HỒN MA CÔ ĐÀO HÁT
*
MA KHIÊU VŨ
(Tác giả: Người Khăn
Trắng)
Thằng Nhỏ dưới quê lên thi Đại học. Chỗ ở tạm vài
ngày của nó là xưởng sản xuất của chú nó. Chú nó là thợ chính của xưởng, đêm
ngủ lại tại xưởng… làm bảo vệ luôn. Chủ là người bà con nên có phần ưu đãi chú
nó.
Dĩ nhiên chuyện nó ngủ lại với chú nó cũng chẳng ai
làm khó gì. Vài ngày thôi mà. Vả lại đây là xưởng làm tay chân giả chớ có sản
xuất hàng hóa gì mắc mỏ đâu mà sợ mất cắp. Ai lại đi ăn cắp thứ “hàng hóa” đặc
biệt này?
– Tối mình ngủ dưới này. Trải chiếu, giăng mùng là
chui vô ngủ. – Chú nó dặn.
– Thời tiết nóng nực. Chú có xài quạt không? –
Thằng Nhỏ thấy căn phòng ngột ngạt nên hỏi.
– Có chớ! Quạt trần kia kìa. Nè… mày ngủ đi nghen.
Chú đi… nhậu một tí rồi về.
Rồi chú nó lại dặn dò một lần nữa hết sức nghiêm
túc:
– Ngủ thì cứ ngủ. Trên gác mèo chuột có chạy lục
cục gì thì thây kệ nghen.
– Bộ trên đó có nhiều mèo chuột hả chú?
– Tao dặn thì nghe. Đừng cãi! Giăng mùng đi rồi
ngủ…
Chú nó đi nhậu. Mở quạt trần cho thằng cháu xong,
ông chú bước ra ngoài tiện tay khép cửa lại. Ông chú không dặn dò gì thêm nên
thằng nhỏ cũng ừ hử cho qua. Chuyện mèo chuột rượt đuổi nhau trên gác thây kệ.
Miễn là nó đừng mò xuống đây thôi. Ái cha! Đi tắm cái chớ.
Tắm xong, nằm đọc sách một lát. Thằng Nhỏ buồn ngủ
liền. Dân quê mà! Tám giờ tối là tắt đèn đi ngủ rồi. Mai thi thì thi, bài vở nó
đã ôn nhuyễn rồi. Chẳng cần dò lại.
Quạt trần xoay tỏa làn gió nhè nhẹ xuống mùng.
Thằng Nhỏ nhắm mắt lại một chút là ngủ khò. Giấc ngủ của thằng con trai mười
tám tuổi đến rất lẹ, nó ngủ thật sâu và ngáy ồ ồ như người ta cưa cây…
Nửa đêm rồi mà ông chú chưa về.
Thằng Nhỏ thức giấc đi tiểu thấy trống trải quá.
Ông chú chắc đi hẹn hò với bà nào chứ đi nhậu gì mà giờ này chưa về. Thằng Nhỏ
lẩm bẩm.
– Làm như ổng nhậu cứng lắm vậy!
Nó ra sau nhà, đúng như ông chú nó nói. Trên gác có
tiếng động nghe kỳ cục lắm chứ không phải mèo chuột đuổi nhau đâu, nó đứng ngay
chân cầu thang lắng nghe…
– Cạch… cạch… cạch…!
Lát sau lại vẫn thứ âm thanh kỳ cục đó nhưng âm thanh
đều nhau:
– Cạch… cạch… cạch!
Thằng nhỏ lấy làm lạ. Nó tò mò muốn biết mèo hay
chuột… hay có tên trộm nào mò vô trên gác. Nó đứng dưới chân cầu thang một hồi
rồi quyết định trở lại mùng chui vô. Chú nó đã dặn rồi, nó không dám cãi. Nhưng
thật sự nó rất khó ngủ lại.
– Cạch… cạch… cạch!
Tiếng động nghe như một chuỗi âm thanh cách khoảng
nhau hình thành điệu nhạc mà nó nghe rất quen. Ở dưới quê nó có sinh hoạt Đoàn,
chơi văn nghệ ở Nhà văn hóa huyện nên cũng biết kha khá về âm nhạc. À… điệu
valse. Một lát sau tiếng động đó lại giống như điệu tango dồn dập…
– Cái quái quỷ gì đây… chứ mèo chuột gì mà văn nghệ
vậy?
Thằng nhỏ quyết định “khám phá” bí mật trên căn gác
nhỏ tối tăm. Nó vén mùng chui ra, bước nhè nhẹ đến chân cầu thang.
Rồi thì… Nó bước rất nhẹ lên từng bậc thang. Một
tay cầm cái quẹt gas để bất ngờ sẽ bật lên coi cái gì…
Tiếng cành cạch vẫn tiếp tục. Nó bước từng bước lên
nhẹ nhàng êm ru… Nhỏ thò đầu nhìn vô. Căn gác chất đầy hàng hóa đặc biệt. Từng
đống chân giả, từng đống tay giả xếp sát vách. Và ngay giữa căn sàn gác nó nhìn
thấy hai cặp chân giả đang di chuyển sát nhau, quấn quít, nhịp nhàng theo điệu
valse và tiếng khua cành cạch… vì vậy mà phát ra…
Nó không tin vào mắt mình nên bật quẹt ga.
Dĩ nhiên nó thấy rõ những gì trước mắt. Không chỉ
hai cặp chân đang nhảy nhót mà phía trên còn có hai cặp tay giả đang choàng qua
nhau uốn éo, trữ tình…
Thằng Nhỏ thất kinh hồn vía, kêu ú ớ rồi thụt lùi
vội vã. Nó trật chân té ngửa xuống đất may mà không sao. Tỉnh hồn, nó bước lẹ
lại công tắc bật đèn lên. Đèn vừa sáng thì nó nhìn thấy hai cặp chân đang di
chuyển chầm chậm xuống cầu thang căn gác nhỏ.
Thằng Nhỏ chỉ đủ thời gian hét một tiếng “M… a…”
rồi tung cửa chạy. Lúc đó hai cặp chân giả mới lăn long lóc xuống cầu thang.
Sáng hôm sau, chú nó mới về. Lượm hai cặp chân đem lên gác đặt vào chỗ cũ xong,
chú nó mới rầy:
– Tao đã dặn rồi mà mày mò lên gác làm gì? Làm
người ta… mất hứng!
Lúc thằng Nhỏ thi xong, chú nó đưa ra bến xe về
quê, nó mới dám hỏi:
– Trên gác chú ở có… ma đó!
– Ừ! Thì ma… – Chú nó đáp tỉnh queo.
– Ma có nhát chú không?
Chú nó không trả lời mà nói:
– Lúc trước thì có. Sau này… quen! Hồi đào móng xây
cái xưởng này người ta phát hiện hai cái mộ có lẽ từ thời Tây lận. Bốc mộ lên
thì có hai bộ xương người. Có lẽ họ là một cặp tình nhân yêu nhau tha thiết.
Lúc xưởng hoạt động sản xuất chân tay giả thì hai người “sống với nhau” trên
gác. Nhờ có chân tay giả mà họ khiêu vũ với nhau tình tứ đó. Thôi! Về dưới đừng
nói cho ai biết nghen, chuyện tình cảm của người ta… đừng bàn tán gì hết!
CON NGỰA CÓ NGHĨA
(Tác giả: Bồ Tùng Linh)
Lưu Thừa Tiết người Chiết Tây, làm quan thu thuế ở
Cống Châu được điều nhiệm, để gia đình ở lại đất Cống, chỉ cùng một con trai
một đầy tớ cưỡi ngựa lên đường. Tới Quý Khê, dừng ngựa vào nhà trọ nghỉ lại.
Gặp mấy người khách buôn mang hương đất Quảng, cùng ngồi hỏi han nhau từ đâu
tới, muốn mua hương của khách. Khách lấy ra cho xem, đều không vừa ý. Khách chế
nhạo, Lưu nói "Ta tuy không giàu có, nhưng hương của ta còn hơn hàng
này". Nhân mở rương lấy ra cho xem, trong rương có vài trăm lượng bạc, bọn
khách lén nhìn trộm. Đến lúc trời tối, đều ngủ lại. Bọn kia đều là cướp, đến
khuya vác gậy xông vào phòng Lưu. Lưu từ nhỏ tùng quân, có sức khỏe, vung đao
chém đứt một cánh tay, bọn cướp sợ hãi tan chạy.
Chủ nhân cũng là kẻ đồng mưu, bèn nói "Bọn họ
không thỏa lòng, nhất định sẽ gọi thêm bè đảng tới, không thể ngủ yên được đâu,
chẳng bằng nhân lúc trời chưa sáng lên đường để tránh đi". Lưu không ngờ
là dối trá, gọi người đầy tớ dậy, không chờ ăn sáng đã lên đường. Tới dưới gù
cao, gặp bọn cướp, tuy ra sức đánh nhau, nhưng ít khó chống nhiều, Lưu cùng con
trai, đầy tớ đều bị giết. Vừa lúc có một người lính đưa công văn đi qua, bọn
cướp cũng giết chết, vứt xác xuống hố, chia tiền bạc rồi tan đi, chỉ còn con
ngựa quanh quẩn trên đường. Gặp lúc có viên Chủ bạ đi công cán về, con ngựa tới
đón trước xe, khuỵu chân như lạy phục xuống, kế lúc lui lúc tiến, đuổi đi lại
quay lại. Viên Chủ bạ lấy làm lạ, nỏì “Đây ắt có nỗi oan muốn tố cáo”. Bèn sai
mấy người theo con ngựa. Tới dưới dốc gò, con ngựa giẫm xuống đất đứng lại,
thấy máu tươi đầy đất tanh nồng, bốn cái xác trong huyệt vẫn còn ấm. Lập tức
sai Lý chính truy nã tìm bắt, không đầy buổi sáng đã bắt được tất cả bọn cướp,
đều khép vào tội chết.
CON MA GỐC KHẾ
(Tác giả: Người Khăn
Trắng)
Tôi năm nay đã ngoài sáu mươi, vậy mà khi ngồi xem
phim ma cùng
đám cháu nội thì xin lỗi, có lẽ tôi là người duy nhất sợ hãi.
Tuổi trẻ bây giờ chúng tin vào khoa học hơn những
điều huyền bí có vẻ hoang đường, nên chúng thường bảo:
– Làm gì có ma thật nội ơi! Chỉ Ià họ tưởng tượng
để thu lợi nhuận mà thôi. Mấy hình ảnh này chỉ giỏi dọa con nít hai ba tuổi.
Cũng có thể vì chúng chưa gặp ma lần nào nên không
có khái niệm sợ ma. Còn tôi đã một lần lâu lắm rồi, từ hồi năm 1966. Năm ấy tôi
đã hai mươi lăm tuổi chứ ít gì, vậy mà tôi vẫn bàng hoàng sợ hãi như một đứa
con nít.
Câu chuyện đó luôn ám ảnh tôi cho tới ngày hôm nay.
Tôi không bao giờ muốn kể lại cho các cháu tôi, vì theo một cách nào đó tôi
nghĩ như thế sẽ hay hơn. Nhưng nếu trở thành cát bụi mà không kể được với ai
chuyện này thì tôi không chịu nổi. Nên các bạn thứ lỗi và hãy chia sẻ cùng tôi
nỗi sợ hãi kinh hoàng khi chứng kiến một sự thật khủng khiếp…
… Tôi phải bắt đầu câu chuyện bằng một chi tiết có
liên quan, đó là năm đầu tiên chúng tôi vào đại học, tôi và thằng bạn thân nhất
từ hồi tiểu học. Nhưng một cái tin bất ngờ đã khiến Sơn bạn tôi phải quay trở
lại nhà. Mẹ của Sơn đột nhiên mất tích, mọi người đổ xô đi tìm nhưng hoài công.
Cảnh sát thời ấy cũng bó tay, một thị trấn bé nhỏ thì việc tìm kiếm không phải
là quá phức tạp. Ngoại trừ bà ấy bị dòng sông cuốn mất, hay tự bà đã leo lên
một chiếc xe nào đó và biến khỏi thị trấn một cách khó hiểu.
Hai ngày sau, có một số người đến cảnh sát làm
chứng rằng đã thấy mẹ Sơn ra bến xe khách và leo lên một chuyến xe rời bến mất
tăm. Theo lời Sơn thì mẹ của Sơn đã có triệu chứng bệnh tâm thần từ hồi Sơn còn
học lớp chín, sau cái chết quá thương tâm vì tai nạn giao thông của ông bà
ngoại Sơn. Ông bà ngoại Sơn rất giàu, mẹ Sơn lại là con một nên bao nhiêu gia
tài đều để lại cho một mình bà. Cha Sơn là một bác sĩ giỏi nhất nhì của thị
trấn nhỏ bé nơi Sơn sinh ra. Lẽ ra ông đã đi du học ở Pháp, nhưng vì sự hiện
diện của Sơn trong bụng mẹ nên ông đành phải hủy chuyến đi mà ở lại thực hiện
trách nhiệm làm chồng, làm cha trước áp lực của ông bà ngoại.
Thế rồi do đau buồn, năm ấy Sơn bỏ học. Năm sau để
tránh cho con thoát khỏi ký ức đau buồn, cha Sơn đã lo cho anh đi du học ở nước
ngoài. Câu chuyện mẹ Sơn mất tích chìm dần vào quên lãng.
Năm năm sau Sơn từ nước ngoài trở về nghỉ hè tại
quê nhà để giảm tải sức ép tâm lý trước khi bắt tay vào việc làm báo cáo tốt
nghiệp. Người đầu tiên Sơn hối hả đến gặp là tôi, lúc ấy tôi đã chuyển nhà lên
Sài Gòn được ba năm rưỡi rồi. Hai anh em kéo nhau về lại quê với tâm trạng bồi
hồi, bồn chồn thật khó tả. Đây cũng là lần đầu tiên chúng tôi diện kiến dung
nhan kế mẫu của Sơn. Tôi chỉ biết lo học miệt mài không màng đến những chuyện
râu ria ấy, nhưng là chỗ qua lại với mẹ Sơn từ thuở chúng tôi còn chơi thân nên
mẹ tôi có biết chuyện cha Sơn đã tái hôn cùng cô y tá phòng mạch sau khi Sơn du
học hai năm.
Bạn không nói nhưng tôi dư hiểu là Sơn rất buồn với
việc tái hôn của cha, vì dù sao khoảng thời gian đó vẫn còn là quá ngắn cho
việc kết luận mẹ Sơn không thể trở về nữa.
Tôi vô cùng ngạc nhiên khi bước qua khỏi hàng rào
gỗ, cây cối um tùm che cả lối đi, cỏ dại mọc khắp nơi trông là biết ngay nơi
này không ai ở. Hiểu ý tôi, Sơn tần ngần đứng lại giữa lối đi, cất giọng bùi
ngùi:
– Cha mình đã không còn ở đây sau khi lấy dì ấy.
Cha có ý định bán căn nhà này, nhưng mình đã không đồng ý. Lâu lâu cha có cho
người đến dọn dẹp. Có lẽ mình về không cho cha hay trước nên…
Sơn giơ tay khoát một cử chỉ vào khoảng không như
để nén bớt cảm xúc đang dâng trào khóe mắt. Để xua tan khoảnh khắc bối rối
trong tâm bạn, tôi vội nắm vai nó bóp mạnh:
– Không sao! Vậy thì hai đứa mình cùng làm. Đồng ý
không?
Những tia nắng cuối cùng trong ngày phút chốc chợt
bừng lên trước khi tắt lịm chuyển sang màu tím thẫm xuống không gian u tịch của
khu vườn. Tối đó, chúng tôi chỉ kịp quét dọn căn phòng của Sơn để nghỉ lưng.
Những kỷ niệm xa xưa được ôn lại như những thước phim bị đứt quãng.
Dần dần Sơn chìm vào giấc ngủ. Phần tôi, không biết
vì lạ chỗ hay vì những tiếng động lạ trong nhà và cả ngoài sân, tôi cứ hồi hộp
đăng đắng không sao chợp mắt được. Nhưng rồi tôi cũng ngủ thiếp đi trong nỗi
khắc khoải mệt mỏi vào lúc gần sáng, với một cơn ác mộng mà sáng hôm sau tôi
chỉ còn nhớ loáng thoáng một vài hình ảnh ma quái.
Lúc bấy giờ tôi chỉ nghĩ đơn giản rằng vì tôi quá mệt nên mới mơ thấy chuyện
quái dị.
Ngày hôm sau Sơn báo tin cho cha hay là mình đã về.
Đồng thời cả hai chúng tôi bắt tay vào việc phát quang sân vườn được một khoảng
lớn sáng sủa, sạch sẽ. Chúng tôi nghỉ tay xách xe đi lòng vòng hóng mát, đến
nhà bạn bè cũ, hay bất chợt ghé vào nơi đã từng để lại dấu ấn trong lòng chúng
tôi thuở trước.
Đêm đó mới là đêm bắt đầu của sự khủng khiếp.
Vào chập tối, khi tôi và Sơn còn cố nán lại ngoài
sân, nơi cái bàn đá dưới gốc giàn hoa tigôn để hóng gió, đột nhiên tôi có cảm
giác rằng ai đó đang nhìn mình. Gáy tôi nhồn nhột, tôi quay phắt về phía sau,
nơi cây khế được trồng trong một cái chậu to tướng. Hình ảnh một người đàn bà
ngồi thu lu dưới gốc cây mờ mờ ảo ảo. Tôi hoảng hồn dụi mắt nhìn kỹ thì không
thấy gì nữa.
Thấy bộ dạng của tôi. Sơn hỏi:
– Có gì vậy?
– Không có gì.
Tôi giục Sơn vào nhà và tự nhiên thấy mình dựng cả
tóc gáy.
Mấy ngày tiếp theo hai đứa chúng tôi tiếp tục hoàn
thành nốt phần việc còn lại và đi câu cá, bắn chim như thời còn học trung học.
Khi dọn cỏ gần cây khế to sai trĩu quả tôi thắc mắc
cùng Sơn là tại sao lại trồng cây khế trong chậu trong khi bên ngoài thiếu gì
đất trống, trồng bên ngoài sẽ tốt hơn là bị gò ép trong chậu, cây khế sẽ không
phát triển bằng. Sơn cho biết lúc trước nó vốn được trồng ngoài cổng. Nhưng sau
đó không hiểu sao cha Sơn lại mua cái chậu to tướng này về và trồng nó vào đó
rồi đẩy tuốt ra ngoài gốc vườn như thế. Lạ một điều tuy sống trong chậu nhưng
nó ngày càng sum suê và trĩu quả, tốt tươi không thua gì lúc trước. Nhìn cái
chậu kiên cố và to quá khổ, tôi có một linh cảm là lạ nhưng chưa nhận ra đó là
điều gì.
Đêm kế tiếp tôi lại nghe những âm thanh lạ khi hai
đứa đi chơi về khuya. Rõ ràng khi Sơn đang loay hoay mở cổng tôi đã nghe tiếng
phụ nữ khóc trong vườn. Tiếng khóc như đang
than van cùng ai đó điều gì phiền muộn.
Tôi hỏi Sơn có nghe gì không thì nó nói không nghe
gì cả. Thật ra Sơn có nghe hay không thì tôi cũng không rõ vì vẻ mặt Sơn cứ như
đang lo lắng, suy nghĩ điều gì mà không tiện nói ra vậy.
Đêm thứ bảy tôi mơ một giấc mơ khủng khiếp. Tôi mơ
thấy mình ngồi đọc sách nơi chiếc bàn đá, bỗng trời tối sụp, cây cối trong vườn
đột nhiên chao đảo như đang có một cơn giông lớn.
Và hình ảnh người đàn bà ấy lại xuất hiện, ngay
cạnh chậu khế. Bà ta ngồi gục đầu giữa hai gối, mái tóc rũ xuống che cả gương
mặt. Người đàn bà cứ lắc lư làm mớ tóc buông thõng đong đưa liên tục. Hai tay
bà ôm chặt đôi ống chân teo nhỏ chỉ còn bằng chân trẻ nít.
Tôi hoảng sợ gọi Sơn um sùm. Sơn giật mình thức
giấc do Sơn nghe tôi ú ớ nên lay gọi tôi. Mồ hôi ướt cả ngực áo, tôi trùm mền
giả vờ ngủ tiếp…
Hôm sau, lúc ra chợ mua thức ăn, tôi làm ra vẻ tự
nhiên hỏi bạn đêm ngủ có ngon không. Sơn bảo bình thường, im lặng một lúc, Sơn
nói thêm:
– Có mơ thấy mẹ…
– Thấy mẹ thế nào?
Sơn kể chỉ mơ thấy mẹ như ngày xưa, trước lúc Sơn
vào đại học. Tôi định kể cho Sơn nghe giấc mơ kỳ quái của mình nhưng lại thôi,
vì nói chung, tôi không muốn nhắc đến cơn sợ hãi lần thứ hai.
Đêm đó, tôi lại mơ thấy bà ta xuất hiện. Lần này
tôi bực tức la lên: “Bà là ai?”. Bà cứ lắc lư và lết lại phía tôi. Nhưng bà
chưa đến thì tôi đã bàng hoàng thức giấc rồi thở hồng hộc như trâu thở, mồ hôi
tuôn ướt cả lưng. Tôi sợ.
Ngày hôm sau tôi cũng mơ y như vậy. Tôi mệt mỏi vì
mất ngủ. Trưa ngày thứ mười, hai đứa ghé thằng bạn cũ chơi. Sơn ngạc nhiên khi
thấy tôi mới đến chưa nói được ba câu đã ngả người trên sôpha và ngủ luôn một
giấc dài tới chiều.
Tối đó tôi sợ quá không dám chợp mắt, định kể đầu
đuôi cho bạn nghe. Nhưng tôi nghĩ lại, chỉ còn đêm nay nữa thôi, trưa mai chúng
tôi đã ra ga đáp tàu về Sài Gòn, thôi thì cố nén không làm bạn kinh sợ theo
mình. Tôi rủ:
– Hay là hai đứa mình đánh cờ tới sáng đi!
Chơi được hai ván. Sơn giơ tay đầu hàng và lăn ra
ngủ ngon lành. Còn lại một mình, tôi bắt đầu thấy sợ.
Đêm tối dày đặc, ngọn đèn dầu đã được tôi vặn bấc
lên thật cao cũng không thể soi sáng hết mọi góc tối. Tôi tưởng tượng đâu đâu
cũng có ánh mắt theo dõi từng cử chỉ của mình khiến tôi không dám cục cựa. Thức
thế này còn tệ hơn ngủ. Nỗi sợ hãi càng tăng khi ý thức hoạt động. Mắt tôi bỗng
ríu lại, cơn buồn ngủ kéo ập đến, tôi choàng tay ôm cuốn kinh Phật nhặt được
trong gầm bàn lúc sáng dằn lên bụng rồi thiếp đi nặng nề.
Tôi thấy mình ngồi dậy và bước đi ra ngoài. Trời
đang mưa lâm thâm, bóng đêm đen đặc. Tôi nhìn quanh bóng tối và mơ hồ không
biết mình phải làm gì. Tôi chợt nghĩ sẽ vấp té nếu đi giữa trời tối om như thế
này. Vừa nghĩ thế thì một tia chớp nhá lên. Tôi kịp nhìn thấy trước mặt là một
con đường mòn. Tôi bước đi như người mộng du. Bỗng chân tôi bị ngáng bởi một
vật gì lành lạnh. Tôi dừng lại, định quay đầu bỏ chạy nhưng một bàn tay lạnh
ngắt đã giữ tay tôi lại.
Và… Bỗng nhiên tôi thấy rõ mặt bà ta, trắng bệt,
hai mắt là hai lỗ đen sâu hoắm, miệng cũng chỉ là một lỗ hổng đen ngòm không có
lưỡi và răng, tóc bà ướt lết bết in những lằn đen ngoằn ngoèo trên gương mặt
hốt hoảng. Tuy nhiên tôi có cảm giác bà rất quen. Miệng bà há hốc không cử động
nhưng tôi nghe được tiếng nói yếu ớt.
– Phong… ơi! Hãy cứu dì… khỏi đây… đi con…!
Trời ơi! Đúng rồi! Dì đây mà! Mẹ của Sơn… Sơn ơi…
Tôi cố hết sức vùng ra khỏi tay dì để gọi Sơn.
Rồi tôi bừng tỉnh. Bóng đêm vẫn dày đặc. Dường như
tôi không còn nằm trên bộ phản cạnh Sơn nữa. Lưng tôi nhớp nháp ướt. Quơ tay
chung quanh, tôi đụng cái chậu to đùng.
Tôi la thất thanh và vùng dậy chạy. Tôi tập trung
hết mức định hướng lối vào nhà và phóng đi như có gắn lò xo dưới gót chân.
Sơn đang ngủ ngon lành. Không còn nhịn được nữa,
tôi lay bạn dậy, tôi kể cho Sơn nghe từ đầu đến cuối. Sơn bàng hoàng tỏ vẻ
không tin và nhìn chằm chằm vào tôi như thể cân nhắc sự việc.
Chợt Sơn vỗ vai tôi đánh bốp:
– Cây khế!
Sơn chạy vào nhà kho lấy ra cây búa tạ. Tôi lục ba
lô tìm cây đèn pin. Sau bảy tám nhát búa, cái chậu có một không hai này mới
chịu vỡ ra.
Tôi run bần bật suýt đánh rơi cả đèn pin. Cây khế
ngả nghiêng, từng khúc xương, dài có ngắn có, vung vãi. Tôi tự bịt miệng mình
để kềm tiếng la hoảng. Sơn cũng chẳng khác gì tôi. Có điều nó bình tĩnh hơn một
chút, có lẽ vì nó không phải trải qua cơn ác mộng. Sơn ra hiệu cho tôi đưa đèn
pin xáp lại gần. Cái sọ bị kẹt trong chẳng ba của cái rễ to, tóc quện cùng rễ
thành một chùm. Mùi hăng hắc bốc lên thoang thoảng trong gió.
Sơn đứng im trừng trừng nhìn đống xương, sự căng
thẳng như đang từ từ xiết chặt bạn. Chợt thấy một vật gì sáng lấp lánh nằm lẫn
trong đất, tôi chỉ Sơn và lấy cây khều ra. Một hình Ông Phật nhỏ xíu bằng vàng
đã khiến bạn tôi gào lên trong đêm khuya. Đó là kỷ vật của ngoại để lại mà mẹ
Sơn thường cầm trong lòng bàn tay khi niệm Phật. Tiếng kêu “mẹ” của Sơn nghẹn
lại tức tưởi nghe xót xa đau đớn. Sơn đổ xuống, tay nắm chặt nắm đấm nện vào
nền đất vô tri vô giác. Tôi đưa tay quệt hai hàng nước mắt mà nghe lòng dậy lên
nỗi căm phẫn dù chưa biết kẻ nào đã nhẫn tâm.
Vụ án mất tích của mẹ Sơn được lật lại…
Tội nghiệp bạn tôi lận đận trên đường học vấn. Phải
mùa thu năm sau mới có thể an tâm hoàn thành báo cáo tốt nghiệp.
Hoàn cảnh Sơn thật thương tâm. Mọi bằng chứng đều
bất lợi cho bác sĩ Hồng, cha của Sơn. Phân nửa tài sản sẽ là của ông ta, việc
đi lại với cô y tá trong thời gian mẹ Sơn bị gán bệnh tâm thần quái ác, thật ra
là ông đã cho vợ uống thuốc ngủ triền miên cả mấy năm trời khiến tâm thần bà
bất ổn.
Còn mấy người ngày đó làm chứng với cảnh sát rằng
họ thấy mẹ Sơn leo lên xe đò đi mất tăm, bây giờ ai cũng có một miếng đất kha
khá do ông Hồng ban tặng.
Tìm được người hại mẹ lại là cha đẻ của mình, trông
Sơn tội nghiệp vô cùng. Sơn không nói không rằng suốt hai tháng trời khiến tôi
lo sốt vó. Cũng từ đó, tôi không hề gặp ma lần nào nữa.
VỆ SƯ HỒI
(Tác giả: Bồ Tùng Linh)
Vệ Uyên, tự Sư Hồi, người Đông A Trịnh Châu. Nghiện
rượu thành tật, thông minh hơn người nhưng lười đọc sách, hơn bốn mươi tuổi vẫn
tay trắng nghèo hèn, thủy chung chưa ra làm quan. Gặp lúc mùa hè nóng bức, Sư
Hồi cùng bạn bè đầu hồ uống rượu, say nằm dưới tường, mơ thấy mình đang ở chỗ
khác. Chợt có tin báo người nước Nhũng Miến vào cướp, cư dân dìu già cõng trẻ chạy
tán loạn. Sư Hồi hốt hoảng lủi trốn, đến khi trở về thì trong nhà đều đầy những
người bị bắt, một mình đi vào núi, bàng hoàng mấy năm, không chốn nương thân.
Chợt gặp ba người bạn cũ là Diêm Trung Phu, Lý Hanh Gia, Vương Miễn Phu, hỏi
han tình hình, cho biết vợ con đều không việc gì.
Sư Hồi cả mừng vì được quá cả lòng mong mỏi, bèn
nói "Ta khốn khổ ba năm, đói rét phiêu linh, ăn bữa sáng không biết bữa
tối, thường nghĩ lúc gặp gỡ vui chơi trước kia, uống một hơi hết vài đấu rượu,
nay muốn được uống một chén cho đỡ khát, cũng không phải chuyện gì lớn. Các ông
thấy sao?". Trung Phu nói "Cách đây vài dặm có quán rượu, nhị muội
của ta coi việc hâm rượu, rất xinh đẹp, cứ cùng tới thăm". Sư Hồi càng
mừng, vào tới chợ thì đúng như lời Trung Phu. Sư Hồi đầu tiên uống một vò, lại
gọi lấy thêm rượu, thấy a hoàn bưng rượu ra có vẻ buồn rầu.
Sư Hồi trách nói "Người hàng rượu gặp khách
thì phải vui vẻ, tại sao ngươi lại như thế?”. A hoàn khóc nói "Tiền bối
không biết đó thôi. Vật người vừa uống không phải là lúa mạch nấu ra, mà đều là
tinh huyết của người ta. Người là người cõi trần, lại vứt bỏ tiền trình, rước
lấy tai họa, lúc chết sẽ bị ép cốt tủy mà làm rượu”, Sư Hồi chớp chớp mắt không
tin. Cô gái bèn dẫn vào nhà trong, vòng qua sảnh lớn, thấy đồ nấu rượu bày la liệt,
bên cạnh có hơn trăm người trần truồng ngồi đó, nam nữ lẫn lộn. Có hai con quỷ
lớn cầm kích theo thứ tự xóc lên cho vào vò rượu, lấy đá lớn đè xuống. Máu từ
miệng chảy ra, giây lát thành rượu, Sư Hồi hoảng sợ tỉnh dậy. Nhìn thấy tiểu
đồng đang hầu bên cạnh, tân khách vẫn đang ngồi, tiếng đầu hồ vẫn khua lanh
canh. Bèn kể lại giấc mộng thì vốn chưa đầy một giờ, nhớ lại những điều đã trải
qua, thì lại trong vài năm. Người thời Đường chép truyện Thái thú Nam Kha* anh
đào áo xanh** giấc mộng kê vàng ở Hàm Đan, việc cũng tương tự Văn thiên lục
chép việc Trương sinh xuống âm ty, cũng rất giống chuyện này.
TỰ THÚ CỦA KẺ ÁC
(Tác giả: Người Khăn
Trắng)
Tôi thi đậu vào đại học. Đó là một niềm vui rất lớn
đối với gia đình tôi, một gia đình nông dân ở Tháp Mười. Sau bữa liên hoan ấm
cúng, tôi lên Sài Gòn học. Trước mắt phải kiếm một chỗ để ở vì ký túc xá đã
chật ních sinh viên. Thế rồi, qua giới thiệu của bạn bè tôi thuê một căn buồng
trong ngôi biệt thự sang trọng nằm ở đình Trương Minh Giảng.
Đây là ngôi biệt thự nằm sâu trong con hẻm lầy lội.
Tôi ngạc nhiên vô cùng, tại sao ông chủ nào lại can đảm bỏ tiền ra xây biệt thự
mà không sử dụng được gì. Sau đó, tôi được giải thích của bạn: do ông chủ nhà
thích sống bên bờ sông lộng gió nên khi giải tỏa nghĩa trang ông mua mảnh đất
này. Thế rồi qua bao thời kỳ xây dựng nhà nhà lớp lớp mọc lên lấn dần con đường
cái lộng thuở trước. Ông chủ nhà đành chịu phép.
Ông chủ nhà năm nay chừng 60 tuổi có vẻ là một
người từng trải. Gương mặt ông sắc lạnh, cái mũi khoằm vô như mũi két muốn mở
bất cứ cái gì đối diện. Con mắt ông đầy vẻ nghi ngờ dò xét. Anh bạn tôi mau mắn
giới thiệu:
– Đây là anh Sắc, bạn của tôi ở tỉnh lên. Biết ông
đang cho thuê chỗ ở nên tôi đưa đến giới thiệu cho ông.
Ông chủ nhà lãnh đạm:
– Thế hả, thế thì vào phòng đi. Một tháng 60000
đồng.
Tôi vui vẻ đồng ý ngay. Sau dăm ba câu chuyện xã giao
tôi lấy chìa khóa vào phòng.
Điều đầu tiên đập vào mắt tôi là căn phòng có cấu
trúc đặc biệt. Căn phòng con gái. Tôi hơi ngỡ ngàng. Ông chủ bình thản:
– Đây là căn buồng con gái tôi vẫn ở. Bây giờ nó đi
xa rồi.
Giọng ông lành lạnh nghẹn ngào. Tôi nghe như từ cõi
âm vang lên. Tôi bất chợt rùng mình. Nhưng vì bản tính của thằng con trai dạn
dĩ, tôi mỉm cười.
– Cảm ơn ông rất nhiều. Tôi sẽ ở đây bốn năm.
Hợp đồng nhanh chóng được ký kết. Sau khi tắm rửa
xong tôi thay bộ pyjama ra phố dạo mát. Ngoài căn phố lầy lội này thì ở phía
kia đường là phồn hoa đô hội. Chợt chân tôi dẫm phải chân ai. Tôi giật mình,
một anh thanh niên trạc tuổi tôi. Tôi xin lỗi anh, anh cười xòa:
– Có gì đâu hàng xóm láng giềng mà.
Thế là chúng tôi quen nhau. Anh ta hỏi bâng quơ:
– Ai giới thiệu cho anh thuê nhà ở đây vậy?
Tôi nói rõ tên anh bạn tôi và hỏi anh:
– Tại sao anh có vẻ quan tâm đến ngôi nhà đó quá
vậy?
Anh ta cười bí mật:
– À, đó là căn nhà đặc biệt. Anh cứ ở rồi sẽ biết.
Thấy anh ta nói vậy, tôi hơi nghi ngại. Nhưng tiền
đã trả rồi. Chẳng lẽ lại bỏ đi. Tôi tặc lưỡi. Được ở trong căn buồng đầy đủ
tiện nghi là tốt rồi. Ai nói gì kệ họ.
Đêm đó tôi thao thức không ngủ được. Gần một giờ
sáng mới chợp mắt. Hình như có ai nắm chăn tôi đè lên người tôi, khiến tôi
nghẹt thở. Tôi ú ớ rồi mở choàng mắt. Trước tôi vẫn là khoảng đêm bao la, yên
tĩnh. Và xa xa là tiếng sóng vỗ rì rầm. Tôi tự cho mình huyền hoặc. Lát sau tôi
thiếp đi nhưng lại thấy bóng trắng xuất hiện, tôi hỏi:
– Cô là ai? Tại sao lại phá tôi?
Cô ta cười the thé:
– Tại sao anh lại vào phòng tôi, tại sao, đây là
nhà của tôi. Anh làm tôi nghẹt thở.
Tôi hoảng quá la ầm lên nhưng không ai nghe thấy
cả. Cho đến khi mở mắt ra thì trời sáng bạch rồi.
Đêm hôm sau tôi lại thấy hiện tượng như trên. Tôi
thấy người con gái mặc áo trắng toát rất đẹp, cô ta nhìn tôi như vô hồn. Cô nói:
– Tại sao ông lại vào phòng tôi? Tại sao?
Tôi ú ớ:
– Đây là chỗ tôi ở thuê. Cô là ai?
– Tôi à? Cô ta mỉm cười. Tôi là chủ của căn phòng
này.
Tôi rú lên:
– Cô là người hay là ma?
Cô là người hay là ma?
Cô gái mặt mày ủ đột:
– Là cả hai. Tôi bị chết oan ức lắm. Hãy trả thù
cho tôi.
Nói xong cô ta biến mất. Tôi mở mắt ra, mồ hôi ướt
đẫm. Thì ra đó là một giấc mơ.
Sáng hôm sau tôi hỏi ông chủ:
– Đêm qua tôi thấy con gái ông đó.
Ông ta mỉm cười:
– Thế hả? Có gì lạ đâu, chắc cậu thấy tấm hình của
nó nằm trong khung ảnh kia chứ gì?
Tôi sẵng giọng:
– Cô ta nói chết oan ức lắm.
Ông chủ mặt biến sắc:
– Thật thế ư? Tại sao lại như thế? Tại sao?
Ông ta thở hổn hển thật tội nghiệp. Tôi bỏ ông ở
đấy đi ra ngoài. Anh bạn chủ quán cà phê đon đả:
– Thế nào, uống cà phê chứ, sao mặt mày ủ dột vậy?
Tôi hỏi:
– Anh có tin có ma không?
Anh chủ quán cười:
– Chắc là bị ma nhát chứ gì? Nè, cậu nên biết, nhà
đó có ma nhiều lắm.
Tôi hoảng hốt đánh rớt cả điếu thuốc trên tay. Tôi
định ngay lập tức chuyển đi nơi khác dù có mất trắng số tiền đưa ông chủ nhà.
Chứ ở đó không khéo sẽ gặp tai họa.
Đêm đó tôi ngủ một giấc ngon lành. Không thấy gì
cả. Tôi đã an tâm. Thế nhưng đêm sau lại thấy cô gái áo trắng. Cô ta ngồi xuống
cạnh tôi, rủ rỉ:
– Anh định bỏ đi ư? Tại sao? Hãy trả thù cho em. Em
van anh.
Tôi hỏi:
– Kẻ thù của cô là ai?
Cô gái thổn thức:
– Tám Điểu.
Nói xong cô ta biến mất. Sáng hôm sau tôi hỏi ông
chủ nhà:
– Ông có biết ai tên là Tám Điểu hay không?
Ông chủ nhà hoảng hốt:
– Tám Điểu. Tại sao cậu lại biết tên đó?
Tôi hỏi:
– Con gái ông nói cho tôi biết. Tám Điểu là kẻ đã
hại cô gái. Và nhờ tôi báo thù.
Ông chủ nhà thở dài đánh thượt một cái rồi lẩm bẩm:
– Đúng là trời quả báo rồi.
Tôi thấy ông ngồi im lặng, mồ hôi tứa ra đầy mặt.
Lát sau ông hỏi tôi:
– Cậu có biết tôi là ai không? Tôi chính là Tám
Điểu đây!
Tôi há hốc mồm kinh ngạc. Ông ta tiếp tục, giọng
trầm buồn, xa vắng:
– Tôi xuất thân từ một đạo tặc lừng danh ở vùng đất
này. Tuổi trẻ tôi đã từng đâm chém không biết bao nhiêu người. Sau này về già
nghĩ lại ân hận vô cùng. Tôi không vợ, không con, có gì nữa đâu. Tôi lập bàn
thờ Phật, mong người độ trì cho tôi.
Tôi sốt ruột:
– Thế tại sao ông lại hại con gái ông?
Ông ta chậm rãi:
– Cô ấy không phải là con gái tôi. Mà là vợ tôi. Đó
là người vợ mà tôi yêu thương. Tôi sẽ kể cho anh nghe tường tận.
Trong một lần đi ăn cướp ở làng Karen tôi đã gặp cô
ấy, lúc đó là một thiếu nữ 17 tuổi. Cô là con gái cưng của chủ làng. Vì muốn được
cô ta, được số của cải, tôi đã nhẫn tâm sát hại cả nhà cô ấy rồi mang cô ấy về
đây. Tôi đã nâng niu, săn sóc cô ấy suốt mười năm trời. Trong mười năm đó, cô
ấy không mở miệng nói với tôi một lời. Tôi biết cô ta hận tôi lắm. Tôi ân ái
với cô ấy, cô ấy không muốn nhưng phải phục tùng chấp nhận. Cô ta không đẻ cho
tôi một đứa con nào. Tôi nghĩ chắc là do lòng hận thù đã khiến cho cô ấy như
thế.
Rồi một hôm tôi đi nhậu về, quá say nên ngủ thiếp
đi. Nhưng một nhát dao đã đâm vào ngực tôi, tôi hoảng hốt choàng dậy. Trước mắt
tôi là cô ấy, cô rít lên giọng căm thù:
– Mày đã giết hại cả gia đình tao. Cưỡng hiếp tao,
tao phải trả thù.
Tôi giằng lấy con dao, tát cho cô ấy mấy bạt tai:
– Mày tưởng muốn giết tao dễ vậy sao? Đừng hòng!
Tao sẽ cho mày đi theo cha mày.
Cô ta cười man dại:
– Giết đi. Tao sẽ nguyền rủa mày suốt đời. Ha ha….
Tôi nghe tiếng cười của cô ta mà khiếp hãi quá.
Tiếng cười như ma quỷ vậy. Tôi quyết định giam cô ta vào trong căn phòng mà anh
đang ở. Một thời gian sau. Cô ta tự tử chết.
Tôi hỏi:
– Thế xác cô ta ở đâu?
Ông ta nói:
– Ở ngay đầu giường anh nằm.
Tôi rùng mình. Trời ơi, bấy lâu nay mình ngủ cạnh
người chết, ngủ cạnh ma, thật là khiếp hãi. Nhưng rồi lòng yêu thương cô gái
khiến tôi quên cả sợ. Ông chủ nhà nói tiếp:
– Cậu đã biết cả rồi. Tôi rất quý cậu, bây giờ tôi
đã 60 tuổi rồi có chết cũng cam lòng.
Nói rồi, ông ta bước đi loạng choạng về phòng của
ông.
Tôi bàn với ông chủ nhà nên xây mộ cho cô gái. Ông
ta đồng ý.
Khi đào hài cốt lên thì chỉ còn là một nhúm tro
xương. Tôi lập bài vị của cô, để lên bàn thờ và dựng chỗ cô chết một tấm bia
đá. Thế là hết toi số tiền dành dụm. Nhưng lòng tôi vui vô cùng vì đã làm được
việc nghĩa. Nhưng còn việc trả thù cho cô gái thật khó. Tôi với ông chủ nhà
không thù, không oán hơn nữa tôi lại đang ở nhà ông, ông đối xử với tôi rất
tốt.
Đêm đó tôi lại thấy cô gái hiện về, mặt mày tươi
tắn rạng rỡ. Cô nói:
– Cảm ơn anh đã lo chu toàn cho tôi. Dưới suối vàng
tôi mãn nguyện lắm rồi.
Tôi hỏi:
– Thế còn mối tử thù?
Cô gái thổn thức:
– Hãy để ông ấy sống cả đời trong dằn vặt đau khổ
vì những lỗi lầm ông ta đã gây ra.
Cách trả thù tốt nhất là sự cô đơn. Em biết, ông ta
đã sám hối nhưng chưa đủ đâu. Nếu để cho ông ta chết thì dễ dàng cho ông ta
quá.
Tôi nghe cô gái nói, lòng rưng rưng. Còn ông chủ
nhà khi nghe tôi kể lại, nước mắt ứa ra trên khuôn mặt răn reo. Một cuộc đời
chỉ chuyên gây cái ác bây giờ sống trong bế tắc, hối hận, dằn vặt. Âu cũng là
một sự thức tỉnh. Tin rằng Trời Phật sẽ phù hộ cho ông.
MỘ KINH NƯƠNG
(Tác giả: Bồ Tùng Linh)
Cha Vương Nguyên Lão là Sở, giữ chức Huyện lệnh
Bình Nguyên. Nguyên Lão khoảng hai mươi tuổi vừa đi thi cử nhân, học ở vườn sau
hành lang huyện thự. Một hôm, chiều tối đi tản bộ trong vườn hoa, gặp một cô
gái, hỏi tên họ, cô gái đáp “Ta là con gái Huyện lệnh họ Dương tiền nhiệm”. Nguyên
Lão thích vì xinh đẹp, mở lời trêu ghẹo, cô gái không giận mà cười, nhân ngủ
với nhau. Gặp ngày Hàn thực, Nguyên Lão mời bạn bè tới kích hoàn ở bãi đất
trống phía tây vườn, đầy tớ có người chỉ ngôi mộ Kinh Nương ở bãi đất. Nguyên
Lão nhân hỏi Kinh Nương là ai, bạn bè nói là con gái út của Huyện lệnh họ Dương
tiền nhiệm, tự Kinh Nương, vừa đến tuổi cập kê thì chết, chôn ở chổ ấy. Nguyên
Lão nghe là con gái Dương Huyện lệnh, trong bụng đã ngờ vực. Trở về ngồi trong
thư phòng, giây lát cô gái tới, sụt sịt thướt tha, định tới lại lùi, nói với
Nguyên Lão "Ông đã biết, ta còn nói gì nữa. Âm dương khác nẻo, cũng khó ở
với nhau lâu dài. Nay sắp đến ngày thi, ông ắt thi đỗ. Ở giữa hơi có chuyện lôi
thôi, còn như có bệnh, cũng nên cố gắng mà đi. Sẽ gặp lại ông trên đường Liêu
Dương”.
Nói xong ra đi. Kế Nguyên Lão bệnh, cha mẹ không
muốn cho đi thi. Hơn tháng thì hơi đỡ, Nguyên Lão quyết ý xin đi. Cha mẹ cho đi
bằng xe, tới hồ Liêu Dương mưa dầm đường lầy xe không đi được, những người cùng
đi thay ngựa lên đường, xe đi được vài dặm thì gãy trục. Nguyên Lão lo buồn
không biết làm sao, chợt có người nông phu giắt rìu bên hông vác trục xe trên
lưng đi tới, hỏi ra thì là thợ mộc. Nguyên Lão than thở “Chỗ này trước sau hai
trăm dặm không có người ở, nay lại gặp thợ mộc không phải là cõi âm phù trợ
sao”. Sửa trục xe xong, bèn lên đường. Chợt thấy một chiếc xe tới, người trong
xe là Kinh Nương. Nguyên Lão vừa mừng vừa sợ nói “Nàng cũng tới đây sao?”. Kinh
Nương nói “Ông không nhớ câu nói sẽ gặp lại trên đường Liêu Dương à? Biết ông
có nạn, nên tới an ủi thôi". Nguyên Lão hỏi "Tiền trình tốt xấu, có
thể biết được không?”. Kinh Nương lập tức lên xe, chỉ nói Thượng thư bảo trọng
mà thôi. Về sau, quả nhiên Nguyên Lão thi đỗ, quyền nhiếp chức Thượng thư bộ Lễ
được vài hôm thì chết.
NGƯỜI SỐNG CÙNG MA
(Tác giả: Người Khăn
Trắng)
Chùa Già Lam tọa lạc trên một khu đất rộng, phong
cảnh thoáng mát, đầy cây cảnh rất thích hợp cho việc tu hành, kinh kệ. Từ ngày
má vợ mất, tôi hay lên chùa để thắp nhang nhất là vào các ngày rằm lớn.
Nếu các Chùa khác ở Sài Gòn cũng đều có Bảo Tháp,
nơi giữ cất của người đã khuất thì Chùa Già Lam cũng vậy. Tôi hay vào nơi giữ
cất vì ở đó có cốt của ông già vợ. Ông mất năm sáu chín, cải táng năm 1980 và
đưa về chùa từ năm đó. Ông anh vợ tôi lặn lội từ Sài Gòn ra miền Trung để đưa
vào đây cốt của cha vợ tôi để tiện việc nhang khói. Nhà cốt nằm ở phía tay phải
của Chùa, chật hẹp, ở đó cất giữ rất nhiều cốt. Đa số là người của miền Trung….
Nhưng ông Tư, người giữ cốt lại là người miền Nam. Ông làm nghề này đã lâu,
hoàn toàn tự nguyện vì công quả… Mỗi khi có lễ gì ở Chùa như lễ An cư kiến hạ,
cầu siêu, hoặc cúng rằm tháng bảy là ông ở lại Chùa suốt đêm. Còn thường thì
ban ngày ông có mặt ở Chùa, tối về nhà ngủ. Nhìn ông hom hem, da sạm đen. Đôi
mắt sâu hoắm cứ tưởng ông yếu lắm nhưng ông rất khỏe. Cốt được cất trong một
cái lọ, phía ngoài là bức ảnh nhỏ xíu nhà cốt lưu giữ hàng trăm cốt có ghi tên
tuổi cụ thể và nhiệm vụ của ông Tư là lo quét dọn nhà cốt rồi thắp nhang mỗi
ngày. Thắp chung cho nhà cốt. Ông thuộc vanh vách từng cốt một… cốt ông già vợ
tôi ở trên cao, mỗi khi thắp nhang phải bắc thang lên. Không khí rất huyền hoặc
kỳ bí đó là thế giới của người chết…. Tôi hỏi:
– Bác làm nghề này có sợ không?
Bác Tư cười móm mém:
– Ban đầu thì sợ nhưng bây giờ quen rồi. Tâm linh
mà. Mình cứ sống tốt thì có ai hại mình được đâu. Tôi vào nghề này vì tình cờ
thôi. Gọi là nghề nhưng thực ra là làm công quả. Sư trụ trì bảo tôi là ở Chùa
thiếu người trông coi giữ cốt, nếu thí chủ làm công quả thì coi giữ giùm Chùa.
Tôi gật đầu đồng ý. Hằng ngày ăn cơm chay niệm Phật và ngồi ở đây cho đến hôm
nay. Tôi đã ngoài bảy mươi rồi, cũng gần đất xa trời rồi. Coi như là tích đức
vậy…. Nhà Chùa là nơi bá tánh đến nghe kinh. Nhiều người đóng góp công quả,
thắp nhang lạy phật để xua tà tâm…
Tôi hỏi:
– Bác ở trong này có thấy ma bao
giờ không? Nghe nói gần chùa ma quỷ hay đến nghe kinh để sớm siêu thoát.
Bác Tư kể:
– Có chứ bữa đó tôi ở lại hơi trễ một chút vì trời
mưa, tôi thấy một loạt bóng trắng ào vào. Tôi ngỡ mình nằm mơ tự nhéo tay thật
đau thấy đang tỉnh táo. Tôi hỏi mấy chú tiểu thì chú cho biết: ở Chùa này thấy
hoài, các hồn ma đi dạo chơi, bây giờ trở về. Tôi cứ run bần bật cả người vì
sợ. Tôi tính xin trụ trì cho nghỉ việc, nhưng ngặt nỗi nhà Chùa không còn ai
nên đành ở lại. Tôi thắp nhang cầu các vong linh: Tôi làm nghề giữ cốt, chăm
sóc vong hồn các bạn. Xin đừng quấy nhiễu nữa…. Sau đó rồi cũng yên ổn, thỉnh
thoảng nghe có tiếng gì đó mơ hồ lắm…. Nói về nghề, thì nghề giữ cốt có khác gì
coi nghĩa địa đâu, cũng là thân xác và phần hồn cả thôi. Tôi chỉ sợ mai mốt già
cả rồi không ai thay thế thì tội cho các vong linh lắm…. Mà nói thật nghe nếu
ngày nào không đến nhà cốt tôi lại thấy áy náy cậu ạ….. Nghề của tôi cũng cô đơn
như nghề coi xác ở bệnh viện vậy, nó buồn lắm. Vì đơn độc một mình….
Giọng bác Tư trầm đục. Tôi nhìn bác lặng lẽ, gầy gò
đi lau chùi bụi bặm ở các bức di ảnh, mà trào lên bao xúc động sâu xa. Bác đã
vượt qua bao nỗi sợ hãi để làm công quả. Nếu như ở xóm nghĩa địa có nhiều người
tập họp, còn ở đây bác chỉ có một mình. Tôi nhớ chính tôi có lần say rượu ở
Phước Long đã nằm ngủ bên ngôi mộ hoang suốt đêm, khiến bạn bè hoảng hốt và khi
tỉnh rượu tôi cũng kinh hoàng vì sự táo tợn của mình. Đó chỉ là một đêm thôi,
còn bác Tư thì cả đời gắn bó với người chết, mà những người đó hoàn toàn xa lạ,
không thân thích. Bác nói: Phật dạy con người ta từ bi hỉ xả, hưởng phước vô
lượng. Gieo nhân nào, gặt quả ấy. Đây cũng là một điều tâm. Tâm trong hồn thanh
thản. Tôi hỏi:
– Hồi nhỏ chắc bác gan lắm?
Như gãi đúng chỗ ngứa. Bác kể:
– Hồi nhỏ nhà tôi ở dưới quê, mần ruộng kiếm sống.
Tôi hay đi câu cá đêm qua các khu gò mả. Lũ bạn sợ nhát không dám đi. Tôi cứ
mặc kệ. Vì tôi nghĩ: ma chết sợ người đấy chứ. Nghĩ vậy nhưng vẫn cứ run vì
nghe tiếng gió hú, lửa ma trơi chập chờn, rồi đom đóm bay lập lòe, nhìn đâu như
cũng thấy có ma quỷ…. Nhưng tôi chẳng ngán gì cả, cứ đi. Thỉnh thoảng cũng bị
ma nhát mấy lần.
Tôi hỏi:
– Ma nhát là nhát làm sao hả bác? Nghe ly kỳ quá.
Mà bác có tin có ma quỷ không?
Bác Tư gật đầu:
– Có chứ. Có thế giới dương gian thì cũng có cõi âm
ty. Có thờ, có thấy, có kiêng, có lành ông bà đã dạy vậy mà. Người ác sẽ bị
trừng trị dù có thoát khỏi cõi dương gian. Lưới trời lồng lộng. Còn ma nhát ấy
à lạ nghe. Tôi thấy có ai nhéo tai mình rồi có tiếng cười vang vang. Cứ ngỡ là
bạn bè đùa. Khi định thần nhìn kỹ, chỉ có mình với đêm đen, nghĩa địa…. Tôi
hoảng sợ nhưng rồi vẫn tiếp tục đi. Về đến nhà, trời đã rạng bình minh. Bạn
hỏi: Đêm qua có thấy gì lạ không? Tôi kể lại câu chuyện ai cũng rùng mình. Họ
cho tôi là gan cóc tía. Họ bảo: những người bị ma nhát là những người yếu bóng
vía. Vậy mà tôi không hề hấn gì. Thế mới lạ chứ….
Tôi hỏi:
– Nghe nói người sống gần âm khí, cốt cách cũng kỳ
lạ lắm, bác thấy sao?
Bác Tư cười xuề xòa:
– Chú thấy tôi có vậy không? Mà tôi đôi lúc cũng
như bị nhập tâm, nói năng một mình cứ ngỡ như có ai nói chuyện với mình vậy….
Về nhà, vợ bảo: Ông này lẩm cẩm rồi, coi chừng bị ma nhập.
Câu chuyện của chúng tôi kết thúc. Tôi từ giã bác
Tư ra về. Rời ngôi Chùa yên tĩnh mà lòng cứ day dứt một câu hỏi: Người làm công
quả như bác Tư hiện nay còn lại bao người. Chắc là cũng có. Nhưng để gắn bó một
cuộc đời có lẽ rất hiếm. Hiếm lắm.
VƯƠNG VÂN HẠC
(Tác giả: Bồ Tùng Linh)
Vương Trung Lập, tự Thang Thần, người Kha Lam. Học
rộng nhớ dai, không gì không biết. Lúc trẻ chuyên Kinh Dịch, nổi tiếng chốn
trường ốc. Trong nhà giàu có, hàng ngày khách tới chật cửa, tiếp đãi rất chu
đáo, nhưng mình hưởng thụ thì hàng ngày chỉ một bát cơm suông canh miến mà thôi.
Chưa được bốn mươi tuổi thì vợ chết, không lấy vợ kế, cũng không đi thi nữa. Ở
riêng một phòng, giống hệt một nhà sư già. Như thế ba bốn năm mới ra ngoài,
người ta cảm thấy trò chuyện lưu loát, thi họa hơn người, giống như có quỷ thần
nhập vào, nhưng hỏi thì không nói. Từng ở trong quán trọ tại Bình Định, gặp
Nhàn Nhàn công bảo làm thơ, liền viết "Ký dữ Nhàn Nhàn ngạo Lãng tiên,
Ương tùy thi tửu trụy phàm duyên. Hoàng trần già đoạn lai thời lộ, Bất đáo Bồng
Lai ngũ bách niên" (Gởi nhắn Nhàn Nhàn ngạo cuộc say, Uổng vì thơ rượu đọa
trần ai. Bụi vàng che lấp đường lui tới, Xa cách Bồng Lai chục kiếp rồi). Nhân
nói sĩ đại phu thời Đường có năm trăm người, đều là người tiên bị trích giáng,
vì đời loạn mà trước tác, cũng có người mê muội không quay về, như ông và ta
đều như thế.
Một hôm tới kinh đô, ngụ trong nhà Nhàn Nhàn công.
Có thơ Trung thu rằng “Ấn thấu sơn hà ảnh, Chiếu khai thiên địa tâm. Nhân thế
hữu giai hiểu, Ngã hung vô cổ câm” (Núi sông in bóng ấy, Trời đất rọi gương
này. Dưới đời có sớm tối, Trong dạ chẳng xưa nay), Nhàn Nhàn công lấy làm lạ.
Nhân đòi một chậu mực, theo lời đưa cho. Sáng hôm sau không cáo từ mà bỏ đi,
trên vách còn lưu lại hai chữ “Cổ hạc”, nét chữ rộng một thước, theo thể phi
hạc, khí vận sinh động, không biết lấy vật gì viết ra. Giây lát từ ngoài bước
vào, hỏi vì sao làm thế thì không đáp, lại đề thơ bên cạnh rằng "Thiên địa
chi gian nhất cổ nho, Tỉnh lai bất ký túy trung thư, Bàng nhân thác thử thần
tiên tự, Chỉ khủng thần tiên tự bất như” (Đất trời có một hủ nho ta, Lúc say viết
chữ nhớ đâu mà, Người ngoài cứ nói thần tiên viết, E chữ thần tiên cũng kém
xa). Thơ của tiên sinh nhiều câu mang kỳ khí phương ngoại. Như "Túy tụ vũ
hiềm thiên địa trách, Thi tình cuồng yếm hải sơn bình. Hốt kinh phong lãng nhĩ
biên quá, Bất giác thần hình lai thế trung. Nhân quân cảm kích tùng quân
thuyết, Tạc phá thiên cơ ngã diệc kinh” (Say múa luống chê trời đất hẹp, Hứng
thơ lại chán núi gò bằng. Chợt nghe sóng gió vang bên gối, Chẳng biết thân mình
đã xuống trần. Vì ông cảm kích nên ta nói, Nói rõ thiên cơ lại rợn lòng), như
thế rất nhiều.
Có người hỏi chuyện ngoài đời cũng đáp một hai câu.
Giỏi viết chữ lớn kiều phách khoa, thế rất mạnh mẽ, Nhàn Nhàn rất thích. Lý Chi
Thuần ở Bình Sơn thường gặp tiên sinh, nói qua về nhân vật thời trước, dẫn lời
tiên nho nghị luận mấy mươi điều, giống như từng người từng người tự bắt bí, kế
theo ý mình mà đoán định, vì thế trở thành loại đứng đầu trong bọn biện giả.
Lúc lên đường nói trước ngày chết, quả như lời ấy mà qua đời, được bốn mươi
chín tuổi. Cuối đời đổi tên là Vân Hạc, hiệu là Nghĩ Hủ đạo nhân, nhân vật như
Lữ Thế Họa cũng còn thua sút.
NGÔI MỘ HOANG
(Tác giả: Người Khăn
Trắng)
Tôi vốn không tin có ma quỷ,
lại càng không tin có thế giới cõi âm. Vì con người khi đã chết rồi thì theo
khoa học sẽ tự phân hủy theo thời gian. Lúc đó còn gì nữa đâu để mà tồn tại. Dù
là tồn tại theo tâm linh.
Ấy vậy mà có một chuyện kỳ lạ hay nói đúng hơn là
kỳ bí vô cùng khiến tôi phải suy nghĩ. Đây là câu chuyện chúng tôi chứng kiến.
Nghĩ lại đôi lúc còn rởn tóc gáy.
Số là một lần đi công tác ở một huyện miền núi. Tôi được bạn bè rủ đi nhậu thịt
rừng. Tôi còn nhớ rõ đó là một đêm tháng sáu năm l982. Tôi vốn ít uống rượu.
Nhưng hôm đó vì quá vui nên say túy lúy. Mấy người bạn cũng vậy. Họ rủ tôi ở
lại nhà của Đệ một người trong đám chúng tôi, nhưng tôi từ chối. Và rồi người
loạng choạng, tôi mò mẫm theo con đường đầy cỏ dại về nhà nghỉ. Và rồi không
hiểu sao tôi gục xuống ngay vệ đường thiếp đi.
Tôi thấy tôi bước vào một ngôi nhà rất đẹp. Lối vào treo đầy giỏ phong lan. Có một người con gái tuổi
khoảng đôi mươi đang ngồi trên một bộ ghế sang trọng cô ta thật đẹp. Cô ta đứng dậy, nhoẻn miệng cười tươi:
– Em biết thế nào anh cũng đến mà, anh Thắng. Em
đợi anh lâu lắm rồi.
Tôi ngạc nhiên:
– Cô là ai, làm sao biết tên tôi? Tôi chưa hề gặp
cô bao giờ?
Cô gái đặt tay lên vai tôi, bàn tay buốt giá khiến
tôi rùng mình. Cô gái dịu dàng:
– Anh sẽ biết em là ai nhưng em muốn anh cứ nghĩ
cho kỹ đi.
Tôi lắc đầu, cố hình dung ra cô ta là ai. Gương mặt
cô gái cứ nhòe nhoẹt. Lúc thì trắng toát, lúc thì như một ác thú, lúc lại là
một bà già. Tôi hoảng hốt, muốn la lên nhưng tay chân như cứ bị níu chặt. Phải
chăng tôi đang gặp ma?
Cô gái tiếp tục:
– Anh quên rồi phải không? Để em nhắc lại cho anh
nhé. Em là Hậu.
Tôi kinh ngạc rú lên. Hậu. Nhưng cô ta đã chết lâu
rồi mà. Chính cô chết trên tay tôi trong đợt tấn công tiểu khu Long Phước năm
1975. Cô là người vùng đất này. Chúng tôi yêu nhau tha thiết, hẹn sau giải
phóng sẽ cưới nhau. Tôi chôn Hậu ngay lối vào thị xã, hẹn sau này sẽ đưa vào
nghĩa trang của huyện. Nhưng rồi công việc triền miên. Tôi quên mất lời hứa,
chắc là nàng trách tôi! Giọng Hậu trầm buồn:
– Bây giờ thì anh nhớ rồi phải không? Em sống ở đây
buồn lắm, vẫn mong ngày anh trở lại. Và em cứ chờ!
Tôi đã qua cơn sửng sốt, bồi hồi:
– Hậu ơi, anh có lỗi. Anh có lỗi với em rất nhiều.
Hãy cho anh cơ hội chuộc lỗi.
Hậu vui vẻ:
– Anh đừng tự trách mình làm gì, anh không có lỗi
gì cả. Em rất mừng là biết anh vẫn nhớ tới em. Thắng ơi, đêm nay anh ở lại đây
với em nhé. Chúng mình sẽ cùng nhau ôn lại kỷ niệm ngày xưa.
Tôi gật đầu. Hậu tung tăng chạy đi pha trà rồi dẫn
tôi ra vườn. Chỉ tay vào những chùm phong lan, tiếng cười của nàng giòn tan,
trong trẻo làm sao, tôi thấy nhói đau. Hậu hiện lên trong tôi mồn một, y như
ngày xưa vậy.
Rồi chúng tôi hôn nhau. Và Hậu biến mất, tôi nghe
tiếng người lao xao.
– Thắng, anh Thắng đây rồi. Sao anh lại ở đây?
Tôi mở mắt, thấy mình đang nằm sấp trên một ngôi mộ
hoang, môi đang dính đầy đất. Trước mắt tôi thằng Đệ, Vinh đang lo âu hốt
hoảng. Tôi ú ớ:
– Hậu ơi, sao em lại bỏ đi, sao em bỏ anh một mình?
Đệ xốc nách tôi dậy người tôi sốt ly bì, cậu ta vội
vàng đưa tôi vào bệnh viện huyện miệng cậu ta như mếu:
– Ông này liều thật, dám ngủ ngay tại ngôi mộ
hoang. Coi chừng ma nhập.
Sau mấy ngày nằm viện, tôi hồi phục hẳn nhưng cứ bị ám ảnh mãi về Hậu. Tôi hỏi
Đệ có biết ngôi mộ của Hậu ở đâu không, cậu ta lắc đầu:
– Ở đây nhiều ngôi mộ hoang lắm, bởi vì trong chiến
tranh có rất nhiều người chết. Huyện đang xây dựng lại, nhiều ngôi mộ sẽ được
quy tập. Biết đâu trong quá trình quy tập sẽ tìm ra được những đồng đội của
anh.
Tôi gật đầu. Đêm đó, tôi nghỉ ở nhà khách. Khoảng
12 giờ đêm, tôi lại thấy Hậu. Cô đưa tay vẫy tôi. Tôi bước đi theo cô như một
kẻ mộng du. Và chúng tôi bước vào ngôi nhà.
Tôi không nhớ chuyện gì đã xảy ra nữa. Nhưng khi
tỉnh dậy, tôi thấy mình đang nằm ở nhà khách. Thằng Đệ trách:
– Anh bỏ đi không nói ai cả làm tụi tôi kiếm gần
chết, may mà kiếm được anh ngay tại ngôi mộ hoang. Anh Thắng, coi chừng anh bị
ma nhập đó.
Tôi kể cho thằng Đệ nghe tất cả sự kỳ lạ của đêm
trước. Đệ há hốc mồm kinh ngạc nó bảo:
– Như thế là có điềm báo rồi đó, phải chăng cô Hậu
muốn chỉ cho anh chỗ chôn cất. Để em lên huyện xin phép đào thử ngôi mộ hoang
đó xem sao.
Tôi cảm ơn lòng tốt của Đệ. Ngày hôm sau, việc khai
quật ngôi mộ hoang được tiến hành, tôi thực sự kinh ngạc. Người con gái nằm
trong ngôi mộ chính là Hậu. Kỷ vật vẫn còn nguyên vẹn. Tôi òa khóc. Mọi người
cũng rưng lệ.
Sau khi thắp nhang khấn vái, chúng tôi đưa Hậu vào
khu nghĩa trang của huyện. Hậu nằm trong đó bên cạnh bao đồng đội ngày xưa.
Đêm đó tôi thấy Hậu hiện về, tươi tắn, xinh xắn
trong bộ bà ba, đôi dép lốp ngày nào, nàng vẫy tay cho tôi. Tôi gào to:
– Hậu ơi, chờ anh với, chờ anh với.
Hậu chỉ cười, bóng dáng nàng khuất hẳn.
HỒ NHỊ TẮC
(Tác giả: Bồ Tùng Linh)
I.
Thiết Lý ở thôn Bắc Trịnh Dương Khúc, làm nghề bắt
hồ. Một hôm giăng lưới dưới khu mộ cổ ở ngòi phía bắc, buộc một con bồ câu làm
mồi, trèo lên cây lớn chờ. Sau canh hai, quần hồ kéo tới, nói tiếng người
"Thiết Lý Thiết Lý, ngươi lấy bồ câu để nhử bọn ta à? Cha con ngươi giống
như lừa ngựa, không chịu làm ruộng, chỉ học sát sinh, nội ngoại lục thân của bọn
ta đều bị thằng giặc này làm hại. Hôm nay đã tới số trời, mau leo xuống đi. Nếu
không bọn ta cưa đổ cây thì đừng trách”. Kế đó lập tức nghe tiếng cưa kéo xoèn
xoẹt, tiếng gọi lớn mang chảo dầu tới để luộc thằng giặc này, lửa cũng nổi lên.
Thiết Lý sợ, không biết làm sao, nhìn lại trong lưng chỉ có lưỡi búa lớn, nghĩ
nếu cây đổ xuống thì cứ chém bừa. Giây lát trời sáng, hồ cũng bỏ đi. Trèo xuống
thấy trên thân cây không có vết cưa kéo gì, bên cạnh chỉ có vài cái xương sườn
trâu mà thôỉ. Thiết Lý biết là hồ biến ra ảo ảnh chứ không có thật, đêm ấy lại
tới. Chưa đến canh hai, hồ tới khóc lóc chửi bới rất có lớp lang. Lý giắt ống
pháo trong lưng, lấy ra ngầm đốt rồi ném xuống gốc cây. Hỏa dược phát nổ vang
rền, quần hồ chạy tán loạn, bị lưới chụp xuống, nhắm mắt chờ chết, không nói
một câu. Thiết Ly vung búa chém chết hết.
II.
Hồ Ngạn Cao giữ ấn triện huyện Tức Mặc, huyện thự ở
góc thành cổ bị yêu hồ chiếm cứ, ban ngày núp, ban đêm ra, biến hóa đủ lối, có
khi biến ra ngục tốt cởi trói cho tù nhân, có khi biến thành quan kỹ trộm chăn
trong dịch trạm, dụ dỗ đàn ông đàn bà, có người bị mê loạn đến nỗi chết, người
trong huyện không biết làm sao đành phải phụng thờ hương hỏa, đã hơn năm mươi
năm. Ngạn Cao tới đáo nhiệm, hỏi biết được chuyện, nói với đồng liêu “Quan xá
là cho người hiền ở, nay Huyện lệnh không ở được, mà để quỷ quái chiếm cứ à?”.
Lúc ấy nhà cửa bỏ trống đã lâu, suy sụp tiêu điều, lập tức sai dọn cỏ.
Hôm sau Hồ ra sảnh xem việc, đến tối thắp đuốc bày
ra ngồi chờ. Đến khuya hồ hú trong khu vườn phía sau, một con xướng hàng trăm
con họa, giây lát chia ra vây quanh nội đình, trong bọn có một con hồ lớn lông
trắng, ngồi xổm dưới đất rống lên như muốn cắn xé. Quân lính đều chạy tán loạn,
không còn người nào. Ngạn Cao vẫn ngồi thẳng bất động, mà hồ cũng không dám xông
tới, hồi lâu kéo cả bầy rút lui. Như thế liên tiếp ba ngày, rồi không tới nữa.
Lại qua hơn mười ngày hồ ám một tỳ nữ, người ấy nhảy nhót cười rộ, điên cuồng
như đang mộng mị. Ngạn Cao lấy son viết vào giữa chiếc thoa của tỳ nữ, bảo cút
đi, tỳ nữ ấy lập tức tỉnh lại.
Sáng hôm sau, Huyện úy từ Tuần La về, gặp quần hồ
mấy trăm con từ phía đông huyện đi về phía nam. Hồ lại ám một người đàn bà
trong nhà lại mục Đăng Châu Giang Sùng. Sùng ra hải đảo mời đạo sĩ tới làm
phép, nhân lúc người đàn bà đang điên cuồng, trói vào bánh xe, chôn trục xuống
đất, sai người quay tít. Hồi lâu người đàn bà nôn ra nước dãi tanh hôi, là bầy
hồ ở Túc Mặc bị Hồ công đuổi tới đó phá phách. Phụ lão ở Tức Mặc lập bia về
việc Ngạn Cao, gọi là bia Hồ công đuổi hồ.
QUYỂN SÁCH MA QUÁI
(Tác giả: Người Khăn
Trắng)
Cô giáo Sương đưa cho Thoa cả chùm chìa khóa và
dặn:
– Tất cả các phòng đều có chìa trong này, em xem
cái nào xài được thì dùng, cái nào không được thì để riêng ra. Có những chìa từ
rất lâu, đổi ổ khóa mấy lần rồi mà vẫn chưa bỏ.
Thoa nhìn xâu chìa khóa mà ngao ngán:
– Em chỉ dùng mỗi một cái cho phòng của em thôi.
Nếu cần thêm thì cũng là chìa mở cổng, mở cửa trước, sau. Chớ lấy chi quá nhiều
vậy…
Nhưng cô Sương vẫn đưa:
– Thì em cứ giữ. Bởi nhà này bây giờ trở đi thì chỉ
có mình em thôi. Chỉ có điều, chị hỏi thật em, ở một mình có sợ không?
Thoa cười:
– Từ nào đến giờ ở đâu em cũng chỉ một mình, quen
rồi. Vả lại chị ở đây đã bao đời rồi, có gì đâu mà sợ, phải không?
Chị Sương gật đầu:
– Nhà này tuy rộng và vắng vẻ, nhưng chưa hề xảy ra
chuyện gì bất thường. Vả lại, ban đêm thì ông già Tư Sang sẽ về ngủ canh nhà.
Ông ấy là người tốt. Đêm nào ổng cũng thức tới nửa khuya. Có gì cần, em cứ bấm
chuông trên đầu giường thì ông ấy sẽ có mặt.
– Dạ, cám ơn chị.
Cô Sương soạn xong va ly thì xách đi ngay:
– Chị phải ra xe lửa cho kịp chuyến. Thôi, em ở nhà
ráng giữ gìn sức khỏe nghe!
– Dạ, chị Sương đi cũng chịu khó ăn, ngủ, để khi về
còn lên được vài ký chớ!
Hai chị em tuy không bà con, nhưng đã dạy chung
trường được vài năm, hiểu tính nết nhau, nên lại càng yêu thương nhau khi về ở
chung ngôi nhà này. Đây là nhà của một người bạn chung của hai hgười, anh ta
thường được hai cô quen gọi là anh Đức, chớ thật ra tên đầy đủ là Thành Đức,
một chủ nhà in kiêm kinh doanh bất động sản có cỡ. Anh ta khá giàu, mua nhiều
nhà đất để dành bán lấy lãi. Ngôi nhà này anh ta mua đã khá lâu nhưng chưa sửa
sang lại, bởi anh ta còn có nhiều kế hoạch cấp thiết hơn. Sở dĩ anh cho hai chị
em ở mà không lấy tiền thuê nhà là có lý do: Anh ta bận đi ra nước ngoài gần hai
năm mà không có ai trông nhà. Đức quen với cả Thoa và Sương, bởi hai đứa con
của anh ta đều học với hai cô, một người dạy văn, một người dạy toán. Có lần
anh ta nói vui:
– Khi nào con gái tôi về đây ở thì khỏi phải thuê
người dạy kèm, đã có sẵn hai cô dạy hai môn cơ bản rồi!
Đứa con gái mười bốn tuổi của Đức học hành khá
giỏi, nó lại mến hai cô Thoa và Sương, nên trước khi đi ra nước ngoài theo mẹ
trong mấy năm, nó còn hứa hẹn:
– Khi trở về thế nào con cũng nhờ hai cô dạy thêm
cho!
Về chuyện cô bé Ái Lan này, tuy mới 14 tuổi mà đã
khá trưởng thành trong cách suy nghĩ, đôi lần nó nói riêng với cả Thoa và
Sương:
– Tại thấy má bệnh nên con mới theo má ra nước
ngoài, chữa bệnh cho má lại vừa học, chớ con muốn ở lại với ba hơn.
Thoa biết phần nào về tình cảnh riêng của vợ chồng
Đức. Anh ta là một doanh nhân thành đạt giàu có, nhưng cuộc sống vợ chồng thì
hình như có nhiều điều âu lo. Bà vợ Ái
Liên thì mắc chứng trầm cảm, ít nói, nên nhiều khi
cả tháng không nghe hai vợ chồng nói chuyện với nhau.
– Khóa cổng giùm chị, Thoa ơi!
Nghe chị Sương gọi, Thoa vội ra khóa cổng, rồi trở
về phòng riêng. Từ ngày dọn về đây hơn ba tháng rồi, Thoa ở trên lầu một, bên
cạnh còn ba phòng nữa bỏ không, nhưng chưa bao giờ cô bước qua đó xem. Kể cả có
lần Đức tới thăm và có ý bảo cô: nếu không vừa ý phòng đang ở thì có thể chuyển
sang bất cứ phòng nào trong các phòng còn lại.
Nhưng Thoa cũng chưa có ý đó.
Vừa bước vào phòng, bỗng Thoa nhìn thấy một góc
phòng bị thấm nước, có lẽ do đường thoát nước bị hư, nước thấm ướt rất khó
chịu. Cô bước lại xem cái rương sách để ở góc phòng và giật mình:
– Ẩm hết rồi!
Thoa là người rất kỹ lưỡng trong việc bảo tồn sách
vở, nên một quyển sách bị ẩm là điều tối kỵ của cô. Vừa lấy khăn sạch ra lau
vừa lầm bầm:
– Kiểu này sẽ hư hết sách!
Là cô giáo dạy văn, ham đọc sách, nên đối với Thoa
sách còn quý hơn cả tiền bạc.
Lúc đầu tưởng chỉ ẩm ướt có vài cuốn, nhưng sau khi
xem lại Thoa mới giật mình, hầu như cả rương sách đều chịu chung số phận! Thì
ra từ hôm dọn nhà tới nay nó đã bị thấm nước, mà Thoa không để ý.
Đem trải mấy chục cuốn sách ra phơi, chợt Thoa nhớ
ra:
– Sao mình không chuyển phòng?
Ý nghĩ đến kịp lúc, hợp thời, nên chỉ sau mấy phút
Thoa đã dùng chìa khóa mở căn phòng bên cạnh. Phòng trống, có sẵn một cái tủ,
một bàn viết, và lại có cả bàn phấn nữa.
– Hình như… của bà vợ ông Đức trước đây?
Điều đó có thể đúng, trước khi bà ta chuyển về ở
ngôi nhà mới rồi đi nước ngoài trị bệnh.
Xem thêm căn phòng bên cạnh nữa, nó cũng giống như
phòng kia, tuy nhiên nó không có bàn viết, mà điều đó đối với Thoa nó quan
trọng còn hơn là giường nằm. Cô quyết định chọn căn phòng đầu tiên.
Thay vì chờ đến tối có ông quản gia Tư Sang về giúp,
Thoa quyết định một mình chuyển dần đồ đạc qua. Cũng may, Thoa không có nhiều
đồ, chỉ chiếc rương quần áo, hai rương sách.
Chỉ nửa giờ sau là mọi thứ đâu vào đó. Vừa chuẩn bị
đi tắm thì nhìn chiếc tủ gỗ, Thoa có ý định sẽ dùng nó và cho hết sách vào đó. Nghĩ
là làm, cô mở được cửa tủ một cách dễ dàng, bởi cửa không khóa. Bên trong còn
sót lại một ít sách cũ. Có lẽ là sách không quan trọng nên khi dọn đi bà chủ đã
không mang theo.
Có tất cả sáu quyển sách. Đúng là sách đã quá cũ,
có cuốn đã sờn gáy, có cuốn chỉ còn lại phân nửa với bìa đã rách nát. Duy nhất
có một quyển là còn nguyên, lại không là sách in, mà được viết tay, khá công
phu với chữ viết nắn nót, đẹp như người ta viết thư pháp!
Thoa gọi đấy là một quyển sách, bởi tuy nó viết
tay, nhưng được đóng gáy khá công phu như một quyển sách in, ở bìa vải có dòng
chữ đề tựa mạ vàng: TÌNH HẬN.
Nội cái tựa thôi đã có sức hút để đọc, mà lại còn thêm tên người viết là Ái
Liên nữa, bảo sao Thoa không giữ chặt nó trên tay và quên cả việc cho sách của
mình vào tủ để cất.
“Viết cho vong hồn người đã vĩnh viễn ra đi…”
Dòng đầu tiên của quyển sách đã khiến cho Thoa quên
hết công việc, cô leo lên chiếc nệm vừa trải ra, chưa kịp trải vải phủ, đọc như
sợ ai giật mất!
“Nửa đêm 23 tháng 3 năm 1953…”
“Vẫn là những đêm dài chờ đợi, nhưng sao đêm nay
đối với Ái Liên nó dài như bất tận. Bởi người mình chờ hầu như không bao giờ
tới nữa và hình như có điều gì đó bất an đang rình rập đâu đây!”
“Quân ơi, sao anh lại bỏ em một mình trong thời
khắc này! Lúc mà em cần có anh nhất! Sao anh không tới để giữ lại chút hy vọng
mong manh trong tay. Nó sắp mất rồi, mà em thì yếu đuối quá, bạc nhược quá,
không làm sao giữ được cho chúng mình!”
“Trách anh, nhưng em biết làm sao anh tới được khi
mà sáng nay người ta đã âm thầm đưa anh đi cách xa em đến nửa ngàn dặm! Họ đã
quyết chia lìa chúng ta bằng thủ đoạn vu khống cho anh tội lỗi rồi đưa đi an
trí ở chốn xa xăm đó. Nhưng nó cũng chưa xa bằng chỉ vài giờ nữa thôi, khi trời
sáng thì em của anh sẽ bị đem tới một nơi còn xa hơn nữa. Nơi đó không có cự ly
nhưng mà còn hơn vạn dặm, nó được gọi là HÔN LỄ! Sáng mai này em sẽ lên xe hoa
rồi, Quân ơi! Sao anh không tới để cứu em đi? Chỉ còn quãng thời gian ngắn nữa
thôi, mối tình hơn tám năm của mình sẽ tan như bọt nước!”
“Anh biết rồi đó, Ái Liên của anh đã thề rằng: một
là ta sống bên nhau, hai là em sẽ biến mất khỏi cõi đời này! Em thề và sẽ giữ
lời, tin em đi Quân. Bởi vậy, nếu mai này anh có trở lại và hay tin em chết thì
cũng đừng than khóc làm gì. Coi như em đã làm tròn lời nguyện ước. Kiếp này em
chỉ có anh là người tình!”
“Vĩnh biệt Quân của em!”
“Đau đớn thay cho em, Quân ơi! Điều em muốn đã
không thành! Em đã lao đầu vào xe đang chạy, muốn một cái chết thật đau, vậy mà
em lại rơi vào một cơn hôn mê sâu, êm ái, nhẹ nhàng… Để rồi khi tỉnh lại em mới
biết rằng mình đã được cứu, bởi chiếc xe mà em lao đầu vào đã kịp thắng lại,
chỉ gây thương tích nhẹ cho em mà thôi. Và dù không có mặt trong lễ rước dâu,
nhưng hôn lễ của em vẫn được cử hành. Người ta đã đưa em về nhà chồng từ bệnh
viện.”
“Sáu tháng sau ngày Ái Liên lấy chồng…”
“Người ta đưa về nhà mẹ Quân một cái xác nằm trong
quan tài. Đó là Quân! Nơi giam giữ Quân chỉ gửi về một tờ giấy ghi gọn mấy
dòng: Chết do bệnh sốt rét trong thời gian thụ án!”
“Lúc nhận được tin dữ thì Ái Liên đang mang thai
được hơn năm tháng! Nàng đã ngất đi mấy lượt và từ phút đó cô gái tên Ái Liên
không còn là Ái Liên nữa, mà chỉ còn là một Liên tâm thần…”
Đoạn truyện đến đó là kết thúc. Nó là một phần của
quyển sách vốn là một tuyển tập gồm nhiều truyện ngắn, nhưng những phần tiếp
theo cũng là một điệp khúc, gồm nhiều phân đoạn trong một trường đoạn bi thảm,
mà người viết lúc thì tỉnh táo, lúc thì viết như người từ một cõi nào, viết về
mình mà như viết chuyện của ai. Khi gọi người tình chung của mình mà như gào
thét tên ai trong một thế giới ảo nào đó!
Đọc qua mấy truyện đầu tiên, tự dưng nước mắt của
Thoa chảy ướt cả gối. Cô buông quyển sách và buột miệng:
– Tội nghiệp chị ấy!
Thì ra cuộc đời của bà chủ nhà này lại bi thảm đến
như thế. Thảo nào trông bà ta như người cõi trên. Thoa nhớ lại ánh mắt xa xôi,
buồn bã của cô bé Ái Lan mỗi khi nhắc tới mẹ. Giờ đây Thoa mới hiểu phần nào…
Đặt quyển sách trên đầu nằm, Thoa nhắm mắt lại nhốt
hình ảnh người đàn bà đáng thương đó trong đầu. Định nghỉ một lát sẽ dậy đọc
tiếp… Nhưng chẳng hiểu sao, Thoa đã ngủ một cách ngon lành. Ngủ mãi đến khi
trời tối.
– Cô Thoa! Sao cô ngủ mà không bật đèn, tối lắm
rồi!
Nghe tiếng của ông già Tư Sang, Thoa giật mình choàng
dậy. Cô hỏi vọng ra:
– Mấy giờ rồi chú Tư?
PHU NHÂN TRỜI CHO
(Tác giả: Bồ Tùng Linh)
Miếu Lư Sơn Công ở Quảng Ninh rất linh ứng. Lại có
pho tượng vẻ mặt rất hung dữ, đặt chỗ cây rừng thấp thoáng, ban ngày vào đó,
nhìn thấy là nổi gai ốc. Người quanh đó nói lúc đêm khuya yên ắng vẫn nghe có
tiếng tra hỏi quát tháo, nên người ta đều tìm đường vòng mà đi tránh qua chỗ
ấy. Chư sinh Lương Mỗ nhà ở núi Suất Mã trong hương cùng bạn học trò chuyện,
nói tới quỷ thần, kể ra những người can đảm, Lương đều không phục. Nhân nói “Ta
có thể lúc chiều tối hay lúc trời âm u vào miếu Lư Sơn đi một vòng quanh hành
lang". Bạn bè bèn hùa vào, nói “Nói đi được thì lấy gì làm bằng?".
Lương nói “Trước tiên ta sẽ đi một vòng, lấy vật đánh dấu lại để làm chứng".
Chiều hôm sau hẹn cùng tới, bạn bè chờ ngoài cửa
miếu, Lương xốc áo vào. Đánh dấu tới góc phía đông miếu, mò mẫm thấy một người
đứng cạnh vách. Lương cho là ma, bèn cõng ra. Bạn bè đón hỏi thấy gì không,
Lương cười nói “Ta cõng được một con ma ra đây, lấy lửa soi xem nào". Đánh
lửa lên nhìn thì là một người đàn bà đẹp, áo quần khác hẳn vói thế tục, định
hỏi han thì thấy hơi thở yếu ớt, giống như say rượu ngất đi.
Mọi người đều cho là ma quỷ đứng quanh canh giữ.
Hồi lâu người đàn bà mở mắt, thấy người đứng chung quanh, không kìm được hoảng
sợ, hỏi đây là nơi nào. Mọi người bèn trả lời, kể lại chuyện tìm thấy trong
miếu, lại hỏi là người hay ma, vì sao tới đây. Người đàn bà nói “Ta là con gái
đại tộc Mỗ ở Dương Châu, gặp ngày tốt đang trên đường về nhà chồng, ngồi trong
kiệu chợt bị con gió lớn thổi đi, đầu óc mê man, không biết vì sao lại tới
đây?”. Mọi người vui mừng nói "Lương sinh chưa cưới vợ, quỷ thần bèn đưa
một người vợ từ Dương Châu tới, quả thật có số trời, nên nhân dịp này thành
hôn". Lương bèn dắt người đàn bà về, sau đó thi đỗ, làm quan hiển đạt.
Người đàn bà sinh được mấy đứa con trai, nên người đương thời gọi là Phu nhân
trời cho.
TRẢ NỢ
(Tác giả: Người Khăn
Trắng)
Có lần nhân lúc rảnh rỗi. Tôi và mấy người bạn ngồi
đàm luận về chuyện ma quỷ.
Tôi nói:
– Theo khoa học thì không có ma quỷ, nhưng duy tâm
lại nói có. Vậy các cậu có tin rằng có ma không?
Thành – một nhà nông học ở Bình Chánh lên, trầm
ngâm:
– Tại sao lại không có? Vì người chết đã đi sang
một thế giới khác, thế giới siêu hình.
Tôi kể câu chuyện này thế nào các cậu cũng rợn gáy:
Đêm đó, mình đi làm đám giỗ về có uống vài ly rượu. Qua cánh đồng có mấy cái mả
thì thấy một cô gái áo trắng chặn đầu mình hỏi: Anh Hai, ngồi tâm sự với em
chút đi, em cô đơn lắm. Đang say, mình sáp vô liền. Nào ngờ mình bị mê man nằm
thiếp đi ngay cạnh cô gái, cho đến sáng khi mở mắt ra các cậu biết gì không?
Mình đang ôm một ngôi mả mới. Mình sợ phát khiếp. Sau này mình mới biết đó là
mả một cô gái bị chết oan nên hay chọc người. Từ đó mình không dám đi qua đó
vào ban đêm nữa.
Tôi cười:
– Sơn ăn từng mặt, ma bắt từng người, chắc tại cậu
nhát quá vậy thôi.
Trung – tài xế xe tải tiếp lời:
– Không biết có phải như vậy không. Tôi cũng thấy
ma một lần. Lúc xe tải qua cầu Đố thì thấy một ông lão Tây đen chắn ngang
đường, xe mình đang băng băng, thắng không kịp. Mình đinh ninh ông lão chết rồi
nên vô cùng hoảng hốt. Nhưng khi nhảy xuống xe thì không thấy ông lão đâu nữa.
Dừng xe nơi quán nước mà mồ hôi ra như tắm. Mình hỏi được thì biết ở đó có ông
già bị tai nạn xe chết nên hiện hồn về đòi mạng.
Thăng – một kỹ sư cũng xen vào:
– Tôi cũng tin có ma. Một hôm tôi cùng mấy người
bạn vào rừng săn chim. Thấy một cô gái áo tím đang ngồi khóc. Mình thấy cô ta
khá đẹp, lại hỏi: Tại sao em khóc? Cô ta không nói
gì mà chỉ tay về phía cây cao. Mình nghĩ chắc là cô bị cướp của hoặc bị làm
nhục. Máu anh hùng nổi dậy, mình theo cô gái đến đó cô chỉ tay vào gốc cây. Các
cậu có biết chuyện gì không? Mình bới lên thấy một xác chết. Xác của chính cô
gái đó. Tụi mình hoảng quá vội chạy về báo công an.
– Lại nữa, có lần mình đang ngủ để chuẩn bị ngày
mai đi công tác thì nghe có tiếng nói nhỏ: Ngày mai con đừng đi, nguy hiểm lắm,
sẽ có tai nạn đó. Tiếng của mẹ mình. Bà mất lâu lồi. Mình mở choàng mắt.
Tất cả vẫn yên lặng thế rồi mình xin lùi lại ngày
đi công tác lấy lý do là bị bệnh. Thì cùng chiều hôm đó mình nhận được nguồn
tin: chuyến xe đó gặp nạn rớt xuống đèo, trước đó mình đã có ý muốn nói vậy mà
không ai tin. Họ còn cho là mình ngớ ngẩn nữa.
Sau vụ đó mình tin rằng có một lực siêu hình luôn ở
quanh ta. Vì vậy ông bà có nói: Có thờ có thiêng, có kiêng có lành.
Tôi nghe họ kể cũng rùng mình. Chợt tôi nhớ ra một
chuyện. Tôi kể:
– Người ta bảo ma quỷ là không có bóng. Ở chỗ tớ
làm có một tay đang sống phây phẩy đột nhiên lăn ra chết. Khi chuẩn bị liệm thì
cậu ta sống dậy. Cậu ta hoàn toàn quên quá khứ của mình và suốt ngày cứ như
người ngớ ngẩn vậy. Nói chuyện cứ như ở âm phủ lên. Một điều lạ là cậu ta không
có bóng. Đứng giữa trưa hoặc giữa ánh đèn, cậu ta đều không thấy bóng của mình.
Cả bọn đều im lặng. Đúng là một hiện tượng kỳ lạ
không thể giải thích được. Con người mà tại sao lại không có bóng? Mà ma thì
chỉ có về đêm chứ sao lại có ban ngày?
Chúng tôi lập tức cùng đến nhà người bạn mất bóng.
Cậu ta ngồi đọc sách, chúng tôi vào cậu ta đứng dậy nói:
– Tớ biết các cậu đến có việc rồi. Tớ đang rất khổ
tâm vì không có bóng đây. Người, yếu xìu hà….
Tôi hỏi:
– Nè, lúc cậu hoàn sinh cậu có thấy cảm giác gì
không?
Cậu ta uể oải:
– Mình lạc vào một thế giới vô cùng kỳ ảo không thể
diễn tả nổi. Còn đang ngơ ngác thì ai đó đánh một cái rất đau vào đầu. Thế là
mình tỉnh dậy. Cũng may là dần dần tớ khôi phục lại được trí nhớ.
Trời dần trưa. Cả bọn cùng theo cậu ta ra sân. Đúng
là cậu ta không có bóng. Hay là bóng cậu ta đã bị ma bắt rồi. Theo kiếp luân
hồi, người nào bị ma bắt bóng sẽ thành ma.
Tôi hỏi:
– Này, thế hồi xưa cha cậu làm gì?
Cậu ta trầm ngâm:
– Cha tớ làm nghề ăn cướp. Bàn tay của ông đầy tội
lỗi nên khi chết vất vả lắm. Có đêm mình nghe tiếng ông khóc, ông ấy nói bị
đánh đau quá. Mình hỏi thầy cúng thì được biết cha mình đang bị tra tấn ở dưới
âm phủ. Có lẽ vì thế mà tớ suýt chết đấy. Linh hồn ông cụ có lẽ vẫn lang thang
mình không làm sao giúp được.
Chúng tôi đang trò chuyện thì bà đồng bóng từ đâu
lừ lừ đi vào. Thì ra cậu ta đang mời bà ấy đến để hỏi. Bà đồng sau khi đốt
nhang một hồi chợt phát ra tiếng nói:
– Cha cậu vì gây quá nhiều tội ác nên không siêu
thoát được. Cũng may cậu ăn ở hiền lành nên cha cậu sắp được đầu thai. Cha trả
lại bóng cho con. Con hãy tha thứ cho cha.
Nói đến đây bà đồng im bặt và cậu ta cũng lăn ra
bất tỉnh. Sau một hồi cấp cứu cậu ta tỉnh dậy. Việc đầu tiên. Cậu ta hỏi tôi:
– Tớ vừa trải qua một giấc mộng khủng khiếp. Bây
giờ tớ thực sự khỏe mạnh.
Cậu ta bắt tay cảm ơn chúng tôi. Lúc bước ra sân,
cậu ta đã thấy được bóng mình. Nếu không có bóng thì chỉ có sống với ma quỷ.
Chỉ có người ác là không có bóng mà thôi.
THÔNG GIAN VỚI CHÓ
(Tác giả: Bồ Tùng Linh)
Giả Mỗ người Thanh Châu, thường làm khách ở ngoài,
tết cũng không về. Trong nhà có nuôi một con chó trắng, người vợ dụ nó giao
hợp, con chó dần quen, lấy làm chuyện thường. Một hôm chồng về, đi nằm với vợ,
con chó chợt xông vào nhảy lên giường cắn chết người chồng. Láng giềng hơi biết
chuyện, đều lấy làm bất bình, bèn kêu lên quan. Quan bắt người đàn bà đóng gông
tra vấn, nhưng không chịu nhận tội. Bèn sai dắt con chó tới, rồi mới đẩy người
đàn bà ra. Con chó vừa nhìn thấy người đàn bà liền xông tới xé nát áo quần, làm
dáng vẻ như giao hợp, người đàn bà mới không chối cãi nữa. Quan sai hai người
nha địch giải người đàn bà và con chó lên tỉnh, có những người muốn xem con chó
giao hợp với người đàn bà, góp tiền đút lót cho hai người nha dịch, họ bèn kéo
người đàn bà và con chó lại một chỗ, bắt giao hợp, người xem thường có tới vài
trăm, hai người nha dịch nhờ thế thu lọi lợi. Về sau người đàn bà và con chó
đều kiệt sức mà chết. Than ôi, trời đất bao la, nên không chuyện gì không có. Nhưng
con người mà giao họp với thú, có lẽ chỉ có người đàn bà ấy thôi chăng?
Dị Sử thị vì thế phán rằng: Gặp gỡ trên sông Bộc,
thời trước chê bai, hẹn hò trong bãi dâu, người đều khinh rẻ. Mà Mỗ không chịu
được nỗi khổ thủ tiết, buông thả lang chạ vui vầy. Đêm vì nghĩa lên giường, là
kẻ tình lang dưới cũi, mừng thấy chàng trên nệm, ấy con vật đực trong nhà. Vẫy
đuôi trước đài mây mưa* cong lưng trong làng mềm ấm**. Dùi nhọn rút khỏi túi
da, xương rung mà ló mũi, tên sắc ngập vào đá tảng, lông ướt mà mọc cây. Giao
hợp khác loài, thật điều xằng bậy. Giống sủa gian mà làm gian, giết chóc ghen
tuông, tội lạ Tiêu Tào*** khó trị, người không phải chó mà làm chó, tanh hôi
dâm đãng, thịt nhơ cọp sói không ăn. Than ôi, đàn bà gian dâm giết người thì
trị tội đàn bà, tới như chó gian dâm giết người thì dương gian không có hình
phạt. Người bất lương thì phạt người làm chó, tới như chó bất lương thì âm tào
phải trị tột cùng. Nên xé xác mà bắt hồn phách, xin áp giải xuống hỏi Diêm
Vương.
NGƯỜI CON GÁI TỈNH
BẮC
(Tác giả: Người Khăn
Trắng)
Vũ đến trọ học ở hàng cơm bà cụ Đỗ đã ba tháng rồi.
Nhà chật chội, mái lợp tôn nên mùa hè rất nóng nực. Nhưng Vũ không muốn tìm chỗ
trọ khác, bởi bà cụ Đỗ tính giá rẻ, phần vì mọi việc trong nhà cụ làm lấy, ít phải thuê
mượn, phần vì chính gian nhà ấy, cụ cũng không phải mất tiền thuê.
Bà cụ Đỗ hồi cư rất sớm, thấy gian nhà bị chiến
tranh tàn phá, chỉ còn trơ lại hai bức tường và một gian gác xép đằng sau, nên
dựng mái tạm trú. Mãi, chủ nhà chưa thấy về nên cụ yên chí ở, tưởng chừng như
đất của mình.
Gian gác xép ấy bỏ không. Có lẽ vì thấy có nhiều
chiếc rầm gỗ bị cháy xém, sắp rơi, trần lại nhiều chỗ nứt lở nên chẳng ai dại
gì hứng lấy tai nạn. Mùa hè đến, cùng với những kỳ thi Vũ cần phải học nhiều
lắm, nhưng không được như ý. Nhà chật chội quá. Khách ăn hàng lại thường đông,
ăn uống bi bô rầm rĩ.
Hơn nữa, mái tôn càng làm nắng hè gay gắt. Bởi vậy.
Vũ đã nghĩ nhiều đến gian gác xép bỏ hoang ấy. Một chiều chủ nhật. Vũ mượn được
thang dựng trèo lên xem. Gác tuy bỏ hoang nhưng không đến nỗi bẩn quá. Sàn vẫn
còn nguyên vẹn chỉ có nhiều bụi cát cùng một ít vôi vữa long trên trần xuống.
Tưởng cũng còn khá sạch. Riêng các cánh cửa đều đã
mất hết. Gió bên ngoài lùa vào mát rượi. Vũ suy tính nếu mình quét dọn qua loa,
mỗi buổi tối trèo lên gác xép này, thắp nến mà học rồi giải (trải) chiếu ngủ
thì tốt quá. Vừa yên tĩnh, vừa mát mẻ.
Cẩn thận Vũ hỏi qua bà cụ thì được ưng thuận ngay,
bà chỉ dặn thêm rằng:
– Nhưng cậu phải coi chừng, nhà cửa ọp ẹp lắm, khéo
mà oan giả.
Ngay buổi chiều. Vũ hì hục quét dọn. Gió lùa vào
mát rượi. Gian gác bỏ hoang đã được Vũ đặt cho cái tên văn vẻ: Nghênh Phong
Các. Mấy chồng sách, vừa để học, vừa để gối đầu, một ngọn nến, một manh chiếu
đó là tất cả đồ đạc cần thiết trong căn gác đón gió này.
Tối đến. Vũ sung sướng trèo lên gác của mình. Lại
rút luôn thang lên theo, vì e ngại mấy ông Tổng xã rượu say rồi lén phá quấy.
Thật là tĩnh mịch. Tiếng huyên náo trong hàng cơm
vẳng xa hẳn, bên ngọn lửa nến lập lòe Vũ yên chí học.
Nhưng chưa ôn bài được mấy lần. Vũ đã thiu thiu ngủ
gục. Cho đến lúc tiếng chuông đồng hồ nhà thờ dóng dả. Vũ mới choàng mở mắt.
Trời bạch nhật, có lẽ đã sáu giờ sáng.
Cây nến cháy đến gốc còn lưu lại vũng nến đọng.
Cuốn sách đêm trước vẫn còn mở ở trang học dở.
Vũ bực mình quá vì thường rất tỉnh táo, có khuya,
mệt thì đi ngủ, chứ không bao giờ ngủ gục như vậy.
Vũ cho đó là vì gác mát mẻ quá lại yên tĩnh nên dễ
làm cho người ta chợp mắt.
Đêm hôm sau. Vũ đề phòng cẩn thận. Ăn cơm xong. Vũ uống một cốc cà phê thật
đặc. Lại mang lên theo một bao thuốc lá nữa. Gió lùa mát rợi. Tiếng cười nói
vang vang xa…
Dưới ánh nến, chập chờn theo gìó. Vũ ngồi chăm chú
học, nhưng không hơn gì đêm trước chốc lát đã thiu thiu buồn ngủ. Sực nhớ. Vũ
với tay cầm lấy bao thuốc lá. Nhưng lại nghĩ: Hãy cố dùng nghị lực chống chọi
đã, cùng lắm hãy nhờ đến thuốc lá, dùng ngay e sẽ thành thói quen. Và Vũ không
bóc bao thuốc vội để bao lên chồng sách.
Nhưng chỉ một lát sau. Vũ đã ngủ gục cho tới khi tỉnh dậy thì đã thấy cây nến
hao quá nửa. Vũ giận mình vô cùng.
Vũ nhất định lấy thuốc lá để chống lại cơn buồn ngủ
lạ lùng. Nhưng bao thuốc lúc nãy để trên chồng sách đã không thấy nữa. Có lẽ
khi ngả lưng xuống, tôi đã quơ tay làm rơi bao thuốc chăng. Vũ bèn nhìn quanh
và quả nhiên thấy bao thuốc lá ở ngay sau lưng mình. Nhưng lạ thay bao thuốc lá
đã bị bốc ra tự bao giờ. Một điếu thuốc lại kéo lui ra khỏi bao chút ít như sẵn
sàng mời Vũ hút.
Vũ dụi con mắt kinh ngạc! Chàng cố nhớ lại và đinh
ninh quả quyết lúc trước chàng chưa hề bóc bao thuốc mà chỉ để bao nguyên lên
trên chồng sách. Vừa suy nghĩ Vũ vừa rút điếu thuốc ra ngậm lên môi. Ngay phía
sau Vũ, bỗng một que diêm xòe lên. Một bàn tay nhỏ nhắn, mềm mại đưa que lửa
mời Vũ châm thuốc.
Vũ hoảng hốt nhìn lại. Và thấy đó là một nữ lang rất đẹp, tuổi khoảng 16, 17. Có vẻ như một nữ học sinh.
Vũ liếc mắt nhìn cái thang tre, thấy vẫn còn để nằm
yên chỗ chân tường. Nữ lang mỉm cười và nhắc:
– Anh châm thuốc.
Tiếng nói nhẹ nhàng như gió thu Vũ ngập ngừng mãi
mới thốt ra lời:
– Cô cô đến đây? Đêm khuya…
Nữ lang ngắt lời:
– Nhà em ở gần đây. Nhân nhìn qua cửa sổ, thấy cây
nến bị anh quờ tay đổ nghiêng nên vào dựng lại. Vừa toan quay về thì anh chợt
tỉnh…
Vũ nhìn lại quả nhiên thấy trên mặt chiếu có vết
sáp nến loang. Nếu vậy. Không có nữ lang, lửa nến có thể bén dần qua chồng sách.
Nhưng Vũ vẫn tò mò muốn biết:
– Xin cảm ơn cô. Nhưng cô là…
Nữ lang mỉm cười:
– Em tên là Ngọc Bách, nhà ở cạnh đây… Nhân đêm
khuya trằn trọc không ngủ được thấy gian gác này trước bỏ không nay có ánh lửa
và bóng người nên tò mò nhìn vào… anh tha lỗi cho em nhé!
Vũ hỏi tiếp:
– Nhưng cô làm cách nào mà vào đây được?
Nàng mỉm cười:
– Anh không nên hỏi nhiều. Em là phận gái, lại chưa
hề quen anh bao giờ nên đột ngột đến đây thực quá ư trơ trẽn… Chính vì vậy mà
em không muốn nói rõ, anh biết nhiều để làm chi.
Ngừng một lát, nàng lại tiếp:
– Chúng ta quả là tình cờ gặp gỡ, thời gian họp mặt
chưa thể biết dài ngắn ra sao. Vậy tốt hơn hết là chúng ta cứ vui khi cùng nhau
gần gũi.
Vừa nói xong, nàng đến ngồi xuống chiếu sát bên
cạnh Vũ. Vốn tính người đứng đắn Vũ nghiêm sắc mặt nói:
– Trai gái gặp gỡ đêm khuya là một sự chẳng hay.
Hơn nữa, cô và tôi lại chưa hề quen biết bao giờ. Vả lại tôi đang cần yên tĩnh
để học vì kỳ thi đã tới nơi… Nếu cô có lòng mến, xin để trưa mai tôi có thì giờ
rỗi rãi tôi sẽ tiếp chuyện với cô.
Nữ lang làm ra bộ hờn dỗi. Nàng đứng dậy, liếc nhìn
chồng sách trên chiếu cười nhạt:
– Có lẽ anh tưởng chỉ có anh là học thôi ư? Và anh
tưởng những môn hình học không gian. Phân tích hóa học kia của anh là ghê gớm
lắm rồi sao? Có lẽ vì thế nên anh mới dám đem so sánh giữa Học với Tình!
Vũ sốt ruột:
– Cô muốn tranh luận gì xin cũng hãy để đến trưa
mai.
Nữ lang không nói gì hơn nữa quay ngoắt đi. Vũ xiết
nỗi ngạc nhiên khi thấy nàng không xuống lối cầu thang mà lại vượt qua cửa sổ.
Gió đêm khuya càng thêm lạnh lẽo. Vũ bất chợt thấy
rùng mình nhưng được cái không buồn ngủ nữa. Đêm ấy chàng học được kỹ càng cho
đến ba giờ sáng mới dọn dẹp đi ngủ.
Hôm sau, lúc đi học về, ngồi ăn cơm. Vũ lại lựa lời
hỏi bà cụ Đỗ. Nhưng bà cụ cho biết hai bên hàng xóm không hề có một thiếu nữ
nào. Và cả quanh đây không có cô con gái nào tên là Ngọc Bách giống như hình
dáng của lời Vũ tả. Vũ ngạc nhiên nhưng chưa nói rõ sự thực ý muốn đợi xem trưa
nay, người con gái kỳ dị ấy có đến gặp mình như lời đã yêu cầu không. Nhưng
không thấy đến.
Buổi tối hôm ấy. Vũ lại lên căn gác của mình ngồi
học. Chàng lại thấy thiu thiu buồn ngủ khi gió mát lùa vào. Tuy vậy, chàng đã
biết trước việc xảy ra nên ung dung lấy thuốc lá châm hút. Rồi ngồi đợi.
Quả nhiên, chốc lát thấy Ngọc Bách đến. Lần này, Vũ
thấy rõ ràng nàng do lối cửa sổ mà bước vào nhẹ nhàng như một cái bóng.
Ra chiều thân mật. Ngọc Bách ngồi ngay xuống cạnh
Vũ, rồi lả lơi trách:
– Em hôm nay lại hơi muộn, anh có giận không?
Vũ lặng thinh không nói, chỉ lấy sách vở ra học.
Nàng lại nhìn chăm chăm vào mặt Vũ rồi tiếp:
– Có lẽ không giận nhưng ý chừng cũng mong đợi lắm
thì phải?
Vũ thẳng lời cự:
– Hôm qua tôi đã nói với cô rằng tôi bận học thi
không tiện tiếp chuyện. Tôi đã hẹn buổi trưa muốn nói năng gì sao cô không lại?
Ngọc Bách ra vẻ phụng phịu:
– Anh tưởng con gái muốn gặp đàn ông một cách tự nhiên
lúc nào cũng được hay sao?
Anh không sợ người ta trông thấy dị nghị ư? Về phần
em thì không ngại nhưng lo cho anh bị người chế diễu.
Vũ lắc đầu:
– Tôi không sợ. Việc làm đàng hoàng chẳng sợ ai
cười hết, mặc cho có người ngờ vực nhưng lòng mình thẳng thắn thì dư luận sai
lạc ấy tôi cũng chẳng quan tâm. Tôi ngại là ngại sự đêm hôm khuya khoắt cô lại
đây, nguyên một sự gặp gỡ ấy cũng đã là bất chính rồi. Vậy mong từ sau, cô đừng
đến đây nữa, muốn hỏi gì xin đợi ban ngày.
Ngọc Bách rưng rưng ngồi khóc. Một lát sau mới nói:
– Em biết khi người con gái tự tìm đến gặp người
con trai, bao giờ cũng bị khinh rẻ.
Nhưng em dám đường đột chẳng qua là tưởng anh
khoáng đạt, không chấp nê những nhỏ nhặt thường tình. Không ngờ anh cũng chẳng
hơn gì người khác…
Vừa nói nàng vừa gục xuống gối Vũ mà khóc nức nở.
Nhưng Vũ gạt ra, nghiêm giọng bảo:
– Những lời tôi nói đã đầy đủ. Cô nên hiểu biết và
đừng quấy rầy thêm nữa!
Rồi quay sang phía khác mà ngồi học lớn tiếng làm
như không có ai ở cạnh mình. Ngọc
Bích vùng đứng dậy. Nàng biến sắc nói:
– Số anh sắp chết đến nơi, ta thương tình đến cứu
lại không biết thân, còn làm ra bộ kiêu kỳ, vậy hãy coi chừng.
Nói rồi bước ra cửa sổ biến mất.
Vũ vừa ngạc nhiên vừa bâng khuâng. Chàng không hiểu
người con gái ấy là ai, ma quỷ chăng, người thực chăng? Trước lời
dọa nạt kia chàng không sợ. Những cảnh chinh chiến đã làm cho Vũ tin tưởng ở số
mệnh. Sống, chết chẳng phải là những thứ có thể tìm hoặc tránh được dễ dàng…
Vũ vừa toan gác bỏ những ý nghĩ vẩn vơ ấy để chuyên
tâm ngồi học thì chợt cơn gió mạnh từ đâu ào ào tới làm cho ngọn nến tắt phụt.
Vũ định sờ lấy bao diêm châm nhưng không thấy. Gió như lạnh hơn lúc trước làm
cho Vũ chợt rùng mình. Ngoài trời không đến nỗi tối lắm. Những lùm cây rung
động như những bóng đen hình dáng to lớn lạ kỳ…
Giữa khung cửa sổ. Vũ bỗng thấy hiện ra một bộ
xương người trắng xóa dập dờn đi lại.
Vũ biết lời dọa nạt của người con gái kỳ dị đã thực
hiện. Đã suy nghĩ từ trước nên Vũ không lấy làm kinh hoảng. Bộ xương ấy bước
vào. Tiến đến trước mặt Vũ. Cái đầu nhe bộ răng trắng nhởn nhơ cười một cách
rùng rợn.
Vũ ráng bình tĩnh, vẫn cứ ngồi yên giả bộ học.
Thoáng cái bộ xương đã biến đâu mất. Vũ cười thầm:
– Mi dọa ai thì được, chớ dọa ta sao nổi?
Chưa dứt lời một thanh xương tay bỗng từ trên trần
nhà rơi xuống ngay trước mặt Vũ. Tiếp đó là thanh xương
mỗi chốc thêm nhiều, đến mấy chiếc xương sườn… Thấy đống xương mỗi chốc thêm
nhiều lù lù trước mặt… sẵn lọ mực trên bàn Vũ cầm ném luôn vào bộ xương. Mực đổ
tung tóe, bộ xương vụt biến mất.
Vũ tưởng vậy là yên. Không ngờ Ngọc Bách lại hiện
ra đứng cạnh chàng. Nghiêm giọng trách:
– Anh thực là tệ! Lại là người đã hấp thụ văn minh
Tây Âu sao không biết quý người phái yếu?
Vũ thẳng lời cự lại:
– Người ta chỉ có thể lịch sự đối với người lịch
sự. Quấy rầy làm mất tự do của kẻ khác, đó có phải là cách cư xử của hạng người
có giáo dục hay không?
Nữ lang không nói lại được, tần ngần đứng lặng
người, chốc lát mới thở dài. Vũ thấy sắc mặt nàng vô cùng buồn thảm cũng động
lòng, hỏi:
– Cô là ai, xin nói thật. Nếu còn giấu diếm ta
không bao giờ muốn nói chuyện.
Ngọc Bách hỏi lại:
– Nói thiệt liệu anh có khỏi sợ hay không?
Vũ cười:
– Hỏi thế là thừa, nếu là kẻ nhút nhát thì ngay từ
đêm trước tôi đã không dám lên căn gác này ngồi mà học nữa.
Nữ lang gật đầu:
– Chính đó là một điều mà em lấy làm kính phục. Em
không phải là người. Chính là ma.
Vũ thản nhiên:
– Tôi cũng đã đoán biết ngay.
Rồi Vũ lại nói:
– Thường thường tôi nghe thấy nói đến oan hồn song
chưa tin là thực: hồn ma còn ẩn hiện lẩn quất nơi đây, ý hẳn cũng có điều oan
khuất chứ chẳng không?
Ngọc Bách rơm rớm nước mắt thưa:
– Sự đời man mác nhưng nỗi oan khiên nhiều không kể
xiết, nhất là trong thời chiến tranh ly loạn này, chẳng phải là trường hợp
riêng em. Có điều kẻ chết đi dù sao cũng mong nắm xương tàn được vùi sâu chôn
chặt, thế mà em thì bộc lộ gián nhấm, chuột gặm, thê thảm vô cùng…
Vũ thấy nàng từ nãy giờ vẫn đứng trước mặt mình chứ
không dám suồng sã như trước, nên dịu dàng bảo:
– Dù sao nữa cũng xin mời cô ngồi xuống đây. Theo
luân lý Khổng Mạnh, trai gái bất tương thân nhưng trộm nghĩ: đã là âm dương
cách biệt, thì hai thế giới khác nhau chúng ta là ngay thẳng nói chuyện, tất
cũng không ai chê trách vào đâu được!
Nữ lang bùi ngùi nói:
– Nghe lời anh, em chợt nhớ đến ba em ngày xưa. Tuy
là người Tây học mà vẫn giữ được nề nếp Đông Phương, quả thực cũng là hiếm có
vậy. Càng nhớ lại trong mấy hôm nay có biết bao nhiêu cử chỉ hành động suồng
sã, thẹn chết đi một lần nữa được.
Vũ gật gù tán thưởng:
– Nghe lời, thấy rõ ràng là người có học thức. Mong
rằng đừng giấu diếm. Xin cô kể rành mạch câu chuyện từ đầu.
Ngọc Bách lau nước mắt thưa:
– Nguyên những lời vàng ngọc ấy cũng đủ an ủi em
được ngàn phần. Em tên thật là Ngọc Bách, họ Nguyễn vốn quê ở tỉnh Bắc, con của
một ông Tham tá, đã từ trần từ lúc em mới lên 15 tuổi…
Mỉm cười chua chát. Ngọc Bách lại tiếp:
– Năm nay em 18 tuổi! Nói như vậy nghĩa là: khi
chết thì em mới 18 tuổi nhưng nếu tính theo người sống, qua mấy năm tao loạn
thì hiện nay em đã ngoài 20… già mất rồi.
Vũ nghĩ thầm trong bụng:
– Khi đã là đàn bà, dù chết đi rồi, cũng vẫn còn lo
lắng đến sắc đẹp tàn phai.
Nữ lang lại kể tiếp:
– Trong gia đình, tuy em là lớn nhất nhưng vì em
theo lời trối trăn của cha em dặn lại, nhất định cho em đi học đến nơi đến
chốn. Bởi vậy. sau khi đỗ bằng cơ-thủy ở tỉnh Bắc, em được mẹ em cho về học bậc
Trung học tại Hà Nội, cẩn thận mẹ em cho em ăn trọ tại nhà bà Phán Tâm ở ngay
liền vách nhà này.
Ngừng lại giây phút. Ngọc Bách lại kể:
– Nếu không có chiến tranh thì không đâu đến nỗi…
Khi được lệnh tản cư, bà Phán cùng những trẻ nhỏ đều về quê cả, chỉ còn lại một
người con trai lớn, đi làm công sở và em cùng một người vú già ở lại. Bỗng đô
thành khói lửa mù trời, căn nhà bên cạnh này (tức là nhà em ở) bị sụp đổ. Người
vú già cũng như con trai bà Phán đều bị chết vùi trong đống gạch ngói, riêng có
em là may mắn núp dưới chân cầu thang được thoát chết. Nghe tiếng bom đạn rầm
rầm, em sợ hãi vô cùng, bò lần sang hàng xóm tức là căn nhà này, lúc đó bỏ
không vì người trong nhà đều đã tản cư từ trước. Sợ hãi, em tìm được chiếc
thang treo ẩn lên trên trần cái gác này, vì em cho đó là chỗ ẩn náu kín đáo
nhất. Thân gái trong thời binh lửa, may ra nhờ đó mà được an toàn chăng. Thường
lệ, mỗi khi tìm kiếm thức ăn, nước uống đầy đủ rồi thì em lại trèo lên trần nhà
và rút thang lên theo. Em có ngờ đâu chính gian nhà này cũng bị sụp đổ, chiếc
thang em vừa trèo lên bị rơi xuống. Thế là bỗng dưng bị giam trọn trên trần gác
với một số lượng thức ăn đủ chừng ba ngày. Em chỉ còn một hy vọng có thấy bóng
người nào thì kêu cứu, không những trong lúc khói lửa tơi bời, ai cũng lo lẫn
trốn nên em ngồi yên trên trần đã bốn ngày liền mà cũng không hề thấy có một
bóng người nào… Vừa đói và khát em đành phải chịu cực hình giống hệt như người
bị lạc giữa nơi sa mạc. Cho đến khi sức một yếu dần em thở hơi cuối cùng, thiệt
oan một đời xuân xanh đầy hứa hẹn.
Vũ nói tiếp:
– Rồi sao nữa, xin cô cứ kể tiếp cho tôi nghe!
Ngọc Bách thở dài:
– Rồi ngày tháng trôi qua. Cảnh đô thành dần dần trở
lại đông đúc, vui vẻ hơn xưa.
Riêng có tấm oan hồn của em vẫn bị ngậm ngùi, đáng
thương hại nhất là một nắm xương tàn rụi vẫn bị bộc lộ trên trần nhà này làm mồi
cho gián, chuột.
Vũ ngắt lời:
– Nhưng tại sao thấy tôi lên học trên đây cô lại
hiện hình bỡn cợt? Hồn oan đau tủi, há lại còn ưa thích những chuyện cợt đùa…
Ngọc Bách rơm rớm nước mắt:
– Anh quở trách như vậy em xin nhận lỗi nhưng chỉ
vì em ngu muội, lóng nghe thấy bọn yêu quái thường bàn nhau rằng nếu chúng tìm
được người thế mạng thì sẽ được đầu thai thành kiếp khác! Thoạt đầu thấy anh
lên học trên căn gác trống này em dùng tà khí làm cho tinh thần anh bị hôn
quyện, rồi sau đó định hiện nguyên hình người con gái đẹp để nhờ nhan sắc mà
quyến rũ anh. Nhưng anh không hề vì sắc đẹp mà động tâm. Em lại định tác quái
để cho sợ hãi… nhưng kết cục cũng bị thất bạị… Em thực đã đắc tội với anh nhiều
lắm.
Vũ ngắt lời hỏi:
– Bây giờ cô muốn gì?
Ngọc Bách gạt nước mắt, thưa:
– Em chỉ mong anh vì thương người bạc phận ra tay
tế độ, chôn cất cho yên đẹp nắm xương tàn của em mà thôi. Như vậy em không còn
phải oán hận gì nữa…
Vũ nhận lời, Ngọc Bách sụp lạy tạ ơn nhưng Vũ giục
nàng hãy ra đi vì âm dương cách biệt, lần lữa lâu dài. Cũng e hại cho cả đôi
bên.
Ngay sáng hôm sau. Vũ hỏi thăm những người ở gần
đấy họ đều nhận rằng có thực, tại nhà bà Phán Tâm khi xưa có cô con gái tỉnh
Bắc trọ học nhưng hình như đã thiệt mạng trong những ngày khói lửa đô thành. Vũ
lại tìm thang trèo lên trên trần nhà lục lạo khắp nơi, quả nhiên có một đống
xương người, nhện chăng, bụi phủ, riêng lạ một điều là có mấy khúc xương rõ
ràng có vấy mực. Sau khi tìm được xương cốt của cô gái Vũ bèn nhờ người chôn
cất cho đúng lời hẹn với hồn ai!
THỢ BẠC HỌ QUÁCH
(Tác giả: Bồ Tùng Linh)
Phía đông chợ Lư Túc ở Viên Châu có người thợ bạc
họ Quách, hơn ba mươi tuổi vẫn ở một mình. Phía tây chợ có bà già bán hoa,
thường ghé Quách mua các thứ vòng nhẫn. Con gái bà già khoảng mười lăm mười sáu
tuổi, một buổi tối tới nhà Quách nói "Xin làm vợ chàng". Quách hoảng
sợ, cô gái nói “Thiếp hâm mộ chàng đã lâu, nay tìm được kế thoát thân, xin đừng
nghi ngờ”. Quách hỏi duyên cớ, nói “Vừa rồi giả chết, mẹ liệm thiếp vào quan
tài, thiếp mở nắp quan tài bước ra rồi đậy lại. Mẹ đã đem quan tài rỗng đi chôn
rồi, không tìm thiếp nữa đâu!”. Quách đưa nàng vào phòng kín, bảo đừng ra
ngoài. Hơn một tháng, người mẹ ngẫu nhiên tới chỗ Quách, gặp lúc Quách đi vắng,
nhìn vào trong thấy đôi hài đỏ của con gái lúc liệm trong nhà, bèn xô cửa vào
lấy, rồi gọi hàng xóm nói “Quách Mỗ đào mộ con gái ta”. Quách về, nghe hàng xóm
kể lại cả sợ. Cô gái nói “Mẹ tới bất ngờ nên thiếp vội tránh đi, để quên đôi
giày. Ta cứ tạm tránh đi, chàng đừng lo”. Cô gái đi, Quách bèn trốn tới Đàm
Châu.
Đi được hơn mười dặm, cô gái đuổi tới, cùng tới Đàm
Châu, lâu ngày hết tiền. Cô gái nóí “Thiếp giỏi hát điệu Cung xướng, chắc chắn
có người thưởng thức". Bèn mở ca trường sau phường Bình Lý, giọng ca át
mây, người xem đông nghẹt. Mỗi ngày bán được mấy trăm vé, những nhà phú hào
tranh nhau mời tới, đều trả bằng trâm thoa vàng. Hơn một năm, dành dụm được
hàng vạn. Một hôm có đạo nhân đội giốc cân, thân cao chín thước, vỗ vai Quách
nói “Hàng ngàn hàng vạn con người lại đi xem con rối ma này!”. Quách tỉnh ngộ,
kéo tới chỗ vắng, lạy xin cứu giúp. Đạo nhân bảo tới cầu khẩn ở miếu Nam Nhạc.
Quách tới miếu vái lạy, đến canh hai, thấy cô gái đeo gông bị kéo nhanh vào,
tới hậu cung miếu Nam Nhạc đột nhiên ngã vật ra, thì là một cái xác, mới biết
là ma nhập vào xác cô gái. Bèn dốc hết tiền bạc sữa miếu để chuộc tội cho cô
gái, dùng hậu lễ hỏa thiêu cái xác. Đêm mơ thấy cô gái tới cảm tạ, khóc lóc từ
biệt rồi đi.
HỒN MA CÔ ĐÀO HÁT
(Tác giả: Người Khăn
Trắng)
Gánh hát Trăng Non vừa dọn đến rạp thì trời đổ cơn
mưa lớn chưa từng thấy ở xứ Ngã Năm này. Ông bầu Ngọc là người rầu thúi ruột,
nhìn mưa rơi như trút nước bên ngoài, lòng ông tê tái, thở dài:
– Cái kiểu này thì… húp cháo nữa rồi!
Những nhân viên trong đoàn cũng cùng tâm trạng, họ
bồn chồn hỏi nhau:
– Chiều nay lấy gì nấu ăn đây?
Nghe họ nhắc, bầu Ngọc chợt nhớ là gạo nấu ăn tập
thể đã hết. Tiền chợ cũng đã cạn từ chiều hôm qua, theo dự tính thì ngay sáng
nay khi gánh dọn đến thì sẽ cho bán vé ngay, lấy tiền đó để đi chợ. Mà như thế
này thì…
Tuy nhiên, với kinh nghiệm hơn mười năm đi hát, ông
bầu vẫn lên tiếng an ủi anh em:
– Mưa lớn thế này thì sẽ mau tạnh. Chúng ta cứ
chuẩn bị dượt lại tuồng, còn bộ phận quảng cáo thì chuẩn bị để khi trời ngớt
mưa thì đánh trống, phát loa ngay, để khán giả biết. Nhớ nhấn mạnh là đợt này
chúng ta có tuồng mới, lại có thêm đào kép ở gánh lớn chuyển về. Tôi biết khán
giả xứ này nhiệt tình lắm, mà mùa vụ này họ lại mới vừa trúng lớn nữa.
Anh em trong đoàn ai cũng hy vọng lời động viên đó
là sự thật, nên cùng lao vào công việc chuẩn bị. Một nhạc công lớn tuổi bảo cô
đào mới Phi Phụng:
– Người ta nói tổ thường đãi người mới, vậy Phi
Phụng hãy thắp nhang vái tổ và cầu thổ địa, thổ thần ở đây, xin được phù hộ.
Phi Phụng nghe lời, thành kính cúng vái. Đến mười
một giờ thì mưa đột ngột ngừng, trong lúc mây đen còn đen bốn phía. Bầu Ngọc
mừng quá:
– Trời còn thương chúng ta mà!
Thế là các bộ phận trong đoàn phấn khởi lao vào
công việc. Loa lập tức phát vang, quảng cáo cho đoàn hát Trăng Non. Sắc mặt mọi
người trong đoàn đều rạng rỡ. Cô đào Phi Phụng nghĩ là tổ đãi mình thật, nên
chấp tay thầm khấn và cám ơn người khuất mày khuất mặt và sau đó cô tìm bầu
gánh nói lời cám ơn ông đã ưu ái dành cho cô vai diễn lần này, để cô có dịp ra
mắt bà con nơi chôn nhau cắt rốn. Bởi quê hương của Phi Phụng chính là vùng Ngã
Năm này.
Ngay lúc ấy, chợt từ phòng thay quần áo của
các nữ diễn viên có tiếng ngã đổ rất lớn. Ai
nấy hoảng hốt chạy vào thì trong phòng không có ai, cũng chẳng có gì ngã đổ, mà
chỉ có một dòng chữ bằng sơn đỏ của ai đó mới viết trên nắp rương quần áo của
Phi Phụng. Người ta đọc được dòng chữ một cách dễ dàng: CẢNH CÁO CON PHI PHỤNG,
NẾU MÀY LÉNG PHÉNG VỚI THẰNG BẦU GÁNH THÌ COI CHỪNG HỘC MÁU NGAY!
Mọi người nghi ngờ, đưa mắt nhìn nhau. Còn bầu Ngọc
thì lên tiếng như vừa đính chánh, vừa dò xem ai là người viết:
– Chuyện bậy bạ như vầy mà cũng nói được hả? Ai là
người mới viết những chữ này?
Cô đào già Ngọc Nga là người lớn tuổi nhất trong
giàn đào, cũng là người được nể trọng trong đoàn quả quyết:
– Trong đoàn không ai có ý nghĩ bậy bạ này. Mà nhìn
tuồng chữ cũng như màu son để viết, thì dứt khoát trong gánh mình không ai là
tác giả. Mấy người xem, chữ viết rất đẹp, lại viết bằng thứ sơn mà trong đoàn mình làm gì có!
Có ai đó nói khẽ:
– Coi mấy ông thợ vẽ quảng cáo coi…
Nhưng cô đào Ngọc Nga cũng bác ngay:
– Mấy ông thợ vẽ trong đoàn vẽ bằng màu bột pha
nước đã bôi xóa, còn đây là sơn dầu, mà chữ con gái, còn đám thợ vẽ của mình
toàn là nam…
Phi Phụng vì mắc cỡ nên ôm mặt khóc nức nở, làm cho
bầu Ngọc cũng áy náy:
– Ai mà ác nhơn như vậy có phải là giết con nhỏ
không. Tui coi Phi Phụng như em cháu, ai đi làm chuyện bất nhơn đó…
Thật ra mọi người trong đoàn đều có chung ý nghĩ là
bầu gánh và Phi Phụng chưa hề có gì với nhau. Nhưng chuyện đời mà…
Buổi hát may mắn được diễn ra suôn sẻ. Nhờ trời hết
mưa sớm và cũng nhờ khán giả tò mò kéo tới ủng hộ giàn đào kép mới, cho nên mới
sáu giờ chiều thì vé đã bán được trên phân nửa rạp. Như vậy là thành công rồi!
Bầu Ngọc phấn khởi quá tuyên bố:
– Nếu đêm mai cũng được như vầy tui sẽ thưởng cho
mỗi người một ngày lương!
Buổi diễn còn nửa giờ nữa sẽ bắt đầu. Bộ phận lo kê
ghế trong rạp khi bật đèn để chuẩn bị thì tá hỏa lên khi thấy tất cả các dãy
ghế đều lật nghiêng, ngã ngửa, nhiều cái chồng lên nhau như sau một trận động
đất!
Chỉ có ba người trong bộ phận này, nên nhìn cảnh
tượng đó họ chỉ biết dậm chân kêu trời:
– Chết rồi, làm sao dọn cho kịp giờ diễn.
Bầu Ngọc nghe báo cũng bước ra xem, ông tái mặt:
– Ai làm chuyện này vậy? Chắc chắn có kẻ muốn phá
chúng ta.
Nhưng soát qua một lượt, chẳng có ai khả nghi, nên
ông bầu chỉ còn biết hô hào mọi người trong đoàn, chỉ trừ đào kép đang hóa
trang chuẩn bị ra diễn, còn tất cả đều phải tiếp tay nhau, cùng xếp lại băng,
ghế. Cho đến sát giờ diễn thì công việc cũng tạm xong.
Tuy nhiên, khi xướng ngôn viên vừa giới thiệu xong
nội dung buổi diễn và cám ơn khán giả, thì một tin sét đánh lại tới: Đào chánh
Phi Phụng tự dưng lăn đùng ra, miệng trào máu tươi trông thật khủng khiếp!
Cũng may màn đầu chỉ là hoạt cảnh của các vai phụ
và hài, nên buổi hát cũng phải mở màn cho đúng giờ. Bầu Ngọc sốt vó, giục mọi
người:
– Mau tìm cách cứu tỉnh cô ta đi!
Nhưng thầy tuồng lắc đầu ngao ngán:
– Cổ ngất rồi thì còn cứu cái gì nữa phải đưa đi
nhà thương ngay thôi!
Trong khi vài người cõng Phi Phụng ra ngoài đưa đi
bệnh viện thì bầu Ngọc như ngồi trên lửa:
– Chết rồi, đâu có ai đóng thay Phi Phụng!
Chợt có cô đào phụ, tuổi cỡ Phi Phụng, lên tiếng:
– Để tui đóng thế cho!
Chính ông thầy tuồng cũng lắc đầu:
– Đây là vai chánh, mày thì chưa tập tuồng ngày nào
thì diễn làm sao được mà đòi thay với thế! Kiểu này phải ra cáo lỗi với khán
giả thôi ông bầu ơi!
Nhưng cô đào phụ Yến Oanh vẫn cương quyết:
– Tui nói đóng được thì cứ tin tui đi. Hãy lấy
trang phục của đào chánh ra đây!
Nhìn sắc vóc của cô ta cũng không thua gì Phi
Phụng, mà lại thấy cô ta nói cứng, nên bầu gánh đành phải gật đầu:
– Biết sao bây giờ…
Trong lúc ông thầy tuồng đứng ngồi không yên thì cô
đào phụ Yến Oanh chừng như không hề lo lắng, cô còn nhắc ông:
– Tới đoạn người con gái trao quạt tặng người yêu
ông nhớ lấy cây quạt thờ trên bàn thờ tổ đưa cho tôi nghe chưa!
Cái giọng ra lệnh đó ngay như ông bầu gánh còn
không dám, chớ đừng nói là cô ta, vậy mà xem ra ông thầy tuồng không có phản
ứng gì, lại còn giục mọi người đi lấy cây quạt.
Đến lúc này thì ông bầu Ngọc mới ngăn lại:
– Đó là vật thờ tổ, sao lấy được?
Vừa nghe vậy cô Yến Oanh đã quay lại cự liền:
– Tui nói được, ai dám cãi!
Lạ thường thay, sau câu nói đó thì cả bầu gánh cũng
im re, thậm chí không dám lắc đầu. Vừa lúc đó tới màn của vai chánh.
Yến Oanh tự tin bước ra sân khấu. Và trước sự ngạc
nhiên của cả đoàn đang núp trong cánh gà, cô ta bắt đầu bằng một lớp đối đáp
với nam chánh thật sôi nổi và trơn tru. Trơn tru đến nỗi ai nấy đều kinh ngạc,
tưởng chừng như đó là… đào chánh Phi Phụng!
Trong rạp từng tràng pháo tay nổi lên khi Yến Oanh
bắt đầu vô vọng cổ. Có thể nói về giọng ca thì cô này còn hay hơn cả Phi Phụng.
Bên cánh gà chính thầy tuồng cũng phải thốt lên:
– Trời đất ơi, nó ca còn ngọt hơn Phi Phụng và
giống y như… Phượng Thúy ngày nào!
Vài người khác cũng thốt như vậy:
– Phượng Thúy!
Dưới hàng ghế khán giả, ngoài vỗ tay cuồng nhiệt,
nhiều người còn la lớn:
– Cô Phượng Thúy tái sinh!
Tất nhiên là bầu gánh nghe rõ hơn ai hết, nhưng lúc
đó quai hàm ông ta đang bị cứng lại, người lạnh toát mồ hôi!
– Kìa ông bầu, ông có được viên ngọc quý rồi đó!
Nhưng khi nhìn lại bầu Ngọc thì họ hoảng hốt, bởi
lúc ấy ông bầu đã quỵ ngã xuống chân cánh gà, hơi thở gấp như đang bị ai đó bóp
cổ!
– Ông bầu! Ông bầu!
Mấy người cùng xúm lại cứu chữa, nhưng không hiệu
quả gì, cuối cùng lại phải đưa ra bệnh viện.
Còn ở rạp thì khỏi phải nói, khán giả được một bữa
đầy ngạc nhiên, hứng thú trước giọng ca mà họ cho là giọng ca vàng. Theo họ thì
từ khi cô đào Phượng Thúy chết đi đến nay đã hơn sáu năm, thì chưa có ai ca
diễn hay như cô đào nhỏ tuổi này.
Tan buổi hát, thiên hạ còn tụm năm tụm ba trước cửa
rạp để bàn tán. Vài người nhìn lên bảng quảng cáo tên tuổi diễn viên đã không
khỏi ngạc nhiên khi không thấy tên tuổi của Yến Oanh, chỉ có tên Phi Phụng.
Trước khi ra về họ còn hẹn nhau:
– Ngày mai ra coi nữa!
Nửa đêm hôm đó, tại bệnh viện…
Lúc bầu Ngọc vừa tỉnh lại thì vô cùng ngạc nhiên
khi người nằm giường gần đó nói:
– Có cô nào đó đẹp lắm vừa tới đây gởi cho ông cái
này.
Bầu Ngọc cầm xem thì thấy đó là chiếc quạt trên bàn
thờ tổ! Có dòng chữ ghi trên cán quạt: Cây quạt này là của ai, nhớ không? Nếu
nhớ thì từ nay chỉ để yên trên bàn thờ, không ai được đụng tới, ngoại trừ
Phượng Thúy!
Mới vừa hồi tỉnh sau cả giờ mê man, mà vừa đọc dòng
chữ đó, bầu Ngọc phát mệt trở lại, tinh thần như bị hoảng loạn. Lát sau ông mới
hỏi người bên cạnh:
– Cô ta… vô đây có nói gì nữa không?
Người kia lắc đầu:
– Chỉ nói đúng một câu lúc nãy, còn thì đứng nhìn
ông một lúc và nhếch miệng cười rồi bước ra. Ở bên phòng bệnh của Phi Phụng thì
chính bà lao công đang chăm sóc cho cô đào, sau lúc nửa đêm một chút, đã sững
sờ khi thấy có một người mặc áo dài đen, đầu choàng chiếc khăn giống như khăn
diễn trên sân khấu, bước vô phòng rồi đứng nhìn.
Sau đó người ấy đưa tay lột chiếc khăn choàng ra…
– Cô… cô Phượng Thúy.
Phượng Thúy vốn là đào chánh của gánh Trăng Non từ
hơn chục năm trước, do đó không một ai trong đoàn là không quen mặt. Thậm chí
còn biết rõ cả dáng đi, giọng nói, tiếng cười của cô. Cho nên nhìn người trước
mặt, dù đã cách xa ngót bảy năm kể từ ngày cô chết đi do một tai nạn, nhưng chị
lao công cũng không thể nhìn lầm. Chị lặp lại lần nữa:
– Cô Phượng Thúy còn nhớ tui không? Tui là Năm Lài
nè!
Nhưng trước sau gì người đứng kia vẫn im lặng, mắt
thì nhìn chòng chọc vào chỗ Phi Phụng nằm. Chị Năm Lài chợt hiểu, bắt rùng
mình:
– Cô… cô Phụng đang còn mê man… xin cô…
Phượng Thúy chợt phá lên cười, giọng cười nghe lạnh
cả người, làm cho những người ở phòng bên cạnh cũng giựt mình. Chị lao công hơi
run vì sợ, nhưng dường như hai chân đã mềm nhũn, không nhúc nhích được, đành
ngồi im.
Phượng Thúy bước tới gần bên giường bệnh nhân, rồi
bất thần vung tay lên, chụp xuống ngay giữa ngực Phi Phụng. Không nghe tiếng
kêu la nào hết, cùng lúc Phượng Thúy quay bước ra cửa, mất dạng…
Đến lúc này Năm Lài mới hoàn hồn, chạy lại chỗ Phi
Phụng, cứ sợ cô ta bị nguy sau cú chụp vừa rồi. Tuy nhiên, trước sự ngạc nhiên
của chị, Phi Phụng bật ngồi dậy, người tỉnh táo như lúc chưa bệnh, lại cất
tiếng hỏi:
– Chị ấy đi rồi hả?
– Cô nói ai?
– Chị Phượng Thúy!
– Lúc nãy cô biết?
Phi Phụng thuật chuyện:
– Tui thấy rõ chị ấy đến bên tôi và nói rằng đáng
lẽ chị ấy đã giết tôi, bởi tôi dan díu với ông bầu, nhưng nghĩ lại thấy tôi chỉ
là nạn nhân, nên tha cho. Chị nói chỉ trị tội ông bầu thôi…
Năm Lài nhẹ thở dài, nói chỉ mình Phi Phụng nghe:
– Chị đã theo gánh này từ hồi ông bầu Ngọc còn là
kép phụ của đoàn. Khi ấy cô Phượng
Thúy là đào chánh, được mọi người ái mộ theo đuổi,
trong đó có anh kép Thế Ngọc mà bây giờ là bầu Ngọc, nhưng cô Thúy chỉ thương
có mỗi anh kép chánh Trọng Tài. Ỷ mình có gia đình giàu có hơn, nên Thế Ngọc
bắt ép Phượng Thúy phải yêu mình, nếu không sẽ nói với cha mình, lúc đó là bầu
gánh, sẽ sa thải ngay! Dĩ nhiên là cô Thúy cự tuyệt và vì vậy…
Chị ta kể tới đó thì ngừng lại, tỏ vẻ ái ngại,
không dám nói nữa… Phi Phụng phải năn nỉ:
– Chị làm ơn nói cho em nghe đi, em muốn biết để
còn tránh những sai lầm…
Năm Lài ngập ngừng một lúc rồi tiếp:
– Một đêm mưa gió lớn, khi vừa dứt buổi hát, cô
Phượng Thúy vội vã che dù đi ra ngoài, mà ai cũng biết là cô đi hẹn với kép
Trọng Tài, mà chỗ hẹn của họ là ở bên kia sông.
Khoảng vài giờ sau đó, có người chạy về đoàn báo
tin rằng chiếc xuồng mà cô Phượng Thúy đi qua sông đã chìm ở giữa dòng! Người
ta tức tốc bơi xuồng ra, rọi đèn tìm kiếm, nhưng không thấy Phượng Thúy đâu.
Qua ngày hôm sau thì mới vớt được xác cô Thúy lên và người ta phát hiện chiếc
xuồng Phượng Thúy thường dùng đã bị thủng một lỗ lớn ở phía sau lái. Đã có
nhiều nghi vấn về chuyện chiếc xuồng lủng, nhưng rồi mọi việc cũng trôi qua, do
ông bầu gánh không muốn làm lùm xùm sẽ có ảnh hưởng đến đoàn hát.
– Vậy sao từ lúc em vô đoàn đến nay không hề nghe
ai nhắc tới tên cô Phượng Thúy?
Năm Lài nói khẽ hơn:
– Ông bầu cấm, nên đâu ai dám nhắc.
Phi Phụng ngạc nhiên:
– Sao lại cấm? Hay là giữa họ đã có…
Năm Lài đưa tay bụm miệng Phụng mà không kịp, nên
lo lắng:
– Em còn muốn yên thân thì đừng có nói lôi thôi
nữa. Mình còn theo nghề này thì chỉ muốn sao có được miếng cơm…
– Nhưng…
– Chị đã nói rồi mà! Theo chị, em được hồn cô
Phượng Thúy nói như vậy là em không sao rồi. Nè, em biết không nghe nói mấy
người sống chết oan thường linh lắm, họ mà trả thù thì…
Chị ta ngừng lại, suy nghĩ gì đó một chút rồi mới
tiếp, vẻ nghiêm trọng hơn:
– Chị nhớ ra rồi, lâu nay, có đến sáu bảy năm rồi,
kể từ ngày kép Thế Ngọc lên thay cha làm bầu gánh thì chưa bao giờ đưa đoàn về
diễn ở đây, không hiểu sao lần này ổng lại…
Phi Phụng thắc mắc:
– Sao vậy? Xứ này thích coi hát lắm mà?
Năm Lài chứng tỏ mình rành nhiều chuyện, nên lại
không giữ miệng được:
– Chị không giấu em, chính nơi đây, ở con sông này
là nơi Phượng Thúy đã bị chìm ghe chết. Từ nào đến giờ đoàn không về đây thì
không có chuyện. Nay vừa mới về đã xảy ra rắc rối thế này. Đúng hồn ma cô
Phượng Thúy đã kiên nhẫn chờ bao lâu nay để trả thù đây mà!
Rạng sáng hôm sau thì người trong bệnh viện phát
hiện bầu Ngọc trốn đi đâu mất. Ông ta không trở về đoàn sau khi tỉnh lại, mà
lại một mình bơi xuồng ra giữa dòng sông và… gieo mình xuống đó! Dẫu là người
biết bơi, nhưng chẳng hiểu sao ông bầu lại chìm sâu rồi không trồi lên… Cho đến
hai ngày sau người ta vớt được xác ông ngay tại nơi Phượng Thúy được vớt ngày
trước. Oan oan tương báo chăng? Cả đoàn hát rúng động, tính nghỉ hát sau cái
chết của ông bầu, tuy nhiên chính cô đào đóng thế vai Yến Oanh lại quyết định:
– Ta phải tự cứu mình bằng cách tiếp tục diễn sẽ có
vong hồn cô Phượng Thúy giúp đỡ, lo gì…
Nghe kỹ ra thì giọng nói của Yến Oanh lúc ấy không
phải là chính giọng của cô, mà là của… Phượng Thúy! Cô đào Chánh đã nhập vào
Yến Oanh để gián tiếp lèo lái đoàn hát. Và cũng chính cô mấy đêm trước đã ứng
vào để Yến Oanh diễn xuất thần vai chính bất đắc dĩ!
Gánh hát Trăng Non vẫn tiếp tục sống với hình thức
tập thể. Người nhà của bầu Ngọc được chia phần sòng phẳng, số còn lại anh chị
em trong đoàn chia nhau. Nhờ vậy cuộc sống của họ được khấm khá hơn, không khí
trong đoàn hòa đồng, vui vẻ hơn trước rất nhiều. Ở hậu trường đoàn hát lúc nào
cũng có bàn thờ cô đào Phượng Thúy với khói hương không lúc nào ngưng…
DƯƠNG NHỊ LANG
(Tác giả: Bồ Tùng Linh)
Dương Nhị Lang người Kiến Khang, đem vốn đi buôn
bán ở Nam Hải, đi về hơn mười năm, giàu có ngàn vạn. Trong niên hiệu Thuận Trị,
gặp cướp ở Ba Trung, cả đoàn bị hại. Dương rơi xuống nước trước nên thoát thân.
Gặp một cây gỗ, bèn ôm lấy cùng trôi nổi, qua hai ngày dạt vào một hòn đảo bèn
lên bờ, dò dẫm đi tới một cái hang. Đàn ông đàn bà trong đó xúm lại nhìn, phần
nhiều đều trần truồng, mà âm thanh có thể hiểu được. Có người đàn bà tự xưng là
Quỷ mẫu, thị vệ rất đông, ngạc nhiên nói “Ở đây tựa hồ có mùi người sống",
sai a hoàn khám xét, thấy Dương Nhị Lang, bèn báo với Quỷ mẫu. Sai dẫn tới
trước mặt, hỏi “Ngươi có nguyện ý ở lại đây không?", Dương nghĩ không có
cách nào thoát thân, cứ tạm ủy khúc để sống, bèn ứng tiếng đáp “Xin ở lại”. Quỷ
mẫu liền bảo a hoàn làm một gian phòng, cho hai người làm vợ chồng, suốt hơn
hai năm ăn uống đi lại giống hệt cõi trần.
Có tên lính đưa thư tới, nói "Chân tiên mời
Quỷ mẫu, xin tới Quỳnh thất". Từ đó cứ mười ngày hoặc một tháng lại đi,
mọi người đều theo. Nhị Lang một mình ở lại trong hang, một hôm xin đi theo.
Quỷ mẫu nói "Ngươi là phận người phàm, làm sao đi được?”. Nhị Lang cứ nài
nỉ, Quỷ mẫu chợt ưng thuận. Thấy dưới chân nhẹ nhàng như cưỡi mây, tới một nơi
quán vũ, yến tiệc thịnh soạn âm nhạc rộn rã. Những người tới đều theo chỗ mà
ngồi, Quỷ mẫu bảo Tiểu Dương nằm phục dưới tấm khăn bàn, dặn nín thở đừng động
đậy. Tiệc xong thấy đốt giấy tiền vàng bạc, kế nghe tiếng khóc, lắng nghe thì
là vợ con họ hàng của mình. Dương từ dưới gầm bàn bước ra, gọi tên người nhà,
mọi người đều cho là ma xúm vào chửi mắng. Chỉ có người vợ khóc nói “Ngươi chết
trên biển, lâu quá không có tin tức, lúc bấy giờ phát tang, chiêu hồn xem bói,
hôm nay là ngày trừ phục, nên lập thủy lục đạo tràng để cúng tế, sao lại ở đây,
chẳng lẽ lại là hồn ma dữ nhập vào sao”. Dương nói “Ta là người thật”, nhân kể
lại duyên do, người nhà mới tin thật. Quỷ mẫu ở ngoài vẫy gọi không thấy ra,
nổi giận chửi mắng, nhưng không thể vào gần, giây lát bỏ đi. Vợ Dương mời thầy
thuốc dùng thuốc điều hòa bổi bổ, qua mấy năm, diện mạo dáng vẻ mới trở lại như
thường.
HỒN
MA CÔ ĐÀO HÁT
Chịu trách nhiệm xuất bản:
BÙI
CAO TIÊU
Biên tập:
NGUYỄN CẨM HƯƠNG
Sửa bản in: GIANG MINH TRƯỞNG
Trình bày bìa: SONG THÀNH
In 1.200 cuốn khổ 13x19cm, tại Xưởng in NXBGTVT
Số trích
ngang xuất bản: 379-2009/CXB/27-53/ThaH,
In xong và
nộp lưu chiểu Quý III năm 2010
.............................................................................................................
- Cập
nhật theo bản lưu trữ tại tại Công ty TNHH Văn Hóa Bảo Thắng.
- Vui
lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét