KHI NGƯỜI
CHẾT TRỞ VỀ
*
PHẠM TỬ HƯ LÊN CHƠI
THIÊN TÀO
(Tác giả: Nguyễn Dữ)
Phạm Tử Hư quê ở Cẩm Giàng, là một người tuấn sảng
hào mại không ưa kiềm thúc. Theo học nhà xử sĩ Dương Trạm; Trạm thường răn Tử
Hư về cái tính hay kiêu căng. Từ đấy chàng cố sức sửa đổi, trở nên người có đức
tính tốt.
Khi Dương Trạm chết, các học trò đều tản đi cả, duy
Tử Hư làm lều ở mả để chầu chực, sau ba năm rồi mới trở về.
Năm 40 tuổi, Tử Hư đi thi vẫn chưa đỗ, đời Trần,
sang du học ở kinh, ngụ ở trong một nhà dân bên bờ hồ Tây.
Một buổi sáng, ở nhà trọ đi ra, trong áng sương mù
thấy có một đám những tán vàng kiệu ngọc bay lên trên không; kế lại có một cỗ
xe nạm hạt châu, kẻ theo hầu cũng rất chững chạc. Tử Hư khẽ dòm trộm xem thì
người ngồi trong xe, chính thầy học mình là Dương Trạm. Chàng toan đến gần sụp
lạy nhưng Trạm xua tay nói:
- Giữa đường không phải chỗ nói chuyện, tối mai nên
đến đền Trấn Vũ cửa Bắc, thầy trò ta sẽ hàn huyên
Một hôm Tử Hư bèn sắm rượu và thức nhắm, đúng hẹn
mà đến. Thầy trò gặp nhau vui vẻ lắm, chàng nhân hỏi rằng:
- Thầy mới từ trần chưa bao lâu, thoắt đã trở nên
hiển hách khác hẳn ngày trước, xin thầy cho biết rõ duyên do để con được vui
mừng.
Dương Trạm nói:
- Ta thuở sống không có một điều thiện nào đáng
khen, chỉ có hay giữ điều tín thực đối với thầy bạn, quý trọng những tờ giấy có
chữ, hễ thấy rơi vãi liền nhặt mà đốt đi. Đức Đế quân đây ngài khen là có bụng
tốt tâu xin cho làm chức trực lại ở cửa Tử đồng. Hôm qua ta hầu lính giá ngài
lên chầu Thiên cung, tình cờ lại gặp nhà ngươi, đó cũng là vì thầy trò mình có
cái mối duyên.
Tử Hư nói:
- Thầy được lĩnh chức trọng quyền cao như vậy,
chẳng hay sự sống chết thọ yểu của con, thầy có được rõ không?
- Việc đó không phải thuộc về chức vụ của ta.
- Vậy thế thầy giữ về việc gì?
- Ta trông coi về việc văn chương thi cử, khoa danh
cao thấp của những học trò trong thiên hạ.
Tử Hư mừng mà rằng:
- Nếu thế thì tiền trình của con cùng đạt thế nào
chắc thầy biết rõ?
- Cứ như văn chương tài nghệ của anh, đương đời này
không ai bì kịp, huống anh lại còn có tính trung hậu thành thực; có điều lúc
thiếu thời thường lấy văn tài mà kiêu ngạo với người khác, cho nên trời mới bắt
đỗ muộn để phải chùn nhụt cài nết ngông ngáo đi. Nếu không thì cướp thẻ trước
của Mông Chính, lặt cỏ rác của Hạ Hầu phỏng anh còn khó khăn gì nữa. Cho nên
xưa nay người ta bàn về kẻ sĩ, tất trước hết xét đến đức hạnh là vì thế. Ngày
nay những người mặc áo nhà nho, đeo dải nhà nho thì lại khác hẳn. Họ thường đổi
họ để đi học, thay tên để đi thi; hễ trượt đỗ thì đổ lỗi mờ quáng cho quan chấm
trường, hơi thành danh thì hợm mình tài giỏi hơn cả tiền bối, chí khí ngông
ngáo, tính tình tráo trở, thấy thầy nghèo thì lảng tránh, gặp bạn nghèo thì làm
ngơ, không biết rằng ngày thường dắt dẫn rèn cặp phần nhiều là cái công đức của
thầy bạn. Vả như ta ngày xưa, dạy có đến mấy nghìn học trò, giao du ở kinh đô
rất nhiều bè bạn thế mà sau ta mất, nghe có người đai vàng, mũ bạc, có người
quan cả ngôi cao, nhưng không hề một ai tìm đến thăm viếng mồ ta mà tưới lên
một vài chén rượu. Nhân thế ta vẫn để ý đến anh lắm.
Tử Hư nhân đem những người làm quan bấy giờ, nhất
nhất hỏi về từng người một:
- Thưa thầy, ông mỗ ở ngôi trọng thần mà tham lam
không chán, ông mỗ làm chức sư tư mà mô phạm không đủ, ông mỗ coi lễ mà lễ nhiều
thiếu thốn, ông mỗ chăn dân mà dân bị tai hại, ông mỗ chấm văn mà lấy đỗ thiên
vị, ông mỗ trị ngục mà buộc tội oan uổng; lại còn những người lúc thường bàn
nói thì môi mép bẻo lẻo, đến lúc trù tính, quyết định kế lớn của quốc gia thì
mờ mịt như ngồi trong đám mây mù, thậm đến không nói theo danh, không xét theo
thực, không trung với đấng quân thượng, lớn thì làm việc bán nước của lưu Dự,
nhỏ thì làm việc dối vua của Diên Linh. Bọn ấy sau khi chết có phải luận tội gì
không, hay là cứ được hưởng tôn vinh mãi thế?
Trạm cười mà rằng:
- Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. Lưới trời
thênh thang, thưa nhưng chẳng lọt. Chỉ bởi rằng thời gian chưa đến mà thôi. Nay
ta bảo rõ anh nghe: trong khoảng trời đất báo ứng luân hồi, chỉ có hai loài
thiện ác. Người chăm làm thiện, tuy hãy còn sống, tên đã ghi ở Đế đình; người
hay làm ác, không đợi đến chết, án đã thành ở Địa phủ. Cho nên Nhan Hồi lúc
sống ở trong ngõ hẻm mà chết làm chức Tu văn, Vương Bàng ngày thường có nết
kiêu ngoan mà chết phải máu rây mặt đất. Không phải như người ở cõi đời, có thể
mượn thế mà được làm quan, có thể nhờ tiền mà được khỏi vạ, hình phạt thì quá
lạm, tước thưởng thì quá thiên tư, cúi đầu khom cật, dù hèn hạ cũng cất nhắc
lên, đứa đoạt thằng gian, nhờ đút lót mà được thoát khỏi. Anh nên cố gắng, đừng
gieo cái nghiệp báo ở kiếp sau này.
Tử Hư nói:
- Cái cửa họa phúc đã được nghe đại khái. Nhưng nay
những người học trò thường đến đền Đế quân làm lễ cầu mộng, xin ngài báo ứng
cho biết những sự nghiệp về sau. Việc đó có quả thực không?
Trạm cười mà rằng:
- Đấng Đế quân ngài nuốt nhà nguyên khí, chu du tám
phương, ngày xét giấy tờ, đêm chầu Thượng đế, còn lúc nào rỗi để làm cái việc
vụn vặt ấy. Song những người một lòng chay sạch thành kính, thì trong lúc bập
bùng, tựa như có thấy. Người đời không hiểu bèn cho là sự thực, thật đáng buồn
cười.
- Thưa thầy, nếu thế thì chuyện phóng bảng cửa
trời, cũng là câu chuyện truyền ngoa chăng?
- Không, việc đó thì thật đấy.
Trạm bèn giơ ra một cuộn giấy phong dán rất kỹ bảo
Tử Hư rằng:
- Đây là bảng xuân sang năm đây. Ta vâng mệnh Đế
quân đi tra xét kỹ lưỡng để giao lên cửa trời biên vào cho đủ. Vì có anh đến
chơi đây nên ta chưa đi được.
Dương Trạm lại kể cho Tử Hư nghe những thú vui ở
trên Thiên tào, hơn ở cõi trần nhiều lắm, và bảo nhà ngươi nên cố gắng sửa mình
chuốt nết, tự nhiên có ngày được lên ở trên ấy; như ta đây cũng là một cái
duyên may mắn khác thường. Tử Hư nói:
- Mình trần vóc tục, còn biết do lối nào mà ngoi
lên được! Chỉ mong theo đòi xe gió, được tạm lên chơi xem một chuyến, chẳng hay
thầy có thể giúp cho được không?
- Sự đó cũng không khó. Để ta bẩm với đức Đế quân
đem tên họ anh điền vào.
Bèn lấy bút son viết vào cuốn giấy hơn mười chữ,
rồi bảo cất bỏ tiệc rượu.
Tử Hư được theo thầy lên ngồi ở một bên xe, rồi cỗ
xe thẳng đường bay lên. Lên đến trên trời, Tử Hư thấy một khu có những bức
tường bạc bao quanh, cái cửa lớn khảm trai lộng lẫy, hai bên có những tòa lầu
châu điện ngọc, vằng vặc sáng như ban ngày, sông Ngân bến Sao, ôm ấp sau trước,
gió thơm phưng phức, đượm ngát quanh hiên, hơi lạnh thấu da, ánh sáng chói mắt,
trông xuống cõi trần, thấy mọi cảnh vật đều bé nhỏ tủn mủn.
Dương Trạm nói:
- Anh có biết đây là đâu không? Tức là kinh đô Bạch
Ngọc ở trên trời mà người đời vẫn thường nói đó. ở chính giữa kia có một đám
mây hồng che phủ, tức là cung Tử Vi của đức Thượng đế ngài ngự. Anh nên đứng
chờ ta ở ngoài cửa thành để ta vào tâu xin cho anh.
Nói rồi Dương Trạm cầm cuộn giấy đi vào, sau một
lúc lâu mới ra. Chợt nghe ở trên thành có tiếng hô vang, nói người đỗ đầu bảng
sang năm, đã kén được viên trạng nguyên họ Phạm rồi.
Dương Trạm bèn dẫn Tử Hư đi chơi thăm khắp cả các
tòa. Trước hết đến một tòa có cái biển đề ngoài là "Cửa tích đức"
trong có chừng hơn nghìn người mũ hoa dải huệ, kẻ ngồi người đứng, Tử Hư hỏi
thì Dương Trạm nói:
- Đó là những vị tiên thuở sống có lòng yêu thương
mọi người, tuy không phải dốc hết tiền của để làm việc bố thí, nhưng biết tùy
thời mà chu cấp, đã không keo bẩn, lại không hợm hĩnh. Thượng đế khen là người
có nhân, liệt vào thanh phẩm nên họ được ở đây.
Lại đi qua một tòa sở có cái biển đề ở ngoài là
"Cửa Thuận hạnh", trong đó độ hơn nghìn người, áo mây lọng mưa, kẻ
hát người múa. Tử Hư lại hỏi, Dương Trạm nói:
- Đó là những vị tiên thuở sống hiếu thuận, hoặc
trong lưu ly biết bao bọc lấy nhau, hoặc đem đất cát mà san sẻ cho nhau, mấy
đời ở chung không nỡ chia rẽ. Thượng đế khen là có lòng, cho vào cung mây nên
họ được ở đây.
Lại đến một tòa sở có cái biển đề là "Cửa Nho
thần" người ở đấy đều áo dài đai rộng, cũng có tới số một nghìn, trong có
hai người mặc áo lụa, đội mũ sa. Tử Hư đang muốn hỏi cho rõ thì Dương Trạm trỏ
bảo Tử Hư rằng:
- Ấy là ông Tô Hiến Thành triều Lý và ông
Ngoài ra còn đến hơn trăm tòa sở nữa, nhưng trời
gần sáng không đi xem khắp được, vội cưỡi gió mà bay xuống trần.
Xuống đến cửa Bắc, thấy trăm quan đã lục tục vào
triều chầu vua.
Tử Hư từ biệt thầy trở về, sang năm đi thi quả đỗ
tiến sĩ. Phàm những việc cát hung họa phúc nhà Tử Hư, thường được thầy về báo
cho biết.
BỮA TIỆC ĐÊM Ở HÀ
GIANG
(Tác giả: Nguyễn Dữ)
Năm Bính Dần (1386), vua Trần Phế đế đi săn, đỗ lại
trên bờ bắc sông Đà, đêm mở bữa tiệc ở trong trướng. Có một con cáo từ dưới
chân núi đi về phía nam, gặp một con vượn già, nhân bảo:
- Vua tôi Xương Phù vào rừng săn bắn, để ý vào bọn
ta lắm đó. Tính mệnh các loài chim muông, thật là treo ở sợi dây cung. Nếu
tuyết chưa xuống, gió chậm về, mình sẽ nguy mất, nếu không vẫy đuôi xin thương
thì ắt bị cày sân lấp ổ. Tôi định đến kiếm một lời nói để ngăn cản, bác có vui
lòng đi với tôi không?
Vượn già nói:
- Nếu bác có thể đem lời nói mà giải vây được, đó
thật là một việc hay. Nhưng chỉ e nói năng vô hiệu, họ lại sinh nghi, trốn sao
khỏi cái nạn thành cháy vạ lây, há chẳng nghe câu chuyện hoa biểu hồ tinh ngày
trước?
Con cáo nói:
- Những người theo nhà vua đi săn, phần nhiều là võ
nhân, bụng không bác vật như Trương Hoa, mắt không cao kiến như Ôn Kiệu, vậy
chắc không việc gì mà sợ.
Bèn cùng nhau dùng phép thuật hóa làm hai người đàn
ông mà đi, một người xưng là tú tài họ Viên, một người xưng là xử sĩ họ Hồ
đương đêm đến gõ cửa hành cung, nhờ kẻ nội thị chuyển đệ lời tâu vào rằng:
- Tôi nghe thánh nhân trị vì, càn khôn trong sáng,
minh vương sửa đức, chim muông hòa vui. Nay chúa thượng đương kỳ thái hạnh, làm
chủ dân vật, tưởng nên mở lưới vơ hiền, giăng chài vét sĩ, đương gội thì quấn
mái tóc, lên xe thì dành bên tả, đem xe bồ ngựa tứ săn những người hiền trong
chỗ quê lậu, lấy lễ hậu lời khiêm đón những kẻ sĩ trong đám ẩn dật, khiến trong
triều nhiều bậc lương tá để ban ân trạch cho sinh dân, đưa tất cả cuộc đời vào
cõi nhân thọ. Cớ sao lại đi săn gấu bắt thỏ, tranh cả công việc của chức Sơn
ngu, như vậy!
Bấy giờ vua say rượu đương muốn đi nằm, sai thủ
tướng Quý Ly mời hai người vào tiếp đãi, ở phía dưới thềm khách, và hiểu bảo
cho biết săn bắn là phép tắc đời xưa, sao lại nên bỏ.
Hồ nói:
- Đời xưa đuổi loài Tề tượng là để trừ hại, mà mở
cuộc sưu miêu là để giảng võ. Chuyện đi săn Vị Dương là vì một ông già không
phải vì gấu cũng không vì hùm. Vì sự phô phang quân lính mới có cuộc săn ở đất
Hồng. Vì sự phô phang cầm thú mới có cuộc bắn ở Trường Dương. Nay thì không
thế, đương mùa hạ mà giở những công việc khổ dân, là không phải thời, giày trên
lúa để thỏa cái ham thích săn bắn là không phải chỗ; quanh đầm mà vây, bọc núi
mà đốt, là không phải lẽ, ngài sao không tâu với thánh minh, tạm quay xa giá,
để khiến người và vật đều được bình yên!
Quý Ly nói:
- Không nên.
Hồ nói:
- Đó là tôi thương những giống chim hèn muông yếu
và xin nài cho chúng. Chứ còn những giống tinh khôn lanh lẹn thì tự nhiên chúng
biết xa chạy cao bay đàng nam núi Nam, đàng bắc núi Bắc, há chịu trần trần một
phận ấp cây đâu!
Quý Ly nói:
- Nhà vua đi chuyến này, không phải vì ham thích
chim muông, chỉ vì nghe ở đây có giống hồ tinh nghìn tuổi, nên ngài muốn đại cử
đến để tiễu trừ, khiến loài yêu gian không thể giở trò xằng bậy được, còn các
loài khác không can dự gì.
Viên đưa mắt cho Hồ rồi mỉm cười. Quý Ly hỏi cớ, Hồ
chợt đáp:
- Hiện giờ sài lang đầy đường lấp lối, sao lại lo
đi hỏi đến giống hồ ly?
Quý Ly nói:
- Ngài nói vậy là ý thế nào?
Hồ nói:
- Hiện nay thánh hóa chưa khắp, bờ cõi chưa yên:
Bồng Nga là con chó dại, cắn càn ở
Quý Ly nghe lời, hai người mừng thầm nói:
- Thế là mưu kế có kết quả rồi.
Nhân nâng chén rượu đầy lên uống rồi nói bàn vanh
vách, trôi như nước suối, không bị đuối một tý gì cả. Quý Ly giận nói:
- Ta từng tranh luận với người Trung Hoa, người
Chiêm, chưa hề chịu khuất lý bao giờ, thế mà nay phải lúng túng với các gã này.
Các gã nếu chẳng phải yêu núi ma rừng thì sao nói năng được nhọn sắc như vậy!
Hai người giận mà nói:
- Ông là thủ tướng đáng lẽ nên tiến dẫn nhân vật để
làm đồ dùng cho quốc gia, cớ sao lại ghen người hiền, ghét người tài, há phải
là cái nghĩa ở trong Kinh Thư đã nói: "Kẻ khác có tài, coi như ta
có!".
Quý Ly đổi nét mặt để xin lỗi và an ủi rằng:
- Tôi nghĩ đương đời bây giờ, hiếm có được hạng
người như là các ông. Sao các ông không đốt bỏ tơi nón, từ giã cá tôm, rướn
mình con rồng ở Nam Dương, đuổi vó ngựa ký của Bàng Thống, lập công với đương
thế, để tiếng về đời sau. Cớ chi lại đi nằm chết khô ở chốn hang núi, còn ai
người biết đến nữa.
Hai người cười mà rằng:
- Chúng tôi nương mình bên cành khói, náu vết chốn
hang mây, ngủ thì lấy cỏ làm đệm êm, khát thì lấy nước suối làm rượu ngọt,
vương chân có khói ráng, kết bạn có hươu nai, chỉ biết ăn bách nhai tùng, ngâm
trăng vịnh gió, ngõ hầu mới khỏi vướng lưới trần. Ai hơi đâu mà đi lo giúp việc
đời dù chỉ nhổ một sợi lông.
Nhân lại nói:
- Chúng tôi vốn là những người phóng lãng, không
chịu ở trong vòng ràng buộc. Trước vẫn hay thơ, thường ngâm vang cả hang núi.
Đêm nay bồi tiệc, há lại không có bài nào để kỷ thực ư?
Hồ bèn ngâm rằng:
Khe trong suối biếc nước
ngon lành,
Đường thế chi màng đến
lợi danh.
Hang đá dễ nương mình
phóng khoáng,
Vòng trần khôn đặt bước
chông chênh.
Bóng tà giấc tỉnh trơ
hình núi.
Băng lạnh đêm tàn cạn
trống canh.
Mây khói rồi đây không
dấu vết,
Đôi mình buộc chặt nghĩa
non xanh.
Viên cũng ngâm rằng:
Nghìn suối muôn khe có
lối thông,
Mặc dầu tha thẩn bước
tây đông.
Tung tăng lúc giỡn cơn
mưa núi,
Đủng đỉnh khi chờ ngọn
gió sông.
Tiếng bặt bờ Tương gào
bóng xế,
Lệ tràn đất Sở khóc dây
cung
Tôi lên rừng, bác vào
hang núi,
Tìm chốn yên thân cũng
một lòng.
Ngâm xong, từ biệt ra đi. Quý Ly mật sai người rón
bước theo sau, khi gần đến lưng chừng núi, thấy cả hai hóa làm con cáo và con
vượn mà đi biến mất.
CHUYỆN LÝ TƯỚNG QUÂN
(Tác giả: Nguyễn Dữ)
Vua Giản Định nhà Hậu Trần lên ngôi ở Mô Độ, hào
kiệt bốn phương, gần xa hưởng ứng, đều chiêu tập đồ đảng làm quân Cần Vương.
Người huyện Đông Thành là Lý Hữu Chi cũng do chân một người làm ruộng nổi lên,
tính vốn dữ tợn nhưng có sức khỏe, giỏi đánh trận, Quốc công Đặng Tất tiến cử
cho Lý được làm chức tướng quân, sai cầm một cánh hương binh đi đánh giặc.
Quyền vị đã cao, Lý bèn làm những việc trái phép, dựa lũ trộm cướp như lòng
ruột, coi người nho sĩ như cừu thù, thích sắc đẹp, ham tiền tài, tham lam không
chán, lại tậu ruộng vườn, dựng nhiều nhà cửa, khai đào đồng nội để làm ao, dồn
đuổi xóm giềng cho rộng đất, đi kiếm những hoa kỳ đá lạ từ bên huyện khác đem
về. Người trong vùng phục dịch nhọc nhằn, anh nghỉ thì em đi, chồng về thì vợ
đổi, ai nấy đều vai sưng tay rách, rất là khổ sở, nhưng hắn vẫn điềm nhiên
không chút động tâm.
Bấy giờ có một ông thầy tướng số đến cửa xin ăn và
có thể nói được những việc họa phúc. Lý bảo xem tướng mình, ông thầy nói:
- Lợi cho việc làm không gì bằng nói thẳng, khỏi
được tật bệnh không gì bằng thuốc đắng. Nếu ngài dung nạp thì tôi sẽ nói hết
lời. Đừng vì đắng miệng mà ghét quở khiến tôi phải e dè kiêng tránh mới được.
Lý nói: - Được, không hề gì.
Ông thầy nói:
- Điều thiện ác tích lâu sẽ rõ, sự báo ứng không
sai chút nào. Cho nên luận số trước phải luận lý, tướng diện không bằng tướng
tâm. Nay Tướng quân có dữ mà không lành, khinh người mà trọng của, mượn oai
quyền để làm bạo ngược, buông tham dục để thỏa ngông cuồng, đã trái lòng trời,
tất bị trời phạt, còn cách nào mà trốn khỏi tai họa!
Lý cười: - Ta đã có binh lính, có đồn lũy, tay
không lúc nào rời qua mâu, sức có thể đuổi kịp gió chớp, trời dù có giỏi cũng
sẽ phải tránh ta không kịp, còn giáng họa cho ta sao được.
Thầy tướng nói: - Tướng quân cậy mình mạnh giỏi
chưa thể lấy lời nói để cho hiểu được, vậy tôi có chùm hạt châu nhỏ, xin đưa
tướng quân xem sẽ biết rõ dữ lành, tướng quân có bằng lòng xem không?
Nhân lấy chùm hạt châu ở trong tay áo ra. Lý trông
xem, thấy trong đó có lò lửa, vạc sôi, bên cạnh có những người đầu quỷ ghê gớm,
hoặc cầm thừng chão, hoặc cầm dao cưa, mình thì đương bị gông xiềng, bò khúm
núm ở bên vạc dầu, lấm lét sợ toát mồ hôi. Hỏi có cách gì cứu gỡ không, thì
thầy tướng nói:
- Gốc ác đã sâu, mầm vạ sắp nẩy. Cái kế cần kíp
ngày nay chỉ còn có đuổi hết hầu thiếp, phá hết vườn ao, trút bỏ binh quyền,
quy đầu phúc địa, tuy tội chưa thể khỏi được, nhưng cũng còn có thể giảm trong
muôn một.
Lý ngẫm nghĩ lúc lâu rồi nói: - Thôi thầy ạ, tôi
không thể làm thế được. Có ai lại vì lo cái vạ sau này chưa chắc đã có, mà vứt
bỏ những cái công cuộc sắp thành làm hì hục trong mấy năm bao giờ.
Sau đó hắn càng làm những sự dâm cuồng, chém giết,
không kiêng dè gì cả. Người mẹ tức giận nói:
- Ưa sống ghét chết, ai ai cũng lòng, đạo trời sáng
tỏ, cớ sao mày hay làm những sự giết chóc như vậy. Không ngờ ta đến lúc tuổi
già, lại phải trông thấy đứa con mắc hình lục có ngày.
Người con trai Lý là Thúc Khoản cũng thường can
ngăn cha luôn, nhưng Lý chứng nào vẫn giữ tật ấy. Năm 40 tuổi thì Lý chết ở
nhà; ngoài đường sá người ta bàn bạc huyên hoa, bảo với nhau rằng:
- Kẻ làm thiện thường phải chết về đao binh, kẻ làm
ác lại được chết trong nhà cửa, đạo trời để đâu không biết!
Trước đây có người bản châu là Nguyễn Quỳ, khảng
khái chuộng điều khí tiết, vốn cùng chơi thân với Thúc Khoản, nhưng chết đã ba
năm nay rồi. Một hôm Thúc Khoản đi chơi sớm, chợt gặp ở đường; Nguyễn Quỳ bảo
Thúc Khoản rằng:
- Phụ thân sắp bị đem ra tra hỏi. Tôi vì quen thân
với anh, nên đến bảo cho anh biết trước. Anh có muốn xem, tối mai tôi cho người
đến đón, anh sẽ được xem. Nhưng xem rồi cần phải giữ kín. Nếu nói hở ra một lời
thì tai vạ sẽ lây sang đến tôi ngay.
Nói xong liền biến mất không thấy đâu nữa. Đến hẹn,
Thúc Khoản ngồi trong một buồng nhỏ ngóng đợi. Nửa đêm, quả thấy mấy người lính
đầu ngựa đến đón tới một cung điện lớn. Trên điện có một vị vua, bên cạnh đều
những người áo sắt mũ đồng tay cầm phủ việt đồng mác, dàn ra hàng lối đứng chầu
chực rất là nghiêm túc.
Chợt thấy
bốn vị phán quan từ bên tả vu đi ra mà một viên tức là Nguyễn Quỳ. Bốn viên này
tay đều cầm thẻ, quỳ đọc ở trước án son.
Một viên đọc:
- Viên quan kia tên là Mỗ ở đời cứng vuông, không
kiêng sợ kẻ quyền quý; tước vị càng cao, càng biết khiêm nhường, rồi lại biết
quên mình để chết vì việc nước, làm rạng rỡ cho nước nhà. Thần xin tâu lên Đế
đình, cho người ấy được làm tiên.
Một viên nói:
- Ở nhà kia có tên Mỗ, vốn người tham bẩn, hối lộ
dập dìu; lại lấy lộc trật mà hợm hĩnh ngông nghênh, khinh miệt những người có
đức, chưa từng cất nhắc kẻ hiền sĩ để giúp việc nước. Thần xin chuyển báo cho
tòa
Một viên nói:
- Ở châu kia có người họ Hà gắng sức làm thiện,
hàng ngày trong nhà thường phải thiếu ăn, gần đây nhân sau hồi binh lửa, tật
dịch nổi lên, người ấy lại cho đơn cấp thuốc, số người nhờ thế mà khỏi chết đến
hơn một nghìn. Thần muốn xin cho người ấy thác sinh vào nhà có phúc, hưởng lộc
ba đời, để báo cái ơn đã cứu sống cho nhiều người.
Một viên nói: - Ở thôn kia có gã họ Đinh, bất mục
với anh em, chẳng hòa với tông tộc, thừa dịp các cháu bé dại chữa lại chúc thư
để chiếm cướp lấy cả ruộng nương, khiến họ không còn có miếng đất cắm dùi. Thần
muốn bắt người ấy phải thác sinh vào nhà kẻ hèn, đói khát, nằm vạ vật ở ngòi
rãnh, để bõ với sự đã đi tranh cướp của người.
Đức vua đều y theo lời tâu.
Kế đó có một người áo đỏ từ bên hữu vu đi ra, cũng
quỳ trước án mà tâu rằng:
- Công việc của sở thần coi giữ, có người họ Mỗ tên
Mỗ, ngoan ngu bất pháp, giam cầm trong ngục một năm nay chưa đem xét xử. Nay
xin được đem ra thỉnh mệnh ở trước Vương đình.
Nhân đọc một bản buộc tội như sau:
“Kính nghe:
Trời, đất gây dựng, chia ra hình âm đục dương
trong, Dân vật bẩm sinh, khác ở chỗ duyên lành nghiệp dữ. Biết bao sự trạng,
khôn xiết kể bày.
Bởi trời lấy lý phú cho người, sao được người đều
hiển thánh. Người đem mình noi theo tính, khỏi đâu tính hoặc sáng mờ.
Cho nên thiên lệch có người, hư tồi lắm kẻ.
Dữ lành báo ứng, không lầm đực cái, đen vàng , Nhân
quả rõ ràng, giống hệt tiếng vang, hình bóng .
Ngẫm lẽ ấy vốn là rõ rệt, nhưng con người thật quá
ngoan ngu. Ghen tức nhiều điều, riêng tây lắm chuyện. Chìm sông ngã giếng, đắm
đuối càng sâu,
Lấp giếng vùi hầm, xô bồ đã lắm.
U trầm đến vậy, đọa lạc càng thương.
Vì thế mà, trời có đường bạt độ, tỉnh thức người
mê, đất có ngục luân hồi, khuyên răn kẻ xấu.
Lỗi mà chẳng đổi, tội ắt không dong.
Nay Lý mỗ, sâu cát thân hèn, kiến giun phận mọn.
Kết bạn thì mây mưa tráo trở, cư tâm thì yêu quái gớm ghê. Văn học xem khinh,
bạc tiền coi trọng.
Chiếm cướp ruộng người như Hồng Dương đời Hán, giết
hại mạng người như Dương Tố đời Tùy. Vu oan giá họa, so hùm beo gấu sói còn độc
hơn, cực dục cùng xa, dù khe suối núi gò chưa đủ thỏa.
Chỉ bởi lòng tham sai khiến, thực tuồng gian hoạt
tót vời. Phải dùng phép nghiêm, làm răn kẻ khác.”
Bản ấy tuyên đọc xong, thấy kẻ lại dịch điệu Hữu Chi
ra, đặt quỳ phủ phục ở dưới cửa, lấy roi đánh rất dữ dội, máu tươi bắn ra nhầy
nhợt. Hữu Chi kêu rên giẫy giụa, tỏ ra đau đớn không chịu nổi. Chợt nghe trên
điện nói:
- Chia buồng xét việc là bổn phận của lũ ngươi, cớ
sao việc ấy lại để chậm đến một năm nay?
Người áo đỏ nói: - Vì y tội ác chồng chất, nên chưa
dám đoán định một cách xốc nổi. Bữa nay tâu lên thì việc án mới thành.
Nhân tâu trình các tội như sau: - Kẻ kia ghẹo vợ
người, dâm con người, tội nên xử thế nào?
Đức vua nói: - Là vì hắn đắm chìm trong bể ái, nên
lấy nước sôi rửa ruột để cho tình dục không sinh.
Tả hữu liền lôi ra bỏ vào cái vạc đương sôi, thân
thể Hữu Chi đều nát rữa cả ra. Rồi lấy nước thần sẽ rẩy, một lát Hữu Chi lại
trở lại lành lặn như là người thường. Lại nói: - Kẻ kia chiếm ruộng của người,
phá sản của người nên xử thế nào?
Đức vua nói:
- Đó là vì suối tham dìm nó, nên lấy lưỡi trùy thủ
moi ruột để cho lòng tham không nổi lên nữa.
Tả hữu liền rạch bụng moi hết gan ruột phủ tạng ra
ngoài. Rồi lại lấy cành dương sẽ phất, một chốc thì thân thể lại nguyên lành.
- Đến như phá mồ mả của người đời xưa, hủy đạo
thường với người ruột thịt, nên xử thế nào?
Đức vua im lặng lúc lâu rồi nói:
- Đó là sự càn rỡ không có chừng mực nào nữa, dù xử
bằng những hình cây kiếm núi dao, nước đồng gậy sắt cũng chưa đủ thỏa. Vậy chỉ
nên áp giải vào ngục Cửu U lấy dây da chét lấy đầu, lấy dùi lửa đóng vào chân,
chim cắt mổ vào ngực, rắn độc cắn vào bụng, trầm luân kiếp kiếp, không bao giờ
được ra khỏi.
Quỷ sứ liền vào lôi Hữu Chi điệu đi. Bấy giờ Thúc
Khoản ở khe tường dòm thấy, khóc thất thanh. Mấy người quỷ sứ liền lấy tay bưng
miệng rồi đưa về nhà, ném chàng từ trên không xuống đất. Thúc Khoản giật mình
tỉnh dậy, thấy người nhà đương ngồi chung quanh mà khóc, nói mình chết đã hai
ngày rồi, chỉ vì thấy ngực hãy còn thoi thóp và hơi nong nóng, cho nên chưa dám
đem chôn. Thúc Khoản bèn ruồng bỏ vợ con, đem của cải tán cấp cho mọi người và
đốt hết những văn tự nợ, vào rừng hái thuốc tu luyện.
Câu chuyện ấy Thúc Khoản giấu kín, chỉ có chàng và
vài người bõ già được biết mà thôi, cho nên cũng ít truyền.
PHÁN SỰ ĐẾN TẢN VIÊN
(Tác giả: Nguyễn Dữ)
Ngô Tử Văn tên là Soạn, người huyện Yên Dũng đất
Lang Giang. Chàng vốn khẳng khái nóng nẩy, thấy sự tà gian thì không thể chịu
được, vùng bắc người ta vẫn khen là một người cương phương. Trong làng trước có
một tòa đền, vẫn linh ứng lắm. Cuối đời họ Hồ, quân Ngô sang lấn cướp, vùng ấy
thành một nơi chiến trường. Bộ tướng của Mộc Thạnh có viên Bách hộ họ Thôi, tử
trận ở gần đền, từ đấy làm yêu làm quái trong dân gian, có người dốc hết của
cải, gia sản khánh kiệt cũng không đủ để cầu cúng. Tử Văn rất là tức giận, một
hôm tắm gội chay sạch, khấn trời rồi châm lửa đốt đền. Mọi người đều lắc đầu lè
lưỡi, họ lo sợ thay cho Tử Văn, nhưng Tử Văn vung tay không cần gì cả.
Đốt xong về nhà, chàng thấy trong mình khó chịu,
đầu lảo đảo và bụng run run, rồi nổi lên một cơn sốt nóng sốt rét. Trong khi
sốt, chàng thấy một người khôi ngô dõng dạc, đầu đội mũ trụ đi đến, nói năng,
quần áo, rất giống người phương Bắc, tự xưng là cư sĩ, đến đòi làm trả lại tòa
đền như cũ, và nói:
- Nhà ngươi đã theo nghiệp nho, đọc sách thánh
hiền, há không biết cái đức của quỷ thần ra sao, cớ gì lại dám lăng miệt, hủy
tượng đốt đền, khiến cho hương lửa không có chỗ tựa nương, oai linh không có nơi
hiển hiện, vậy bảo làm sao bây giờ? Biết điều thì dựng trả tòa đền như cũ. Nếu
không thì vô cớ hủy đền Lư sơn, Cố Thiệu sẽ khó lòng tránh khỏi tai vạ.
Tử Văn mặc kệ, vẫn cứ ngồi ngất ngưởng tự nhiên,
người kia tức giận nói: - Phong Đô không xa xôi gì, ta tuy hèn, há lại không
đem nổi nhà người đến đấy. Không nghe lời ta thì rồi sẽ biết.
Nói rồi phất áo đi.
Chiều tối, lại có một ông già, áo vải mũ đen, phong
độ nhàn nhã, thủng thỉnh đi vào đến trước thềm, vái chào mà rằng:
- Tôi là vị Thổ thần ở đây, nghe thấy việc làm rất
thú của nhà thầy, vậy xin đến để tỏ lời mừng.
Tử Văn kinh ngạc nói:
- Thế người đội mũ trụ đến đây ban nãy, chẳng phải
là Thổ địa đấy ư? Sao mà nhiều thần quá thế vậy.
Ông già nói: - Ô, đấy là viên tướng bại trận của
Bắc Triều, cái hồn bơ vơ ở Nam quốc, tranh chiếm miếu đền của tôi, giả mạo tên
họ của tôi, quen dùng chước dối lừa, thích làm trò thảm ngược, Thượng đế bị nó
bưng bít, hạ dân bị nó quấy rầy, phàm những việc hưng yêu tác quái đều tự nó
cả, chứ có phải tôi đâu. Xin kể đầu đuôi để nhà thầy nghe:
"Tôi từ đời vua Lý Nam đế làm chức Ngự sử đại
phu, vì chết về việc cần vương mà được phong ở đây, giúp dân độ vật đã có hơn
một nghìn năm nay, khi nào lại làm việc gieo tai rắc vạ để kiếm miếng ăn như kẻ
khuất tặc kia đã làm. Gần đây vì thiếu sự đề phòng, bị nó đánh đuổi, nên phải
đến nương tựa ở đền Tản Viên đã vài năm nay".
Tử Văn nói: - Việc xảy ra đến như thế, sao ngài
không kiện ở Diêm vương và tâu lên Thượng đế, lại đi khinh bỏ chức vị, làm một
người áo vải nhà quê.
Ông già chau mặt nói:
- Rễ ác mọc lan, khó lòng lay động. Tôi đã định
thưa kiện, nhưng mà có nhiều nỗi ngăn trở. Những đền miếu gần quanh, vì tham
của đút, đều bênh vực cho nó cả. Khư khư một chút lòng thành thực, không làm
thế nào để thông đạt được lên cho nên đành tạm ẩn nhẫn mà ngồi xó một nơi.
Tử Văn nói: - Hắn có thực là tay hung hãn, có thể
gieo vạ cho tôi không?
- Hắn quyết chống chọi với nhà thầy, hiện đã kiện
thầy ở Minh ty. Tôi thừa lúc hắn đi vắng nên lén đến đây báo cho nhà thầy biết
để mà liệu kế, khỏi phải chết một cách oan uổng.
Lại dặn Tử Văn: - Hễ ở Minh ty có tra hỏi, thầy cứ
khai ra những lời nói của tôi. Nếu hắn chối cãi, thầy kêu xin tư giấy đến đền
Tản Viên, tôi sẽ khai rõ thì nó phải đớ miệng. Nếu không như thế thì tôi đến
vùi lấp trọn đời mà thầy cũng khó lòng thoát nạn.
Tử Văn vâng lời. Đến đêm, bệnh càng nặng thêm, rồi
thấy hai tên qủy sứ đến bắt đi rất gấp, kéo ra ngoài thành về phía đông. Đi độ
nửa ngày đến một dinh tòa rất lớn, chung quanh có thành sắt cao vọi đến mấy
chục tượng. Hai quỷ đến nói với người canh cổng, người canh cổng đi vào một lúc
rồi ra truyền, chỉ rằng: - Tội sâu ác nặng, không được dự vào hàng khoan giảm.
Nói rồi xua tay bảo đi ra phía bắc. Đằng phía bắc,
tức là một con sông lớn, trên sông bắc một cái cầu dài ước hơn nghìn bước, gió
tanh sóng xám, hơi lạnh thấu xương. Hai bên tả hữu cầu, có đến mấy vạn quỷ Dạ
Xoa, đều mắt xanh tóc đỏ hình dáng nanh ác. Hai quỷ dùng gông dài thừng lớn
gông trói Tử Văn mà giải đi rất nhanh, Tử Văn kêu to lên rằng: - Ngô Soạn này là
một kẻ sĩ ngay thẳng ở trần gian, có tội lỗi gì xin bảo rõ cho, không nên bắt
phải chết một cách oan uổng.
Chợt nghe trên điện có lời tuyên ngôn rằng:
- Tên này bướng bỉnh gân guốc, nếu không phán đoán
cho rõ, vị tất nó đã chịu phục tội.
Bèn sai dẫn Tử Văn vào trong cửa điện. Tử Văn vào
đến nơi, đã thấy người đội mũ trụ đương kêu cầu ở trước sân.
Diêm vương mắng Tử Văn rằng:
- Kẻ kia là một người cư sĩ, trung thuần khích
liệt, có công với tiên triều, nên Hoàng thiên cho được huyết thực ở một tòa đền
để đền công khó nhọc. Mày là một kẻ hàn sĩ, sao dám hỗn láo, tội nghiệt tự mình
làm ra, còn trốn đi đằng nào?
Tử Văn bèn tâu trình đầu đuôi như lời ông cụ già đã
nói, lời rất cương chính, không chịu chùn nhụt chút nào. Người đội mũ trụ nói:
- Ấy là ở trước vương phủ mà hắn còn quật cường như
thế, mồm năm miệng mười, đơm đặt bịa tạc. Huống hồ ở một nơi đền miếu quạnh
hiu, sợ gì mà hắn không dám cho một mớ lửa.
Hai bên cãi cọ nhau mãi vẫn chưa phân phải trái,
nhưng Diêm Vương vì thế bụng cũng sinh nghi. Tử Văn nói: - Nếu nhà vua không
tin lời tôi, xin đem giấy đến đền Tản Viên để hỏi hư thực; không có sự thực như
thế, tôi lại xin chịu thêm cái tội nói càn.
Người kia bây giờ mới có vẻ sợ, quỳ xuống tâu rằng:
- Gã kia là một kẻ học trò, thật là ngu bướng, quả đáng tội lắm. Nhưng đã trách
mắng như vậy, cũng đủ trừng giới. Xin đại vương khoan tha cho hắn để tỏ cái đức
rộng rãi. Bất tất đòi hỏi dây dưa và thẳng tay trị tội, sợ có hại cho cái đức
hiếu sinh.
Diêm vương quát lớn rằng:
- Cứ như lời hắn thì nhà người đáng tội tru lục.
Điều luật lừa dối đã sẵn sàng đó. Nhà ngươi cớ sao dám làm sự xuất nhập luận
tội người ta như vậy?
Lập tức sai người đến đền Tản Viên để lấy chứng
thực. Sai nhân về tâu, nhất nhất đúng với lời Tử Văn. Vương cả giận, bảo các
Phán quan rằng:
- Lũ ngươi chia tòa sở, giữ chức sự, cầm lệnh chí
công, làm phép chí công, thưởng thì xứng đáng mà không thiên hư, phạt thì đích
xác mà không hà lạm, vậy mà còn có sự dối trá càn bậy như thế; huống chi về đời
Hán đời Đường buôn quan bán ngục, thì những mối tệ còn xiết nói được ư?
Liền sai lấy lồng sắt chụp vào đầu, khẩu gỗ nhét
vào miệng, bỏ người ấy vào ngục Cửu u.
Vương nghĩ Tử Văn có công trừ hại, truyền cho vị
thần đền kia, từ nay phần xôi lợn của dân cúng tế, nên chia cho Tử Văn một nửa,
và sai lính đưa Tử Văn về. Chàng về đến nhà, té ra mình chết đã được hai ngày
rồi. Nhân đem những việc đã qua kể cho mọi người nghe, ai cũng kinh hãi và
không tin là thực. Sau họ đón một bà đồng về phụ bóng, đồng lên cũng nói đúng
như lời Tử Văn.
Người làng bèn mua gỗ, lại dựng một tòa đền mới.
Còn ngôi mộ của người tướng kia thì tự dưng thấy bật tung lên, hài cốt tan tành
ra như cám vậy.
Sau đó một tháng, Tử Văn thấy ông già đến bảo:
- Lão phu đã trở về miếu, công của nhà thầy, không
biết lấy gì đền đáp được. Nay thấy ở đền Tản Viên khuyết một chân Phán sự,
không có người lo việc. Lão với nhà thầy đã biết nhau nên đã vì nhà thầy hết
sức tiến cử, được đức Thánh Tản ngài đã bằng lòng, vậy xin lấy việc đó để đền
ơn nghĩa. Người ta sống ở đời, xưa nay ai không phải chết, miễn là chết đi còn
được tiếng về sau là đủ rồi. Nếu trùng trình độ nửa tháng, sợ sẽ về tay người
khác mất. Nên cố gắng đi, đừng nên coi là việc tầm thường.
Tử Văn vui vẻ nhận lợi, bèn thu xếp việc nhà rồi
không bệnh tật gì mà mất.
Năm Giáp Ngọ (1414) có người ở thành Đông Quan vốn
quen biết với Tử Văn, buổi sớm đi ra ngoài cửa tây vài dặm, trông thấy ở trong
sương mù có xe ngựa đi đến ầm ầm, lại nghe thấy tiếng quát rằng: "Người đi
đường tránh ra, xe quan Phán sự!".
Người ấy ngẩng đầu trông về phía trước, người ngồi
trên xe chính là Tử Văn. Song Tử Văn chỉ ngồi trên xe chắp tay thi lễ chứ không
nói một lời nào, rồi thoắt đã cưỡi gió mà đi biến mất. Đến nay con cháu hãy
còn, người ta còn truyền là "nhà quan Phán sự!".
CHIẾC VÒNG HÔN ƯỚC
(Tác giả: Người Khăn
Trắng)
1. Giấc mộng đêm hè
Hảo tự dưng thấy khó ngủ, nên anh đi tắm và sau đó
mở toang cửa phòng ngủ trên lầu, nằm quay ra hướng cửa nhìn ra bầu trời đêm lác
đác vài vì sao lạc. Bất giác Hảo tự nhủ:
- Thấy sao băng mà ước điều gì ắt được điều ấy!
Tự dưng anh mỉm cười với chính mình. Bởi đã lâu lắm
rồi anh không hề có một ước mơ nào cả. Có thể do quá bận bịu cho kỳ thi lấy
bằng cử nhân luật, đồng thời có lẽ do đâu óc Hảo luôn căng thẳng chuyện cứ bị
mẹ mình giục cưới vợ, làm cho anh chàng chẳng hề dám nghĩ ngợi điều gì ngoài
những điều xảy ra trước mắt. Mà người ta nói cũng đúng, chỉ những người nhàn
rỗi hay quá thiếu thực tế mới hay mơ mộng, ước mơ thôi...
- Cậu ơi, bà muốn gặp cậu dưới nhà, mời cậu
xuống.... Tiếng gọi của bà Linh làm cắt
ngang dòng suy nghĩ của Hảo, anh hỏi vọng ra: - Bây giờ mấy giờ rồi mà mẹ tôi
còn thức?
- Dạ, đã khá khuya rồi, nhưng bà vẫn đang ngồi đợi
cậu ở phòng khách.
Miễn cưỡng Hảo mặc áo khoác ngoài rồi xuống phòng
khách. Anh nhìn đồng hồ tay thấy đã hơn mười giờ, nên vừa thấy mặt mẹ anh đã
càu nhàu:
- Con đang mất ngủ mà má càng làm con khó ngủ hơn.
Việc gì để ngày mai không được sao má?
Bà Dung chép miệng:
- Phải thức tới giờ này má đâu có muốn. Nhưng cứ hễ
nhắm mắt lại thì y như rằng lại nghe tiếng nói nhắc chuyện mà chính má con phát
ngán ngẫm...
Hảo vừa ngáp vừa ngồi xuống ghế trường kỷ, lặp lại:
- Chuyện gì vậy má?
Bà Dung hơi khó nói, nhưng rồi cũng phải bộc bạch:
- Ai đó cứ giục má cưới vợ cho con hoài. Đã ba đêm liền, cứ vào khoảng chín
mười giờ khi má đang ngủ thì bị gọi giật ngược dậy.
Hảo lại càu nhàu:
- Tại má cứ nhai trầu hoài, vôi và lá trầu nóng làm
thần kinh má căng thẳng và sinh ra mộng mị lung tung. Má thôi đừng ăn trầu nữa
sẽ hết ngay thôi!
Bà Dung lắc đầu:
- Má đã bỏ trầu từ cả tháng nay, từ lúc bị bịnh.
Nhưng càng nhịn trầu thì buồn miệng, lại càng khó ngủ. Mà hễ ngủ thì y như
là... chiêm bao. Ba bữa nay má chiêm bao thấy có một người nào đó lạ hoắc, cứ
đứng trước mặt má nghiêm sắc mặt rồi nói như ra lệnh: "Bà phải cưới vợ cho
thằng con trai ngay đi, không được để cho có người phải chờ đợi. Bà mà không
nghe lời thì đừng trách sao tai họa tới". Đó, con nghĩ sao với lời đe dọa
này?
Hảo xua tay:
- Ba cái chuyện vớ vẩn đó mà má cũng tin sao? Chẳng
lẽ trong chiêm bao má thấy ai đó biểu giết người rồi má cũng nghe theo sao?
Bà Dung vẫn quả quyết:
- Nhưng chuyện này khác! Hình như ai đó biết chuyện
con không thích lấy vợ nên quyết ép má phải giục con làm theo. Vả lại người ấy
còn nói mối lương duyên này nếu không thành thì má và con sẽ không toàn mạng!
Hảo đến phải bực lên:
- Má còn nói chuyện đó nữa thì ngay sáng mai con sẽ
đi chơi xa, đến khi nào má thôi không có ý đó nữa con mới về.
Bà Dung còn lạ gì tính thằng con cứng đầu như ba
nó, có nói lắm thì cũng chỉ đưa tới hai mẹ con cãi nhau mà thôi, nên bà hơi dịu
giọng:
- Nhưng con không thương má sao Hảo? Nếu tình trạng
này kéo dài chắc là má sẽ điên mất!
Cũng thừa hiểu mẹ mình có bộ thần kinh không tốt,
nên Hảo cũng bớt nói cứng: - Thì cái gì má cũng để từ từ con tính, chớ gấp gáp
sao được.
Nghe con nói câu đó bà Dung mừng rơn:
- Con hứa với má rồi đó nghen! Chỉ cần con hứa
thôi, má cũng sẽ ngủ được tối nay.
- Nhưng mà...
Hảo định nói thêm, nhưng chợt nghĩ lại nên anh
thôi. Dợm đứng lên đi về phòng thì bà Dung dặn thêm: - Mấy ngày nay con phải ở
nhà để mẹ an tâm, đừng đi đâu nghe chưa.
Hảo miễn cưỡng hứa:
- Dạ. Nhưng má cũng đừng có nghĩ ngợi linh tinh
nữa. Má cần thuốc an thần không con đi mua?
Bà Dung lắc đầu:
- Má uống đến hai viên mỗi đêm, thay vì một viên
như bác sĩ dặn, mà có tác dụng gì đâu.
- Má cũng đừng uống quá liều như vậy, càng có hại
thêm mà thôi. Chỉ cần mỗi đêm một viên rồi thanh thản mà ngủ, như vậy sẽ có
hiệu quả hơn.
Tuy dặn mẹ mình như vậy, nhưng chính Hảo khi trở về
phòng lại càng nghĩ ngợi lung tung và hầu như chẳng tài nào chợp mắt được. Cho
đến khi đồng hồ treo tường gõ hai tiếng khô khan...
Cảm giác hơi lạnh bên ngoài lùa vào một cách bất
thường, khó chịu, Hảo đứng lên đóng cửa sổ lại. Đêm hè trời oi bức mà lại có
những luồng gió khó chịu quá.
Hảo trở lại giường nằm và bắt đầu nhắm mắt lại, đếm
số như nhiều lần mất ngủ anh vẫn hay làm. Một, hai... mười... hai mươi... cho
đến số một ngàn thì đôi mắt của Hảo mới từ từ khép lại thật, cơn buồn ngủ ập
đến...
- Nè, sao nhốt người ta trong này, ngộp thở quá đi
thôi!
Tiếng của ai đó kêu khe khẽ khiến cho Hảo nhướng
mắt lên nhìn, chỉ thấy lờ mờ một bóng con gái ở cách chỗ Hảo chừng vài thước.
- Ai vậy? Đó là câu hỏi thoáng qua trong đầu Hảo,
nhưng ngay lập tức tan biến ngay, bởi cơn buồn ngủ lại ập đến.
- Mở cửa ra mau! Mở cửa...
Hảo lại nhướng mắt lên và lại vẫn nhìn thấy cô gái
ấy. Nhưng lần này cô nàng đứng gần cửa sổ hơn, như đang cố đưa tay mở cửa mà
không mở được. Lúc này nàng ta quay mặt đối diện, cho nên Hảo nhìn khá rõ khuôn
mặt thanh tú với mái tóc dài quá vai. Chỉ có điều là đôi mắt của nàng ta thì
sáng nhưng đượm nét buồn sâu thẳm, khiến vừa thoạt nhìn thì Hảo đã có ấn tượng
và chút gì đó xót xa... Cái bệnh muôn thuở của Hảo là như vậy, tuy không mê đắm
đàn bà, nhưng rất nhạy cảm trước những ánh mắt buồn hay sầu khổ.
- Cô là...
Hảo chỉ hỏi được mấy tiếng đó, rồi như bị ai chận
ngang miệng, không thể nói thêm nữa. Cho đến khi cô gái nhắc lại lời than vãn
lúc nãy:
- Ngộp thở quá, làm ơn giúp thả em ra đi!
Hảo lấy làm lạ, tại sao cô nàng cũng ở trong phòng
như anh mà lại kêu khó thở, trong khi anh thì vẫn bình thường?
- Cô sao vậy?
Lần này thì Hảo đã thốt được thành tiếng và thậm
chí còn ngồi bật dậy nữa.
- Cô là ai?
Hảo dợm bước tới thì cô gái hốt hoảng đưa tay ngăn
lại:
- Không được đến gần đây! Nếu anh mà tới thì... thì
em chết liền tại đây!
Nàng vừa nói xong thì gục xuống, ôm mặt khóc nức
nở. Điều này khiến cho Hảo hốt hoảng:
- Kìa, sao cô Iại...
Cô gái giải thích:
- Em đi lạc đường, lỡ đột nhập vào phòng anh, xin
anh tha lỗi cho và thả giúp em ra... Nhưng mà không được, em ra bây giờ thì họ giết
em chết mất. Xin cho em tá túc một chút nữa, với điều kiện là anh mở giùm cửa
sổ ra, em không thể sống mà thiếu không khí được. Xin hãy giúp em...
Hảo ngạc nhiên:
- Ai đang truy đuổi cô?
Cô nàng rõ ràng là đang sắp ngộp thở, chỉ còn có
thể huơ hai tay vào không khí một cách yếu ớt, như sắp chết. Hảo không còn kịp
nghĩ gì thêm, anh nhảy tới và mở bung cánh cửa sổ ra. Vừa lúc ấy cô gái đổ sụp
xuống sàn nhà, người run lên liên hồi.
- Kìa, cô sao vậy?
Cô gái lịm đi, nhưng nhịp thở vẫn còn đều. Hảo lo
sợ định gọi mẹ mình, tuy nhiên kịp nghĩ nên anh nín im một lúc rồi nhẹ nhàng
gọi:
- Cô ơi, cô có sao không?
Cô gái vẫn nằm im. Hảo chợt nhớ nếu một người bị
ngất mà để nằm dưới gạch thì họ có thể bị nhập thổ mà chết, nên anh đánh bạo bế
cô nàng lên, đưa lại giường mình. Sợ bị hiểu lầm, nên Hảo vội bật thêm ngọn đèn
sáng và lúc này mới giật mình khi nhìn vào khuôn mặt cô nàng.
- Đẹp lạ thường!
Hảo phải thốt lên như vậy rồi đứng ngẩn ngơ một lúc
cho đến khi có tiếng gọi của mẹ ở nhà dưới:
- Hảo ơi, có chuyện gì mà con mở đèn sáng nửa đêm
vậy?
Sợ mẹ mình lên, nên Hảo vói vọng ra:
- Có con chuột chạy vào phòng nên con đang kiếm đập
nó!
Rồi anh tức khắc tắt đèn. Lúc này Hảo mới bắt đầu
suy nghĩ là làm sao với cô nàng đây và cô ta là ai? Vào phòng anh từ lúc nào?
Trước khi xuống nhà gặp mẹ thì Hảo không hề thấy cô ta trong phòng mình mà...
Bao nhiêu câu hỏi không thể giải đáp trong nhất thời, mà nếu cứ để cô nàng
trong phòng mình như thế này e rằng sẽ gặp rắc rối đây! Hảo suy nghĩ nhanh, rồi
anh quyết định:
- Cứ để cô ta trong này, mình sang phòng bên ngủ
tạm vậy.
Nhà còn mấy phòng trống, trong đó có gian phòng mà
Hảo vẫn hay dùng làm nơi học bài. Anh bước ra ngoài, khóa cửa lại ở ngoài, đề
phòng cô nàng bước ra đi lung tung chắc chắn sẽ gặp mẹ anh hoặc mấy chị người
làm.
Một mình bên phòng kia, Hảo cũng không thể nào ngủ
được. Anh ngồi chờ đến khi đồng hồ gõ năm tiếng thì vội trở về phòng, mở cửa
vào với ý định là kêu cô nàng dậy để ra khỏi nhà trong khi mọi người còn say
ngủ.
Nhưng khi Hảo mở cửa ra anh suýt nữa kêu to, bởi
phòng trống không, chẳng thấy bóng dáng cô gái đâu mà cửa chính, cửa sổ đều vẫn
còn khóa chặt.
Tìm một lượt khắp nơi trong phòng mà không hề thấy
cô ta, Hảo tự hỏi:
- Chẳng Iẽ cô ta biến thành gió bay đi được sao?
Chợt Hảo nhìn thấy có một mảnh giấy đặt trên gối
nằm với những chữ viết vội:
"Hãy tìm em ở thôn Đông Thạnh, huyện Thiện
Nhân, tỉnh này... Em sẽ chết nếu không được cứu kịp thời. Hãy cứu em với!
Mỹ Hương."
Vừa lúc ấy có tiếng gọi của bà Dung:
- Ra đi với má tới chỗ này gấp, Hảo à!
Đang còn thẫn thờ, nhưng Hảo cũng phải mở cửa ra.
Vừa nhìn thấy con, bà Dung đã nói gần nói xa:
- Không chậm trễ được con ơi, mau đi con.
Hảo ngạc nhiên:
- Đi đâu giờ này hả má?
Bà Dung kéo tay con, có lẽ sợ Hảo không chịu đi.
Hảo phải kêu lên:
- Má phải để con mặc đồ đã chớ!
Đứng chờ cho con mặc quần áo xong bà Dung mới chịu
đi. Xuống tới nhà dưới bà mới nói:
- Má mới vừa bị cái vong của ai đó vừa kêu gào vừa
khóc lóc, nói rằng nếu má và con không tới đó liền thì họ sẽ bị chết, mà mẹ con
mình cũng nguy tới tánh mạng nữa!
Đã quá chán với câu chuyện của mẹ, nhưng Hảo cũng
phải lên tiếng hỏi:
- Đi đâu bây giờ má?
- Qua huyện Thiện Nhân.
Vừa nghe tới đó thì Hảo hoảng vía:
- Má nói đi đâu? Ai ở bên huyện đó?
- Không còn thời giờ nữa, cứ đi rồi ắt biết!
Bà Dung kéo con trai đi mà không cần biết Hảo đang
rất hoang mang. Đến khi xe ngừng lại trước một ngôi nhà lớn thì bà Dung không
đợi chủ nhà ra, đã gọi lớn vào trong:
- Mở cửa mau lên!
Từ trong có một người lớn tuổi bước ra và không ngờ
họ lại rất mừng rỡ khi thấy hai người khách lạ, như đã quen từ lâu:
- Cả nhà đang chờ bà tới từ sáng sớm đến giờ!
Hảo ngạc nhiên, hỏi khẽ mẹ:
- Bộ nhà này quen với má hả?
Sợ con hỏi lôi thôi, bà Dung kéo Hảo đi nhanh vào
trong. Có một đôi vợ chồng cỡ tuổi sáu mươi đang ngồi sẵn ở phòng khách, vừa
thấy bà Dung vào họ đã reo lên: - Bà tới kịp thời, may là chưa có chuyện gì xảy
ra!
Người phụ nữ, chừng như là chủ nhà, vội nói:
- Suốt đêm rồi chúng tôi cứ bị thúc hối, bảo phải
đi tìm bà cho bằng được. Sáng nay chúng tôi vừa tính đi thì nhà tôi đây, người
ta gọi là ông giáo Thái, nhận được tin là bà sắp tới, nên cả hai ngồi đây chờ.
Có phải bà là bà Dung ở Lộc Thiện? Còn đây là cậu Hảo, một luật sư tương lai?
Hảo ngạc nhiên quá đỗi khi thấy bà ta biết rõ về
mình như vậy nên đánh bạo hỏi:
- Sao bác biết con?
Người đàn ông giờ mới lên tiếng:
- Chẳng những biết tên, nghề nghiệp của cậu, mà
chúng tôi còn biết cậu có quen với con gái tôi nữa!
Bà Dung nhìn con, sửng sốt: - Có đúng là con quen
với cô nhà này không, Hảo?
Hảo lắc đầu, chưa kịp trả lời thì chợt có tiếng
chân bước từ trong ra, rồi một người con gái xuất hiện.
- Hả?
Hảo chỉ kêu được một tiếng rồi sững người như trời
trồng. Phần cô gái thì cũng giống như Hảo, cô tròn mắt nhìn khách rồi thốt lên
trong sự sửng sốt:
- Là anh đây sao?
Người con gái đang đứng đó chính là cô gái đã lọt
vào phòng của Hảo đêm qua! Cô nàng sau vài giây sững sờ, đã lấy lại bình tĩnh
và cất tiếng:
- Đúng là anh rồi!
Bà chủ nhà quay sang con, hỏi khẽ:
- Đúng rồi phải không con? Đúng là người con muốn
gặp rồi phải không?
Cô gái nhẹ gật đầu:
- Dạ đúng!
Rồi cô bất thần ngã đầu vào Hảo và... òa khóc trong
niềm vui tột cùng. Hảo cũng hành động ngoài sức tưởng tượng của chính bản thân
mình, anh đưa tay ôm đầu và vuốt lên mái tóc dài của cô nàng.
Tiếng cười giòn của ông chủ nhà:
- Tui nhẹ cả người! Vậy mà hai hôm nay ăn ngủ không
yên, cứ ngỡ là tiêu cả rồi!
Bà vợ cũng phụ họa:
- Cho đến trước đây mấy phút tui cũng không tin là
mọi việc sẽ kết thúc tốt đẹp, khi mà đến gần năm giờ sáng nay tui vẫn còn bị
các vong hồn gào thét đòi giết cả nhà này nếu không tìm được chàng rể cho...
con gái tui.
Trong lúc đó cô gái nói khẽ vào tai Hảo:
- Anh thấy chưa, em tha thiết năn nỉ anh qua đây
ngay đâu phải là chuyện đùa. Chính mẹ anh cũng hiểu như vậy mà.
Lúc này bà Dung mới thở phào và nói với con, nhưng
cho mọi người nghe: - Tôi cũng mất ngủ và cứ lo ngay ngáy không biết chuyện gì
sẽ xảy ra. Bởi cứ nhắm mắt lại ngủ thì nghe tiếng hối thúc phải cưới vợ cho con
trai mình. Mà ngặt nỗi, thằng con trai tôi từ nào đến giờ có chịu ai đâu mà
cưới. Nó cũng không hề quen với cô gái nào, vậy mà không ngờ lại biết và...
thương cô bé này...
Bà giáo Thái vội nói:
- Con gái tôi tên Mỹ Hương, chính nó về đây kể lại
là có quen biết với người con trai tên Hảo và nhất quyết là phải cưới cho được
người này, nếu không thì chính nó sẽ đi tìm cái chết, chớ không đợi ai giết hại
cả.
Trong khi tìm cách cho Hảo và Mỹ Hương ra chỗ khác
nói chuyện, bấy giờ bà giáo Thái mới ngồi sát vào bà Dung, nói rất khẽ:
- Trước mặt tụi nó tui phải kể lạc quan như vậy,
chớ sự việc thì không phải đơn giản như vậy đâu. Chắc chị đã rõ?
Bà Dung nhẹ gật đầu:
- Dạ tôi biết. Nhân đây tôi muốn hỏi anh chị, phải
ta chỉ cho chúng nó giáp mặt là xong chuyện không?
- Tui cũng hy vọng là vậy. Nhưng theo nhà tui thì
còn có những rắc rối khác. Để ông ấy kể cho chị nghe.
Ông giáo Thái đưa ra một cái hộp nhỏ bằng bạc đã
khá cũ vừa nói:
- Đây là vật bắt đầu câu chuyện. Nó có suôn sẻ và
êm xuôi là ở đây, nhất là ở người có duyên giữ nó.
Bà Dung nhìn sững ông Giáo Thái, hỏi lại:
- Và ai là người giữ nó?
Bây giờ ông Giáo Thái mới kể rõ hơn:
- Cách đây ba ngày trong lúc đào gốc cây mai để bón
phân, tình cờ tôi thấy cái hộp này nằm dưới đất, vừa lấy lên thì tôi bị ngã vật
ra, tay chân tê buốt và bị hành hạ suốt đêm đó...
Bà Dung kinh ngạc: - Sao vậy? Trong cái hộp này có gì
mà ghê gớm như vậy?
Ông giáo Thái từ từ mở nắp hộp ra, để lộ một chiếc
vòng cũng bằng bạc nằm gọn trong đó. Bà Dung vẫn chưa hiểu: - Nó chỉ là chiếc
vòng, anh nói là bị hành hạ là sao?
Bà giáo Thái chen vô nói:
- Chị thử cầm nó lên coi, sẽ hiểu thôi.
Bà Dung quên cả dè dặt, cầm ngay chiếc vòng lên
nhìn kỹ cả hai mặt rồi giật mình:
- Sao lại có tên của thằng con tôi ở đây vậy?
Rõ ràng trên chiếc vòng cũ hiện lên dòng chữ:
"Trần Thiện Hảo 19 tháng giêng... luật
sư".
Ông giáo Thái chưa kịp nói gì thêm thì bà Dung đã
lẩm bẩm: - Đúng là tên họ và ngày sinh của thằng Hảo rồi...
Ông giáo Thái tiếp:
- Ban đầu tôi đâu biết cậu Hảo là ai, nghĩ chắc là
ai đó làm thất lạc món đồ này. Nhưng ngay đêm đó tôi được ai đó hiện về trong
giấc mơ gọi giật tôi dậy và phán bảo rằng nếu tôi không tìm được người con trai
tên Hảo này đem về... làm rể thì cả nhà tôi phải chết. Sáng ra tôi kể lại cho
nhà tôi nghe, bà ấy nói là tôi chiêm bao mộng mị, không tin. Đến khi chính bà
ấy cũng bị y như vậy thì vợ chồng tôi mới tin là thật.
Bà giáo Thái tiếp lời:
- Có một cái vong bám theo chiếc vòng này, cứ ra
lệnh cho tui phải làm theo lời bà ta. Tui tỏ ý không đồng tình thì suốt mấy đêm
liền tui chẳng thể nào ngủ được. Có đêm tui còn bị đè đến muốn tắt thở luôn!
Bà Dung chưa thể nào tin:
- Tại sao có chuyện lạ kỳ như vậy? Anh chị nói cái
vong là vong gì?
- Thì là vong người chết! Chị chưa từng nghe nói
đến vong hay hồn người chết à? Vong là hồn ma hiện về được!
Bà Dung bắt đầu sợ: - Nhưng sao cái vong gì đó có
cái vòng này và bắt ép anh chị là ý gì?
Ông giáo Thái đành phải nói thẳng:
- Họ muốn ép chúng tôi phải gả con gái cho người mà
họ chọn.
- Nhưng... người đó là ai?
- Thì là con trai của chị! Bộ chị không thấy cái
tên con chị nằm trên chiếc vòng sao?
Bà Dung hốt hoảng:
- Trời ơi, vậy ra con tôi bị... ma quỷ ám rồi sao?
Ông giáo Thái thở dài: - Mà nào vợ chồng tôi có đứa
con gái như ý họ đâu...
Lời ông chưa dứt thì bà vợ đã chen ngang vô, có lẽ
sợ ông nói hố:
- Ý ông nhà tui muốn nói... chúng tôi chỉ có một
đứa con gái rượu, nay phải nghe theo lời ép buộc này thì...
Bà Dung bất nhẫn:
- Tôi cũng đâu muốn ép uổng gì ai. Vả lại thằng con
tôi nó kén cá chọn tôm dữ lắm chớ đâu phải...
Nhưng vừa khi đó Hảo và Mỹ Hương cùng bước vô, họ
cùng lên tiếng như một đôi song ca:
- Dạ, tụi con thương nhau chớ có ép gì nhau đâu. Ba
má yên tâm, mối lương duyên này là do trời định và tụi con chỉ biết tuân theo
thôi!
Vừa nói Mỹ Hương vừa giật chiếc vòng trên tay cha
và phấn khởi nói: - Đây là tín vật của chúng con do trời ban cho, chớ phải tụi
con tự tới với nhau đâu. Phải không anh Hảo?
Hảo thường khi ít nói, nhất là nhát gái, giờ đây
lại nhanh nhẩu:
- Vợ con nói đúng!
Bà Dung sững sờ nhìn con trai:
- Hảo, con vừa nói...
Hảo ôm vai Mỹ Hương, mặt lộ vẻ phấn khởi:
- Tụi con đã quyết định rồi, hai đứa sẽ cưới nhau.
Nay chỉ còn chờ ý của hai bên cha mẹ thôi!
Mặc dù dẫn con đi tìm vợ do bị thúc ép, vậy mà khi
nghe con nói, bà Dung lại một lần nữa kinh ngạc:
- Con nói thiệt?
Cả Mỹ Hương cũng lên tiếng:
- Chuyện trọng đại sao dám nói chơi được má!
Ông bà giáo Thái hình như không dám có ý kiến gì
khác trong việc này, nên họ cùng gật đầu một lượt:
- Các con tính sao cũng được.
Bà Dung đành phải gật đầu theo:
- Tùy con thôi...
Mỹ Hương lấy chiếc vòng đeo vào tay Hảo, vừa dặn:-
Đây là chiếc vòng hôn ước, anh đeo vô rồi thì vĩnh viễn không được tháo ra đó
nghen!
Hảo phấn khởi:
- Đeo vô để chúng ta có đôi bên nhau thì dại gì mà
cởi ra!
Nhưng vừa đeo chiếc vòng vào tay thì bất ngờ Hảo
kêu thét lên một tiếng rồi sau đó ngã bật ra nằm bất động. Bà Dung kinh hoảng:
- Trời ơi, sao vậy con!
Trong lúc mọi người lo sợ thì trái lại Mỹ Hương
tỉnh táo như chẳng có gì xảy ra, cô nói:
- Có như vậy thì mọi việc mới tốt đẹp. Thôi bây giờ
má có thể về được rồi, còn anh Hảo thì má để bên này con lo, chiều cả hai con
cùng về một lượt.
Bà Dung đâu thể yên tâm:
- Nhưng mà... nó bị như vậy...
Mỹ Hương cúi xuống và thật bất ngờ, cô ta bế xốc
Hảo trên tay, đi thẳng vào phòng trong trước sự ngơ ngác của hai bên cha mẹ.
Chính bà giáo Thái cũng phải lên tiểng hỏi chồng:
- Sao nó mạnh dữ vậy?
Ông giáo Thái nhẹ lắc đầu:
- Làm sao tôi biết được? À mà không, tôi muốn
nói... con gái mới lớn mà, nó khỏe hơn mình nhiều. Bà không nghe người ta nói
tuổi mười bảy bẻ gãy sừng trâu sao!
Bà Dung sững sờ giây lâu rồi Iắc đầu, chép miệng: -
Tôi không thể nào hiểu nổi, nhưng tôi vẫn lo cho thằng Hảo...
Bà giáo Thái lên tiếng:
- Con gái tui đã nói rồi, chị cứ yên tâm ra về để
chuẩn bị đám cưới cho tụi nó đi. Chớ điệu này tui e để lâu sẽ ăn thú phạt quá!
Ông giáo Thái cũng nói:
- Hổm nay tụi tôi đau đầu lắm rồi, nếu giải quyết
được sớm thì trút cái gánh nặng ngàn cân này chắc tụi tôi làm heo ăn mừng quá!
Lại sợ ông chồng nói hớ, bà vợ phải chận ngang:
- Hổm nay ông ấy bị oan hồn ám nên nói năng cứ như
là người cõi trên vậy đó. Thôi, nếu chị muốn về thì để tui biểu tụi nó đưa ghe
cho về, đỡ mệt hơn đi xe.
Bà Dung vẫn còn muốn hỏi thêm, bà kề tai bà sui gia
hỏi nhỏ:
- Tôi vẫn chưa biết cái vong, hay oan hồn là ai
vậy? Mà tại sao họ lại can thiệp vô chuyện của con tôi và con anh chị?
Bà giáo Thái hình như muốn né tránh nên nói lảng
ra:
- Chuyện này... có lẽ mình để sau này đi chị. Thôi,
chị sửa soạn về, còn thằng Hảo thì để nó ngủ một lát sẽ dậy thôi. Nó bây giờ
cũng giống như ông nhà tui lúc mới nhặt được chiếc vòng, ông cũng ngủ cả buổi
mới tỉnh lại.
Bà Dung ngẩn người ra một lúc mới dặn lại trước: -
Anh chị Giáo nhớ lưu ý giùm thằng Hảo, tuy lớn vậy mà tính tình hời hợt lắm,
nhiều khi...
Lời bà chưa dứt thì từ trong có tiếng của Mỹ Hương
vọng ra:
- Má cứ yên tâm về đi, con lo được cho anh ấy mà.
Chiều nay tụi con sẽ về ăn cơm, má nhớ dặn người làm nấu sẵn sớm tụi con về ăn!
Chẳng còn cách nào hơn, bà Dung đành vừa lắc đầu
vừa nói khẽ:
- Toàn chuyện gì đâu không, chắc tôi đứng tim mà
chết mất!
Bà không đi ghe như gợi ý của vợ chồng giáo Thái mà
tự kêu xe ngựa. Vừa về tới nhà thì bà đã nghe chị người làm nói: - Có một người
khách tới tìm cậu Hảo, tui nói cậu đi vắng thì người đó vẫn xông vô nhà và còn
nói rằng cô ta nhất định phải chờ để gặp cho được cậu Hảo!
Bà Dung ngạc nhiên:
- Cô ta đâu?
- Dạ, ở trên phòng cậu Hảo.
Bà Dung la toáng lên:
- Sao không có tôi ở nhà chị lại dám cho khách tự
tiện vô ra như vậy chớ?
Chị người làm Hai Chanh sợ sệt:
- Dạ thưa bà chủ, con không cho nhưng cô ấy cứ nhất
quyết đi đại vô nhà rồi còn chạy thẳng lên phòng cậu Hảo nữa. Con chưa kịp ngăn
lại thì cô ấy đã đóng kín cửa phòng rồi ở miết trong đó cho tới giờ!
Bà Dung tự hỏi: - Ai vậy? Không lẽ thằng Hảo có bạn
gái nào khác sao?
Bà vội đi lên lầu, gõ cửa phòng con trai. Từ bên
trong có người lên tiếng:
- Cửa không khóa, vô đi!
Nghe tiếng quen quen nên bà Dung đẩy nhanh cánh cửa
và sững sờ khi thấy người đang nằm trên giường là... Mỹ Hương, con gái ông bà
giáo Thái mà mình mới gặp bên nhà. Bà lắp bắp hỏi:
- Sao con về đây trước bác?
Cô gái lắc đầu:
- Tui tới tìm người tên Hảo, còn bà đây là...?
- Kìa, bác là má thằng Hảo đây, sao con không nhận
ra bác hả Mỹ Hương?
Cô gái nghiêm giọng:
- Tui không phải là Mỹ Hương, mà là Ngọc Hạnh. Bà
chưa trả lời câu hỏi của tui.
Bà Dung trố mắt:
- Con... cô nói sao? Bác già rồi nhưng đâu có lẫn
mà mới tức thời đây đã quên! Con là Mỹ Hương, con gái ông bà giáo Thái ở bên
Thiện Nhơn!
Cô gái gay gắt:
- Tui nói rồi, tui là Ngọc Hạnh và tui tới đây
không phải để thăm bà, mà là đòi nợ thằng con trai!
Trước thái độ căng thẳng của cô ta, bà Dung phải
dịu giọng: - Tôi xin lỗi... Nhưng không thể nào... không thể nào... nhất định...
Bà định quay xuống nhà gọi Hai Chanh, nhưng chừng
như biết ý bà nên cô gái tên Ngọc Hạnh đã chận ngang:
- Bà đừng sai người đi kêu ai đó tới, tui không
ngại giết chết họ ngay đâu! Bà hãy bước vô đây nghe tui hỏi, khôn hồn nghe lời
thì sống, mà cãi thì... thì chuyện xảy ra ắt bà đoán biết rồi.
Trước lời đe dọa đó bà Dung đành riu ríu bước vô
phòng. Bà chưa kịp ngồi xuống đã nghe cô gái hỏi:
- Bà có nhìn thấy cái này chưa?
Cô ta đưa ra một chiếc vòng bạc giống y như chiếc
vòng bà Dung mới nhìn thấy ở nhà giáo Thái.
- Ủa, sao nó lại ở đây?
Cô gái hỏi lớn: - Bà thấy vật này ở đâu?
Tình thật bà Dung kể:
- Tôi mới vừa thấy ở nhà vợ chồng giáo Thái bên
Thiện Nhơn, sao cô cũng có?
Cô gái hét lên:
- Quân chó má, bọn chúng đã ra tay trước ta rồi!
Chẳng hiểu ất giáp gì, bà Dung ngơ ngác:
- Cô nói vậy là sao?
Cô ta gầm gừ như con hổ cái:
- Chúng mày tính qua mặt tao phải không? Đâu có
được! Phải cho tụi bây biết tay mới hiểu hậu quả của hành động ngu xuẩn là như
thế nào!
Cô đứng vụt dậy, đôi mắt long lên tia hung ác khiến
cho bà Dung phát khiếp, lùi lại. Cô ta quát lớn:
- Bà dẫn tui qua chỗ đó ngay bây giờ!
- Đi... đi đâu?
- Nhà có chiếc vòng mà bà vừa nói!
Giọng bà Dung run rẩy:
- Cô ơi, chính cô là người biết chuyện đó mà. Chính
cô là Mỹ Hương mà...
Cô nàng thẳng tay bóp mạnh cổ bà, khiến bà Dung gần
nghẹn họng, bà cố kêu lên:
- Tôi... tôi chết...
Thẳng tay cô nàng xô một cái thật mạnh, làm cho bà
già té sấp xuống sàn nhà, trước mắt tối sầm lại, bên tai bà còn nghe văng vẳng:
- Muốn chết thì tao cho chết hết!
- Cô... xin cô...
Bà Dung chỉ kêu lên được mấy tiếng rồi bỗng ngất
lịm…
2. Nỗi oan
Choàng tỉnh lại, nhìn thấy Mỹ Hương và Hảo trước
mặt, bà Dung kêu thét lên:
- Đừng hại tôi!
Hảo hốt hoảng lên tiếng:
- Má sao vậy, con và Mỹ Hương đây mà!
Bà nhìn thẳng vào Mỹ Hương vừa xua tay lia lịa:
- Cô... cô này mới vừa ở đây...
Mỹ Hương phải lên tiếng ngay:
- Con chờ anh Hảo tỉnh lại ở nhà con thì đúng vào
giờ cơm, ba má con bắt phải ăn rồi mới được đi. Ăn cơm xong là tụi con đi ngay,
mới vừa về tới đây thì nghe chị Hai Chanh nói má có khách tới thăm mà lại tiếp
trên phòng anh Hảo, nên con mới chạy lên ngay và... thấy má đang nằm ngủ say!
Bà Dung chưa tin hẳn nên bật ngồi dậy quay sang
Hảo, hỏi bằng giọng sợ sệt:
- Đã có ai tìm con chưa?
Hảo ngơ ngác: - Ai tìm đâu má?
- Một cô gái... mà cô ấy lại giống... giống y như
cô này.
Nghe bà gọi mình là cô, Mỹ Hương kêu lên:
- Bộ má không nhận con là con dâu sao! Má...
Hảo cũng nói:
- Sớm muộn gì thì Mỹ Hương cũng là dâu con của má
rồi, má đừng...
Bất chợt nhìn thấy chiếc vòng bạc trên cổ tay Hảo,
bà kêu lên:
- Chiếc vòng ấy cũng giống hệch như chiếc này! Cô
ta cũng có một chiếc...
Hảo gắt lên:
- Má nói cô nào?
Bà Dung phải nói thật:
- Có một cô gái đột nhập vô phòng con đây, cô đưa
ra một chiếc vòng bạc giống như chiếc này rồi hỏi má có biết không. Sau khi
nghe má nói vừa nhìn thấy nó ở nhà anh chị sui gia thì cô ấy giận dữ, trừng mắt
nhìn má rồi còn hăm dọa sẽ giết hết người bên nhà... anh chị sui gia nữa!
Mỹ Hương hốt hoảng:
- Nguy rồi! Điều này có nghĩa là...
Cô quay sang nói với Hảo: - Anh ở lại đây lo cho
má, em phải chạy về nhà gấp.
Cô phóng ra ngoài chạy như bị ma đuổi nhưng dẫu vậy
khi về tới nơi thì mọi việc đã quá trễ. Cả hai ông bà giáo Thái đã nằm gục
trong nhà. Miệng của hai người đều trào máu.
Đúng ra trước cảnh như vậy thì Mỹ Hương phải gào
khóc và tức tốc báo động để gọi người cấp cứu. Đằng này cô lại lặng lẽ bỏ đi và
biến mất ở khu nhà mồ dòng họ Henri Phạm ngay trong khuôn viên nhà ông giáo
Thái.
Nửa giờ sau Hảo cũng có mặt. Anh không thể yên tâm
để Mỹ Hương đi một mình nên vụt chạy theo. Khi vào nhà anh chẳng còn nhìn thấy
cảnh tượng mà Mỹ Hương mới thấy, có nghĩa cả hai ông bà giáo Thái đã không còn
nằm ở đó nữa. Chỉ còn lại hiện trường mấy vết máu...
Chưa biết chuyện gì đã xảy ra, Hảo cố tìm kiếm khắp
nhà, nhưng chẳng hề thấy bóng dáng ông bà Giáo đâu. Chợt nhìn thấy một chiếc
khăn tay màu xanh nằm trên vạt cỏ, Hảo giật mình kêu lên:
- Cái này của Mỹ Hương mà?
Anh nhặt lên và tự dưng hướng mắt về phía cuối khu
vườn. Linh tính báo cho Hảo biết có điều gì ở nơi đó...
Bước một cách dè dặt về phía đó, Hảo phát hiện ra
một dãy nhà xây kiên cố đã cũ, nhưng hình như không phải để ở, mà Ià... nhà mồ.
Quả đúng như vậy, khi nhìn thấy dòng chữ trên tấm biển "Mộ phần nhà họ
Henri Phạm" thì Hảo kêu lên:
- Đây là nơi chôn cất dòng họ của Mỹ Hương!
Tò mò, Hảo không ngại khi bước thẳng vào bên trong
nhà mồ và giật mình khi nhìn thấy chỉ có hai ngôi mộ xây bằng loại đá gì đó ánh
lên màu đỏ phản chiếu ánh ngọn đèn le lói trên tường đến chói mắt.
Điều gây ngạc nhiên nhất đối với Hảo là cả một ngôi
nhà mồ to lớn có thể chứa cả vài chục ngôi mộ mà chỉ trơ trọi có hai mộ phần.
Phải chăng là nơi chôn cất hai người đức cao vọng trọng nhất của dòng họ?
Suy đoán không bằng đến gần xem thực tế, Hảo bước
tới phía trước hai ngôi mộ và giật mình khi nhìn thấy hai mộ bia rất giống nhau
từ hình thức cho tới tên họ người chết. Mộ bên trái mang tên Mỹ Hạnh còn mộ bên
phải là Mỹ Hương.
- Sao lại là... Mỹ Hương?
Hảo kêu lên kinh ngạc rồi đứng thừ người ra. Một
luồng khí lạnh đang chạy dọc theo sóng lưng anh, càng lúc càng lạnh hơn khiến
Hảo bắt rùng mình.
- Trời ơi, chẳng lẽ...
Anh cố đọc kỹ dòng chữ ghi ngày tháng năm sinh và
một lần nữa kêu lên:
- Đúng là cô ấy! Sinh ngày 15.03.1951 và chết ngày
18.06.1971 tức mới chết chưa đầy hai năm, lúc mới vừa tròn hai mươi tuổi!
Hảo nhẩm tính và gần bị choáng, vừa lúc anh đọc
thêm mộ bia kế bên của người tên Mỹ Hạnh. Cô này sinh ngày 15.03.1951 và cũng
chết ngày 18.06.1971 y như của Mỹ Hương.
- Họ cùng sinh và cùng chết một ngày! Vậy là... hai
chị em song sinh!
Hảo rùng mình một lần nữa khi nhớ tới việc sáng nay
anh đã trao đổi nụ hôn đầu tiên với Mỹ Hương tại khu vườn nhà này! Khi ấy chính
Mỹ Hương đã hỏi anh một câu mà đúng ra nếu anh tỉnh táo, không bị chìm trong mê
muội thì đã hiểu ngay ý nghĩa của nó. Câu hỏi quá rõ ràng: - "Nếu có một
người không còn sống trên đời này nói yêu anh thì anh nghĩ sao? Anh có yêu
người ta không?"
Lúc ấy Hảo đang như nguời cõi trên, anh chỉ biết
rút đầu vào ngực cô nàng mà không đáp. Để rồi sau đó đã nói một câu thật mơ hồ:
- Được yêu thì phải yêu cho xứng với tình yêu của
người ta cho mình...
Mà cũng kỳ lạ thật, lúc đó tại sao Hảo không hỏi
cho rõ ràng tại sao là người sống mà cô nàng có thể lọt vào phòng riêng của anh
một cách dễ dàng như thế được?
Nhớ lại những giấc mơ mà mẹ anh kể khiến cho Hảo
càng khó hiểu hơn. Cũng như thái độ lập lờ của cha mẹ Mỹ Hương nữa, chắc chắn
là còn có điều gì đó bí ẩn trong ngôi nhà này...
Hảo muốn bỏ ra ngoài, nhưng bất chợt anh lại nhìn
thấy một vạt áo màu xanh quen thuộc của Mỹ Hương còn ló ra ngoài chỗ nắp đậy
ngôi mộ đá.
- Của Mỹ Hương!
Sự thắc mắc và tò mò đã khiến Hảo đâm ra liều. Anh
có một quyết định mà nếu lúc khác thì sẽ chẳng bao giờ làm như vậy. Anh đưa tay
đẩy thử nắp mộ phần. Và... cái nắp xê dịch một cách nhẹ nhàng!
Cứ nghĩ tới một thi thể như còn sống của Mỹ Hương
trong đó, Hảo hơi run... đến khi nguyên phần bên trong mộ huyệt lộ ra thì Hảo
mới thét lên:
- Trời ơi!
Người đang nằm trong phần mộ không phải là Mỹ
Hương, mà chính là... bà giáo Thái!
- Trời ơi, sao... sao vầy nè?
Hảo vừa hỏi vừa bước lui ra mấy bước. Bất chợt lưng
anh va vào một người nào đó ở phía sau. Hảo quay lại và kêu thét lên:
- Trời ơi!
Thì ra người đứng ngay phía sau Hảo chính là... Mỹ
Hương!
Hảo cố đứng vững, nhưng đôi chân cứ như bị ai kéo
xuống, lảo đảo... Bỗng anh bị bàn tay của Mỹ Hương chụp lấy và nàng nhe răng ra
chẳng biết là cười hay khóc mà chỉ mới thoạt nhìn vào Hảo đã rụng rời. Bởi hai
bên khóe miệng là hai chiếc răng nanh nhô ra!
- Mỹ Hư... ơ... ng, e...m...
Hảo kêu chưa trọn tên thì đã bị ngay một cái tát
cực mạnh, kèm theo tiếng quát: - Còn kêu tao là Mỹ Hương nữa thì tao sẽ cắt
luỡi!
Bây giờ Hảo mới sửng sốt nhìn kỹ. Mặt mày thì giống
hệch, chỉ có cách ăn mặc thì không giống, nhất là giọng nói thì khác xa.
- Cô là...
Hảo đưa mắt nhìn xuống mộ bia có tên Mỹ Hạnh và
chợt hiểu. Anh lắp bắp:
- Cô là Mỹ Hạnh!
Cô ta không đáp, lại đưa tay kia hình như định kéo
Hảo tới gần hơn. Vô tình cổ tay có đeo chiếc vòng bạc của cô ta va chạm vào
chiếc vòng trên tay Hảo, vang lên một tiếng khô khan và... cùng với một tiếng
thét kinh hoàng từ miệng cô nàng. Rồi trước sự kinh ngạc của Hảo, cô ta lảo đảo
ngã xuống.
- Cô Mỹ Hạnh!
Hảo cúi xuống định đỡ cô ta dậy thì ngẫu nhiên lại
chụp đúng cổ tay có chiếc vòng bạc. Chẳng hiểu chiếc vòng rộng hay sao, mà vừa
nắm phải thì nguyên cái vòng đã nằm gọn trong tay Hảo. Và... chẳng thể nào tin
nổi, thân thể của cô nàng bỗng dưng bốc cháy, khói bốc lên xanh cả một góc
phòng.
Khi khói tan thì chẳng còn trông thấy thi thể của
Mỹ Hạnh đâu nữa. Hảo bàng hoàng:
- Trời ơi!
Vừa lúc ấy chiếc vòng bạc trong tay Hảo bỗng lóe
sáng rồi có một luồng khí lạnh buốt chạy theo cánh tay anh, chạy lên tận đầu.
Hoảng quá, Hảo tìm cách đặt chiếc vòng xuống nhưng không tài nào tháo ra được.
Mà khí lạnh thì càng lúc càng mạnh thêm, khiến cho Hảo hầu như không còn kiểm
soát được mình nữa. Anh lấy tay này chụp qua tay kia và chiếc vòng anh đang đeo
cũng phát ra luồng khí lạnh khác, giống y như chiếc vòng kia. Hảo quýnh quá,
liền kéo mạnh, chiếc vòng đó cũng rơi ra như chiếc kia và... cả hai rơi chồng
lên nhau.
Lúc ấy cái cảm giác kỳ lạ mới chấm dứt. Hảo ngơ
ngác: - Sao kỳ vậy?
Anh cúi xuống nhìn kỹ vào hai chiếc vòng và càng
ngạc nhiên hơn khi trên vòng dòng chữ tên của anh bây giờ có thêm hai chữ Mỹ
Hương lồng vào, còn chiếc kia thì thêm hai chữ Mỹ Hạnh xoắn lấy chữ Thiện Hảo.
Hảo hoang mang cực độ, anh lẩm bẩm:
- Sao lại có chuyện này? Tại sao là Mỹ Hạnh?
Vừa khi ấy Hảo nghe có tiếng động ở phần mộ, vừa
quay lại anh đã hoảng kinh khi thấy bà giáo Thái đang trèo ra, vừa run lập cập.
- Cứu... cứu ông ấy với!
Hảo ngạc nhiên: - Cứu ai bác?
- Ông nhà tui! Ông ấy bị...
Bà run run vừa đưa tay chỉ vào phần mộ kế bên. Hảo
kinh ngạc:
- Ai ở trong đó?
- Ông nhà tui...
Hảo vừa đưa tay vịn vào thì nắp mộ đá dịch chuyển,
rồi một cánh tay đưa lên. Trong lúc Hảo còn đang sợ sệt chưa dám đưa tay nắm
lấy, thì bà Giáo đã nhào tới ôm lấy, cố kéo ra. Hảo buộc lòng phải tiếp bà cùng
kéo mạnh. Ông giáo Thái ra ngoài rồi mà vẫn còn choáng, ông lảo đảo phải vịn
vào thành mộ mới đứng vững. Ông cất giọng yếu ớt:
- Con nhỏ đâu rồi bà?
Bà giáo Thái lắc đầu:
- Tui đâu có biết...
Ông giáo Thái lẩm bẩm:
- Con Mỹ Hạnh... nó đâu có để cho yên...
Hảo chỉ xuống đất và nói nhanh:
- Cô ấy mới ở đây và... biến mất rồi!
Anh thuật nhanh cho ông bà giáo Thái nghe và hỏi
lại:
- Cô ấy là ai mà có vẻ không thiện cảm với cháu và
hình như là cả nhà này nữa.
Hai ông bà chừng như còn bị choáng sau khi bị lôi
từ trong mộ huyệt ra, nên nhất thời họ chưa trả lời câu hỏi của Hảo. Mãi khi
chợt nhớ ra điều gì đó, ông Giáo mới sợ sệt hỏi:
- Lúc nãy gặp nó, con có nghe Mỹ Hạnh nói gì hoặc
làm gì không?
Chỉ vào hai chiếc vòng bạc, Hảo đáp:
- Có lẽ mọi thứ xuất phát từ những chiếc vòng này.
Tại sao nó ở trong tay hai cô gái và đều có dính dáng tới cháu?
Ông giáo Thái sau một lúc ngập ngừng đã phải nói ra
điều mà vợ chồng ông có vẻ giấu từ lâu
- Nói thiệt với con, trong hai đứa này chỉ có con
Mỹ Hạnh là con ruột của hai bác. Còn Mỹ Hương...
Tưởng mình nghe lầm, Hảo hỏi lại:
- Bác nói ai?
Bà giáo Thái giọng buồn hiu:
- Chính là con Mỹ Hạnh!
- Vậy còn Mỹ Hương?
- Đây là điều bất hạnh của gia đình bác, mà bây giờ
có nói sơ lược thì con cũng không thể hiểu rõ nội tình. Hay là thế này...
Bà quay sang ông giáo Thái hỏi ý:
- Hay là tối nay mình lưu Hảo ở lại và kể hết cho
nó nghe?
Ông giáo Thái gật đầu:
- Phải như vậy thôi. Hảo nghĩ thế nào nếu hai bác
mời cháu ở lại đây?
Hảo không cần suy nghĩ thêm, anh gật đầu liền:
- Dạ, con sẽ ở lại. Miễn là...
Chừng như hiểu sự đắn đo của Hảo, ông giáo Thái nói
nhanh:
- Cháu cần phải nhìn tận mắt, nghe tận tai thì mới
có thể tin và cảm thông cho hai bác được. Thật ra vừa rồi hai bác đã gạt con và
cả mẹ con nữa...
Câu nói đó khiến cho Hảo sững sờ:
- Hai bác nói thiệt?
Ông giáo Thái cúi xuống nhặt hai chiếc vòng lên và
gói lại bằng chiếc khăn tay một cách cẩn thận, rồi bảo: - Chính hai vật này nó
đã hại bác và suýt nữa thì con cũng bị liên lụy.
Ông ra dấu cho Hảo rời khỏi ngôi nhà mồ với vẻ e dè
và cẩn thận khóa cửa ngoài. Đồng thời ông bẻ vẹo cả hai chiếc vòng ra, rồi sau
đó móc nó trở lại làm thành một vòng khóa thứ hai, rồi mới bỏ di. Hảo chưa hiểu
hết câu chuyện, nhưng cũng đi theo họ vào nhà. Khi đã ở trong nhà rồi ông giáo
Thái mới an tâm nói:
- Chính bác là người đi tận Thái Lan để mướn người
ta làm hai chiếc vòng đó, chỉ nhằm cho cháu vào tròng, đồng thời cứu con gái
của hai bác là Mỹ Hạnh. Nhưng không ngờ...
Nhưng lời của ông giáo Thái, Hảo càng nghe càng
không tài nào hiểu nổi. Anh ngơ ngác hỏi lại:
- Bác nói gì vậy? Sao lại có cháu trong đó?
Bà giáo Thái tỉ mỉ hơn:
- Số là mười tám năm trước bác sinh một đứa con gái
trong nhà bảo sinh tư nhân ở thị xã, nó có một cái bớt đen vắt ngang vai, nên
vừa sinh nó ra bác đã linh tính sẽ có chuyện gì đó bất thường. Mà quả thật vậy,
chỉ mới sinh được hai giờ thì con nhỏ khóc thét lên, dỗ gì cũng không nín. Người
nó tím tái mà ngay như hộ sinh và bác sĩ cũng chẳng làm cách nào cho nó nín.
Bác hoảng quá nên cứ nằm bên con mà khóc. Có một lúc vì quá mệt bác đã ngủ
thiếp đi. Đến khi tỉnh dậy bác đã vô cùng sửng sốt khi nhìn thấy bên cạnh con
mình còn có một đứa trẻ khác nằm ngủ ngon Iành. Nói thiệt, lúc đó bác không thể
nào tin được, bởi hai đứa trẻ giống nhau như hai giọt nước, đến bác mà cũng
lầm! Phải sau đó khi vạch lưng ra xem, bác mới biết đứa trẻ lạ khác con Mỹ Hạnh
nhà bác là ở chỗ trên vai nó không có cái bớt màu đen quái dị.
- Nhưng... đứa trẻ đó ở đâu ra. Đó có phải là Mỹ
Hương sau này không?
Bà giáo Thái thở dài đáp:
- Đúng là vậy! Nhưng nó ở đâu ra thì bác không thể
biết.
Ông giáo Thái kể tiếp: - Khi bác vô bảo sinh viện
thăm thấy sự việc như vậy bác mới đi hỏi khắp các phòng, chẳng ai biết tung
tích đứa bé. Cũng may, sau đó khi bác gái thay tả cho nó thì phát hiện ngay
dưới lưng nó có những chữ viết chi chít trên lưng, những chữ có nội dung kỳ lạ
vô cùng!
Hảo càng nghe càng bị thu hút bởi câu chuyện, anh
lắng nghe kỹ những lời kể tiếp theo của ông giáo Thái: - Nội dung những dòng
chữ đó đại ý nói rằng đứa bé đó ra đời là từ một lời nguyền của một người có
tên là Xuân Hương, người ấy căm thù một người đàn ông có tên là Trần Thiện Hữu,
nên muốn đứa con rơi của mình lớn lên và tìm kẻ thù để báo cho được hận mà mẹ
nó khi chết đi đã không báo được. Và hai bác là người có nghĩa vụ phải nuôi đứa
trẻ ấy lớn lên, cho đến khi nào nó báo được thù mới thôi!
Bà giáo Thái tiếp lời chồng:
- Chúng tôi đâu còn cách nào khác ngoài việc phải
làm theo lời dặn lạ kỳ đó. Tôi nuôi con bé và đặt tên là Mỹ Hương, gần giống
như Mỹ Hạnh con ruột mình. Một tuần sau khi sinh, tôi đưa cả hai đứa con về
nhà. Nửa đêm hôm đó tui nghe có tiếng ai đó gọi ngoài cửa sổ bảo rằng phải ra
gốc cây ngoài vườn, đào lấy lên hai vật mà bắt buộc phải đeo nó vào cổ tay hai
đứa trẻ. Họ bảo rằng nếu để lạc mất một trong hai vật đó thì mạng sống của hai
đứa trẻ sẽ bị nguy và người nuôi dưỡng chúng cũng bị ảnh hưởng!
Bà nói tới đó thì ngừng lại, có thể do hết hơi,
hoặc vì lý do gì đó... Ông giáo Thái lại phải nói tiếp:
- Chính tôi là người đem cuốc ra gốc cây trúc đào
ngoài vườn, đào xuống và gặp hai vật ấy. Đó là đôi vòng bằng bạc mà cháu nhìn
thấy hồi nãy.
Hảo chận ngang hỏi: - Nhưng sao trên hai chiếc vòng
lại có in tên của cháu?
- Đúng là ban đầu không phải là tên của cháu đâu,
mà là mang tên Trần Thiện Hữu!
Hảo hốt hoảng: - Sao là Trần Thiện Hữu? Mà Trần
Thiện Hữu nào?
Ông giáo Thái lắc đầu:
- Bác cũng không biết. Mãi về sau này khi gặp mẹ
cháu, bác mới biết người đó là...
Hảo bàng hoàng: - Có phải là ba cháu không?
Ông giáo nhẹ gật đầu:
- Rất tiếc là... đúng như vậy!
- Không thể nào!
Hảo kêu lên và đứng bật dậy. Anh lặp lại:
- Ba cháu chết đã lâu, mà ông cũng không thể nào
dính tới những người đó!
Ông giáo Thái cũng đứng lên, ông bước vô phòng
riêng, lát sau trở ra với một bức ảnh đã khá cũ cầm trên tay, đưa cho Hảo và
hỏi: - Cháu xem ảnh này có phải là cháu và ba cháu không?
Vừa cầm tấm ảnh xem, Hảo đã thảng thốt kêu lên: -
Ba con đây mà!
Trong ảnh, Hảo chụp với cha hồi năm anh mới lên
mười tuổi, tức trước khi cha chết năm sáu năm.
- Sao bác có tấm ảnh này?
- Bác đào lên được từ dưới gốc cây như vừa kể, cùng
với hai chiếc vòng bạc!
Hảo càng kinh ngạc hơn:
- Sao tấm ảnh này lại ở dưới gốc cây?
Ông giáo Thái trầm giọng xuống:
- Điều này là như bác nói lúc nãy, nó dính tới một
lời nguyền.
- Lời nguyền của ai?
- Của người tên Xuân Hương nào đó. Nhưng rủi là nó
lại ứng vào nhà của bác, vào đúng đứa con duy nhất của hai bác, con Mỹ Hạnh!
Ông ngừng lại một lúc rồi giải thích tiếp một cách
cặn kẽ:
- Ba cậu ngày trước có quan hệ tình cảm với một
người con gái tên Xuân Hương. Chẳng hiểu thế nào mà cô gái ấy nửa chừng xuân
gãy cánh thiên hương. Cô gái yểu mạng đó chẳng hiểu sao lại hận thù cha cậu và
tìm cách báo oán mà chưa có dịp. Ngôi nhà này trước kia là của một ông Đốc phủ
sứ, sau bán lại cho tôi. Có lẽ sự trùng hợp ngẫu nhiên đã khiến chúng tôi dính
vào vụ này. Có nghĩa là chúng tôi bị dính vô điều rắc rối mà đúng ra là của ba
cậu. Có lẽ oan hồn cô Xuân Hương đó lầm tưởng tôi là cha cháu, cho nên mới báo
thù ngay đứa con đầu lòng của tôi...
Hảo chận ngang:
- Rồi đứa bé mà sau này là Mỹ Hương thì sao?
Bà giáo Thái chen vô:
- Đó là... đứa con cõi âm, do oan hồn cô Xuân Hương
tạo ra để báo oán! Đấy là sự hiểu lầm mà vợ chồng tôi phải lãnh đủ. Như nhà tôi
vừa kể, âm hồn nghĩ chồng tui là cha cháu, ông Trần Thiện Hữu!
Đến phiên ông tiếp: - Hai cái vòng đó thật ra mang
tên Trần Thiện Hữu. Tôi biết là cái vòng của cô Xuân Hương đã làm và báo oan
sai người, cho nên tôi mới tìm thầy cúng và được biết cách hóa giải hữu hiệu
nhất là phải có thầy giỏi, có khả năng làm ra hai chiếc vòng khác, ghi tên
người khác để cho hai đứa bé đeo thay vì đeo đôi vòng mang tên Trần Thiện Hữu.
Và như tôi đã nói, tôi đã được người hướng dẫn sang tận Thái Lan để cậy một ông
thầy bùa danh tiếng bên đó, nhờ ông ấy gỡ đôi vòng có lời nguyền kia, đem về
một đôi vòng mới mang tên Trần Thiện Hảo.
- Nhưng sao lại là tên cháu?
- Điều này tôi hoàn toàn không biết, mà là do chính
ông thầy người Thái Lan tạo ra. Có thể ông ta làm theo bản năng, cái tên Trần
Thiện Hảo đối xứng với Trần Thiện Hữu, Hữu - Hảo, hoặc là do hận thù!
Hảo bỗng hỏi:
- Ông thầy người Thái tên là gì?
- Tôi còn nhớ rất rõ, ông ta là... là... Sinakul
Thong Sác!
Hảo sửng sốt: - Thong Sác! Trời ơi, có lẽ nào...
Tới phiên vợ chồng Giáo Thái kinh ngạc:
- Sao vậy? Cháu biết người này?
Hảo lắp bắp:
- Đó là... là người quen cũ của mẹ cháu! Ông ta
ngày xưa làm thầy ở xứ này, sau thất tình khi mẹ cháu đi lấy chồng nên bỏ xứ ra
đi. Mẹ cháu từng kể nhiều lần tên ông ta, ngày còn sống ba cháu cũng đã đôi lần
đi tận Thái Lan để tìm, bởi giữa hai người có mối hiềm khích từ xa xưa...
Bà giáo Thái bịt miệng: - Vậy thì đúng rồi! Thảo
nào khi ông nhà tui tìm sang đó, sau khi kể chuyện thì ông ta tự ý làm đôi vòng
khác, khắc tên Trần Thiện Hảo lên đó. Có lẽ ông ta nhằm trả thù, muốn hại giọt
máu kẻ tình địch của mình!
Hảo ôm đầu rên rỉ:
- Trời ơi, sao người ta lại nhẫn tâm, báo thù ngay
trên một đứa trẻ con như cháu?
Hảo muốn bỏ đi, anh định về nhà hỏi mẹ đôi điều
nhưng vừa lúc ấy ông giáo Thái gọi lại và nói thêm:
- Bác còn chưa nói hết cho cháu nghe, khi được mười
tuổi thì con Mỹ Hạnh của bác bỗng ngã bệnh. Nằm dưỡng bịnh được mấy ngày thì
một hôm nó biến mất cho đến ngày nay. Sau hơn một năm chờ đợi trong vô vọng thì
một đêm kia bác mơ thấy nó hiện về kêu gào thê thảm. Bác hỏi thì nó chẳng những
không kể nguyên nhân mà lại chỉ thẳng vào mặt bác mắng xối xả, bảo rằng bác
nuôi con người khác, bỏ bê nó. Bác nói gì nó cũng không nghe và trước khi nó đi
nó còn lớn tiếng hăm dọa là sẽ khiến cho vợ chồng bác thê thảm mới hả dạ!
Bà giáo Thái lại phải tiếp sức với chồng kể tiếp,
bởi kể tới đó thì do quá xúc động nên ông giáo Thái không còn đủ sức nói nữa:
- Sau đó bác mới hiểu ra, do khi đem hai chiếc vòng
từ Thái Lan về, thay vì cho cả hai đứa trẻ đeo như lời dặn của ông thầy Thong
Sác, đằng này chỉ cho có một mình con Mỹ Hạnh đeo, chỉ vì nó là con ruột của
mình, chúng tôi muốn bảo vệ nó.
Hảo buột miệng: - Có nghĩa là hai bác có ý muốn bỏ
rơi Mỹ Hương!
Bà giáo Thái thật lòng: - Quả là có như vậy, nhưng
không phải chúng tôi bỏ rơi con Mỹ Hương, mà đúng hơn là sợ... Bởi ông Thong
Sác đưa hai cái vòng đó và dặn kỹ rằng khi lớn lên chỉ đứa nào trong hai đứa mà
được lời cầu hôn trước thì sẽ tồn tại, đứa còn lại sẽ khó toàn mạng. Do đó mà
chúng tôi chỉ cho con Mỹ Hạnh đeo một chiếc vòng, còn chiếc kia thì đem chôn
dưới đất. Không ngờ...
Ông giáo Thái nói:
- Không ngờ con Mỹ Hạnh chết mất xác, mang theo
chiếc vòng đang đeo trong tay. Từ đó vợ chồng tôi nghĩ rằng con ruột của mình
đã chết rồi thì còn giữ gìn gì nữa, nên tình cảm có chuyển sang cho con Mỹ
Hương. Bởi dẫu sao thì vợ chồng tôi cũng nuôi nó từ tấm bé và suốt thời gian
dài như vậy chẳng hề phát hiện nó có chút gì là con của ma quỷ cả. Có lẽ vì vậy
mà vong hồn con Mỹ Hạnh sinh ra oán hận chúng tôi, cho là chúng tôi không
thương nó!
Hảo vẫn còn thắc mắc:
- Nhưng sao hai bác lại xây cái nhà mồ mà trong đó
có cả mộ của hai cô?
Bà giáo Thái chợt khóc nức nở:
- Là bi kịch mà vợ chồng tôi phải nhận lãnh đó, chớ
đâu phải Iàm theo ý muốn đâu. Đầu tiên con Hạnh hiện về buộc vợ chồng tôi phải
xây một cái mộ dành cho... con Mỹ Hương! Tôi hỏi sao con Mỹ Hương còn sống mà
lại xây mộ thì nó bảo rằng nó muốn con Mỹ Hương chết theo nó và phải bị nhốt
trong một nhà mồ như vậy và nó sẽ là người canh giữ không cho con Mỹ Hương
sống, kể cả trong thế giới vô hình! Thì ra khi bị oan hồn cô Xuân Hương hại
chết, nó trở thành ma, một thứ hồn ma đồng trinh nên linh ứng và nguy hiểm hơn
cả oan hồn của Xuân Hương và nó quay lại trả thù ngay cả giọt máu rơi của ma là
Mỹ Hương!
- Nhưng tại sao trong nhà mồ có tới hai mộ huyệt
cho cả hai cô?
Ông giáo Thái lắc đầu:
- Tôi cũng chẳng biết tại sao. Bởi khi vừa xây xong
ngôi mộ dành cho Mỹ Hương thì ngay sáng hôm sau đã thấy có thêm ngôi thứ hai mà
chẳng biết ai xây.
Bà giáo Thái thì quả quyết:
- Chắc chắn là vong hồn cô Xuân Hương rồi! Bởi mấy
đêm liền tôi đều nghe tiếng cãi vả bên ngoài vườn, lắng nghe kỹ tôi nhận ra
trong hai người cãi có tiếng của Mỹ Hạnh. Nó cãi với người tên Xuân Hương. Thì
ra khi chết thành ma thì con Mỹ Hạnh không còn sợ người bắt hồn nó nữa, mà
ngược lại nó đâm ra muốn diệt luôn cái mầm mống của Xuân Hương. Nó bây giờ hầu
như chẳng còn biết phân biệt ai là ai hết!
Hảo nhớ lại khi hai chiếc vòng chạm nhau thì Mỹ
Hạnh ngã lăn ra rồi bốc cháy, anh kể cho ông giáo Thái nghe. Vừa nghe xong ông
nói liền:
- Bác đã nghe cháu kể rồi, do vậy khi ra khỏi nhà
mồ bác mới dùng hai chiếc vòng để khóa cửa lại. Theo bác, cách ấy sẽ khống chế
được cả hai, bởi hai chiếc vòng đều là sản phẩm của ông thầy yểm bùa nổi tiếng,
nó có khả năng triệt tiêu luôn những oan hồn uổng tử lộng hành.
Hảo nhìn hai người, dè dặt hỏi: - Nhưng sao hai bác
lại bị nhốt trong nhà mồ, mà lại nằm trong hai cái mộ huyệt đó? Vậy xác hai cô
ở đâu?
- Cả hai đều không có xác, con Mỹ Hạnh thì đã mất
xác ngay lúc còn nhỏ, còn con Mỹ Hương thì cách đây một năm cũng đã mất tăm,
nghe nói chết trôi. Nhưng vong hồn hai đứa thì lúc nào cũng bám theo vợ chồng
bác, cứ thúc giục bác phải tìm chồng cho chúng, mà nhất thiết phải là người con
của ông Trần Thiện Hữu thì chúng mới chịu!
- Vậy ra hai bác tìm được cháu và gạt cho cháu tới
để sa vào chiếc bẫy của hai cô con gái nhà bác?
Ông giáo Thái buồn bã lắc đầu: - Hai bác chỉ muốn
được yên thân thôi! Còn đưa cháu tới đây thì bác làm sao biết cháu là ai, ở đâu
mà gọi tới. Chuyện này là do các hồn ma hoặc là do... mẹ cháu!
Hảo bài bác ngay:
- Mẹ cháu làm sao hại con mình mà đưa cháu tới đây?
Nhất định là có uẩn khúc gì đây.
Hảo dứt khoát bỏ đi, anh về nhà. Thấy Hảo trở về
chị người làm Hai Chanh mừng khôn xiết:
- Bà tỉnh lại lâu lắm rồi, cứ hỏi cậu đi đâu, tui
đoán là cậu qua nhà Mỹ Hương nên nói đại. Bà hoảng hốt cứ đòi theo qua bên đó,
nhưng do hai chân còn quá yếu đi không được nên bà cứ nằm đó khóc gào, cứ hối
tui đi kêu cậu về, đừng ở bên cái nhà ma quỷ đó. Mà nhà nào là nhà ma quỷ vậy
cậu?
Hảo không tiện nói ra nên anh giục chị ta:
- Chị đi rước thầy thuốc về trị bệnh cho má tôi đi.
Đợi cho Hai Chanh đi rồi Hảo mới ngồi xuống hỏi mẹ:
- Má nói cho con biết ông Thong Sác hiện giờ ở đâu?
Câu hỏi bất ngờ đó khiến bà Dung giật mình:
- Sao... sao con hỏi chuyện đó? Ông ấy thì có dính
gì tới nhà ta nữa đâu...
Hảo nghiêm giọng: - Con biết hết rồi, chính ông ta
đã yểm bùa nhà mình, tính hại chết con để trả thù việc má bỏ ông ta đi lấy ba
con ngày trước!
Bà Dung càng lúng túng:
- Ai... ai nói với con chuyện đó?
- Thì chính việc má xui con đi hỏi vợ đúng nhà vợ
chồng ông giáo Thái đã nói lên điều đó rồi! Má, tại sao má đưa con vô chỗ chết?
Bà Dung ôm mặt khóc, hồi lâu sau mới nói:
- Việc ấy má hoàn toàn không làm. Mà là do... chính
mấy cái vong hồn của hai đứa con gái đó nó xúi má, nó giục má phải đi hỏi vợ
cho con bằng được!
Hảo kể lại chuyện biết được bên nhà giáo Thái cho
mẹ nghe và lắc đầu bảo:
- Điều đó không đúng! Bởi theo lời nguyền thì một
trong hai cô mà nhận được lời cầu hôn trước thì người còn lại sẽ chết, mà chắc
gì khi con qua đó lại cầu hôn ai theo ý của họ. Như vậy hai oan hồn đó đã có
người đứng sau lưng. Có thể là cô Xuân Hương, mà cũng có thể là... ông Thong
Sác?
Bà Dung trầm ngâm một lúc rồi nói:
- Má nghĩ chắc là như vậy. Và đứa con gái được hậu
thuẫn mạnh hơn đã thắng, đã được con ngỏ lời cầu hôn. Bởi vậy đứa kia mới chết
lần thứ hai.
- Má nói cô Mỹ Hạnh?
- Mỹ Hạnh là người thua cuộc, còn người thắng như
lời con kể thì đã chiếm được tình cảm của con. Cô ấy...
Hảo hốt hoảng: - Như vậy con đã...
Anh không dám nói mình đã có hôn ước với Mỹ Hương,
với hồn ma, nên lắp bắp:- Con... con...
Bà Dung rầu rĩ: - Dẫu ai thắng thì con cũng phải
chết, bởi có ai yêu hồn ma mà được như ý đâu...
Lời bà chưa dứt thì bỗng có một giọng nói vang lên
ngay trong nhà:
- Cũng có ngoại lệ chớ má! Người đó là con đây.
Cả hai quay lại và điếng hồn khi thấy Mỹ Hương đứng
phía sau họ. Trông sắc mặt tươi thắm kèm nụ cười khả ái, Hảo giật mình:
- Em... à mà cô không sao chứ?
Mỹ Hương nũng nịu:
- Từng kêu em là em ngọt xớt, mà bây giờ lại cô này
cô nọ nữa rồi! Bộ anh nói không còn chiếc vòng hôn ước thì mọi việc xóa bỏ hay
sao?
- Nhưng...
- Em tuy là hồn ma, nhưng với nỗi oan ức lớn mà mẹ
nuôi em đã mang nên em không thể về với cát bụi được, mà em phải... kết thành
nhân duyên với anh!
Hảo lắp bắp hỏi:
- Em là... là con của cô Xuân Hương?
Nàng lắc đầu: - Em và cô ấy không hề có quan hệ máu
thịt gì cả! Em là một đứa con bị bỏ rơi trong nhà bảo sinh đúng vào lúc bà giáo
Thái sinh con, rồi em bị ghép vào chung giường với con bà Giáo.
- Ai đã làm chuyện đó?
Hảo hỏi với giọng nghi ngờ, Mỹ Hương đáp có vẻ
thành thật: - Em không hề biết, nhưng chắc chắn là có người sau lưng điều khiển
em và có ý muốn cho em gặp được anh, như vừa rồi...
- Người đó là cô Xuân Hương?
Mỹ Hương vẫn lắc đầu: - Em cũng không rõ, nhưng mới
đây thì có một người ra mặt giúp em, đưa em ra khỏi nhà, tránh phải đối đầu với
oan hồn của Mỹ Hạnh. Nhờ vậy mà em còn sống đến ngày nay.
Hảo trố mắt kinh ngạc: - Cô là người sống?
Mỹ Hương cười, gật đầu:
- Là người sống như anh!
Hảo lắc đầu: - Không thể tin dược! Người sống mà
đột nhập vào phòng người khác dễ như bỡn, biến đi như gió là sao?
Mỹ Hương đáp:- Đó là do em bị người ta sai khiến.
Mọi điều là do họ...
Bà Dung nhìn Mỹ Hương từ đầu đến chân, vẻ sợ hãi
vẫn còn nguyên: - Cả hai cô gái nhà ông bà Giáo đều là ma, chớ đâu có ai là
người! Tôi không tin...
Mỹ Hương vẫn giữ sự bình tĩnh: - Vậy mà đây là sự
thật! Và chỉ có một người nói thì bác sẽ tin thôi.
Vừa khi ấy có một tiếng tằng hắng phía sau, bà Dung
và Hảo quay lại nhìn và kinh ngạc. Nhất là bà Dung, sững sờ trước con người mới
vừa xuất hiện đó, bà lắp bắp: - Ông... ông là...
- Mới có mười lăm năm không gặp mà bà đã quên rồi
sao. Thảo nào...
- Thong Sác!
Nghe mẹ kêu cái tên đó Hảo trố mắt nhìn người đàn
ông vừa vào, anh cũng lắp bắp: - Ông... là...
Người đàn ông ăn mặc theo phong cách Thái Lan,
nghiêm giọng nói: - Tôi là Thong Sác! Là...
Ông ta chưa kịp nói thì bà Dung đã chận lại:- Không
được! Ông không đủ tư cách nói ra điều đó!
Nhưng Thong Sác vẫn nói:- Đã đến lúc tôi không được
quyền giữ riêng cho mình nữa rồi. Tôi sẽ nói...
Ông quay sang Hảo, nhìn anh với cặp mắt trìu mến: -
Hảo, ba đây mới chính là ba ruột của con đây!
Hảo nghe như có tiếng sét bên tai, anh run run hỏi:
- Ông... điên rồi hay sao?
- Không điên! Bởi nếu ta điên thì vừa rồi ta đã
không nhanh tay cứu được con khỏi sự trừng trị của Mỹ Hạnh. Việc làm cho nó tan
thành khói là do ta làm, chớ đâu phải tự dưng mà nó như vậy sao! Cũng như nếu
ta không vì con thì đâu liều mạng với oan hồn dữ dằn của Xuân Hương. Vừa vĩnh
viễn đuổi cô ta đi, lại vừa giành lại người con gái có duyên số với con, Mỹ
Hương đây!
Trong lúc Hảo còn đang hoang mang, bán tín bán nghi
thì bỗng mẹ anh thở dài rồi lên tiếng:
- Ông ấy nói đúng đó con!
Hảo kinh hãi: - Sao lại có chuyện này?
Ông Thong Sác tiếp lời: - Ngày mẹ con bỏ ta đi lấy
chồng, tức ông Trần Thiện Hữu, cũng là lúc bà ấy đã có thai được hai tháng. Con
là cái thai ấy! Không tin thì hỏi mẹ con coi...
Hảo đưa mắt nhìn mẹ và nhận được cái gật đầu của
bà. Trong lúc đó thì giọng ông Thong Sác đều đều: - Ta quả thật có hận thù với
ba kế của con, nên lúc đầu có ý báo oán. Nhưng gần đây khi chứng kiến cảnh con
và mẹ con khổ sở, lo âu, nên ta kịp nghĩ lại. Ta đã hối hận và quyết làm cái gì
đó để chuộc lỗi...
Ông đứng lên, đưa cho Hảo và Mỹ Hương mỗi người một
chiếc vòng bạc còn mới, nói bằng giọng chân thành: - Vật này mới đúng là của
hai con. Nó thuần túy là những chiếc vòng hạnh phúc, vòng hôn ước theo phong
tục của người Thái. Vậy hai con hãy đeo cho nhau đi, nó hoàn toàn không nguy
hiểm gì hết. Đeo vào sẽ được hạnh phúc dài lâu và còn... trị được tà ma nữa!
Ông nói xong bước đi thẳng không nhìn lại. Bất chợt
nghe bà Dung kêu lên thảng thốt:
- Anh Thong Sác!
Nhưng ông ta đã biến rất nhanh ngoài đầu ngõ. Hảo
đưa tay mình cho Mỹ Hương đeo chiếc vòng và chính anh cũng đeo cho nàng. Họ
hoàn toàn bình yên sau khi đeo vòng vào...
KHI NGƯỜI CHẾT TRỞ VỀ
(Tác giả: Người Khăn
Trắng)
Vào thời năm 1955 mà lái một chiếc xe mui xếp
(décapotable) đã là sang trọng và hách xì xằng lắm, mà người lái lại là một cô
gái nữa, thì phải nói là cả bãi biển dọc từ Bãi Trước qua Bãi Dứa, Ô Quắn và
Bãi Sau thiên hạ đều lác mắt nhìn.
Cô nàng dừng xe lại trước một nhà hàng hải sản ở
Bãi Sau tức thời có hơn chục cặp mắt nhìn ra không chớp. Trong số họ có người
nhận ra cô gái, nên kêu lên:
- Thu Vân!
Nhưng cô nàng hình như không để ý, cứ câng câng cái
mặt đẹp như một tài tử điện ảnh, rồi rú ga phóng đi trước sự trầm trồ của thiên
hạ. Người vừa kêu mà không được đáp lại đã không phiền lòng, trái lại còn hãnh
diện mình là người duy nhất biết tên cô nàng. Anh ta quay sang mấy người bạn
nói lớn:
- Con nhỏ này là con gái của chủ tiệm vàng Kim Xuân
ở Chợ Lớn Mới, đi học bên Tây mới về đó!
- Hèn chi chơi như Tây!
Một người khác thêm vào:
- Thời buổi này mà một mình lái chiếc xe mui trần
này từ Sài Gòn ra đủ biết không phải tay mơ rồi. Mà chiếc xe đẹp thiệt!
Một anh chàng khác phê bình:
- Khen người lái hoa nhường nguyệt thẹn không khen,
lại đi khen chiếc xe!
- Nhan sắc đó thì còn lời lẽ đâu mà khen cho vừa
nữa, thấy là đã hết hồn rồi!
Cuộc bàn luận quanh người đẹp có lẽ sẽ chẳng bao
giờ chấm dứt nếu không có hai cặp nam nữ nữa vừa bước vô quán mà nhìn cách phục
sức, cũng như phong cách của họ đã thấy có sự khác biệt ngay với những người
chung quanh. Họ vừa kéo ghế ngồi xuống thì đã bị nhận diện bởi anh chàng biết
tên cô gái lái xe mui trần lúc nãy. Anh ta gọi lớn:
- Henri Phạm! Phải toa đó không vậy?
Một trong số hai cặp vừa vào nghe có người gọi đã
quay lại và reo lên:
- Ồ Quang, tình cờ thú vị quá vậy!
Anh chàng tên Quang quay sang mấy người bạn, nói
như khoe: -
Người tên Henri Phạm kia quay lại hỏi:
- Nãy giờ toa có nhìn thấy em gái moa đi qua đây
không? Em gái moa lái chiếc décapotable màu đỏ...
- Có! Nàng đi về phía Ô Quắn, mới đi xong.
- Cám ơn toa, bọn này hẹn nhau ở đây, chắc nó không
thấy nên chạy chơi một vòng, lát nữa trở lại thôi.
Anh ta nói xong thì quay lại với mấy người bạn của
mình. Họ cầm bia chai ướp lạnh tu mấy hơi dài ra vẻ sành điệu. Quang khều người
bạn ngồi cạnh nói khẽ: - Tụi nó uống bia Pháp, hình như là mang theo đó chớ
quán này làm gì có bán.
Vừa khi ấy anh chàng Henri Phạm đích thân cầm sang
bốn chai bia lạnh vừa lấy ra từ trong thùng đá, đặt lên bàn và mời:
- Mời các anh cùng uống với mình cho vui!
Quang sợ các bạn ngại, nên vội nói:
- Henri đây là bạn của mình, cậu ấy có nhã ý mời
thì các bạn đừng ngại. Vậy xin cám ơn toa!
Ngẫu nhiên mà hai nhóm hòa đồng với nhau, họ cụng
ly vui vẻ và quên ngay cô nàng lái xe màu đỏ. Henri Phạm vui miệng nói:
- Bọn này ra dự lễ cưới của con gái ngài tỉnh
trưởng, tổ chức ở vườn hoa sứ trên Bạch Dinh vào chiều nay. Bọn này ngủ ở
Pacifique, nếu còn ở đây thì tối nay mình gặp nhau, nhảy chơi!
Quang đẩy đưa cho xong chuyện:
- Ờ, để bọn mình coi...
Chớ thật ra Quang không thích cách chơi của bọn con
nhà giàu này lắm. Anh tự hiểu là khó lòng chơi theo kịp họ, hơn nữa kiểu chơi
thác loạn thâu đêm của họ mà anh từng nghe kể khiến anh chào thua trước.
- Hay là lát nữa toa đi với bọn này, còn mấy bạn
toa thì mình hẹn mai gặp để dùng điểm tâm chơi.
Quang từ chối ngay: - Cám ơn toa, bọn này cũng có
một chương trình riêng, nên phải đi ngay sau đây.
Họ cụng ly lần nữa, bọn Quang chuẩn bị chia tay thì
chợt có tiếng người kêu thất thanh phía trước:
- Tai nạn ở Ô Quắn, kinh khủng lắm!
Ai đó hỏi: - Tai nạn thế nào?
Người nọ đáp:
- Có một chiếc xe hơi lạc tay lái đâm đầu xuống vực
sâu chỗ Ô Quắn, thảm khốc lắm!
Quang đứng bật dậy ngay và hỏi lớn:
- Có chết người không?
Nghe Quang hỏi, người nọ vừa chạy đi vừa đáp:
- Muốn biết tới đó mà xem! Một chiếc xe màu đỏ đẹp
lộng lẫy bây giờ chỉ còn là đống sắt vụn mà thôi.
Cả nhóm của Henri Phạm cùng đứng bật dậy kêu lên: -
Hả? Xe... màu đỏ!
Họ chẳng hẹn mà cùng phóng như bay về hướng xảy ra
tai nạn. Nơi đó cách Ô Quắn ngót một cây số, vậy mà cả bọn gần chục người chạy
bộ chỉ chưa đầy mười phút đã tới. Nhìn thấy một đám người khá đông bu trên bờ
vực sâu, Henri Phạm và Quang cùng chen vào nhìn xuống. Họ chỉ thấy một xác xe
màu đỏ nằm kẹt giữa hai tảng đá, sóng biển đang vỗ vào bọt trắng tung ra từng
đợt...
- Trời ơi, em tôi!
Henri Phạm như kẻ điên, bất kẻ hiểm nguy chạy ngay
xuống vực, một người nào đó la lớn:
- Phải đi theo lối này mới xuống được!
Nhưng Henri Phạm không cần nghe, anh ta cứ lần theo
các gờ đá, leo xuống một cách khó khăn mà vẫn không dừng bước. Quang là người
thứ hai đi theo lối những người đứng gần đó chỉ cho. Anh xuống được trước,
nhưng cũng chỉ cách chiếc xe bị nạn khoảng hơn ba chục mét. Rõ ràng là chiếc xe
màu đỏ, mui trần và một người nằm bẹp dí ở tay lái!
- Trời ơi!
Quang kêu lên một tiếng kinh hoàng rồi đảo mắt tìm
Henri Phạm. Lúc ấy anh chàng chỉ mới xuống được nửa phần đường và đành phải
dừng lại vì không còn lối xuống nữa. Một người cứu hộ đã xuống trước nói vọng
lên: - Anh đó không được xuống nữa nguy hiểm lắm, để người của tụi tui tới đưa
qua bên này!
Quang phải giải thích với họ: - Đó là người nhà của
nạn nhân, do quá sốt ruột nên xuống đại.
Họ cử một người khá rành leo trèo sang để giúp đưa
Henri Phạm trở lại đúng đường xuống. Phải mất hơn mười phút sau anh ta mới
xuống được chỗ của Quang, giọng anh ta gần như không còn hơi:
- Phải... phải là nó... là Thu Vân không?
Quang bình bĩnh hơn, anh chỉ chiếc xe đỏ và đáp:
- E rằng đúng!
Một người cứu hộ nói: - Chúng tôi đã xuống được chỗ
chiếc xe rồi, xe mang số NBK 538... và một cô gái bị kẹt giữa tay lái, đã chết
rồi!
- Thu Vân!
Henri Phạm kêu thét lên rồi gục xuống...
* *
*
Mãi đến chiều thì việc trục chiếc xe bị nạn mới
hoàn tất. Trước đó thì xác nạn nhân đã được đưa lên, đặt nằm trong chiếc xe cấp
cứu của bệnh vện chờ sẵn trên đường. Quang cũng có mặt để giúp bạn, bởi lúc ấy
Henri Phạm gần như không còn đứng nổi trên đôi chân nữa. Anh ta cầu viện tới
Quang:
- Toa phải ở đây với moa, chờ đến khi ba má moa ra
tới. Moa không còn tâm trí đâu mà lo nữa...
Quang siết chặt tay anh ta: - Cậu yên tâm, Thu Vân
cũng như em mình mà. Cậu có thể về khách sạn nghỉ ngơi, để mình theo xe cấp cứu
về bệnh viện và làm các thủ tục cho đến khi ba má cậu ra tới mình sẽ bàn giao.
Nhìn chiếc xe mui trần bẹp dúm, Quang bất nhẫn. Mới
buổi sáng đây cả bọn anh và cả bàn dân thiên hạ ở bãi sau còn trầm trồ, lé mắt
bởi chiếc xe đẹp mê hồn này, mà bây giờ...
Henri Phạm cố lê bước theo Quang đi về phía chiếc
xe chở xác, anh nói:
- Moa cũng phải theo nó tới phút cuối...
Quang kè một bên bạn mình tới chỗ xe. Tài xế lái xe
cấp cứu mở cửa trước cho hai người ngồi, nhưng Henri Phạm yêu cầu:
- Cho tụi tôi ngồi sau với em gái tôi.
Cửa sau chở xác luôn khóa kín, nên tài xế phải tự
tay mở khóa và dặn hai người:
- Xác đã quấn vải kín, hai cậu đừng mở ra.
Cửa vừa được mở, Henri Phạm yếu nên được Quang đỡ
lên trước, rồi anh mới theo sau. Bỗng cả hai người đều kêu lên: - Thu Vân đâu?
- Xác đâu?
Trong khoang xe không hề có cái xác vừa mới đem lên
cách đó hơn mười lăm phút!
Nghe họ kêu, cả nhóm người đang trục xác và xe đều
chạy lại và sửng sốt khi cái xác đã biến mất không để lại dấu vết gì! Người tài
xế quả quyết:
- Chỉ có tôi ở đây với cái xác, sau khi đưa vô
khoang sau rồi đích thân tôi khóa cửa lại, chìa khóa do tôi giữ, như vậy làm
sao mất được?
Quang lặng người đi. Trong đầu anh cảm giác như
nghe có một âm thanh kỳ dị, giống như tiếng khóc thảm thiết của ai đó... Nhưng
âm thanh đó chỉ thoáng qua rồi tắt lịm...
- Thu Vân?
Quang nói ngay âm thanh mình vừa nghe được và kết
luận: - Hình như... cô ấy đang ở gần đây?
Người trưởng toán cấp cứu hỏi:
- Anh nói cô nào?
- Cô gái chết trong tai nạn.
Họ cười ồ lên:
- Giàu trí tưởng tượng quá cha nội ơi!
Quang không quan tâm tới sự chế nhạo của họ, anh đi
quanh đó tìm kiếm... Lát sau anh nhặt được một mảnh vải, cầm tới hỏi Henri
Phạm:
- Có phải cái này là một phần bộ áo váy của Thu Vân
không?
Vừa nhìn thấy Henri Phạm đã kêu lên:
- Đúng rồi, vạt áo của nó!
- Như vậy xác chết đã ra ngoài xe rồi!
Nghe Quang nói, người trưởng toán cứu hộ quay sang
hỏi tài xế.
- Anh có khóa chặt cửa thùng xe không?
Anh tài xế gân cổ lên:
- Chắc chắn mà! Mà cái xác đã giập nát làm sao...
làm sao có thể tự bò ra ngoài được?
Quang vẫn quả quyết:
- Tôi có cảm giác cô ấy còn ở đâu đây...
Đích thân anh tìm quanh đó và thậm chí còn mở rộng
ra một phạm vi xa hơn. Cuối cùng đành thất vọng quay lại và bảo: - Chịu thôi.
Henri Phạm suy sụp hoàn toàn, anh ngồi hẳn xuống vệ
đường vừa rên rỉ: - Trời ơi, nó chết mà cũng không còn xác, sao trời ác với em
tôi quá nè trời!
Anh ta cứ gào khóc như vậy suốt, khiến cho mấy
người cứu hộ phải ái ngại, họ hỏi ý Quang rồi lẳng lặng rút lui cùng với xác
chiếc xe bẹp dúm.
Khi họ đi rồi Henri Phạm quay sang hỏi Quang:
- Bây giờ mình phải làm sao đây?
Quang cũng chỉ biết thở dài:
- Mình cũng chẳng biết làm sao. Có lẽ phải đợi hai
bác ra rồi sẽ tính.
Anh ta kéo tay bạn đứng dậy:
- Cậu phải về khách sạn đợi hai bác ra, kẻo hai bác
ra mà không gặp cậu họ sẽ càng sốt ruột hơn.
Henri Phạm miễn cưỡng đứng lên đi bộ cùng Quang.
Vừa đi được mấy bước bỗng Quang dừng lại và nói: - Rõ ràng mình nghe có tiếng
khóc của ai đó! Cậu nghe thử xem...
Henri Phạm lắng nghe kỹ và lắc đầu:
- Mình đâu có nghe gì?
Quang không tin vào tai mình, bởi càng lúc âm thanh
nức nở càng rõ hơn trong đầu...
* *
*
Đang lẽ chỉ ở chơi Ô Cấp hai ngày, nhưng cuối cùng
Quang đã phải lưu lại đến nay là ngày thứ năm. Bởi hai ngày đầu phải tất bật
với vụ việc của Thu Vân. Đụng chuyện mới thấy nhà giàu họ giải quyết công việc
bối rối và dở hơn người nghèo nhiều. Chỉ nội việc sự mất tích xác chết không mà
cha mẹ Thu Vân đã phải quýnh quáng chạy đi khắp mọi nơi, hết thuê người này, mướn
người kia, mà cuối cùng thì cũng chẳng giải quyết được gì, họ cũng đành phải về
tay không.
Chẳng hiểu sao Quang lại quyết định ở lại khi Henri
Phạm và gia đình đã về hết sau khi tìm được xác Thu Vân. Mà cả nhóm bạn cùng đi
với Quang cũng đã về, duy có Quang quyết định thuê một căn phòng ở một khách
sạn rẻ tiền và ở lại. Anh chỉ giải thích ngắn gọn với người bạn:
- Mình bị sốc sau cú vừa rồi nên muốn ở lại thêm
vài ngày cho khuây khỏa.
Sáng nay thay vì ra Ô Quắn và đi lang thang như mấy
hôm rồi vẫn làm, Quang lại chuyển hướng, đi bộ lên Bạch Dinh. Cũng chẳng biết
tại sao, chỉ cảm thấy cần một nơi ở độ cao để phóng tầm mắt ra biển xa, thư
giãn nên Quang khá thích thú khi lên đứng bên hai khẩu đại bác và tự nhủ:
- Cứ mỗi ngày được đứng đây nhìn ra biển thì chắc
mọi buồn phiền sẽ dứt hết!
Đứng hơn một giờ, Quang lững thững đi bộ xuống.
Đúng ra anh đi theo các bậc thang xuống phía tay phải cho gần, nhưng bất chợt
anh thoáng thấy một bóng áo vàng đi về hướng rừng hoa sứ, nơi vốn chỉ dành cho
xe chạy lên xuống bởi đường dốc và xa hơn.
Kỳ lạ chưa! Bởi bóng áo vàng mà Quang vừa nhìn thấy
giống Thu Vân y hệt!
Quang đổi hướng, anh bước nhanh về hướng đó. Cô
nàng mặc bộ váy màu vàng nổi bật giữa rừng hoa sứ đang nở rộ và chỉ có một
mình, nên càng khó lẫn vào ai khác. Cố thu ngắn khoảng cách, Quang đánh bạo cất
tiếng gọi:
- Thu Vân!
Cô gái quay phắt lại và... Quang sững sờ:
- Thu Vân...
Đúng là Thu Vân... cô con gái đã chết trong tai nạn
xe lật ở Ô Quắn!
Với ai có thể lầm được, nhưng Quang thì không, bởi
anh từng nhiều lần tới nhà chơi và đã là bạn thời cô ta còn học ở Sài Gòn. Vả
lại mới vừa nhìn thấy ở bãi sau cách chưa đầy một tuần. Lại vẫn chiếc váy màu
vàng này nữa...
- Thu Vân!
Anh gọi lần thứ ba thì bỗng cô gái bước nhanh và
chỉ sau đó vài giây đã mất hút trong rừng hoa sứ!
Quang tốc chạy theo vào khu vực rừng hoa, vốn có
cắm bảng cấm người lạ xâm nhập. Vừa lúc đó có tiếng quát lớn phía sau:
- Anh kia, không được đi lối đó!
Quang quay lại phân bua:
- Tôi đuổi theo một người quen, anh thông cảm.
Nhưng nhân viên bảo vệ vẫn cương quyết:
- Không ai được vào đó hết! Mà trong ấy làm gì có
ai đâu mà nói là người quen của anh?
Quang vẫn cố giải thích:- Cô ấy vừa mới đi vô đó,
tôi xin theo gọi cô ấy ra thôi!
Người bảo vệ vẫn không cho:
- Để tôi vào xem có ai mời ra cho.
Anh ta bước vô một lúc rồi trở ra xua tay nói:
- Làm gì có ai trong đó mà tìm!
Quang tiu nghỉu đứng một lúc mới chịu đi. Anh theo
lối đó đi xuống đường mà trong lòng vẫn còn thắc mắc, chưa chịu từ bỏ ý định
trở lại. Phải một lúc sau khi nhìn thấy bóng anh chàng bảo vệ lên trên khá xa,
Quang mới lẻn vào và lom khom người hướng về chỗ lúc nãy.
Đây là lần đầu tiên bước vào giữa khu rừng hoa sứ
mà xưa nay Quang chỉ đứng ngoài nhìn, anh cảm thấy khu rừng khá rộng, ăn thông
lên tận vách núi phía trên...
Chẳng thấy bóng người nào, nên Quang tiện bước đi
thẳng lên phía vách núi. Tuy khá chênh vênh nhưng cũng có một lối mòn nên sau
hơn mười phút Quang đã lên được một khoảng rộng, bằng phẳng. Nơi đó có một ngôi
nhà lá nhỏ, cửa đóng kín.
- Có khi nào...
Quang tự cười với ý nghĩ có thể Thu Vân đi vào ngôi
nhà đó! Nhưng đã lỡ lên tới đây rồi không lẽ quay về, nên Quang bước đại tới
bên ngôi nhà, anh cất tiếng gọi:
- Có ai trong nhà không?
Chẳng ai lên tiếng. Hình như đây chỉ là một trại
của người làm rẫy, không có người ở thường xuyên.
Vừa định quay đi thì chợt mũi Quang ngửi được một
hương thơm rất lạ, không phải hương hoa dại, cũng không phải hương tự nhiên bay
theo gió.
Bất chợt anh kêu lên: - Thu Vân!
Quang đẩy mạnh cánh cửa gỗ khép hờ, cửa bật vô
trong và... chẳng có ai trong đó. Nhưng khi Quang nhìn lên vách lá anh phát
hiện bộ váy màu vàng mà cô gái vừa mặc lúc nãy đang treo ở đó. Có lẽ hương thơm
phát ra từ đó.
- Thu Vân! Có phải Thu Vân ở đây không?
Vẫn chẳng có hồi âm. Quang mở tung cửa cái, cửa sổ
ngôi nhà, nhưng cũng chẳng thấy gì ngoài chiếc chõng tre xiêu vẹo, nhà vắng
chủ.
- Nhưng tại sao bộ quần áo lại ở đây?
Quang bước ra ngoài tìm khắp chung quanh và cất
tiếng gọi nhiều lần: - Thu Vân! Cô Thu Vân!
Vẫn im phăng phắc...
Trở vô nhà, Quang đánh bạo cầm bộ váy xuống và len
lén ngửi thử. Đúng là hương thơm từ đó, có nghĩa cô nàng vừa mới thay bộ đồ ra
và cũng đồng nghĩa với việc cô nàng vẫn còn quanh quẩn đâu đây...
Nghĩ có thể cô ta đã phát hiện ra mình nên lánh
mặt, nên Quang có ý nghĩ là giả vờ như đi xuống, nhưng kỳ thật là quay trở lại
nấp bên ngoài ngôi nhà.
Hơn nửa giờ trôi qua vẫn chẳng thấy bóng ai. Trời
bắt đầu nắng gắt mà bụng thì đói nên Quang đã bắt đầu nao núng, định bỏ cuộc,
nhưng mục đích gặp cho bằng được con người mà cho tới giờ phút này Quang vẫn
chưa thể nào tin được rằng cô ta chết rồi mà vẫn còn di chuyển cái xác đi được.
- Cô ấy thành ma?
Quang tự hỏi và có ngay câu trả lời, bởi hành tung
kỳ lạ của cô nàng đã chứng minh điều đó. Nhưng tại sao Thu Vân lại chọn đúng
nơi này để xuất hiện, phải chăng là có ý muốn báo cho Quang biết điều gì?
* *
*
Mười hai giờ trưa...
Trong khi Quang đã hết kiên nhẫn thì bất ngờ từ
trong ngôi nhà lá cánh cửa gỗ lại bung ra và... từ trong đó một bóng người hiện
ra, mà vừa trông thấy người ấy Quang đã há hốc mồm kinh ngạc: - Henri Phạm?
Đúng là anh chàng! Mà tại sao anh ta lại ở đây và
xuất hiện như vừa từ dưới đất chui lên vậy? Quang định lên tiếng kêu, nhưng kịp
nghĩ lại nên anh yên lặng chờ.
Henri Phạm thì sau khi quan sát một lượt khắp chung
quanh, quay vô trong nhà ra dấu, lại một người nữa bước ra, mà lần này thì sự
kinh ngạc của Quang còn gấp bội. Bởi đó là... Thu Vân.
Henri Phạm quay sang cô em gái nói mà không cần giữ
lời, có lẽ nghĩ đây là chỗ hoang vu, không có ai ngoài họ:
- Bây giờ em có thể yên tâm xuống dưới kia, anh đã
để sẵn chiếc xe khác và em cứ thế lái về thẳng Đà Lạt mà không cần phải về Sài
Gòn đâu. Ở Đà Lạt chơi khoảng một tháng, rồi lên máy bay trở lại Pháp và... bắt
đầu thụ hưởng hai chục triệu Franc Pháp tiền bồi thường của hãng bảo hiểm Pháp
chi nhánh tại Sài Gòn. Trương mục ngân hàng mang tên anh, vì anh nhận là người
bảo hộ cho em ở nước ngoài, được ba má ủy nhiệm. Từ nay cái tên Emile Thu Vân
sẽ không còn nữa, mà thay vào đó là tên Anna Phạm. Mà cần gì cái tên Thu Vân đó
nữa, miễn mình có được số tiền bồi thường lớn đủ trang trải lại những gì đã mất
do chi tiêu quá lố từ nào đến giờ!
Thu Vân vỗ vào vai anh trai mình:
- Phục anh sát đất luôn! Qua mặt được hãng bảo hiểm
nhân thọ chuyện đâu phải đơn giản, vậy mà anh cũng làm được. Nhưng khiến cho em
phải một phen hú vía khi lái xe tới sát bờ vực sâu chỗ Ô Quắn, sợ gần chết. Rồi
lại phải kéo cái xác của con nhỏ người làm và đặt nó ngồi vô chỗ lái xe, để nó
giả làm em, sau đó lại phải nổ máy xe, vô số và... buông ra cho xe lao xuống
vực. Sơ sẩy một chút là em bị rớt theo chiếc xe luôn à nha.
Henri Phạm cười: - Biết em có đủ bản lãnh nên anh
mới giao làm nhiệm vụ đó chớ bộ! Và em đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ rồi còn
gì. Chiếc xe đã lao thẳng xuống vực sâu và ai cũng đinh ninh rằng em đã chết
trong vụ tai nạn ấy rồi!
- Nhưng sao khi trục xe và xác chết lên anh lại để
cho cái xác biến mất, suýt nữa thì bảo hiểm đã không chịu bồi thường rồi?
Henri Phạm cười to:
- Em có lanh nhưng chưa đủ khôn. Lúc ấy em không có
mặt tại hiện trường nên đâu có biết là khi xác con nhỏ Thắm vừa mới kéo lên anh
đã điếng hồn, bởi tuy thân thể nó giập nát, nhưng khuôn mặt còn nguyên, làm sao
nói đó là em, cô Thu Vân được? Em có biết là lúc ấy anh phải lanh trí lắm mới
ra lệnh cho hai thằng đàn em đi theo trà trộn làm nhân viên cứu hộ để nhân cơ
hội người tài xế xe cứu thương lơ đễnh, đã lấy cắp cái xác con Thắm đem giấu.
- Không có xác làm sao hãng bảo hiểm chịu đền nhân
mạng?
- Em cũng quên là chỉ đến tối là người ta tìm được
xác chết của nạn nhân ở một hốc đá gần chỗ tai nạn xảy ra sao? Khi đó xác con
Thắm đã được anh cho tụi nó lấy đá đập nát, để không còn nhận diện ra nữa. Và
sau đó đã báo cho đội cứu hộ tới và mang về bệnh viện.
Thu Vân cười thành tiếng:
- Anh làm khéo đến nỗi đến ba má khi đứng trong nhà
xác mà cũng chẳng nhận ra! Tội nghiệp, thấy má khóc chết lên chết xuống em sợ
và đau lòng quá. Chuyện này mà vỡ lở ra chắc là không yên với ông bà cụ đâu!
Henri Phạm nhún vai: - Nhằm nhò gì ba cái chuyện
này. Mà mình cũng đâu ngu gì để lộ...
- Chỉ tội nghiệp ba má sẽ khổ đau vì mất con, trong
lúc em vẫn còn sờ sờ đây...
Henri Phạm nghiêm giọng:
- Trong vụ xài phá đến cạn hết tiền ba gởi ở nhà
băng bên Pháp đâu phải chỉ mình anh, mà em đóng góp đến phân nửa trong đó. Xong
vụ này mình bí mật chuyển trả lại cho ba là ổn.
Chuẩn bị đi, chợt Henri Phạm nhớ ra, anh ta hỏi:
- Hồi nãy em có đóng kỹ nắp hầm chưa?
Thu Vân cười:
- Cái hầm bí mật này quả lợi hại, nằm ngủ dưới đó
cả đêm cũng giống như ngủ trong phòng khách sạn, sướng thiệt.
- Anh phải mất cả tháng trời, nhờ thợ từ trong Sài
Gòn ra làm mới được như vậy. Anh phải thủ sẵn một nơi như vậy để phòng khi lộ
chuyện thì có nơi mà ẩn thân một thời gian. Em đâu có biết là cả chuyện vô ra
rừng hoa sứ này anh cũng phải tốn tiền mới yên chớ bộ! Thôi, có lẽ là hôm nay
là ngày chót, chúng ta không trở lại đây nữa, nên cũng không cần cái hầm, có bị
lộ thì cũng chẳng sao. Thôi mình đi!
Họ đi rất nhanh xuống núi, xuyên qua rừng hoa sứ.
Quang quá bức xúc với những gì vừa nghe, anh vừa định đứng lên gọi họ một tiếng
và vạch trần những gì họ làm. Tuy nhiên, chẳng hiểu sao khi vừa đứng lên thì
Quang đã ngã ngồi trở xuống như bị ai kéo lại vậy. Phải đến lần cố gắng thứ ba
Quang mới có thể đứng thẳng lên, nhưng lúc ấy hai người họ đã đi khá xa rồi.
Bấy giờ Quang chỉ còn cách bước thẳng vào nhà với ý
định xem cái hầm mà họ vừa nói ra sao. Nhưng điều ngạc nhiên đầu tiên của Quang
là chiếc váy màu vàng của Thu Vân lúc mặc đi vào đây đã không còn, mà lúc nãy
khi đi ra cô ta mặc bộ quần áo màu xám nhạt, đầu đội mũ như một cách ngụy
trang, mà tay không hề xách giỏ hay cầm vật gì. Vậy bộ đồ màu vàng biến đi đâu?
Điều đó càng khiến cho Quang tò mò thêm, anh tìm
nắp hầm và phát hiện ra ngay nó nằm ở gần gian bếp nguội lạnh, chỉ cần giở tấm
ván lên là lộ ra một cái thang gỗ dẫn xuống dưới.
Chẳng do dự, Quang bước ngay xuống, thấy có cây đèn
pin treo sẵn ở lối đi, Quang chụp lấy và soi tới trước. Quả đúng nó như một căn
phòng đầy đủ tiện nghi, có cả giường nệm phẳng phiu và ở đầu giường có ngọn đèn
ngủ màu hồng nhạt nữa.
- Có lẽ họ xài bình ắc quy chớ ở nơi này làm gì có
điện!
Quang hơi thắc mắc về việc đó, nhưng thắc mắc của
anh không tồn tại được lâu, bởi liền lúc đó anh chợt sững sờ khi nhìn thấy có
một người đang nằm trùm mền trên giường mà phải nhìn kỹ mới thấy!
- Ai vậy?
Không thấy người nọ động đậy, Quang cất tiếng gọi:
- Ai đây, tôi muốn hỏi...
Anh gọi đến lần thứ ba mà vẫn chẳng thấy người nọ
cử động hay lên tiếng, Quang chợt lo, anh bạo gan cúi xuống kéo đại góc mền ra
và...
- Trời ơi!
Trước mắt Quang là... một cô gái lạ mặc bộ đồ màu
vàng máng ở vách lúc nãy!
Không thể nào tin được, Quang gọi thêm lần nữa và
cũng chẳng thấy cô nàng cử động. Quang hốt hoảng đưa tay chạm vào, rồi kinh hãi
bởi thân thể cô ta đã lạnh cứng. Có nghĩa đó là một xác chết!
- Trời ơi!
Quang hoang mang tột độ, anh lúng túng mất vài giây
rồi mới chạy tháo lên miệng hầm, định kêu ai đó. Nhưng chung quanh vắng tanh,
vả lại nếu gọi người tới trong lúc này thì khác nào rước họa vào thân, bởi chỉ
mình anh với một xác chết, ai mà tin được rằng anh không dính líu tới cái chết
của cô nàng!
Lúng túng một hồi lâu Quang mới quyết định trở
xuống hầm, lần này anh phải nhìn cho thật rõ, ít ra cũng tìm được cách nào đó
báo động cho người ta biết... chớ không thể để một người chết nằm trong đó, mà
chắc chắn khó lòng có ai hay được.
Nhưng khi Quang đặt chân trở xuống đó thì... cái
xác của cô gái không còn ở đó nữa!
* *
*
Việc đầu tiên của Quang khi trở về Sài Gòn là tìm
tới nhà của cha mẹ Thu Vân. Họ là chủ một tiệm vàng lớn ở vùng Chợ Lớn mà đã
đôi lần Quang có tới chơi với anh em Thu Vân, nên cha mẹ cô biết Quang. Vừa
thấy Quang, bà Kim Tín đã òa lên khóc kể:
- Lâu nay con không ghé chơi nên bác không biết con
ở đâu. Phải chi biết mà gọi con tới chơi thì chắc tụi nó không đi Ô Cấp làm gì
để xảy ra cớ sự này!
Quang dò hỏi:
- Sau khi tai nạn xảy ra bác có kịp đem xác Thu Vân
đi nhận diện không?
Ông Kim Tín nói thay vợ:
- Chính tôi xuống nhà xác bệnh viện để nhìn, nhưng
có nhận dạng được nó đâu, bởi thi thể đâu còn nguyên vẹn.
- Henri Phạm đâu rồi bác?
- Ôi! Cái thằng lãng tử đó mà cháu hỏi làm gì. Nó
về đây chỉ ở nhà có nửa buổi rồi đi biệt tới bữa nay. Cũng tại nó mà con Thu
Vân mới lái xe đi Ô Cấp chớ hai bác đâu có cho. Đường sá xứ mình khác, đâu phải
thấy vắng mà muốn chạy sao cũng được.
- Nghe nói có bảo hiểm phải không bác?
Ông Kim Tín hơi ngạc nhiên về sự hiểu biết của
Quang, nhưng cũng đáp:
- Có! Nhưng do tụi thằng Henri và Thu Vân sống bên
Pháp nên làm bảo hiểm bên đó, nên họ sẽ tiến hành thủ tục bồi thường bên đó.
Nhưng còn bồi thường mà làm gì nữa khi mạng sống không còn?
Quang giả vờ hỏi: - Hình như nhà có cô người làm
tên Thắm phải không bác?
Đến lúc này thì ông Kim Tín không khỏi ngạc nhiên
nói: - Sao cháu biết con nhỏ đó?
Quang cười giả lả: - Dạ, chẳng là vì cháu có quen
với nhà cô ấy ở dưới quê...
Bà Kim Tín buột miệng nói:
- Thì ra là vậy, cháu ở làng Mỹ Quý hay Mỹ Lương
của huyện Hòa Thành?
- Dạ, ở sát nhà của cô Thắm.
- Vậy là Mỹ Quý rồi! Huyện Hòa Thành tỉnh Ba Xuyên
chỉ có cái xã Mỹ Quý là heo hút nhất, lại ít người biết, nên bác cũng hay quên
là nó ở Mỹ Quý hay Mỹ Lương. Vậy ra cháu với nó là đồng hương. Mà cũng hay, dịp
này bác hỏi cháu xem, gần đây cháu có gặp nó không?
- Dạ... gặp ai ạ?
- Con Thắm! Nó nghỉ làm ngang xương cả tuần nay mà
chẳng biết đi đâu!
- Có thể cô ấy về quê chăng?
Ông Kim Tín bác ngay:
- Con nhỏ này từ ngày lên đây làm chưa bao giờ xin
về quê lần nào, bởi lẽ đơn giản là nó không còn ai ở quê hết. Lẽ thứ hai là nó
làm được bao nhiêu tiền lương đều gởi lại cho nhà tôi hết, không giữ đồng nào
trong túi, như vậy lấy đâu tiền để đi.
Bà Kim Tín cũng nói:
- Con nhỏ hiền lành, dễ thương, tuy là không còn ở
nhưng vợ chồng tui thương nó như con ruột. Tính năm tới nó đủ hai mươi tuổi thì
coi mối nào được gả chồng cho nó. Con nhỏ tuy ít học nhưng đẹp người, đẹp nết,
ai mà lấy được nó là có phước lắm!
Quang không kiềm chế được, buột miệng:
- Người như vậy mà bị hại thì...
Bà Kim Tín hốt hoảng:
- Ai hại nó?
Quang nói chữa:
- Dạ, cháu muốn nói nếu như rủi ro...
Ông Kim Tín nói:
- Tôi nghĩ chắc không có chuyện gì đâu. Con nhỏ này
không chừng ham vui bị bạn bè rủ rê đi đâu đó, vài bữa thì về thôi.
Quang vòng vo mãi, cuối cùng anh mới hỏi thẳng điều
mà hôm nay tới anh muốn hỏi:
- Ở Đà Lạt hai bác có nhà riêng hay nhà bà con gì
trên đó không?
Bà Kim Tín nói thật:
- Tôi có một biệt thự bỏ không trên đó, chỉ thỉnh
thoảng lên nghỉ mát vài hôm. Mà mùa này lạnh, nên phải ba bốn tháng nữa vợ
chồng tui mới lên chơi.
- Vậy không chừng Henri Phạm cũng đang lên đó chơi,
bao nhiêu lần rồi cậu ấy không lên Đà Lạt thưa bác?
- Cả chục năm rồi. Từ ngày đi du học nó về đây có
bốn năm lần, mà lần nào cũng chỉ ở nhà, có đi nghỉ mát thì chỉ ra Ô Cấp thôi.
- Vậy hai bác có nhà riêng ở Ô Cấp không?
Kiểu hỏi như điều tra của Quang khiến cho ông Kim
Tín bắt đầu thấy lạ, ông hỏi vặn lại:
- Hình như cháu muốn tìm hiểu điều gì phải không
nào?
Quang lúng túng:
- Dạ không, cháu chỉ... hỏi cho biết vậy mà. Và
cũng bởi... mới rồi cháu nằm mộng thấy Thu Vân...
Đây là Quang bịa chuyện, nhưng bà Kim Tín lại quan
tâm:
- Cháu mộng thấy nó thế nào? Nó chết có yên ổn
không? Bác cũng hơi lo, vì nó còn trẻ, lại chết tức tưởi như vậy nên bác sợ oan
hồn...
Ông Kim Tín gạt ngang:
- Bà khéo tưởng tượng! Con gái mình là dân Tây học,
làm gì có chuyện oan hồn với hồn oan.
Bà Kim Tín tại nức nở khóc:
- Ông cứ nói vậy hoài, trong lúc tui cứ mong cho
vong hồn nó về một lần thôi cũng được, vậy mà chưa thấy...
Rồi bà hỏi Quang:
- Cháu mộng thấy nó nói gì?
Quang đã có toan tính trước, anh đáp:
- Dạ, cháu nghe cô ấy muốn tìm ngôi nhà nào đó ở Ô
Cấp mà tìm chưa ra. Cả ba lần mộng thấy cô ấy thì cả ba lần Thu Vân đều chỉ nói
có chuyện đó.
Lần này chợt ông Kim Tín buột miệng:
- Nhà ở Vũng Tàu, nó biết sao còn tìm!
Quang giả bộ:
- Dạ, con thấy Thu Vân có vẻ không nhớ, cô ấy chỉ
nói là hình như nhà ở gần Bạch Dinh hay sao đó...
Bà Kim Tín vụt nói:
- Thì căn nhà biệt thự hướng ra bãi Dâu. Đúng là nó
không nhớ, bởi khi đi du học thì nó mới có mười tuổi, mà ngôi nhà cũ đó tôi và
ông nhà tôi cũng lâu lắm rồi không về đó, chẳng biết còn hay sập rồi nữa!
- Thảo nào...
Quang bỏ lửng câu nói khiến ông Kim Tín thắc mắc: -
Cháu nói gì?
Quang lại lảng sang chuyện khác:
- Dạ không. Cháu muốn nói... chẳng hiểu sao gần đây
cháu hay mộng mị quá.
Anh vừa định đứng lên cáo từ thì chợt từ ngoài cửa
có một người bước vào, mà vừa nhìn thấy thì cả ba người đang ngồi đều bật dậy
một lượt:
- Trời ơi... Trời...
Bà Kim Tín té ngồi trở xuống, miệng lắp bắp:
- Con... con Thắm ông ơi.
Người vừa xuất hiện chính là Thắm, nhưng trong bộ
váy màu vàng mà Quang đã thấy hôm ở rừng hoa sứ. Cô ta là cô gái nằm chết trong
hầm hôm đó! Anh lắp bắp mãi, nói không thành lời:
- Cô đúng là...
Cô gái bình thản ngồi xuống và nhìn vào bà Kim Tín,
hỏi bằng giọng không vui:
- Sao bà không đi tìm con?
Bà Kim Tín vẫn chưa tin vào mắt mình, giọng bà run
rẩy: - Có phải... thiệt là con không vậy?
- Là con đây! Con đâu có chết mà sao bà vẫn coi như
con đã ra người thiên cổ? Ông bà biết là đã chôn ai không?
Quang vụt nói:
- Là cô Thắm!
Nãy giờ hình như cô gái không để ý đến Quang. Giờ
nghe anh nói, cô mới quay sang và nói:
- Anh đã biết ngôi nhà trên núi lớn Ô Cấp thì cần
trở lại đó để biết thêm điều cần biết!
Rồi cô lại quay sang ông bà chủ của mình:
- Hai người hãy chuẩn bị mà rời khỏi ngôi nhà này
đi, vài ngày nữa nó không còn là của mình đâu!
Trong lúc ông bà Kim Tín còn đang ngơ ngác thì cô
nàng vụt đứng lên và ra hiệu cho Quang đi theo:
- Anh ra đây!
Quang riu ríu bước theo.
Khi ra tới ngoài rồi cô nàng lên tiếng:
- Anh đã gặp tôi nằm chết trong hầm của ngôi nhà
trên rừng hoa sứ rồi phải không? Vậy bây giờ anh có ngạc nhiên khi thấy con
người đó có mặt tại đây không?
Quang sợ, nhưng anh vẫn cố nói cứng:
- Không phải một, mà là đã hai lần tôi nhìn thấy cô
chết và biến mất. Như vậy kể cả lần này nữa, biết đâu cô lại...
Cô nàng bỗng cười phá lên:
- Không ngoại trừ lần này đâu!
Cô nàng vừa nói vừa dừng lại và quay ngoắc đối diện
với Quang.
Anh chàng há hốc mồm kinh ngạc, bởi trước mắt anh
bây giờ không phải là Thắm nữa, mà là một cô gái khác với gương mặt bê bết máu!
- Anh chưa từng biết mặt thật của tôi, mà chỉ biết
cái mặt biến dạng này phải không?
Quang còn chưa hiểu gì thì cô nàng buông một tiếng
ngắn gọn:
- Thì như anh đã nghe họ nói rồi đó, tôi đã bị họ
nhẫn tâm sát hại rồi mà còn hủy hoại nhan sắc thêm lần nữa.
Quang run giọng:
- Cô Thắm... tôi cảm thông với cô, tôi muốn giúp,
nhưng mà...
Không để ý lời phân trần của Quang, cô nói tiếp:
- Và anh đã nghe anh em họ kể chuyện giết chết tôi
rồi xô xuống vực sâu ở Ô Quắn cùng chiếc xe rồi phải không?
- Có... có nghe...
- Như vậy là anh biết đích xác cô Thu Vân đâu có
chết, đúng không?
- Phải! Và bữa đó tôi thấy cô ta đi vào ngôi nhà
trong rừng hoa sứ nữa.
- Chính nhờ vậy anh mới có động cơ tìm tới nhà cô
ta và hiểu tôi đã bị chết oan như thế nào. Tôi nghèo cũng giống như anh và chỉ
bởi nghèo hèn, cô thế, nên mới bị giết chết cho một mưu đồ gian ác của họ. Cũng
như do anh nghèo và tốt bụng, nên suýt nữa anh đã bị sa vào bẫy của họ, để họ
có gì sơ sẩy thì chính anh là người sẽ đứng ra nhận tội thay!
Quang ngơ ngác:
- Cô nói vậy là sao?
Nàng ta nhẹ giọng:
- Hôm ở rừng hoa sứ sau Bạch Dinh, chính anh bị cô
Thu Vân dụ đi theo lên căn nhà hoang đó, còn cái xác mà anh nhìn thấy trong hầm
là xác của tôi do bọn chúng lấy cắp được trong nhà xác bệnh viện, để làm tang
chứng buộc tội anh...
Quang chận ngang:
- Nhưng tôi có bị gì đâu?
- May cho anh là tôi đã kịp thời cứu anh! Chính tôi
đã biến đi và xui khiến anh rời ngôi nhà đó kịp thời. Bởi chỉ năm phút sau đó
thì cảnh sát do Henri Phạm báo đã ập tới, họ chẳng gặp ai nên mọi việc coi như
xong!
Quang không thể nào tin được, nhưng khi anh nhìn cô
gái thì thấy cô ta mỉm cười, gật đầu:
- Tôi tuy chết oan, thù hận mọi người, nhưng không
thể để cho một người ngay như anh bị nạn thay cho họ được! Do anh biết quá
nhiều chuyện của họ, nên họ tìm cách thủ tiêu anh để bịt đầu mối. Anh có biết
là họ đã tính trước mấy bước tiến và mấy bước lui. Tiến là nếu mọi việc êm
xuôi, họ sẽ lãnh được tiền bảo hiểm nhân thọ, còn lui là phòng bất trắc, cơ mưu
bị bại lộ. Lúc ấy họ sẽ đổ vấy lên đầu anh, nói chuyện giết tôi là do anh làm,
mà bằng chứng do họ tạo ra sẵn là một túi tiền lớn họ dàn cảnh mang theo bên
thi thể tôi để mọi người nghĩ động cơ anh giết tôi là vì muốn cướp tiền!
Trong lúc Quang còn đang hoang mang thì cô nàng vụt
nói nhanh:
- Anh về nhà và đừng ngạc nhiên khi thấy số tiền
bạc triệu để sẵn trong đó. Tiền đó tôi lấy được tại hiện trường, thứ mà họ định
dùng để vu cáo anh. Đó là đồng tiền phi nghĩa, do đó không việc gì anh trả lại
mà cứ giữ xài. Và còn nữa, khi hãng bảo hiểm đền tiền, thì thay vì họ nhận
được, tôi sẽ khiến cho nó thuộc về anh! Anh sẽ dùng số tiền đó để thoát kiếp
nghèo, hoặc làm từ thiện gì đó tùy anh. Thôi, vĩnh biệt anh, con người tốt bụng
nhưng phải cái tội... quá tò mò!
Nói xong thoắt cái cô ta đã biến mất. Vừa khi ấy
cha mẹ Thu Vân trong nhà chạy ra hỏi lớn:
- Thắm! Con Thắm đâu rồi?
Quang chỉ lắc đầu không đáp. Bà Kim Tín phải gào
lên:
- Nó đâu rồi? Phải đó là hồn ma không?
Bây giờ chính ông Kim Tín là người có kết luận:
- Chưa chết mà hồn ma nỗi gì?
Nhưng bất thần, Quang nhìn thẳng vào ông nói:
- Cô ấy là hồn ma đó! Một oan hồn đáng lý về đòi nợ
máu, nhưng cô ấy chưa làm. Có lẽ cô ấy chỉ muốn đòi nợ chính người đã gây ra
tội ác mà thôi.
Nói xong Quang quay bước đi, bà Kim Tín gọi lớn: -
Kìa, cháu Quang! Cháu vừa nói gì?
Quang nói mà không quay lại:
- Hai bác sắp đón nhận những tin không tốt lành gì
đâu.
Anh đi nhanh bởi không muốn trả lời thêm nữa. Anh
tự nhủ: - Biết nhiều quá là rước lấy phiền nhiễu nhưng cũng có được cái hay,
như mình...
* *
*
Ba tháng sau...
Bỗng nhiên Quang nhận được điện tín từ một ngân
hàng Pháp bảo rằng anh có một số tiền mười triệu Franc Pháp mà không nói rõ là
tiền gì. Quang định viết thư từ chối và nói rõ mọi chuyện cho họ biết và rút
lại số tiền lớn đó. Tuy nhiên anh chưa kịp viết thì lại nhận được một thư khác
từ một chi nhánh ngân hàng Pháp tại Sài Gòn chuyển đến, thông báo là anh có một
trương mục tại ngân hàng họ với số tiền mười triệu đồng Franc.
Quang chưa kịp có phản ứng gì thì đêm đó anh đang
ngủ vụt ngồi dậy khi nghe có tiếng nói từ cửa sổ vọng vào:
- Em đã nghĩ rồi, số tiền này thay vì trả lại cho
hãng bảo hiểm, có nghĩa là anh tố cáo tội gian manh của anh em nhà Henri Phạm
và Thu Vân, như thế họ sẽ ở tù thì anh cứ giữ mà làm từ thiện và cải thiện cuộc
sống, đừng trả lại. Cứ để suốt đời con Thu Vân sẽ sống trong cảnh trốn chui
trốn nhủi với cái tên giả, đó là cách nó phải trả giá cho tội ác của mình, đau
khổ còn hơn là ngồi tù.
- Nhưng như thế này trước sau gì cũng đổ bể, tôi
lại liên lụy, bởi tiền đang nằm trong trương mục của tôi.
Giọng nói kia giải thích rất rạch ròi:
- Mọi thứ em đã lo hết rồi. Em khiến cho đồng tiền
luân chuyển từ Pháp về trương mục của anh mà chẳng ai biết được nguồn gốc.
Không phải mình gian manh, nhưng để cho người thật thà, tốt bụng như anh khỏi
phải liên lụy. Anh cứ yên tâm dùng số tiền ấy. Có thể một ngày nào đó anh sẽ
cứu trợ ngược lại cho ông bà Kim Tín, bởi sớm muộn gì hai đứa con trời đánh ấy
cũng làm cho gia sản nhà đó không còn một đồng.
Tự dưng có số tiền lớn như vậy khiến Quang lúng
túng chẳng dám đụng vào. Nhưng lạ quá, cứ hàng tháng anh lại nhận được một số
tiền để chi dụng mà không biết của ai cho.
Sau đó khi nhận được thông báo tình hình trương mục
ngân hàng, Quang mới hiểu đã có người rút tiền giúp cho anh. Người giúp đó
ngoài Thắm ra thì đâu còn ai nữa!
Và cứ thế, hễ mỗi khi Quang vừa có ý định làm ăn gì
thì tự nhiên có ngay số tiền như ý chuyển đến. Được cái là Quang không hề lợi
dụng số tiền đó để phung phí. Anh chủ yếu dùng để làm từ thiện, giúp đỡ người
nghèo khác. Và đặc biệt, anh mua một mảnh đất rộng, chỉ xây một căn nhà nhỏ để
ở, phần đất còn lại anh lập một cái miếu thờ, mà trong miếu chỉ thờ một bức họa
do chính Quang vẽ lại theo trí nhớ chân dung của Thắm.
Từ đó Quang sống thanh thản một mình và tự nguyện
làm ông từ chăm sóc ngôi miếu. Sau này người ta đồn ngôi miếu đó linh hiển lắm,
cầu gì được nấy. Mà lời cầu khấn phải mang ý tốt thì mới được đáp ứng, còn
ngược lại, nếu lợi dụng hay gian trá thì sau khi khấn vái sẽ mang bệnh chữa
hoài không khỏi...
KHI
NGƯỜI CHẾT TRỞ VỀ
Chịu trách nhiệm xuất bản:
BÙI
CAO TIÊU
Biên tập:
NGUYỄN CẨM HƯƠNG
Sửa bản in: GIANG MINH TRƯỞNG
Trình bày bìa: SONG THÀNH
In 1.200 cuốn khổ 13x19cm, tại Xưởng in NXBGTVT
Số trích ngang xuất bản: 380-2009/CXB/27-53/ThaH,
In xong và nộp lưu chiểu Quý IV năm 2010
.............................................................................................................
- Cập nhật
theo bản lưu trữ tại tại Công ty TNHH Văn Hóa Bảo Thắng.
- Vui
lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét