mò giở
chồng sách, thấy toàn nét chữ lạ. Tiết lấy làm ngờ vực, đợi Dương tỉnh dậy để
vặn hỏi. Dương luống cuống bảo rằng chỉ là vật đi mượn. Tiết giở tập thơ ra đến
dòng lạc khoản: "Ngày... tháng... Liên Toả viết" liền cười nói:
- À, bạn dối tôi làm chi? Rõ ràng đây là tên của
con gái chứ nào phải của ai?
Dương càng luống cuống hơn, nhưng nhớ lời nàng dặn
nên không dám nói thật. Tiết đùa dai bỏ tập thơ vào túi đòi mang đi, Dương
hoảng quá kéo lại và đành nói thật.
Tiết yêu cầu được gặp giai nhân. Dương càng chối,
Tiết càng ép, cuối cùng bí quá Dương đành nhận lời. Đêm ấy Dương gặp người
tình, chàng nói thật ý muốn của Tiết thì nàng giận dỗi:
- Thiếp đã dặn kỹ mà chàng còn lộ chuyện!
Dương năn nỉ và bảo rằng vì tình thế bắt buộc nhưng
nàng vẫn giận:
- Duyên thiếp với chàng đến đây là dứt.
Dương tìm mọi lời để trấn an nhưng nàng vẫn lo lắng
lắm: - Để thiếp tạm lánh đi vậy.
Hôm sau Tiết đến gặp mặt. Dương nói là việc không
thành. Tiết càng ngờ bạn thoái thác. Chàng đợi chiều đến rồi rủ thêm hai bạn
học nữa kéo tới nhà Dương. Họ cố ý bày tiệc tượu và dằng dai không chịu về.
Dương bực lắm nhưng không biết nói sao cho phải.
Đêm ấy không có gì, đêm sau họ lại đến nữa. Liên
tiếp vài đêm như thế thì Liên Toả xuất hiện. Nghe có tiếng ngâm thơ não nùng
bên ngoài mà không thấy người đâu, bạn Dương vốn là người can đảm, anh nhặt hòn
đá ném về phía có tiếng ngâm, quát lớn: - Thơ thẩn mà chi, có gan chường mặt ra
xem thử!
Tiếng ngâm liền ngưng bặt.
Dương giận lắm, tìm cách nói lời dè bỉu để đuổi các
bạn về.
Khi còn lại một mình, Dương nhớ Liên Toả điên
cuồng, chỉ mong nàng đến nhưng vẫn biệt tăm.
Hai hôm sau nàng mới trở lại, khóc lóc:
- Bạn chàng hung dữ quá nên thiếp sợ lắm.
Dương chưa kịp xin lỗi nàng đã quay ra:
- Thiếp đã nói duyên ta đã dứt. Xin vĩnh biệt.
Dương đưa tay níu áo nhưng nàng đã biến mất.
Hơn cả tháng vẫn không thấy nàng quay lại. Dương
đâm ra nhớ nhung hết sức, quên ăn biếng ngủ và chẳng mấy chốc gầy xộc cả người.
Chàng nghĩ hết cách mà không thể nào gặp được người yêu.
Một đêm buồn quá, Dương mua rượu uống một mình,
đang tan nát cõi lòng thì Dương bỗng thấy nàng xuất hiện. Chàng mừng cuống, vội
níu vào:
- Em tha thứ cho anh rồi, phải không?
Liên Toả im lặng ngồi khóc tấm tức. Dương cứ vặn
hỏi mãi, nàng ngập ngừng một lúc rồi lên tiếng:
- Trước thiếp giận chàng mà ra đi, nay gặp chuyện
nguy cấp nên đến cầu xin chàng, nhưng hổ thẹn lắm, chẳng biết có nên nói ra
không?
Dương an ủi và nằn nì mãi nàng mới nói tiếp:
- Có một thằng hung bạo từ xa đến. Hắn nài ép em
làm hầu thiếp. Nhưng dù sao em cũng là con nhà có học, đời nào chịu ép thân làm
lẽ cho kẻ thất phu, nhưng cô thế một mình, em lấy gì mà chống cự? Nếu chàng coi
em như bạn, xin chàng lo liệu giùm.
Dương nghe chuyện lấy làm giận, chàng muốn giết
ngay kẻ vũ phu, nhưng sợ người với ma làm sao mà can thiệp được. Nhưng nàng
bảo:
- Đêm mai chàng cứ ngủ sớm. Thiếp sẽ nhờ chàng
trong mộng, thế là sẽ giúp được thiếp.
Chiều hôm sau, Dương uống liền mấy chén rượu để ngà
say rồi lên giường đánh một giấc thật sớm.
Dương thấy nàng đến và đưa một con dao rồi dẫn
chàng đi. Hai người vào một ngôi nhà, còn đang chuyện vãn thì ngoài cửa có
tiếng đập rầm rầm. Nàng tái mặt:
- Kẻ thất phu đến đấy!
Dương chạy ra cửa, nhìn thấy một người mũ đỏ áo
xanh, mặt mày râu ria trông rất dữ tợn. Dương quát đuổi hắn đi, hắn cũng quát
lại, lời lẽ tỏ ra xấc xược. Dương giận lắm xông tới định đánh, hắn liền vác mấy
cục đá to ném vào người Dương. Dương bị trúng thương, cánh tay tê liệt không
cầm nổi dao nữa.
Giữa lúc ấy, chàng nhìn thấy từ xa một người bạn
đang cầm sẵn cung tên. Chàng kêu bạn, Vương Sinh chạy đến giương cung bắn liền
mấy phát trúng kẻ hung ác. Hắn ngã xuống chết liền.
Dương mừng rỡ đón Vương Sinh vào. Vương hỏi vì sao
đến đây. Dương kể sự thật. Vương mừng vì nghĩ rằng đã có dịp chuộc lỗi ném đá
Liên Toả trước đây.
Trên bàn có con dao nhỏ rất đẹp với cái bao nạm
ngọc, rút ra lưỡi dao sáng như nước. Vương tấm tắc khen và ngắm nghía ra chiều
rất thích. Sau đó Vương xin cáo từ.
Dương cũng từ giã người yêu, ra về. Vừa đến cổng
nhà thì chàng vấp ngã. Khi tỉnh dậy chàng nghe tiếng gà hàng xóm đang gáy vang
chào ngày mới.
Sáng ra Dương xem kỹ chỗ tay đau thì thấy sưng đỏ.
Trưa ấy Vương Sinh tạt qua kể cho Dương nghe chuyện giấc mộng. Dương hỏi:
- Anh bắn mấy mũi tên nhớ không?
Vương hỏi sao Dương biết chuyện bắn tên.
Dương liền đưa cánh tay bị thương và nói rõ sự
việc. Vương ấm ức tiếc thầm vì chỉ thấy mặt Liên Toả trong giấc mộng chớ chưa
rõ mặt thực ra sao. Nhớ lại cũng có chút công cứu nàng, Vương nài bạn cho gặp
Liên Toả.
Đêm ấy, nàng đến cám ơn Dương.
Dương nói công lao ấy là nhờ Vương Sinh, nhân dịp
chàng xin nàng cho Vương diện kiến. Nàng bảo:
- Người đã cứu thiếp, lẽ nào dám từ chối. Nhưng chỉ
sợ tính anh chàng gan góc quá, ngại rằng thiếp khiếp đảm thôi.
Rồi nàng nói tiếp:
- Xem ra Vương Sinh rất thích con dao của em. Đó là
kỷ vật của cha em cho, em mang theo xuống đáy mồ. Nay tặng lại cho Vương Sinh
để anh ấy thấy dao như gặp được người rồi.
Vương được con dao quý mừng lắm, không nói đến
chuyện xin gặp nữa. Từ đó, tình nàng với Dương càng quyến luyến hơn.
Một đêm, nàng thẹn thùng nói với Dương:
- Lâu nay được chàng yêu quý, được cho thụ hoạt
tinh của chàng, và nhờ ăn cơm của người sống nên mớ xương tàn dưới mộ có thể
sống dậy được rồi. Nếu có chút tinh huyết của người sống nữa thì em sẽ hồi
sinh.
Dương mừng rỡ vuốt ve nàng:
- Ta có tiếc gì, nếu nàng muốn?
Nàng bảo: - Thiếp đã tiếp thụ tinh huyết của chàng
thì chàng phải ốm liệt hai mươi ngày mới tỉnh. Chẳng biết chàng dám ưng không?
Rồi hai người quấn quít nhau như vợ chồng mới. Gần
sáng nàng mặc áo ra đi:
- Thiếp cần vài giọt máu tươi của chàng, chàng ưng
chứ?
Dương vớ con dao, liền cắt cánh tay mình cho chảy
máu. Nàng nằm ngửa trên giường bảo Dương nhỏ máu ấy vào giữa rốn. Sau đó nàng
nói:
- Thiếp sẽ không đến nữa. Chàng nhớ kỹ, một trăm
ngày sau đến mộ thiếp, hễ thấy con chim xanh hót trên ngọn cây thì chàng đào
huyệt lên ngay nhé.
Dương gật đầu.
Bước ra cửa nàng còn dặn:
- Chàng nhớ kỹ, đừng sớm và cũng đừng muộn hơn, kẻo
hỏng việc.
Rồi cô gái ra đi.
Sau đó Dương quả nhiên lâm bệnh nặng, bụng cứ
trương phình lên tưởng gần chết. Thầy thuốc cho uống thuốc xổ, sau đó chàng túa
ra chất gì đen quánh từ trong bụng, và hai mươi ngày sau chàng khỏi bệnh.
Đợi đúng một trăm ngày chàng dẫn gia nhân ra mộ
nàng mang theo cuốc xẻng.
Trời sắp tối mới thấy một con chim xanh đáp xuống
ngọn cây líu lo hót vang. Dương hô lớn:
- Đến giờ đào mộ.
Gia nhân xúm lại ra sức đào. Quan tài đã mục nát,
từ từ lộ ra xác cô gái còn tươi không khác gì người sống. Sờ vào xác vẫn còn
ấm, chàng liền bọc lấy khiêng về đặt nằm trên giường.
Khi đêm xuống nàng bắt đầu thở được nhè nhẹ. Dương
đổ sữa cho nàng uống. Nửa đêm ấy nàng tỉnh dậy. Hai người lại sống bên nhau, tình
nghĩa mặn nồng.
Lúc âu yếm nhau, nàng thường mơ màng bảo Dương: -
Hai mươi năm trôi qua, dưới nấm mồ ấy, thiếp thấy giống như một giấc mộng dài.
CON
MA TRONG HỒ TẮM
Chịu trách nhiệm xuất bản:
BÙI
CAO TIÊU
Biên tập:
NGUYỄN CẨM HƯƠNG
Sửa bản in: GIANG MINH TRƯỞNG
Trình bày bìa: SONG THÀNH
In 1.200 cuốn khổ 13x19cm, tại Xưởng in NXBGTVT
Số trích ngang xuất bản: 373-2009/CXB/27-53/ThaH,
In xong và nộp lưu chiểu Quý I năm 2010
.............................................................................................................
- Cập
nhật theo bản lưu trữ tại tại Công ty TNHH Văn Hóa Bảo Thắng.
- Vui
lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét