ÁN MẠNG ĐÊM CUỐI NĂM
*
ÁN MẠNG ĐÊM CUỐI NĂM
(Tác giả: Agatha
Christie)
Luật sư Mayher chăm chú quan sát chàng trai ngồi
trước mặt ông, con người bị buộc tội giết người có dự mưu.
- Voler, tôi thiết nghĩ, anh nên thành thật khai
báo, tôi mới có thể bào chữa cho anh được.
- Biết nói thế nào nhỉ. Tôi không thể bị buộc một
tội mà tôi không hề làm. Tôi vô tội, tôi vô tội. Ông phải hiểu điều đó.
- Vâng. Tôi đang cố gắng lo cho anh được tự dọ
Nhưng mọi bằng cớ đều chống lại anh. Không phải cứ la lên là mình sẽ vô tội.
- Tôi xin thề trước Thượng đế là tôi bị nghi oan.
Tôi đã rơi vào một cái lưới không thể thoát ra được.
- Anh đừng thề mà hãy nói rõ cho tôi nghe, anh quen
bà Fren trong trường hợp nào?
- Hôm đó, bà Fren suýt bị xe buýt tông, nên hoảng
hồn đánh rơi đồ đạc tung toé ra đường. Tôi có mặt ở đó nên đã nhặt giùm cho bà
ấy. Sau đó, tôi gặp lại bà trong một bữa tiệc tại nhà người bạn. Bà nhận ra
tôi, nói chuyện với tôi rất thân mật, và khi ra về, bà yêu cầu tôi ghé thăm bà.
Bạn tôi nói bà là một cô gái già rất giàu có, sống một mình với chị người làm
và tám con mèo.
- Anh đang túng thiếu, lại làm quen với một bà già giàu sụ và cố tình kéo dài sự liên hệ thân mật. Nếu chúng ta chứng tỏ rằng anh không hề biết bà Fren giàu và anh chỉ đến thăm vì xã giao...
Mặt Voler tái đi:
- Havey, bạn tôi đã nói vụ bà Fren giàu trước mặt
tôi và rất nhiều người, một vài người còn chế giễu tôi là chuột sa hũ nếp nữa
chứ.
- Như vậy thì tôi phải giải thích sao khi một người
trẻ tuổi đẹp trai như anh lại mất thì giờ cho một bà đã luống tuổi có tính khí
khác thường.
- Thú thật với ông, sau lần viếng thăm đầu tiên, bà
đã khẩn khoản mời tôi đến nữa. Bà than rằng bà cô đơn quá, nên xem tôi như con.
Bà tử tế, nuông chiều tôi, do đó, tôi thực sự cảm mến bà như một người mẹ.
- Đến lúc nào thì bà ấy yêu cầu anh trông nom sổ
sách cho bà?
- Sau bốn, năm lần viếng thăm. Bà ấy tính toán kém
trong việc hùn hạp làm ăn.
- Vậy mà chị hầu phòng Jannette quả quyết rằng bà
chủ của chị rất thạo việc. Đấy cũng là ý kiến của các ngân hàng có tài khoản
của bà ấy.
- Họ nói sao ấy chứ trước mặt tôi, bà ấy tỏ ra rất
vụng về.
Luật sư Mayher nhìn Voler. Ông tin vào sự vô tội
của chàng thanh niên. Voler đã nói thật. Tâm lý các cô gái già là thường giả bộ
ngây thơ để nhận ở những người đàn ông sự giúp đỡ. Và Voler đã đáp ứng được
điều đó. Tằng hắng, ông hỏi:
- Có bao giờ anh lợi dụng lòng tin của Fren để kiếm
lợi riêng cho anh không? Tôi sẽ có hai cách để bào chữa. Nếu trung thực, anh sẽ
không cần nhúng tay vào máu để kiếm được món tiền mà anh có thể kiếm được một
cách lương thiện. Bằng ngược lại, anh có những thủ đoạn mà bên công tố biết và
sẽ đưa ra. Khi đó, tôi sẽ bảo rằng anh chẳng dài gì mà giết con gà đẻ trứng
vàng ấy cả.
- Cảm ơn lòng tốt của ông. Tôi lúc nào cũng ngay
thẳng khi làm việc với bà ấy. Nếu người ta cho rằng, tôi lợi dụng vật chất nơi
bà ấy, thì cái chết của bà chỉ thiệt hại cho tôi thôi.
Luật sư Mayher nhìn thẳng vào mắt Voler:
- Anh có biết là bà Fren đã lập di chúc để một phần
lớn tài sản cho anh không? Voler nhỏm dậy như bị điện giật"
- Ông nói sao? Bà ấy để của cho tôi à? Vô lý.
Giọng luật sư vẫn điềm tĩnh:
- Anh không biết việc này thật à?
- Ồ, tôi hoàn toàn không biết gì cả.
- Vậy mà cô Jannette lại quả quyết là anh biết cơ
đấy. Chính bà Fren đã tiết lộ với cô ta về chuyện này.
- Jannette ghét tôi nên bịa đặt đấy. Ông phải tin
lời tôi.
- Anh đã đến nhà bà Fren vài buổi tối, chỉ có mình
bà, và sáng hôm sau bà bị giết ở phòng khách. Quả thật tối hôm đó, lúc 9 giờ
rưỡi, Jannette có ghé nhà bằng cửa sau để lấy một vài món lặt vặt ở phòng riêng
rồi đi ngaỵ Cô ấy khai là có nghe thấy tiếng nói chuyện giữa bà chủ và một
người đàn ông từ phòng khách.
Voler đứng phắt dậy:
- Vậy là tôi thoát nạn rồi. Vào lúc chín rưỡi, tôi
đã về tới nhà. Vợ tôi có thể chứng minh cho tôi. Cảm ơn Thượng đế xui khiến
Jannette ghé về đúng lúc.
Nét mặt luật sư vẫn không bớt đăm chiêu:
- Vậy theo ý anh, ai đã giết bà Fren?
- Một tên cướp. Y đã dùng thanh sắt đập vào đầu bà
Fren. Một cánh cửa sổ bị phá vỡ, một số đồ vật bị lấy đi. Nếu không có sự nghi
ngờ vô lý của Jannette và ác cảm của cô ta đối với tôi...
- Sự việc không đơn giản như vậy đâu. Anh nói anh
về nhà lúc chín rưỡi, vậy mà Jannette lại nghe tiếng đàn ông nói chuyện với bà
chủ trong phòng khách. Không lý bà ấy đi nói chuyện bình thường với một tên
cướp?
- Dù sao đi nữa, người đó cũng không phải là tôi.
Tôi đã có mặt tại nhà lúc chín rưỡi. Xin ông hãy đến gặp Romen, vợ tôi sẽ xác
nhận lời khai của tôi.
- Bà Fren biết anh có vợ không?
- Dĩ nhiên là có.
- Jannette đã khai là chưa bao giờ anh đem vợ đến
thăm bà Fren, cho nên bà ấy tưởng anh độc thân và có ý định sẽ lập gia đình với
anh.
- Vô lý, bà ta quá già.
- Chuyện đó không thành vấn đề.
Voler đỏ mặt:
- Đó chỉ là sự tưởng tượng của Jannettẹ Tôi van
ông, hãy đến gặp vợ tôi.
Romen, vợ Voler là một phụ nữ cao lớn, tiều tụy. Bà
tiếp luật sư Mayher với vẻ hững hờ. Trông bà bình tĩnh đến lạnh lùng, điều này
đã làm cho luật sư e ngại. Dù muốn dù không, ông cũng phải trình bày mọi việc
cho người đàn bà ấy nghe. Im lặng một lát, Romen cất giọng đanh thép:
- Voler muốn tôi xác nhận là tối hôm đó, hắn trở về
nhà lúc 9 giờ 20 phút chứ gì. Đừng hòng. Tôi không bao giờ đồng lõa với kẻ sát
nhân đâu. Ông hãy nghe cho rõ đây, tôi xác nhận là Voler đã biết Fren có để lại
gia tài cho hắn nên hắn đã giết mụ già để sớm được vinh thân. Tối hôm đó hắn
trở về lúc 10 giờ hai mươi, trên áo đầy máu. Hắn thú nhận tất cả với tôi. Tôi
sẽ là nhân chứng buộc tội hắn.
- Chị không thể làm chứng chống lại chồng.
- Hắn không phải là chồng tôi mà là một người đàn
ông tồi tệ. Tôi căm thù hắn. Tôi muốn trông thấy hắn bị treo cổ.
- Tôi sẽ đến gặp chị sau khi liên hệ với Voler.
Romen bĩu môi:
- Ông tin là hắn vô tội ư? Thật đáng thương!
Trước ngày tòa xử, luật sư Mayher nhận được một lá
thư, nét chữ nguệch ngoạc: "Nếu ông muốn vạch mặt mụ đàn bà đã hại chồng
mình như thế nào, mời ông mang theo 2.000 đô la, đến địa chỉ X... vào lúc 19
giờ, hỏi bà Motion".
Khó khăn lắm, luật sư Mayher mới tìm thấy địa chỉ
căn nhà. Đó là một túp lều ổ chuột nằm trong một con hẻm lầy lội, dơ dáy. Một
mụ già lưng còng đợi ông sau cánh cửa:
- Chào anh chàng luật sự Vào đây, vào đây.
Ngọn đèn trên trần tỏa ánh sáng lờ mờ. Luật sư
Mayher giật mình khi thấy gương mặt mụ già đầy những vết sần sùi đỏ hỏn. Mụ cất
tiếng the thé:
- Axit đấy, anh bạn trẻ ạ. Tôi sẽ trả thù, trả thù.
- Thôi đi, bà hãy vào vấn đề nhanh lên.
Bàn tay gầy đét với những ngón cáu bẩn đưa ra:
- Thế tiền đâu? Phải đủ hai ngàn đấy nhé.
- Nếu bà biết điều gì đó, bà có bổn phận ra tòa làm
chứng.
- Không. Tôi chả biết quái gì cả, nhưng tôi có thể
cho anh một vài thứ rất haỵ Anh có thích đọc một lá thư của mụ Romen không? Rất
cần thiết cho anh đấy. Đưa tiền đây.
- Tôi chỉ có một ngàn thôi. Nếu bà không chịu tôi
xin kiếu.
- Quỷ tha ma bắt anh đi. Nào, bốc xỉa ngay.
Mụ già rút dưới tấm nệm rách ra một xấp bì thư, ném
trước mặt Mayher:
- Chắc chắn anh sẽ khoái lá thư trên cùng.
Tất cả đều là những bức thư tình, do Romen viết gửi
cho một người tên Mac. Lá thư cuối cùng viết đúng ngày Voler bị bắt: "Mac
yêu quý, Voler vừa bị bắt vì tình nghi giết người. Em biết, Voler là một tên
hiền như bụt, không hại đến một con ruồi. Nhưng em sẽ khai trước tòa là hắn trở
về nhà với máu me đầy mình và đã thú nhận tội lỗi với em. Hắn sẽ bị treo cổ và
chúng ta sẽ có nhau... ".
Mụ già nói thêm:
- Mac là chồng tôi. Ngày xưa, vì con bé Romen mà
anh ta đã tạt axit vào mặt tôi. Tôi thù nó và đã theo dõi, rình rập nó trong
bao nhiêu năm trời. Bây giờ nó sẽ bị trừng phạt vì tội khai man để đẩy chồng
vào tù. Anh cứ tin đi. Hãy đến rạp chiếu bóng
Không bỏ phí thời gian, luật sư Mayher đến ngay rạp
chiếu bóng và ông đã đạt được ý muốn. Chẳng qua, trước khi lấy Voler, Romen
từng là diễn viên kịch, nên nhiều người biết mặt. Họ xác nhận, đêm hôm xảy ra
án mạng, Romen vào rạp coi xuất chót, vào lúc 10 giờ 20.
Ngày họp tòa. Romen khai rằng buổi tối hôm xảy ra
án mạng, Voler ra khỏi nhà mang theo một thanh sắt. Hắn trở về lúc 10 giờ 20 và
thú nhận với chị là đã giết bà Fren, hắn còn dọa sẽ giết chị nếu chị nói sự
thật.
Romen. Người đàn bà điêu ngoa đã phải gục đầu thú
nhận. Quả thật, Voler đã trở về nhà lúc 9 giờ 20 như lời anh đã khai. Voler
được trắng án.
Nhưng sự việc không ngừng ở đây, bởi lương tâm luật
sư Mayher cảm thấy không yên. Lòng dạ Ông bồn chồn khi nhớ lại những cử chỉ của
Romen trước vành móng ngựa. Lưng chị hơi còng, bàn tay phải luôn xòe ra, một
thói quen kỳ la... hình như ông đã thấy một người cũng có cái tật như thế. Ai?
Luật sư giật nẩy mình. Đúng rồi, Romen đã từng là kịch sĩ... mụ già mặt thẹo!
Ông tìm đến nơi Romen đang trả giá ba tháng tù vì
tội khai man. Đầu óc ông quay cuồng với bao câu hỏi. Tại sao? Tại sao?
Người đàn bà trở lại vẻ lạnh lùng cố hữu: - Tại sao
tôi lại chơi cái trò ấy à? Tôi phải cứu chồng tôi chứ. Một lời khai của người
vợ thương chồng đâu có thuyết phục được ai. Nếu những lời nói của tôi không tự
ý mình, mà do những tác động bên ngoài bắt buộc thì ai cũng phải tin. Tôi bị
phạt tù vì khai man hại chồng, nhưng chồng tôi sẽ được cảm tình của tòa và mọi
việc sẽ thuận theo chiều hướng tốt đẹp.
- Còn tập thử Còn anh chàng Mac?
- Nếu chỉ viết một lá thư thì có vẻ giả tạo quá.
Còn anh chàng Mac ư? Làm gì có, đó chỉ là một cái
tên ma.
Luật sư Mayher hậm hực: - Lẽ ra chị không nên làm
thế. Chúng ta có thể chứng minh sự vô tội của Voler bằng một cách hợp pháp hơn.
Romen nhếch mép:
- Thế ông vẫn tin Voler vô tội ư?
- Dĩ nhiên. Chị đã rõ là tôi tin như vậy.
- Tôi thì chả rõ gì cả. Tôi biết chắc là chồng tôi
đã giết bà Fren. Để làm gì ư? Vì chúng tôi quá nghèo, ngài luật sư ạ.
HẠT ĐỒNG GIAO
(Tác giả: Đái Đức Tuấn))
Khi chuyến tàu Hà Nội - Vinh ghé một phút tại ga
Đồng Giao để trút xuống mỗi một người hành khách và một kiện hàng, thì kim đồng
hồ nhà ga chỉ đúng 7 giờ 55 phút. Trời hôm ấy là một vòm trời đen tối; mưa phùn
rả rích phủ kín không gian bằng một tấm màn ảm đạm; khí hậu nặng nề ẩm thấp;
quang cảnh bốn bề lạnh lùng bí mật, chung quanh nhà ga đều là đồi núi từng cây,
khiến càng tăng thêm vẻ hoang vu rùng rợn.
Chỗ đó, xưa kia là một khu rừng sâu thẳm, ở vào một
nơi đồi núi hiểm hóc, chỉ có thể làm sào huyệt cho lũ giặc cỏ ẩn nấp, hoặc làm
trường mai phục cho hai đạo quân Chúa Nguyên và Chúa Trịnh khi Bắc Nam xung đột
binh đao. Chỗ đó ở chính giữa khoảng giáp giớn hai xứ Bắc và Trung kỳ, nó chia
rẽ bờ cõi hai kỳ bằng ba từng núi liền nhau, vì cớ ấy tục thường gọi là đèo Tam
Điệp.
Ai đã từng đi xe lửa từ Thanh Hóa ra Ninh Bình,
chắc cũng đã để ý đến một quãng đường sắt gập ghềnh, hiểm trở, có lắm đoạn khúc
khuỷu, mỗi lợt xe đi qua lại ngửa nghiêng lúc lắc phải ghìm bớt đà lại, làm cho
hành khách khó chịu mỗi khi nghe tiếng nghiến kèn kẹt của bánh xe ép chặt trong
máy hãm , giữa khi thân thể thì bị rung chuyển vì con tàu quằn quại, lợn ngùng
ngoằn như con rắn uốn éo trên một con đường hẹp hòi, đục ở giũa núi. Ló đầu ra
ngoài cửa sổ để nhìn phong cảnh, ta chỉ thấy mặt đá trơ trơ, dựng cao như bức
tường, và toàn thị là một thứ sậy khẳng khiu, mọc ở ven sườn đá. Một khi tàu
chui qua khỏi núi ra tới nơi đất phẳng thì lại chỉ là một khoảng đất mênh mông
bát ngát lởm chởm những đá, trên mọc xanh um kín mít những thứ cây nhỏ không
tên tuổi, lan rộng khắp vùng; trông bụi không ra bụi, đồng không ra đồng, chỉ
thuần một màu xanh thẫm, không thấy mặt đất đâu nữa. Thứ cây đó chả hiểu là
những loại gì, nó thấp lè tè, quá mặt đất độ hơn nửa thước, mọc chen lẫn với
lau và sậy, với cỏ, với rêu, biến quãng bình địa ra một khu hoang vu xanh thẫm,
rừng cây không ra rừng cây, nội cỏ chẳng ra nội cỏ. Trong muôn vàn thứ cây đó,
thứ mọc nhiều nhất là cây săng, cây sim ; có thứ lại có hoa trắng và hoa tím,
điểm một nét diễm lệ trên vẻ trơ tẻ cằn cỗi của ngàn lau.
Từ mấy năm nay, có một ông hào phú được nhà nước
cho phép khai khẩn chốn hoang vu đó để làm đồn điền. Nhưng dáng chừng sự khai
hoang khó khăn quá, nên nhà hào phú kia đành bó tay chịu thua Tạo hóa, chỉ để
lại trên đường sắt một tấm biển báo hiệu cho công chúng biết đất Đồng Giao là
nơi sắp thành ấp nay mai. Ai đi qua Đồng Giao mà chẳng thấy tấm biển gỗ to,
đứng sừng sững trên ngàn cỏ xanh đã mấy năm nay, trên có một hàng chữ đập mạnh
vào đồng tử người quá khách: "Concession Nguyễn Văn X... "
Sự mở mang khu đất rộng giáp với đường sắt ở vùng
Đồng Giao hẳn phải là một công trình vĩ đại, mà trong một thời gian ngắn ngủi,
sức người khó nỗi làm xong. Muốn cho bãi đất hoang thành khoảng đồng phì nhiêu
phong phú, tất phải bỏ ra mặt số tiền ức vạn, một là để phạt hết cây hoang cỏ
xấu, hai là để san bằng mặt đất, vạt cho hết lượt sỏi đá gồ ghề. Công trình ấy
cũng đủ nuốt hết một gia sản khổng lồ, huống lại còn phải xây nhà cửa, nuôi súc
vật và trồng trọt! Có lẽ cũng vì thế nên nhà hào phú kia đành nhẩn nha làm
việc, không thể tiến hành công cuộc khai khẩn một cách mau chóng hơn nữa.
Ấy là chưa nói về khí hậu xứ Đồng Giao, ai đã ở
vùng ấy độ dăm bảy tháng ắt phải rùng mình ghê sợ, mỗi khi nói về thủy thổ miền
giáp giới Bắc Trung kỳ. Đó là tổ sốt rét rừng, dẫu uống ký-ninh đến điếc tai
cũng khó lòng tránh khỏi. Khí hậu thực là kỳ quặc: tuy ở vào miền gần bể, mà
Đồng Giao về phương diện thời tiết cũng chả khác gì những chỗ ở mạn thượng du,
và có lẽ còn độc hơn các tỉnh ly vùng thượng du nữa. Đêm thì lạnh buốt phải đắp
chăn tới sáng, ngày lại nóng bức như giữa mùa hè. Sống trong bầu hàn thử tương
xung đó, phải có xương đồng da sắt mới tránh khỏi sự Ốm đau quặt quẹo. Buổi
sáng, tám giờ, sương trắng như sữa, đặc như khói, còn phủ kín non sông cây cỏ;
mãi đến khi mặt trời lên cao lắm mới tan dần. Chiều tới, vào khoảng bốn năm
giờ, sương đã bắt đầu rỏ xuống rồi tụ lại, chỉ chốc lát là phong cảnh bị chìm
đắm trong một bức màn trắng đục, ẩm thấp, khiến người đi trong năm bước khó
lòng trông thấy mặt nhau. Trong vụ quí xuân, mỗi khi có mưa râm rả rích, sự
nặng nề ướt át càng tăng gấp bội, trời thu một màu tiêu điều xám đục, đất thì
vắng lạnh đìu hiu, phong cảnh thực là thê lương ảm đạm. Có lẽ vì vùng Đồng Giao
ở cao hơn mặt bể, lại có các rừng núi bao bọc, nên tuy không xa đồng bằng mấy,
mà khí hậu thời tiết khác hẳn các miền ở đồng bằng. Quanh năm không khí bao giờ
cũng đầy hơi nước; sự ẩm thấp không làm sao tả xiết; cỏ hoang rêu lạ tha hồ
được tươi tốt những áo quần đồ đạc thì luôn luôn phải hơ, phải sấy, nếu không
ắt bị mốc bị mục một cách mau chóng lạ thường.
Đem so sánh các tỉnh rải rác trên quãng đường thiên
lý chạy từ Hà Nội đến Huế, thì có lẽ hạt Đồng Giao là chỗ độc địa hơn cả. Sở dĩ
nước độc, tại vì bốn chung quanh hạt toàn là rừng rú, ngàn nội, truông sậy bãi
lau; nhưng lá cây mục nát từ thủa xưa còn chồng chất cả trên mặt đất, trong
lòng suối, khiến nước xanh lè như màu rêu, hoặc đục váng lên như nước ao tù.
Những cây cỏ thường hay giữ lấy hơi nước, không cho
tan đi, lại nhuốm các khí độc ở đất bốc lên, thu tất cả bao nhiêu những nguồn
ám chướng vào lòng rừng rú. Gia dĩ trong rừng, bóng mặt trời không lọt vào
được, lá cây cổ thụ rờm rà che lấp hẳn ánh nắng, hóa nên sự ám chướng thiêng niên
vạn đại cũng cha tiêu. Lá cây, khi rụng xuống, xếp lên thành khối, lâu ngày mục
dần, biến ra một tảng đất đen hôi thối, có khi rơi vào nước, hoặc ngấm vào mạch
nước, đầu độc cả các suối, các ngòi. Dân cư bởi thế, không tài nào tránh khỏi
bệnh tật, vì ai ai cũng đều phải lấy nước làm một sự cần thiết cho cuộc sinh
hoạt thường ngày.
Đấy, chỉ xem qua như thế ta cũng đủ thấy đất Đồng
Giao là một vùng ám chướng; mà không những hạt ấy chỉ độc địa ở khí hậu, chỉ
buồn tẻ cằn cỏi ở phong cảnh, nó lại còn dữ dội tàn ác ờ chỗ rùng núi bụi bờ
chứa đầy các loài mãnh thú sinh hoạt một cách hùng cường phồn thịnh trong vẻ
phồn thịnh cua cỏ cây.
Bởi địa thế hiểm hóc, Đồng Giao đã làm trường thí
nghiệm cho muôn ngàn tấn bi kịch khủmg khiếp. Nào là cướp bóc, chém giết, nào
là hãm hiếp, giam kìm vân vân... Những trò thương tâm ấy đều là của loài người
tranh cạnh với loài người, mà diễn ra, nó không có tính cách lạ lùng cho lắm.
Thê thảm bi đát hơn ấy là sự mãnh thú, vì đói ăn bắt loài người cấu xé ra từng
mảnh, xác thì dùng để lót dạ, mà hồn thì đày đọa vào kiếp nô lệ ma trành. Một
câu chuyện trong muôn ngàn chuyện hổ hại người, tình cờ khi đặt chân lần đầu
trên đất hạt Đồng Giao này tôi đã được nghe thuật lai.
Bạn hãy theo tôi xuống tàu vào ga một chút, rồi
chúng ta sẽ cùng đi tới đầu đề. Hôm đó, trời mưa rả rích, lại tối đen như mực,
dẫu vừa mới tám giờ đêm. Quang cảnh nhà ga trông quạnh hiu hoang vắng, sự buồn
sự lạnh thấu trời rơi vào tận đáy tâm hồn. Tàu huýt còi rồi nặng nề lăn bánh
trên con đường sắt, chui vào bóng tối chập chùng. Tôi ngẩng trông trời, mưa
phăn tạt vào mặt tỉnh táo ra đôi chút. Một mình thui thủi, tôi xách va ly thất
thểu trên vỉa đường ẩm thấp, đi vào cửa ga.
Cửa ga hé mở có một cánh. Một người thư ký, gầy gò
trong chiếc áo the lụng thụng, giơ tay đón lấy cái vé tôi trao. Tôi cũng chả
buồn nhìn xem ông ta già hay trẻ và mặt mui thế nào. Vả lại tối lắm.
Bước vào mé trong ga. tôi thấy ấm áp dễ chịu. Anh
sáng các ngọn đèn dầu tây tỏa ra một cách dịu dàng trong gian phòng hẹp vắng
bẩn thỉu, trên tường có tranh ảnh của sở hỏa xa xuất bản, ở một góc lại có một
cái cân to.
Tôi còn đương bàng hoàng ngần ngại , ở bóng tối
bỗng đâu nhô ra một người vạm vỡ, mũ dạ đội sụp lấy trán, áo tơi mưa bọc kín cả
người. Chàng lực sĩ ấy ra nắm lấy tôi, rồi nhe ngay bộ răng trắng nhỡn.
- Tôi đợi anh đã lâu. Sao tàu chậm thế?
Tôi mới nhận ra đó là Trần Văn Thủy, bạn tôi, một
nhà thầu khoán to hiện đương dở công việc xây đắp nhà cửa và đường sá ở mạn
Đồng Giao. Anh Thủy thấy tôi mừng quýnh như kẻ được vàng, vội kéo tói xềnh xệch
ra khỏi ga, đẩy tôi lên xe ô tô, mở máy chạy vèo vèo trên con đường đá vụn. Tôi
ngồi trên xe, chỉ nhìn thấy một vùng vô định, lờ mờ u ám, không còn nhận rõ sự
gì. Duy chốc chốc lại nghe tiếng sỏi bắn vào thành xe, kêu rắc rắc, và luôn
luôn bên tai tiếng động cơ xoay chuyển đều đều. Một nửa giờ như thế, xe ngừng
lai. Bạn tôi bấm đèn "pile" rọi sáng, đưa tôi vào một tòa nhà.
Trời tối lắm, tôi cũng chả biết nhà ấy lợp bằng
ngói hay bằng gồi, tiến vào thì thấy nền nhà cao ráo, phòng ốc rộng rãi, tườg
tuy bằng rơm và phên trát vữa, nhưng có cửa kính cứa chớp chắc chắn, mé trên
thì cũng có trần như các nhà tây. Trong nhà có ghế xa lông rơm và dăm bộ phản,
cùng một bộ bàn ăn. Bài biện rất sơ sài, song thực là ngăn nắp và sạch sẽ,
thoạt mới vào ai cũng phải vò đoán chủ nhân là một kẻ làm ăn cẩn thận, ưa sự
thực tế mà ghét thú xa hoa. Trên tường, quét vôi trắng toát, chả có tranh ảnh
gì cả. Gian giữa, thì thấy treo một khẩu súng trường hai nòng và ba thứ khi
giới ta; một thanh mã tấu, hai thanh quất và một cái nỏ. Thế là hết. Các đồ
trang hoàng chỉ có thế, còn thì trơ trụi mạt tường không.
Nhưng ta cũng chớ nên vì thấy vẻ sơ sài đó mà vội
liệt chủ nhân vào hạng người chỉ có óc buôn bán, không có óc mỹ thuật. Thực ra,
Thủy là một thiếu niên rất chuộng văn chương, âm nhạc; sở dĩ chàng chịu sống
trong cảnh trơ tẻ như thế chì bời chàng muốn theo đúng chí hướng của cha, muốn
tự buộc mình luôn luôn phải nghĩ đến sự làm ăn để làm thí dụ cho đứa con thơ và
cho vợ. Cái nhà ở Đồng Giao này, chả qua chỉ là chỗ sống tạm bợ mà thôi, hà tất
phải vẽ vời trang hoàng, bày biện mỹ lệ làm gì cho tốn. Có quen Thủy lâu ngày,
có đi sâu vào tâm lý chàng, mới có thể hiểu chàng là một nhân vật dễ xúc cảm,
dễ mơ mộng, dẫu bề ngoài chàng cố hết sức nén đè các tính tình nhu nhược của
mình đi.
Thoạt vừa tới nơi, tôi đã thấy trên bàn bày sẵn bát
đũa và các món ăn nghi ngút. Có một sự làm tôi chú ý nhất, ngạc nhiên nhất,
nhưng cũng vui thú nhất: ấy là một bộ khay đèn sáng loáng, rất tươm tất bày
trên một cái sạp gụ Ở góc phòng.
Trước khi xuống chi với Thủy, tôi đã sắp sẵn trong
va-li đủ các khí cụ cho sự nghiện hút của tôi rồi. Tôi vẫn biết bạn không ưa
thuốc phiện mà chỉ trọng thể thao săn bắn nên chắc rằng anh chả để ý gì đến sự
tìm kiếm khay đèn cho tôi. Ngờ đâu anh chu đáo quá! làm cho tôi vừa cảm kích
vừa hổ thẹn nghĩ đến tình bạn đối với mình lại quí mến bạn biết bao!
Ăn cơm có Lệ Thi, vợ Thủy, cháu Thu Nhi, con gái
Thủy, bạn tôi và tôi chuyện trò vui vẻ, ăn ngon quá, đồ ăn hết nhẵn, vì Thủy ăn
khỏe như hùm. Giữa chốn đồng rừng u tịch này, vợ và con gái Thủy tựa như lai
đóa hoa thành thị, lạc loài vào bãi tho mộc xanh um của đồi núi, ngõ hầu đem
đến cho kẻ bị đày vào nơi hoang vắng một chút hương thơm của chốn náo nhiệt
phồn hoa. Vợ con Thủy tức là cái mục gia của chàng, cái mục gia mà mỗi lần quá
mệt nhọc ưu tư, chàng quay về ngắm nghía thì kluây hẳn nỗi lo sầu lao khổ. Có ở
một chỗ xa xôi lạ người lạ đất, ở một chỗ mà "lau già trút vỏ nẩy mầm
quanh hiên", thì mới biết bàn tay mềm mại của người đàn bà và tiếng nói
líu lo của đứa trẻ con, thực quả rất cần thiết cho sự sinh hoạt thường ngày.
Mất hai thứ quí báu ấy cuộc đời dễ tẻ dễ chán lắm, và, mỗi lần phải xông pha
những cuộc khó khăn để đạt tới công danh hay phú quí, thì không làm gì có sự
khuyến khích thiết tha tâm trí để bền lòng gắng sức tiến lên.
Trong đời kẻ anh hùng, đem toàn thân thờ một quan
niệm siêu quần, có lẽ vợ con là một điều trở ngại cho chí khí. Nhưng trong đời
một kẻ sống một cách tầm thường bình dị thì sự thiếu vợ con quả là một nỗi buồn
rầu, một động lực làm trở ngại sự tấn tới trên đường sinh hoạt.
Bới thế, đối với Thủy, tôi thấy ngay rằng anh đem
vợ con cùng ra ở Đồng Giao là một điều chí lý, dẫu rằng khí hậu thủy thổ ở đất
này không được lành như ở đồng bằng. Song le, vì anh khéo giữ gìn, ăn ở đúng
phép vệ sinh, nên cả nhà anh ít bị Ốm đau quặt quẹo; vợ con anh trông đều khỏe
mạnh cả, không đến nỗi mặt bủng da chì như phần nhiều dân ở nước độc rừng
thiêng.
Cơm nước xong, cả hai vợ chồng bạn và đứa con thơ
theo gót tôi cùng lại sập gụ Ở góc phòng, bốn chúng tôi quây quần chung quanh
bàn đèn, nói chuyện với nhau như họp chợ. Lệ Thi tự tay rót nước lọc ra ấm, đặt
lên đèn cồn, đun một ấm nước sôi. Rồi lại tự tay nàng lấy cốc lấy đường, pha
cho hai anh em tôi mỗi người một cốc cà phê rõ đặc.
- Hút thuốc phiện có hãm cà phê đắng mới thú vị, em
nghe cậu em ngày trước vẫn nói như vậy. Ở đây tuy có cà phê nhưng tự rang lấy
không được ngon lắm, bởi thế thứ cà phê này, em phải gửi mua từ Hà Nội xuống
đây. Nhà em uống quen rồi, cứ gần hết em lại vội nhắn mua cho kỳ được, nếu không
cơn nghiện ông ấy lên, ông ấy ray rứt cho đến khổ! Ấy nghiện cà phê còn như
thế, nghiện thuốc thì đến thế nào?... Nhưng mà... anh thử uống xem có phải đúng
Moka hảo hạng đó không?
Hôm đó thực là ngày hội. Nào là Lệ Thi, nào cháu
Thu Nhi, nào Thủy, nào tôi, cứ cướp lời nhau mà nói, nói đến chỗ vui quá lại
cười ầm lên. Tôi hút bữa thuốc phiện đêm ấy sao mà không thấy đủ, dẫu rằng thứ
tôi hút là một thứ "thuốc Mẹo" cũ kỹ đã có váng mốc, mà bạn tôi đem
tự Lào về rồi giấu đi để dành cho tôi đã hơn một năm nay. Thì ra vừa hút vừa
nói, thuốc phiện đi đâu mất hết. Tôi cứ nằm dài hút mãi, tiêm xong lại hút, hút
lại tiêm, không có ai là bạn "đối hấp" cả.
Lệ Thi nói chuyện chán quay vào quấy nhiễu bàn đèn,
đòi tiêm cho tôi hút. Thủy vội vàng gạt đi, nhưng tôi lại chiều ý, đến nỗi
thuốc phiện rơi vãi ra khay tứ tung nhoe nhoét, dính hàng tảng vào nhĩ tẩu, và
rỏ xuống tắt cả đèn. Có đến thế nàng mới chiu thôi, dắc con đi ngủ. Chỉ còn hai
anh em chúng tôi nằm đối diện nhau cạnh bàn thờ Phù dung nữ chúa mà thói. Thủy đứng
dậy bỏ màn xuống cho đỡ muỗi.
Đêm lúc ấy đã khuya. Chim rừng queng quéc báo hiệu
đầu giờ Tý. Bạn và tôi buổi này không đàm đạo nữa, cùng nằm yên hưởng thú tinh
mịch của canh trường. Chúng tôi hiểu rằng nói chuyện với nhau vô ích; đã là đôi
bạn tri giao thân thiết, thì nhiều khi kề bên nhau cũng đủ rồi. Chúng tôi được
gần kề nhau được thấy mặt nhau, còn gì sung sướng khoan khoái hơn nữa? Tội gì
đem lời nói phá tan sự khoan khoái ấy đi. Trong cái êm đềm quạnh quẽ, tình thân
yêu qui mến còn nồng nàn hơn lúc nói cười. Có biết nằm yên để lẳng lặng nhìn
nhau, đó mới thực là tương ái đến tột điểm. Mà có khi lại không cần nhìn nhau
nữa; mỗi người nhắm mắt mơ màng một lối , miễn là đều có tín ngưỡng rằng cả hai
cùng được gần nhau. Thế là đủ, trong tất cả cuộc đời thân thiện của Thủy và
tôi, chúng tôi tương tri nhau ở chỗ ấy hơn cả.
Tôi bấy giờ mới thấy thuốc Mẹo thấm vào gân cốt,
trong người nhẹ nhàng êm ái, say sa một cách rất dịu dàng, chỉ muốn lơ mơ nằm
điềm tĩnh bên khay đèn mãi mãi, đừng bao giờ phải dậy nữa.
Thực là một thú vị ngây ngất, êm đềm và huyền ảo,
không tài nào tả rõ được. Trong lúc bàng hoàng, yên chí rằng có bạn ở bên cạnh,
và cũng đương trầm ngâm mơ mộng như mình, tôi cứ yên lặng nghĩ quanh nghĩ quẩn
hết xa đến gần, thức cũng không phải thức, mà ngủ thì không ngủ được, linh hồn
nửa tỉnh nửa mê, phiêu diêu phảng phất, đi sâu vào cỏi Yên Hà. Bất giác tôi
nghĩ đến đôi câu đối khắc trên yên dọc tẩu của tôi, tôi bèn ngâm váng lên một
cách rất tự nhiên, nhưng thực quả là vô lý.
Cao ngọa gia san, hô hấp vân yên hàm bán tháp;
Ấn cư cầu chí, trù mâu phong vũ đối cô đăng...
Bạn tôi có lẽ đương lim dim ngủ, giật mình tỉnh
dậy. Nhìn đồng hồ, bấy giờ vào khoảng hơn một giờ đêm, đầu giờ sửu. Thủy với
tay lấy cốc cà phê, ghé lên mồm uống một hớp nhỏ. Tiếng cùi dĩa sắt đụng vào
thành cốc leng keng.
Liền lúc ấy, xa lắm, xa lắm, tôi thoáng nghe tiếng
đờn ca não nuột. Tôi lắng tai chú ý. Im lặng. Chỉ có tiếng mưa tuôn rả rích,
tiếng gió phả vì vèo, tiếng trùng than dế khóc, và chốc chốc, tiếng một con
chim rừng kêu quạc quạc trên ngàn. Tôi lại ngả đầu xuống gối.
Bỗng đâu, một nhịp đàn hát lại văng vẳng lọt vào
tai tôi, nhỏ lắm, xa lắm, tưởng chừng ở cõi vô hình đưa lại. Dưới mãnh lực của
Phù dung, xúc động hết giác quan của tôi khi say khói, tai tôi nghe thính một
cách lạ thường. Tôi áp tai xuống phản. Thì này, không còn sai nữa, rõ ràng có
tiếng hát ở đâu đây? Tôi hết sức lắng nghe. Từng quãng một, như xa như gần, như
khoan như nhặt, âm thanh kia réo rắt từng hồi. Càng ngày nghe càng quen, càng
rõ. Một chốc, tiếng đờn ca ngừng bặt, rồi lại tỏa ra; nhưng ước chừng gợn dư âm
kia ở mãi ngọn đồi, chân ải, ở một vùng xa nhà bạn tôi đến dăm bảy trăm thước,
không biết xuất phát từ hướng nào. Cũng có lúc, nhờ sức gió bạt sang, nghe rõ
nửa câu, vài điệu; lại có khi gió quay đi chiều khác, chỉ nghe lờ mờ văng vẳng
mà thôi.
Tôi chú ý đến nửa giờ, mới đoán được giọng hát kia
là giọng cô đào hát nói. Bởi lẫn trong đàn hát, một đôi khi nghe thoáng có nhịp
phách chấm câu. Thôi, đích thị rồi! Có lẽ quanh vùng đây, có nhà hào mục, tổng
lý nào được sắc ăn khao, vui mừng nên đặt ra trò tiêu khiển thanh cao nhã đạm
ấy. Nếu không phải thế thì trong hạt này làm gì có cái của hiếm, giống những
nơi xa hoa phồn thịnh, tức là cái thú cô đầu?
Nghĩ thế, tôi ngồi nhỏm lên, với tay gọi bạn:
- Này Thủy, ở đây có nhà nào đặt tiệc ăn mừng
không? Bạn tôi mắt nhắm mắt mở, choàng thức dậy, với lấy cốc cà phê hớp nốt mấy
ngụm cặn cuối cùng. Xong ml hỏi tôi:
- Cái gì thế? Anh không hút nữa à!
- Tôi thôi hút đã lâu; tôi muốn hỏi ở đây có nhà
tổng lý nào được sắc ăn khao mà hát xướng om sòm lên thế?
- Làm gì có ăn khao, làm gì có hát xướng! Chả qua
vì say thuốc phiện anh ù tai đấy mà thôi.
- Nói lạ! Rõ ràng, tôi lắng đến nửa giờ, có tiếng
hát đào văng vẳng, nên mới tư ởng rằng quanh vùng này có tiệc ăn khao...
- Anh nghe thấy tiếng hát ư? Thế thì anh có phúc
thật! Tôi ở đây đã mười mấy tháng trời , mà cả hai vợ chồng, chả đứa nào nghe
thấy gì cả!
- Anh nói cái gì tôi không hiểu? Anh nghe thấy cái
gì?
- Tôi nghe thấy tiếng hát.
- Hát gì? Hát cô đào...
- Cô đào ở đâu?
- Ở trong rừng?
- Sao lại ở trong rừng?
- Ở trong rừng nghĩa là ở trong rừng, cậu ngạc
nhiên vậy sao!
- Thằng cha này nói vô lý! Cô đào nào lại có thứ cô
đào ở trong rừng?
- Thế mà ở trong rừng mới lạ chớ!
- Thôi, hẳn có sự bí hiểm gì ở chỗ này rồi, chớ
không sai! Anh Thủy ôi! Anh làm ơn kể cho đệ nghe với nào!
- Dễ chửa, anh có gì biếu, tôi mới kể cho mà biết;
chứ dễ thường mỗi lần anh muốn thỏa chí tò mò hiếu sự, thì anh cứ việc đang đêm
hôm dựng cổ tôi dậy, là tôi phải kể hầu anh nghe đấy ư?
- Tôi lạy anh. Hễ anh kể tôi nghe, mà tôi viết được
thành sách, thì quyển sách ấy sẽ riêng tặng anh, Lệ Thi và cháu Thu Nhi! Thế là
món quà quí nhất của tôi đó!
- Ừ , thì được, nhng mà hãy thong thả một chút. Để
tôi đánh thức Lệ Thi dậy, bảo đun nước pha một cốc cà phê đặc uống cho tỉnh táo
đã, nhiên hậu mới kể được cặn kẽ cho anh nghe.
- Thôi để tôi pha hầu, hà tất phải làm tội Lệ Thi
như thế.
- Không được! Chỉ có vợ tôi pha tôi uống mới ngon
thôi, vì nó biết tính tôi rồi. Bao nhiêu nước, bao nhiêu đường, lại chỉ được
lọc nửa cốc thôi, còn thì pha thêm nước sôi, nếu không, uống sẽ đắng mà không
thơm. Lệ Thi! Còn thức đấy không? Dậy anh mượn tí!
Lệ Thi trong màn bước ra, vừa đi vừa vấn tóc. Dưới
ánh đèn lờ mờ, trông nàng ban đêm đẹp quá. Nàng lịch kịch đun nước, pha hai cốc
cà phê. Và nàng lại rót mía đường chèo chất đầy một dĩa cho chồng hãm giọng và
bạn hãm thuốc.
Đương khi chờ đợi, Thủy uống hớp cà phê đầu thì cho
lòng hiếu kỳ của tôi được mãn nguyện, và muốn cho câu chuyện đợm thêm vẻ nỗng
nàn đằm thắm, tôi lại khêu to đèn tiêm thuốc hút nữa, khiến cho thời gian chung
quanh mình cũng bớt phần ảm đạm, nặng nề.
Tiếng nước réo mãi không sôi làm tôi sốt ruột. Lệ
Thi quay vào buồng đắp kín chăn cho con bé cháu, xong quay ra giắt màn cho chúng
tôi cẩn thận rồi yểu điệu ngoan ngoãn ngồi thu hình sau lưng chồng, góp thêm
trong quãng u tịch của đêm trường một cái bóng dịu dàng bên hai chiếc bóng cứng
cỏi của tôi và Thủy.
Ngoài thềm, tiếng trùng than dế khóc ầm ĩ tỉ tê như
một khúc nhạc rầu rĩ êm đềm. Vài chiếc lá khô, thỉnh thoảng bị gió bạt lìa khỏi
cành, xào xạc rơi xuống mặt sân gạch. Gió từng luồng nhẹ, chốc chốc rúc vào khe
cửa, rên lên một tiếng não nùng như tiếng thở dài. Mưa, nghe chừng đã tạnh, nên
không có tiếng tí tách rả rích trên vỉa hè nữa. Vạc, hàng dãy, xé không trung
bằng những tiếng ri rắc, ngắn ngủi không hề có gợn dư âm.
Lệ Thi vươn tay qua mình chồng, lấy cái lọc cà phê
bỏ ra ngoài. Thủy hớp được vài hớp nước nóng, bấy giờ mới đằng hắng vài cái bắt
đầu nói chuyện.
Bóng Lệ Thi vẽ lên màn một cái hình thiếu phụ mơ
màng.
NGÀN KHUYA TIẾNG VẮNG
(Tác giả: Đái Đức
Tuấn (TCHYA))
Hai vợ chồng tôi ở đây đã quá một năm mà thực quả
chưa bao giờ được cái hân hạnh như anh cả.
Từ khi chúng tôi vừa mới đến, đã nghe các ông cai
và các bác phu già nói dông dài về nhiều chuyện đường rừng: nào dã sử của mấy
mươi loài chim lạ, như con "cô ơi", con "trà toản", con
"tử qui", con "da da" vân vân, nào sự tích của bao nhiêu
loài dị thú, như con "thủ thỉ", con "rắn lục", con
"sài cứu", con "vọng nguyệt", nói thế nào cho hết được; tóm
lại phần nhiều những chuyện đó, tuy lý thú, ý vị cả, song không lấy gì làm kỳ
dị hãi hùng.
Bản tính tôi chỉ thích nghe những chuyện hãi hùng
mà thôi, hóa nên tôi chả để ý đến lời họ nói. Mãi sau này, có một ông cai già
mà anh em áo cộc thường gọi "Lão Cai Móm", vì răng ông ta rụng gần
hết - Ông ấy thuật tôi nghe một câu chuyện rất kỳ quặc, khủng khiếp. Đầu tiên
tôi không tin, cho là ông ta cố tình bịa đặt, một là để vừa lòng tôi, hai là để
dọa vợ tôi cho thú vị. Nhưng, được ít lâu trong một trường hợp cực kỳ quái gở,
tôi suýt nữa bị tán đởm vì sợ hãi rồi từ đó tôi phải tin lời ông cai già là
đúng.
Từ độ ấy, hễ cứ đêm nào mưa dầm gió bấc, như đêm
nay chả hạn, là tôi cố thức và chú ý lắng tai nghe.
Tôi thức mãi, lắng mãi, mà chả bao giờ thấy gì cả.
Cái lần mà đáng lẽ được nghe thấy, thì tôi lại sợ quá, chết ngất đi thiếu chút
nữa mất mạng. Còn về sau này, thì cả vợ chồng, đêm đêm thường cùng nhau ngồi
lắng tai gần suốt sáng, thế mà cũng chả thấy gì. Chán nản, chúng tôi đành bỏ,
không thám thính nữa. Ai ngờ lần đầu tiên anh đến, anh đã nhận được ngay sự bí
hiểm mà tổn hao tâm trí tôi vẫn chưa nhận được; tái anh thực là tai thánh, linh
ứng bằng tai Hổ thần!
Quả như lời anh nói, sự bỉ hiềm kia là một điệu hát
cô đầu. Trong rừng có ả đầu, đó mới là một sự đáng cho là bí hiểm! Nhất là ở
mạn rừng này. Bới lẽ Đồng Giao là một hạt hẻo lánh, dân tha nước độc, cô đầu
đến làm gì? Trong mấy chục năm nay, có lẽ từ thượng cổ đến giờ, chưa khi nào có
một chị quẩng mỡ hoặc điên rồ đến đây mở một ngôi hàng Hồng lâu cả. Thế thì tại
sao chỗ này lại được nghe hát đào?
Cứ về đêm, quá giờ Tý, thì mới văng vẳng có tiếng
đàn ca réo rắt. Đàn ca ấy lại xuất phát tử mé giữa rừng. Hai tháng đầu khi tôi
mới đến cũng lắm người nói với tôi như thế tôi đều cho là bịa đặt. Về sau, nghe
thấy ai cũng cam đoan là sự thật, tôi mới đâm nghi ngờ, muốn biết rõ duyên cớ
vì đâu có sự dị kỳ như vậy. Nhưng hỏi ai, họ cũng đều bảo là trong rừng đêm đêm
có tiếng hát, không biết tại sao mà có. Người đoán đó là ma, kẻ bảo là yêu
tinh, có một ông cụ lại quyết rằng đó là một thứ hồ ly lạc mãi từ bên Tàu, đi
lần đường núi thẳm qua Vân Nam sang tới xứ Lào, rỗi lần mò tới Đồng Giao thì
không đi nữa, vì tìm được địa thế hợp với nó. Sau, lại có một bà già nói là mắt
bà thấy con quái vật ấy ở trong hang đá nứt mà chui ra, trước thì là con vợn
trắng, rùng mình một cái biến ngay ra con gái rõ đẹp; vô phúc ai gặp phải thì
nó quyến rũ đưa vào hang, đàn bà nó không thèm bắt, nhưng đàn ông thì túm ngay
lấy làm chồng. Kẻ nào đi lại cùng nó, nó rút hết xương tủy, trong ba ngày phải
chết.
Ông ký ga bảo là không phải thế, theo như ông biết,
thì đó là một nàng tiên rất mỹ miều diễm lệ. không làm hại ai cả. Nàng ấy ngụ Ở
thân một cây quế lớn, đi tạt qua cũng ngửi thấy mùi hương xông lên, nhưng cố
tìm tòi hàng tháng cũng không ra, bời lẽ nàng tiên đã biến cây quế thành một
cây gỗ khác rồi. Cứ những ngày tôi tăm trời đất, hoặc những ngày sáng sủa có
trăng sao, nàng lại hiên ra. Trời đất buồn thì nàng buồn, trời đất vui thì nàng
vui; hoặc vui, hoặc buồn, nàng đều lấy điệu hát câu ca véo von làm thú tiêu
khiển. Truyền rằng có khi nàng thổi sáo, nghe như tiếng sáo diều, bay xa ngàn
dặm. Nhưng ít khi nàng dùng thứ âm nhạc ấy; thường thường nàng tự mồm ca tay
đờn, ca be bé cho một mình nàng nghe thôi, bởii thế ta có thính tai lắm mới
thoáng nhận được vài điệu bổng trầm.
Đến lợt ông cụ Bát ở gần chợ thì không phải tiên mà
là rắn, một thứ bạch xà to lớn hơn con trăn gió, biến hóa vô chừng. Nó lúc hóa
đàn ông, lúc hóa đàn bà, lúc hóa trẻ con, không biết thế nào mà lường, vì nó đủ
lục tri thần thông. Sở dĩ nó ca hát, là để mê hoặc lòng người, để cho những kẻ
hiếu sự tò mò tìm đến xem nó tận đáy rừng, lúc đó nó sẽ há rộng miệng rồi chỉ
việc hít một cái nhẹ nhẹ là tự khắc mình bay tọt vào họng nó, cho nó nuốt.
Khi hỏi đến bà Chánh Ba, là người từng đi lại hạt
Đồng Giao buôn bán, thì bà nghiêm nghị hạ thấp giọng xuống và nói se sẽ, một
cách rát kính cẩn rằng nàng tiên đó là một vị công chúa trong 12 Chầu Cô hẩu
Đức Bà Thượng Ngàn. Ấy là "cô nường" Quỳnh Hoa đó. Vì cô nường lỡ tay
làm rơi chiếc chén cẩm ngọc khi róc rượu mời Đức Bà Liễu Hạnh ở Sòng Sơn, nên
bị đày ra rừng Đồng Giao. Bới thế, những đêm u tịch tẻ buồn, hay những đêm
thanh vắng sáng sủa, nàng Quỳnh Hoa lại nhớ đến Chầu Bà Thượng Ngàn và mười một
chị em, trong lòng buồn rầu tràn ngập, phải hiện lên đi du ngoạn cho tiêu sầu.
Và giữa lúc ấy, đối cảnh sinh tình, cô nường bùi ngùi hoài vọng, hát lên một
khúc ngõ hầu vợi bớt nỗi lòng.
Nghe thuyết của bà Chánh Ba, các bọn phụ nữ đều tỏ
vẻ sợ hãi, sùng kính; ai cũng cho thuyết ấy là đúng. Nghĩ cho kỹ thì câu chuyện
bà Chánh nói còn có ý vị, nó không hoang đường mấy và còn hợp lẽ hn các chuyện
khác nhiều.
Nhưng nó không được ly kỳ rùng rợn băng câu chuyện
của ông Phó Cựu. Ông Phó Cựu cả quyết nói lớn rằng ông biết đích tông tích của
con quái vật hiện ra trong rừng; nó chính là một con Sài Kíu. Cái giống Sài Kíu
này na ná như loài chó sói, song dữ tợn hơn nhiều. Đầu nó cứng rắn như sắt; có
kẻ bẫy được nó, lấy búa bổ mãi vào sọ dừa mà cũng không vỡ. Nó thường hay cúi
gằm mặt xuống mà đi, trông tựa như một con chó dại lớn lờ đờ buồn bã. Thế mà hễ
gặp người thì nó nhảy xồ lại mé sau lưng, bá chặt lấy vai, móc mắt, và khi mình
ngã xuống rồi, nó cắn vào cổ cho chết; xong đâu đấy nó tha xác vào một hang hốc
giấu đi. Nó đợi cho lúc xương thịt rã rời , có mùi hôi thối xông lên, có ruồi
bọ bám đầy, lúc bấy giờ nó mới đến ăn. Cái giống sài ấy chỉ ham có thịt thiu
thịt rữa mà thôi, nó không thẽm ăn thịt tươi như các mãnh thú khác. Ở phía tây
nớc Tàu, trong các tỉnh lắm rừng rú hiểm trở như Tứ Xuyên, Quí Châu và Vân Nam,
Cam Túc v.v... có rất nhiều Sài Kíu. Người Tàu thường dùng hai chữ sài lang;
lang là để chỉ loài chó sói, còn sài thì chỉ giống Sài Kíu đó. Giống đó đi lùng
khắp chốn, đánh hơi ngửi mùi xác chết; phàm giả chỗ nào có mả mới là nó sục
đến, lấy đầu húc vào đất cho bật tung quan tài lên, rồi xé xác ra mà ăn. Bởi
thế nên trong mấy tỉnh trên đây, ở các miền gần rừng rậm, dân cư không dám chôn
người chết nữa, họ phải dùng lối táng treo, nghĩa là đem quan tài vào trong
rừng rồi buộc lủng lẳng trên cành cây cao. Giống Sài Kíu không leo trèo được,
đành chịu thua, hết kế vọc xác người chết. Nhưng chúng nó cứ đợi cho trong quan
tài có nước rỏ xuống cỏ lại liếm thứ nước "béo bổ" ấy.
Ăn thi thể mục nát mãi, lâu ngày có con thành tinh;
con nào ăn được hơn trăm tử thi thì cũng linh thính và có phép biến hóa như hổ
bắt được đủ trăm người. Con yêu ở Đồng Giao này chính là một con Sài Kíu cái đã
có hạnh phúc "xơi" được hơn trăm thây người chết, nên thành ra đủ phép
thần thông đó! Nỏ cứ hiện lên hát véo von để bẫy người ta vào xem. Gần đến sào
huyệt của nó, nó sẽ run rủi cho mình đi vào tử địa, khiến mình bị bỏ xác ở
những chỗ hang sâu vực thẳm, rồi, đợi khi nào trên tử thi mình đầy các thứ giòi
bọ hôi tanh, lúc bấy giờ nó mới đến xé thịt mình ra đánh chén.
Cứ nghe thiên hạ xôn xao bàn tán, thì mỗi người nói
một cách, mỗi người có một chuyện riêng, mà không chuyện nào giống chuyện nào
như thế, còn xét làm sao cho rõ biết căn nguyên của sự mình muốn biết nữa? Thực
là khó. Bởi thế tôi cứ phân vân, bán tín bán nghi, nghe bà con kể lại thì biết
vậy, song không dám tin lời ai cả.
Cho đến lúc tôi được nghe chuyện ông Cai Móm. Ông
Cai Móm là người làm công cho tôi từ lúc tôi vừa chân ướt chân ráo đến Đồng
Giao lần đầu. Ông là một cụ già quắc thước, đứng đắn và nghiêm nghị, tôi tin
cẩn lắm. Ông lại ít nói, không bờm xơn bợm bãi bao giờ. Các bạn đồng nghiệp và
các phu phen sợ hãi và kính nể ông lắm lắm.
Ông chỉ giao thiệp với tôi trong những giờ có việc
còn ngoài ra, ít khi ông vào nhà tôi chơi độ vài tiếng đồng hồ. Tuy già mà ông
chăm chỉ làm lụng cặm cụi cả ngày hóa nên chả mấy lúc rảnh. Cũng do một sự tình
cờ tôi mới được nói chuyện với ông trong một đêm, rồi được rõ sự tích khúc hát
trong rừng nó ly kỳ rùng rợn như thế nào.
Hôm đó khoảng tám giờ tối, có một kiện hàng rất
quan trọng từ Hà Nội gần về. Lẽ ra thì sáng hôm sau ra ga lấy cũng được, nhưng
năm giờ phải có đủ vật liệu để khởi công thành thử ông Cai Móm phải đi lãnh
ngay hàng về cho tôi. Đường tối lại vận tải bằng xe bò, thành hì hục mãi gần
chín giờ đêm ông Cai Móm mới về đến trại. Ông vừa tới nơi, vừa kịp xếp hàng vào
kho thì gió đâu bỗng nổi lên đùng đùng, ròi mưa trút xuống như thác chảy, lại
có cả sấm sét nứa. Một cơn bão lớn. Thực là gió núi mưa ngàn.
Ông Cai không về được, phải xuống bếp ngồi nghỉ
cùng tụi cu ly đẩy xe và khuân hàng. Tôi nhân có việc dặn ông gọi ông lên nhà
trên uống nớc. Ông Cai Móm từ chối hai ba lợt nhất định không ngồi xuống ghế
xa-lông; mãi sau tôi cố sức mời, ông nể lắm mới ghé lưng ngồi một cách kính cẩn
lên chiếc ghế ở góc bàn ăn. Tôi vốn biết ông là người ít nói, cử chỉ rất thận
trọng, nên cũng biệt đãi ông. Nhân có một chai rượu nếp cẩm, ngọt lật như đường
và rất mạnh, của một người bạn thân vừa biếu tôi được vài ngày, tôi bèn mở ra,
rót mời ông Cai Móm.
Ông đứng dậy tạ từ hai ba lần, không uống, tôi ép
mãi, ông mới chịu đặt môi vào chiếc cốc con, dốc một hơi cạn hết. Ông là người
thích rượu, rượu của tôi lại quá ngon, hóa nên khi mời đến cốc thứ hai, rồi thứ
ba, ông không từ chối nữa, chỉ cám ơn thôi. Cốc nào ông cũng hớp một hơi là
sạch ráo, tôi thấy tửu lực hùng tráng của ông mà vui lòng. Tôi cứ rót, ông cứ
uống. Chả bao lâu, chai rượu vơi hẳn, gần hết, tôi đoán chừng ông đã hơi say.
Quả nhiên ông lấy tay ngăn không cho tôi rót tiếp nữa, ông tươi cười đắc ý, vái
tôi, nói khà khà: - Đa tạ thầy đã yêu mà cho con uống quá nhiều, say rồi thầy
ạ! Biết lấy gì mà đáp ơn thầy?
- Cái đó có hề chi! Lúc vui ta cùng uống chơi, có
gì mà ơn với huệ. À này, nhân tiện ông ở đây, tôi muốn hỏi ông về câu chuyện lạ
của đất Đồng Giao này. Chả hay cái điệu hát cô đầu văng vẳng trong rừng đưa ra
nguồn gốc nó ở đâu? Thiên hạ mỗi người nói một lối, ông đã già, vả lại ở đây đã
lâu, chắc hẳn biết rõ hơn mọi người, ông thử kể lại cho tôi nghe?
- Thầy đã dạy con đâu dám trái lời, nhưng để khuya
khuya chút nữa khi nào tinh mịch hẳn, con thuật lại thầy nghe mới thú, bây giờ
còn ồn ào lắm, vả con đương còn say, nói chả được rành mạch.
- Chốc nữa ông sẽ say quá rồi ngủ mất tôi biết làm
thế nào?
- Thầy đừng ngại. Con có uống đến gấp bốn năm lần
như ngày hôm nay cũng chả say nữa là! Thầy hãy chịu nán một chút nữa, con xuống
bếp hút điếu thuốc lào rồi xin lên ngay...
Khi ông Cai Móm trở lên phòng khách của tôi, nửa
giờ sau, thì đồng hồ chuông trong phòng reo vào không gian mười một tiếng. Con
Thu Nhi đi ngủ từ sớm, còn Lệ Thi thì vẫn ngong ngóng chờ đợi chí kỳ được nghe
chuyện mưới thôi. Vợ tôi bắc ghế ngồi bên cạnh tôi tỏ ý sốt ruột. Lúc thấy mặt
ông Cai Móm, nàng mừng rỡ như trẻ con được kẹo, vội vàng đứng dậy đón, dắt lại
chỗ ngồi cẩn thận, xong rót đa ông một cốc rượu lớn.
- Nào bây giờ thì cụ kể đi cho chúng tôi nghe! Tôi
xin biếu cụ cốc rượu ngon này. Cụ uống hết bao nhiêu, cứ việc tự tiện, chúng
tôi xin chu tất đủ hết. Cụ bắt đầu đi!
Dưới ánh đèn măng-sông sáng lóe, lúc ấy tôi mới
ngắm kỹ dung mạo ông Cai Móm. Một cái trán cao vọi, vồ hẳn ra, làm cho ta phải
để ý đến đầu tiên. Cái trán ấy lan rộng đến tận gần đỉnh đầu hói bóng; một làn
tóc ngắn tha và trắng xóa, lơ thơ bao vành hai bên và phía sau chiếc sọ dừa gần
nhẵn thín. Một đôi mắt to, mà rượu đã làm mờ đi bởi những tia máu nổi lên làm
đỏ ngầu; một cái mũi hùng vĩ như mũi sư tử ở giữa đôi lỡng quyền cao vòi vọi;
một cái mồm rất tươi, nhưng có hai hàm răng trụi cả, khiến cho hai hàng môi
mỏng co rúm lại, vập vào mé trong, làm khuôn mặt ngắn hẳn lại; đó là vài nét
đặc biệt vẽ thành diện mạo ông Cai Móm. Ông tuy già, mà da dẻ còn hồng hào tươi
tốt, chỉ sạm đi như màu đồng đen, và răn rúm như vỏ trái xoài chín nẫu. Dưới bộ
quần áo vi tây vàng, ta có thể đoán thân thể ông Cai còn khỏe mạnh, nhanh nhẹn
lắm, dẫu nó không đủ khí lực cường tráng như thủa xuân xanh nữa.
Lúc ở nhà dưới trở lên, ông không quên mang theo
cái điếu cầy, một vật liệu tối cần cho sự kể chuyện cổ tích giữa đêm khuya. Ông
đặt điếu xuống gầm bàn, rồi ngồi nghiêm trang trên ghế. Lệ Thi đưa biếu ông cốc
rượu, ông giơ hai tay đỡ lấy, uống một hơi dài gần hết nửa cổc, không mời chào
từ tốn như khi trước.
Uống xong, ông thở khà một tiếng, liếm môi rồi cất
tiếng nói vang vang hùng dũng lắm.
- Nào! Mời thầy cô ngồi gần sát lại đây, và xin
thầy cô đừng sợ nhé! Câu chuyện này nó không phải chuyện bịa đặt, vì nó hoàn
toàn đúng sự thực, mà cũng không phải chuyện cổ tích, vì nó mới xảy ra được độ
dăm chục năm nay. Chỗ xảy ra chuyện con sắp kể đây ấy chính là hạt Đồng Giao ta
đó!
Tôi xin mạn phép anh hãy xen vào chỗ này một lời,
trước khi thuật lại anh nghe sự tích ông Cai Móm đã kể cho vợ chồng tôi nghe
đêm hôm ấy. Đã lâu lắm rồi, tôi không nhớ rõ cách dàn xếp của ông Cai và nguyên
văn của ông ta làm sao. Tôi chỉ biết cả Lệ Thi, cả tôi, nghe ông nói lấy làm
thú lắm. Cảm giác của chúng tôi lúc đó thực là đặc biệt, nói cho đúng, ông Cai
quả có tài trứ thuật vô cùng. Ngày nay, tôi mạc lại câu chuyện, có lẽ không hay
được như ông đã kể, song tôi tin rằng văn tôi sẽ rờm rà mà lẳng lơ bay bướm hơn
nguyên văn. Tôi sẽ xếp đặt theo cách của tôi, tôi sẽ thêm bớt thêu thùa theo ý
riêng tôi, anh lượng trước cho tôi chỗ đó! Rồi anh đừng bắt bẻ tôi sao ông Cai
già mà lại có lời lẽ văn hoa tao nhã như lời tôi sẽ nói; sau đây sẽ là câu
chuyện của ông Cai mượn miệng lưỡi và tinh thần tôi mà lọt vào tai anh đó thôi.
Anh nên hiểu như thế cho tôi thì mới được!
ĐÊM TRONG CĂN NHÀ
HOANG
(Tác giả: Nguyễn Ngọc
Ngạn)
Trên chuyến phà cuối năm từ Đức sang Thuỵ Điển, tôi
tình cờ gặp một đồng hương: bác sĩ Vũ Xuân Lộc. Mùa đông Bắc Âu, ngày rất ngắn.
Mới khoảng ba giờ chiều mà cảnh vật đã xám ngắt, nhất là bên ngoài mưa phùn mãi
không tạnh. Để đỡ sốt ruột chờ tàu cặp bến, bác sĩ Lộc kể cho tôi nghe một câu
chuyện dị thường. Dù chuyện diễn ra khá lâu, mà lúc thuật lại, ông vẫn không
giấu được nét xúc động, bởi đây là chuyện của chính ông, chuyện thật của người
trong cuộc, là một kỷ niệm sâu đậm mà ông không bỏ sót một chi tiết nhỏ nào.
Tôi xin phép ông để được tường trình lại cùng bạn đọc, hy vọng không làm mất đi
sự lôi cuốn qua diễn tiến mà ông tỉ mỉ nói riêng với tôi chiều hôm đó. Được sự
đồng ý của bác sĩ Lộc, tôi tạm đặt tựa đề là " Đêm trong căn nhà hoang
", cho sát với nội dung câu chuyện. Bây giờ, mời bạn đọc cùng tôi đi sâu
vào thế giới âm u của một đêm không trăng sao, ngủ tối trong một căn nhà đã lâu
không có người dám ở.
Ngay từ thưở mới lớn, khi còn ngồi ghế trung học.
Lộc đã tỏ ra cứng cỏi, không tin có ma qủy. Sau này tốt nghiệp y khoa, chàng
lại mạnh dạn hơn, giải thích mọi sự đều chỉ bằng cặp mắt khoa học. Đối với Lộc,
những chuyện ma mà lâu lâu chàng nghe kể, thật ra chỉ là do ảo giác hoặc do óc
tưởng tượng của người ta thêu dệt. Ai nói gì thì nói. Lộc thường chỉ lắc đầu
cười. Cho nên đừng có ai dại mà đem ma ra nhát Lộc! Bà mẹ Lộc thì khác. Gia
đình vốn theo đạo Thiên Chúa, ít tin dị đoan, ấy thế mà có lần mẹ Lộc bảo:
- Có chứ con! Có ma chứ! Chính Thánh Kinh cũng đã
chép lại câu chuyện người ta đem đến cho Chúa một người bị qủy ám để nhờ Chúa
chữa! Con quên rồi hay sao? Bên đạo mình gọi là qủy ám. Dân gian thì quen gọi
là ma nhập. Cả đời mẹ chưa gặp ma bao giờ, nhưng mẹ vẫn tin là có mạ Chỉ có
điều là không phải ai cũng thấy ma! Phải có thần giao cách cảm. Ma lựa người mà
hiện hình. Có người mong gặp ma mà suốt đời chẳng bao giờ gặp!
Lộc nửa đùa nửa thật đáp:
- Vâng! Con đây chứ ai! Chính con có lúc muốn gặp
ma xem nó ra làm sao, mà đợi mãi chả thấy!
Bà mẹ dè dặt khuyên:
- Con đừng có nói thế! Con người có linh hồn và thể
xác. Vũ trụ có cõi âm và cõi dương. Mẹ biết con tin vào khoa học, nhưng thiếu
gì việc không thể dùng khoa học mà cắt nghĩa được.
Lộc không muốn tranh luận với mẹ, nên chỉ ậm ừ cho
quạ Bà cụ lại thêm:
- Có điều là ma qủy dù có hiện về thì cũng chỉ làm
cho người ta sợ chứ không giết được người ta!
Bẵng đi một thời gian rất lâu. Lộc lớn dần và ra
trường, chuyện ma qủy chưa bao giờ làm bận tâm Lộc, dù chỉ trong khoảnh khắc.
Cho đến hôm nay, chàng từ Sài Gòn đáp xe về miền Tây, nhận nhiệm sở mới ở bệnh
viện dân sự tỉnh, lần đầu tiên chàng mới phải đương đầu với cảm giác rờn rợn
xâm chếm tâm hồn, cái không khí kinh dị bủa vây thân xác, bắt chàng dù muốn dù
không cũng phải đặt vấn đề.
Xuống đến thị xã, việc đầu tiên là Lộc phải thuê
một căn nhà, vừa để ở, vừa để mai này có thể mở phòng mạch tư, khám bệnh thêm ngoài
giờ hành chánh dành cho nhà thương. May quá, lúc ngồi trên xe đò, có người mách
cho Lộc một căn nhà gạch cũ khang trang, mái ngói đã phủ rêu xanh, toa. lạc
ngay ngắn dưới tàn cây me cổ thụ. Nhà đẹp lại mát mẻ, nằm gần khu dân cư khá
giả, có sân trước vườn sau khoáng đạt, quanh năm rợp mát. Lộc mừng lắm, xách
va-li dọn vào. Chủ nhân nhận tiền, mở khoá giao cho chàng rồi vội vã bỏ đi như
chạy trốn. Lộc không vào nhà vội. Trời chiều thoảng gió. Mặt trời đã lặn hẳn
sau dãy nhà bên kia đường. Chàng đứng chống nạnh trên hè, gật gù quan sát cảnh
vật chung quanh. Bên cạnh chàng, sát chân cây sột gỗ là chậu mai chiếu thuỷ cao
bằng đầu người nhưng đã chết khô vì không ai chăm sóc. Mảnh sân rộng trước mặt,
cỏ mọc bừa bãi, lan ra cả lối đi lát gạch đỏ và che khuất hết hàng rào lưỡi mắc
cáo. Lộc tặc lưỡi và tự nhủ: Chẳng sao! Chỉ cần một buổi dọn dẹp là sẽ trở
thành căn nhà lý tưởng. Kể cũng lạ! Nhà đẹp như thế này mà lại bỏ trống để chờ
chàng xuống mướn. Âu cũng là duyên may! Lộc tự nhủ và gật gù mỉm cười đắc ý.
Nhưng bỗng Lộc giật mình thấy hàng xóm tứ phía đều
thập thò nhìn chàng bằng cặp mắt hết sức hiếu kỳ. Bên kia con đường đất rộng,
mấy cái đầu già trẻ vừa từ trong cửa sổ căn nhà đối diện, thò ra trố mắt đăm
đăm nhìn Lộc. Bên trái cũng thế. Một cô gái đang giặt quần áo, ngẩng lên trông
sang, quên cả công việc, để nước xà bông tràn ra đầy ngoài chậu. Ánh mắt ai
cũng toát ra cái vẻ ngạc nhiên và sợ sệt như rình rập một kẻ xa lạ vừa lạc bước
vào thế giới biệt lập của họ. Lộc bâng khuâng bước hẳn vào trong để tránh sự
soi mói của thiên hạ. Chàng đứng giữa phòng khách, hài lòng vì đồ đạc tương đối
đầy đủ đúng như chủ nhà cho biết. Tất cả đều bị phủ một lớp bụi dầy, mạng nhện
giăng khắp nơi, chứng tỏ đã lâu lắm không có người ở. Bộ salon nặng chình chịch
bằng loại gỗ quí màu nâu đậm kê sát vách. đối diện là cái sập gụ rộng rãi có
cái gối mây đặt ở một góc. Rồi đến cái tủ đứng cẩm lai, trên nóc để bát nhang
lạnh ngắt, mấy cọng que màu đỏ cắm trong cái bát đựng đầy cát, cháy tan chỉ còn
thừa ra khoảng vài đốt ngón taỵ Trong cùng, gần khung cửa ăn thông vào buồng
ngủ. Lộc thấy cái rương gỗ màu đen rộng ngang, dài hơn một thước, có nẹp sắt
han rỉ viền quanh là cái khoá to bằng nắm tay, móc hờ vào ổ, nhưng chưa khoá.
Cái rương loại hải tặc ấy, vừa có thể dùng làm ghế ngồi, hoặc có thể dùng làm
kệ để những thứ lặt vặt lêm trên. Nay mai, khi mở phòng mạch, Lộc sẽ cho dẹp
hết đồ đạc, chỉ kê mấy cái ghế cho bệnh nhân ngồi đợi và các dụng cụ y khoa mà
thôi.
° ° °
Lộc đặt va-li, nhìn quanh tìm cái chổi lông gà hoặc
thứ gì có thể phủi bụi được. Tình cờ quay ra, chàng giật mình vì thấy ngoài
đường trẻ con, người lớn vẫn thấp thoáng đi qua đi lại cả chục người, ai cũng
chăm chú nhìn vào bằng ánh mắt nghi ngại. Người ta xầm xì bàn tán, chỉ trỏ.Có
người chỉ lướt nhanh qua, rồi ngoái đầu lại. nhưng cũng có người đứng hẳn lại
tròn mắt làm Lộc vừa ngạc nhiên vừa bực bội. Cái đám dân tỉnh lẻ này sao lại
bất lịch sự như vậy? Chẳng lẽ họ chưa thấy người Sài Gòn bao giờ hay sao? Lộc
vờ đi, quay vô dọn dẹp tiếp. Chỉ nay mai họ sẽ biết chàng là ai! Tuy nghĩ thế,
nhưng bất chợt lâu lâu liếc ra. Lộc vẫn thấy người ta cứ thay phiên nhau kéo
đến để tiếp tục theo dõi chàng. Nhịn không được, chàng bước hẳn ra thềm, đứng
chống nạnh, hầm hầm nhìn thẳng vào mặt họ như thách thức. Họ chỉ tản mát một
chút rồi túm tụm ở mỗi gốc cây, vừa nói chuyện xầm xì, vừa nhớn nhác đưa mắt
nhìn vào căn nhà của Lộc. Bà cụ hàng xóm tay cầm cái chổi dài, mom men tiến lại
góc sân tiếp giáp phía nhà Lộc và dè dặt hỏi: - Cậu mướn căn nhà đó hả?
Lộc mạnh dạn gật đầu: - Vâng, có gì không bác?
Bà cụ vội lắc đầu:
- Đâu có gì! Tui hỏi cho biết vậy mà!
Lộc toan quay vào, thì bà cụ lại hỏi:
- Cậu là người Sài Gòn hả? Ai chỉ cho cậu mướm căn
nhà vậy?
Lộc bước lại gần và đáp:
- Vâng, cháu vừa ở Sài Gòn xuống, tình cờ cháu gặp
bà chủ nhà này trên xe đò...
Bà hàng xóm ngắt lời:
- Chủ nhà nầy có tiệm vải ngoài chợ. Tiệm vải Kiến
An. Cậu gặp bả trên xe đò hả? Cậu mướn bao nhiêu? Có mắc không?
Lộc tò mò hỏi lại: - Cháu xin lỗi bác, nhưng tại
sao bác hỏi cháu về căn nhà này kỹ vậy? Bộ nhà này ở không được hay sao? Mái bị
dột nước, hay là...
Bà cụ vội xua tay lắc đầu nhắc lại: - Đâu có! Hỏi
cho biết vậy mà. Bị cậu là người lối xóm...
Bà bỏ dở câu nói và rút ngay vào nhà. Trời đã bắt
đầu nhá nhem tối. Người hiếu kỳ vẫn thập thò ngoài lề đường. Lộc bực bội lắm,
nhưng không biết làm ghì để phản đối đám người tò mò ấy. Chàng thở dài rồi quay
vào nhà và khép hờ cánh cửa gỗ lại. Đang với tay tìm nút bật đèn thì một bóng
đen kêu thết lên rồi lao vút từ nóc tủ xuống đầu Lộc. Chàng giật mình né sang
một bên, tim muốn ngừng đập. Nhưng định thần lại, thì hoá ra chỉ là con mèo đen
khá lớn của nhà ai vừa lẻn rất nhanh ra ngoài. Lộc đứng yên, nhắm mắt lại, đặt
bàn tay lên ngực và thở mạnh. Ngẫm nghĩ một chút, Lộc buột miệng than thành
tiếng:
- Lạ nhỉ! Từ lúc mình bước vào nhà, đâu có thấy con
mèo này! Nó ở đâu, bất thình lình hiện ra là làm sao?
Nói thế, nhưng Lộc bình thản nhún vai, mỉm cười rồi
bỏ vào buồng trong. đó là căn phòng ngủ gọn ghẽ có chiếc giường nệm kê giữa
nhà, nhưng lạ nhất là vẫn buông mùng. Cái mùng trắng toát khẽ bay phất phơ theo
luồng gió nhẹ lùa qua khe cửa sổ. Chàng vén mùng lên. Từng lớp bụi bay tung làm
chàng quay mặt đi và hắt hơi mấy cái liền. Chàng cần dọn dẹp qua loa rồi ra chợ
kiếm cái gì ăn tối. Sáng mai sẽ đến bệnh viện trình diện nhận việc. Chàng cầm
cái gối phủi bụi trên giường, rồi đi sau6 xuống bếp. Trời mùa đông tối mau, từ
cửa sổ trông ra, mảnh vườn cây cối um tùm đang bắt đầu ngã sang màu xanh thẫm.
Dưới gốc cây xoài cổ thụ sát đường mương. Lộc thấy cái miếu nhỏ bằng gỗ, lá khô
phủ gần ngập lên tới nóc. Chàng ngó quanh một lúc, rồi quay lên nhà trên. Chàng
đưa tay đẩy rộng cánh cửa chính để lấy thêm ánh sáng, và bực mình thấy đám
người hiếu kỳ vẫn tụ tập ngoài cổng nhìn vào. Nhưng chàng bỗng ngạc nhiên thấy
một cô gái mặc bộ đồ trắng, rẽ đám người tò mò ấy, xăm xăm từ ngoài đường bước
vào sân và tiến hẳn trên thềm. Cô mỉm cười gật đầu chào Lộc. Chàng ngơ ngác
bước ra đón khách. Cô gái có làn da trắng muốt không son phấn, làm nổ bậc mái
tóc dài đen nhánh thả xuống qua vai. Chàng vẫn nghe nói ở tỉnh lẻ có những cô
gái rất đẹp và hiếu khách. Đây là lần đầu tiên chàng được tiếp xúc trực tiếp.
Cô gái thản nhiên nhập đề:
- Chào ông ạ! Ông chắc mới ở Sài Gòn xuống?
Lộc gật đầu đáp:
- Vâng! xin lỗi cô là ai?
Cô gái thân mật giải thích:
- Em ở ngay đây. Đi ngang ghé vào nói chuyện với
ông, vì dù sao ông cũng từ xa đến... Ông đừng lấy làm lạ là tại sao người ta
kéo nhau lại nhìn ông. Không phải người ta nhìn ông đâu! người ta nhìn căn nhà
này đấy. Tại căn nhà đã mấy năm nay không ai dám ở. Bây giờ bỗng thấy ông dọn
vào, thì người ta tò mò.
Lộc ngắt lời: - Tại sao không ai dám ở hả cổ À, mà
quên, xin lỗi cô tên là gì? Tôi là bác sĩ Vũ Xuân Lộc, mới về bệnh viện tỉnh.
Mời cô vào nhà chơi!
Cô gái đứng yên, ngần ngại nhìn vộ Lộc giục hai ba
lần nữa, cô vẫn đứng tại chỗ và bảo Lộc:
- Cám ơn bác sĩ. Đứng ngoài này được rồi. Em sợ
lắm, không dám vào đâu!
Lộc thấy bên hàng xóm và người ngoài đường vẫn lấm
lét nhìn mình, nên chàng cười trấn an cô gái:
- Có tôi mà cô sợ gì! Mời cô vào nhà, đứng ngoài
này bất tiện lắm! cô thấy đấy, bao nhiêu người theo dõi cô với tôi.
Cô gái đành miễn cưỡng bước theo Lộc. Cô đưa mắt
nhìn quanh phòng khách bằng ánh mắt sợ sệt rồi bảo:
- Bác sĩ thấy không? Bụi bám đầy nhà. Nhà này bỏ
hoang hơn hai năm rồi. Đúng ra là hai năm tám tháng!
Giọng cô run run khiến Lộc lại phải cười cho bớt
không khí căng thẳng:
- Sao cô nhớ rõ vậy?... À, mà oti6 vừa mới hỏ, tên
cô là gì?
Chàng chỉ ghế salon và nói:
- Cô ngồi tạm đây!
° ° °
Cô gái dè dặt ngồi ghé xuống ghế salon và đáp:
- Em là Tâm. Thanh Tâm... thưa bác sĩ, ở đây ai
cũng biết là căn nhà này bỏ trống đã hơn hai năm, chứ không phải mình em. Thì
bác sĩ thấy đấy. Bác sĩ dọn vào, ai cũng ngạc nhiên!
Lộc càng thắc mắc. Chàng nhíu mày nhắc lại:
- Cô bảo không ai dám ở. Tại sao vậy cô?
Cô gái ngồi nghiêng, đầu hơi cuối xuống để suối tóc
chảy dài một bên vai. cô ngẩng lên nói nhỏ:
- Tại vì người ta đồn rằng căn nhà này có ma.
Lộc càng cười lớn rồi nói cứng:
- Tưởng gì chứ ma thì tôi không sợ. Tôi chỉ sợ người
thôi!
Cô gái nghiêm mặt hỏi:
- Chủ nhà không nói cho bác sĩ biết hay sao?
Lộc nhún vai:
- Không! Bà ấy có nói gì đâu! Mà dù có nói, toi6
vẫn thuê như thường! Thứ nhất là trên đời này không có mạ Thứ hai là dù có ma,
thì ma cũng không đáng sợ! Ma sợ tôi chứ tôi không sợ ma!
Cô gái đứng dậy và nói:
- Nếu bác sĩ không sợ thì tốt... Không sợ thì bác
sĩ cứ ở! Em chỉ nói trước cho bác sĩ biết vậy thôi... Thoi6 em về đây. Tối rồi,
em đường đột ghé vào thăm bác sĩ, vì sợ rằng bác sĩ sẽ thắc mắc tại sao thấy
bác sĩ dọn vào căn nhà này mà hàng xóm cứ xúm lại nhìn!
Lộc hài lòng đáp:
- Vâng, thế thì cám ơn cộ Tôi hiểu rồi. Từ nãy đến
giờ tôi cứ tự hỏi mình có cái gì lạ lắm hay sao mà ngưởi ta phải theo dõi!
Cô gái bước ra cửa và nhắc lại:
- Em chào bác sĩ, em về!
Lộc tiễn khách và nói:
- Cám ơn cô nhiều lắm, cô Thanh Tâm. Mai kia tôi
dọn nhà xong, mời cô lại chơi nhé. Tôi mới về đây, chả quen ai. Nếu được cô coi
như người quen, thì hân hạnh cho tôi lắm!
Cô gái bước xuống thềm và đáp nhỏ:
- Em mới là người hân hạnh... Thôi, em về. Thỉnh
thoảng em sẽ gặp lại bác sĩ.
Lộc theo Thanh Tâm ra hẳn ngoài lộ. Đám người hiếu
kỳ vội vàng tản mác hết. Lộc hoan hỉ đứng nhìn theo cô gái, cho đến khi cái
bóng trắng nhỏ dần và khuất hẳn sau một khúc rẽ, chàng mới quay vào. Chàng phủi
bụi khắp lượt, lấy khăn lau bàn ghế và quét nền xi măng bóng láng. Cái tin
chàng mướn lầm căn nhà ma không làm chàng bận tâm chút nào. Chàng chỉ nghĩ đến
Thanh Tâm và thầm cám ơn đời đã cho chàng cái may mắn bất ngờ ấy: người đầu
tiên chàng làm quen ở miền đất lạ này lại là một cô gái thật đẹp. Quét dọn
xong, chàng ra sau nhà rửa taỵ Ở góc vườn phía tay trái, có một thân cây cổ thụ
đã chết khô nhưng vẫn sừng sững đứng nguyên. Những nhánh cây cong queo vươn tay
đan chằng chịt vào nhau, tạo thành những hình thù ma quái làm Lộc chợt thấy rờn
rợn không dám nhìn. Chàng lau tay vội vã, rồi toan quay vào thì bỗng dưng cái
cây khô ấy ngã ập xuống đường mương, đè lên một hàng cây nhỏ phía dưới, mặc dù
lúc ấy trời không có gío. Lộc lặng người đứng ngó một lúc rồi quay gót chui vào
nhà, khép cửa cài then lại. Vẫn biết đó có thể là một sự tình cờ: cái cây khô
kia đã mục gốc từ lâu, và đến lúc nó phải đổ. Nhưng Lộc vẫn hoang mang linh cảm
thấy căn nhà này kỳ bí lắm, nhất là từ khi cô hàng xóm Thanh Tâm tiết lộ cho
Lộc biếtđây là căn nhà mạ Chàng cố gắng xua đuổi mọi ý nghĩ đen tối trong đầu,
khoá cửa thả bộ ra phố ăn tối và mua sắm vài thứ lặt vặt, trong đó cái đèn pin
là cần nhất bởi vườn sau không có điện mà phòng tắm với cầu tiêu nằm ở tuốt mãi
sát đường mương cách nhà bếp đến gần trăm thước.
Lộc đi quanh một vòng thị xã, lúc trở về đã quá 9
giờ tối.Con lộ nhỏ vắng lặng không có đèn đường, thấp thóang lúc mờ lúc tỏ nhờ
những ánh điện leo lét trong những căn nhà hai bên hắt ra, bị che lấp bởi từng
lùm cây dày đặc. Lộc rọi đèn pin, bật đèn phòng khách. Hai ngọn đèn tròn đã đứt
mất một bóng giữa trần, chỉ còn một ngọn gắn trên vách, toa? ánh sáng vàng úa
xuống cái bàn gỗ kê sát tường. Lộc ngồi vào bàn, mở va-li đặt mấy cuốn sách y
khoa bên cạnh, rồi lấy giấy bút viết vội lá thư để sáng mai gửi về thành phố,
thông báo địa chỉ cho gia đình. Một cơn gió bất ngờ thổi ập đến, làm cánh cửa
gỗ đang khép hờ mở tung ra. Lộc giật mình đứng dậy khép cửa cài then, rồi trở
lại bàn cặm cụi viết. Mới được vài hàng thì chàng bỗng cảm thấy như có một
luồng hơi lạnh ở sau lưng, rọi thẳng vào ót rồi lan nhanh xuống xương sống làm
chàng rùng mình. Như một phản xạ tự nhiên, chàng buông bút, vòng cánh tay ra
phía sau xoa gáy. Chờ một lúc, hơi lạnh tan đi, chàng lại viết tiếp. Nhưng chỉ
được một phút chàng lại thấy dường như có một sức mạnh vô hình nào đó bắt chàng
phải quay lại sau lưng, vì hình như có ai đang đứng nhìn mình! Bấy giờ chàng
mới nhớ ra những lời dặn của Thanh Tâm:
- Nhà này có ma, không ai dám ở! Bỏ hoang đã hai
năm, tám tháng!
° ° °
Chàng không tin! chẳng lẽ giữa khu dân cư đông đúc
này mà lại có căn nhà mạ Nhưng chắc là ít ra có một điều bí mật nào đó trong
căn nhà này, dù không phải là mạ Bởi nếu không thì hàng xóm đâu có kéo đến nhìn
chàng bằng ánh mắt sợ sệt lúc chiều. Và nhất là Thanh Tâm, cô gái tỉnh lẻ hiền
lành kia đâu có phải tội nghiệp chàng mà tìm đến thông báo cho chàng biết
trước. Nghĩ thế, Lộc nín thở quay phắt lại! Dĩ nhiên là không có gì! vẫn bộ
salon nằm im lìm. Vẫn cái tủ đen với bát nhang lạnh lẽo trên nóc. Lộc nắm chặt
bàn tay, đấm nhẹ xuống sàn và tự cười mình:
- Hoá ra mình cũng sợ ma à! Nhảm nhí!:Làm gì có ma!
Chàng mỉm cười vá tiếp tục viết. Nhưng rõ ràng sau
lưng chàng lại có sự thôi thúc mãnh liệt và dường như có cả tiếng kêu nho nhỏ,
tòan là những âm thanh lạ lùng lắm, như tiếng người sắp chết đuối kêu cứu từ
rất xa, lẫn vào tiếng nước chảy của dòng sông cuồn cuộn. Rồi chỉ một phút sau,
tiếng người tiếng nước đều ngưng hẳn để đổi sang loạt âm thanh rin rít như
những móng tay ai cào mạnh trên sàn gỗ. Lộc quăng bút và bất ngờ quay phắt lại.
Chàng nghĩ nếu có ma, thì con ma sẽ không kịp biến hình. Chàng sẽ nhìn thấy nó!
Nhưng vẫn chẳng có gì! Chàng đứng dậy, cầm cái đèn pin vừa mua, bật sáng, rọi
quanh mọi ngóc ngách trong căn nhà. Rồi chàng mạnh dạn bước vào buồng ngủ và
xuống tận nhà bếp. Trong nhà có ngọn đèn nào, chàng bật lên hết. Chàng lên nhà
và cười khẩy tự trách: - Chỉ lo vớ vẩn! Ma với qủy cái gì! Cái cô Thanh Tâm lắm
chuyện này, tự dưng làm mình bị ám ảnh!
Lộc tắt đèn pin, ngồi vào bàn viết. Ngoài sân, chợt
có tiếng mèo kêu vang lên giữa bóng đêm vắng lặng, như tiếng trẻ con khóc não
ruột. Một lúc rồi tất cả đều trở lại im bặt. Lộc cố xua đi mọi ý nghĩ hoang
mang, tập trung vào ngòi bút và chỉ nghĩ đến gia đình ở Sài Gòn. Những cảm giác
rờn rợn vẫn lởn vởn trong trí Lộc, và sự thôi thúc sau lưng mới lúc nãy biến
mất bây giờ lại trở về vây hãm toàn thân chàng. Ngồi quay mặt vào vách, Lộc cảm
thấy chắc sau lưng đang có người nhìn mình. Hay là qủa thật có những hồn ma từ
cõi âm hiện về như mẹ chàng bảo. Hoặc là căn nhà này quả thật có ma như lời
Thanh Tâm kể? Hèn gì bà chủ nhà chiều nay đưa chàng lại đây, đã có những cử chỉ
dáo dác như bỏ chạy sau khi nhận tiền mà lúc đó chàng không để ý! Còn đang ngẫm
nghĩ thì lại nghe tiếng móng tay cào trên mặt gỗ từ từ lớn dần, rõ dần. Chàng
cầm đèn pin, bật lên rồi từ từ xoay người lại, quét vội vạch sáng khắp phòng.
Tim Lộc bỗng thắt lại, và chàng kinh hãi muốn hét lên vì rõ ràng cái hòm gỗ đen
nằm ở sát vách, tuy vẫn đóng chặt, nhưng có mấy ngón tay trắng toát thò ra, mấp
máy ở gần ổ khóa, vùng vẫy như muốn đẩy tung nắp hòm lên!
Lộc rón rén đứng dậy tại chỗ, nín thở dụi mắt, rồi
rọi đèn vào thẳng ổ khóa của cái hòm, thì mấy ngón tay kia đã biến mất rồi! Tim
chàng đập thình thịch! Như vậy có nghĩa là làm sao? Cảnh tượng vừa rồi, mấy
ngón tay từ trong hòm thò ra, chỉ là ảo giác hay quả thực có người nào đang nằm
trong rương, cố gắng đẩy nắp rương để chui rả Đắn đo một chút, Lộc lấy lại bình
tĩnh, từ từ tiến lại, đèn pin vẫn bật sáng chiếu thẳng vào cái hòm kỳ bí. Khi
còn cách khoảng cái hòm khoảng một thước, chàng dừng lại, cầm cái cán chổi,
chọc mạnh vào ổ khóa. Ổ khoá tuy chưa bóp lại, nhưng móc vào khuy, rõ ràng nắp
rương đóng chặt, không thể thò bàn tay lọt ra ngoài được! Nghĩa là cảnh tượng
vừa rồi chỉ là tưởng tượng do trí óc sợ hãi mà sinh ra.
Chàng đứng yên suy nghĩ. Hay là trong cái hòm này
có người chết đã lâu, bây giờ chỉ còn bộ xương khổ Chàng lấy cán chổi gõ mấy
cái trên mặt hòm, rồi nín thở bước thêm bước nữa lại gần. Chàng len lén ngồi xuống,
hồi hộp tháo ổ khoá ra. Tháo xong, chàng lùi lại đứng yên vài giây rồi gồng
mình lấy can đảm mở bật nóc hòm lên. Tiếng bản lề lâu ngày han rỉ kêu kèn kẹt.
Nắp hòm bật tung lên. Không có gì trong đó! Chiếc hòm trống rỗng, lộ ra lớp gỗ
mộc để nguyên không sơn phết! Chàng thở mạnh kết luận: mấy ngón tay thò ra lúc
nãy chỉ là ảo giác chứ không có thật! Nhưng lạ một điều là, khi nắp hòm vừa bật
lên, thì một luồng hơi lạnh buốt toát ra, phà vào mặt chàng khiến chàng phải
lùi lại, đồng thời bao nhiêu bóng đèn trong nhà đều phụt tắt và con mèo đen từ
nóc tủ lao vút xuống phía chàng, kêu thét lên trước khi biến mất vào gầm
giường.
° ° °
Lộc đứng tim, muốn ngất xỉu. Cả căn nhà ngập trong
bóng tối, may mà ngọn đèn pin le lói chiếu thẳng vào đáy hòm. Lộc nhìn kỹ từng
góc cạnh, rồi với tay đậy nắp hòm lại. Lập tức đèn trong nhà sáng lên như cũ:
đầu óc chàng vốn nặng tính khoa học mà giờ này, trước nhữngvhiện tượng không
giải thích nổi, Lộc đàng phải ngờ ngợ tin rằng quả thật căn nhà này có mạ Ngày
mai chàng sẽ hỏi thăm Thanh Tâm, tìm gặp nàng và năn nỉ nàng kể cho nghe đầu
đuôi những gì đã xảy ra trong ngôi nhàkỳ bí này. Chàng đoán là Thanh Tâm biết
rõ hoặc ít ra nàng nghe người ta kể lại, và chàng lấy làm tiếc đáng lẽ chiều
nay chàng đã phải hỏi rồi, nhưng bởi tánh ương ngạnh không tin chuyện ma, nên
khi nghe Thanh Tâm nói chàng chỉ cười khẩy, tỏ ý khinh bỉ! Chàng cầm đèn oin ra
sau bếp, tìm một ly nước vì cổ họng đang khát khô như người lên cơn sốt. Rồi
chàng lên nhà, trở lại bàn viết. Ngang qua cái hòm đen, chàng dừng lại lột chút
và toan mở thử lần thứ hai xem cái ngọn đèn trong nhà có phụt tắt nữa hay
không. Nhưng chàng lưỡng lự, đăm đăm nhìn rồi lại ngần ngại bỏ sang bàn viết.
Lộc vén tay áo nhìn đồng hồ: đã quá nửa đêm. Không
gian hoàn toàn vắng lặng, không một tiếng bước chân người ngoài đường. Tiếng
radio vang vọng lúc nãy từ một căn nhà xaxăm nào đó, giờ này cũng im bặt. Chỉ
có tiếng gió thổi xào xạc qua khóm lá quanh nhà, từng cơn phần phật như vũ bão
rồi lại nhẹ hẳn đi, rì rào như sóng vỗ êm đềm. Lộc cầm bút lên, viết nốt lá thư
đang dở. Nhưng chỉ được mấy phút, sau lưng chàng dường như lại thấy một luồng
hơi giá buốt thổi vào ót làm chàng dựng tóc gáy lên. Và tiếng móng tay cào trên
sàn gỗ nghe rõ mồn một. Lộc quay phắt lại, nhìn ngay cái hòm đen và chàng giật
thót người đánh rơi cây bút xuống đất: rõ ràng cái nắp hòm vừa kênh lênh một
chút, và vẫn cái bàn tay trắng xanh thò ra, mấy ngón tay ngo ngoe vẫy gọi chàng
đến gần. Chàng dụi mắt nhìn lại cho kỹ, thì ra bàn tay không còn nữa.
Chàng thốt nhớ đến câu chuyện đã đọc trong sách của
Thế Lữ: một người âm mưu giết bạn mình để lấy gia tài, bạn chưa chết nhưng nhất
định ấn vào hòm, đóng đinh lại. Người bên trong vùng vẫy, bật được nắp hòm lên
và chui ra giết lại người bạn phản phúc, bỏ vào hòm! Lộc choáng váng liên tưởng
đến cái hòm sau lưng mình, và chợt hình dung ra một cảnh giết người tương tự
như vậy. biết đâu cái hòm kia, sau lưng chàng, chẳng từng đựng xác ai trong đó,
và oan hồn đêm nay hiện ra với chàng, như đã từng hiện ra với nhiều trước đây,
khiến không ai dám ở trong căn nhà này! Nếu đúng như thế thì mai này chàng sẽ
phải quăng bỏ cái rương, hoặc tốt nhất là đem đốt đi. Với người Phật Giáo, thì
cúng kiếng cho linh hồn siêu thoát. Còn chàng theo đạo, thì xin lễ nhà thờ cầu
cho linh hồn người đã khuất, đồng thời đón cha đến rảy nước thánh làm phép căn
nhà này để trừ tà. bất giác Lộc thò tay vào túi và chợt hối hận không mang theo
cỗ tràng hạt có tượng thánh giá để treo lên trần.
Lộc nhặt cây bút lên, định viết tiếp. Nhưng không
viết nổi. Trí óc chàng bây giờ hoàn toàn bị chi phối bởi cái hòm và những ngón
tay thò qua khe, vẫy gọi chàng. Chàng có cảm tưởng hễ hễ mình quay lại nhìn thì
bàm tay biến mất. Nhưng hễ chàng xoay lưng đi thì mấy ngón tay lại thò ra.
Chàng đứng dậy tính xem nên làm gì. Để cái hòm lù lù trong nhà đêm nay, thì
chàng sẽ không thể nào ngủ nổi. Hay là lôi nó ra quăng ngoài sân? Hoặc giản
tiện hơn là lấy cái mền trùm lên, coi như không có nó trong nhà. Giờ này thì
chàng tin chắc cái hòm mờ ám kia phải liên quan đến một cái chết thảm lhốc.
Chàng đứng tần ngần một chút rồi vào buồng ngủ lôi ra cái chăn dày ở đuôi
giường, mở tung, đem ra phủ kín lên cái hòm để chuẩn bị đi ngủ vì đêm đã quá
khuya. Làm xong, chàng để nguyên mọi ngọn đèn sáng, và mặc nguyên quần áo lên
giường buông mùng xuống. Nằm trong buồng, cách một bức vách, chàng không còn
nhìn thấy cái hòm nữa.
Nhưng vừa nhắm mắt được mấy phút thì ở ngoài, tiếng
móng tay cào trên sàn gỗ lại vang lên nho nhỏ rồi cứ thế mà lớn dần, làm chàng
run lên bần bật. Chàng mường tượng ra cái cảnh rùng rợn một người nào đó còn
sống bị nhét vào cái hòm này, những ngón tay vẫy vùng cào cấu chung quanh để
thóat ra mà thoát không nổi, đành chết ngộp trong đó. Nhớ lời mẹ dặn, chàng
ngồi dậy đọc kinh và tự an ủi bằng lời nhận xét của mẹ chàng có lần bảo:
- Ma chỉ làm cho người ta sợ, nhưng không thể giết
được người ta.
Chưa bao giờ trong đời Lộc mong trời sáng đến thế!
Thời gian trôi quá chậm. Còn đến mấy tiếng đồng hồ nữa bình minh mới ló dạng.
Đọc kinh xong, chàng an tâm nằm xuống và nhắm mắt quay mặt vào vách, lắng tai
nghe ngóng. Tức thì tiếng móng tay cào gỗ lại nổi lên. Lộc ngồi bật dậy, không
dám nằm nữa. Chàng để ý thấy, hễ chàng nhắm mắt để ngủ, thì oan hồn sẽ đánh
thức chàng dậy. Như vậy chỉ còn mộtcách duy nhất là chàng ngồi thức trắng đêm,
can đảm nhìn thẳng vào cái hòm thì hồn ma mới không hiện hình. Chàng biết trước
sáng mai vào nhà thương sẽ mệt nhừ, vừa khám bệnh vừa ngủ gật! Tính toán một
lúc, chàng bước xuống giường, cầm đèn pin ra phòng khách. Chàng đứng nhìn cái
hòm đăm đăm, rồi quyết định lôi nó ra sân. Chàng khom người cúi xuống, kéo tấm
mền quăng lên salon, rồi quay lại nắm cái quai ở một đầu rương để lôi ra cửa.
nhưng chàng không ngờ cái hòm rỗng mà nặng như có một sức nặng kéo ghì lại.
Chàng cố lôi đi và chỉ mới nhích được môt chút thì cái quai sắt cũ kỹ bật tung
ra làm chàng té ngửa tren sàn nhà. Chàng không bỏ cuộc, quay sang đầu bên kia,
nắm cái quai còn lại, kéo lê chiếc hòm trên sàn xi măng, keu6 lên rin rít như
ai oán. hì hục đến hơn nửa giờ, toàn thân mệt nhoài. Lộc mới đưa được cái rương
ra ngoài, đặt trên hiên. Trời khuya thấm lạnh hơi sương. Gió bất chợt thổi
mạnh, rít lên trong các tàn cây rậm rạp. Con đường trước mặt không một bóng
người hay xe cộ qua lại. Lộc bước nhanh vào nhà và khép cửa, cài then cẩn thận.
Đôi mắt cay cay, chàng đưa tay che miệng ngáp và lững thững vào buồng ngủ. Mọi
đèn vẫn để nguyên không dám tắt. Nhìn đồng hồ đã hơn 2 giờ sáng, chàng chui vào
mùng và an tâm nhắm mắt lại. Chàng đưa tay làm dấu thánh giá, cố gắng ngủ vài
tiếng cho đỡ mệt vì sáng mai là ngày đầu nhận việc. Nhưng bỗng chàng giật bắn
người ngồi bật dậy: ngoài nhà, tiếng cánh của từ từ mở, kêu kèn kẹt những âm
thanh khô khancủa chiếc bản lề lâu ngày khô dầu mỡ. Rõ ràng Lộc đã khép chặt,
cài cả hai then ngang, không ai có thể thò tay vào và mở ra được. Chẳng lẽ cái
cánh cửa nặng nề ấy tự động mở! Chàng ngồi bất động trong mùng không dám bước
xuống, mắt mở trừng trừng, lắng tai nghe ngóng. Im lặng một chút, rồi tiếng
móng tay cào gỗ lại trở về rất gần như ngay bên tai Lộc. Mồ hoi6 Lộc vã ra như
tắm. Khá lâu, chàng mới vớ cái đèn pin, rón rén chui khỏi mùng, vịn một bàn tay
vào vách và thò đầu ngó ra phòng khách. Chàng buột miệng kinh hãi kêu lên:
- Lạy Chúa tôi!
Chàng thấy cánh cửa chính mở toang và chếc hòm nằm
lù lù ngay giữa nhà!
° ° °
Chàng lặng người đứng chết cứng tại chỗ, mắt mở
trừng trừng như sắp lạc thần. Tiếng móng tay cào gỗ đã im bặt. Nhưng một luồng
gió lạnh thổi hắt vào làm chàng rùng mình như kẻ cô đơn lạc vô nghĩa địa một
mình giữa nửa khuya để thấy chung quanh toàn là tử khí. Chàng đứng nhìn cái hòm
đen một lúc, rồi men theo bức tường đi ra khép cửa lại. rồi chàng lôi cái hòm
đặt lại vị trí cũ, bởi giờ này thì chàng phải tin rằng oan hồn kia không muốn
ra khỏi căn nhà này. Trong lúc tuyệt vọng, chàng nhìn lên nóc tủ, hy vọng tìm
được một cây nhang còn sót lại để tỏ nỗi lòng đối với người khuất mặt, như bạn
bè chàng thường nói mà trước đây chàng chưa bao giờ tin. Bát nhang lạnh ngắt,
chắc đã vài năm không ai thắp, màng nhện giăng dầy đặc. Cái tủ khá cao. Chàng
kéo cái ghế lại và đứng lên, hy vọng trên nóc tủ còn sót cây nhang nguyên vẹn
nào không. Nhưng nhang không có. Không có gì cả ngoại trừ một cái khung hình
lật úp, bụi phủ dày cộm. Chàng tò mò cầm lên, lật ngửa và thổi lớp bụi đóng
trên mặt kính. Rồi chàng bật đèn pin để xem cho rõ mặt người trong bức hình
trắng đen ấy. Chàng thảng thốt kêu lên một tiếng hãi hùng, rồi mất thăng bằng
lạng quạng từ trên ghế té xuống đất. Trong hình, chính là cô gái chàng gặp hồi
chiều trước cửa nhà. Dưới tấm hình ghi rõ:
" Nguyễn thị Thanh Tâm
Sinh năm 1951, chết năm 1970. "
Ngồi tựa lưng vào vách một lúc khá lâu để thở. Lộc
mới lấy lại phần nào điềm tĩnh, lồm cồm đứng dậy. Mồ hôi toát ra dầm đìa trên
trán và hai bên thái dương, chàng cầm khung hình người quá cố, lấy giẻ lau sạch
rồi dựng ngay ngắn trên nóc tủ. Chàng qùy xúông khoanh tay đọc kinh, xin Chúa
cho linh hồn Thanh Tâm về nơi vĩnh cữu. Nỗi kinh sợ trong lòng giảm hẳn đi. Bây
giờ thì chàng biết Thanh Tâm chết oan, hồn còn phảng phất trong căn nhà này,
nên hiện về để báo cho chàng biết. Chàng xót xa nhớ lại hình ảnh Thanh Tâm
chiều nay đến với chàng, nét đẹp hồn nhiên như thiên thần mà có ngờ đâu lại gặp
thảm hoa. Ở tuổi 19. Chàng sắp xếp mọi chi tiết đã xảy ra từ tối đến giờ và
đoán chắc Thanh Tâm đã bị nhét vô cái hòm oan nghiệt kia để chôn sống. Nàng đã
vẫy vùng nhưng không thoát khỏi sức mạnh của kẻ sát nhân. Nghĩ thế, Lộc đứng
bật dậy làm dấu thánh giá rồi chạy lại mở nắp hòm lên, bật đèn pin rọi kỹ từng
góc cạnh. Quả nhiên chàng nhận ra những vết máu còn khá rõ in hằn trên lớp gỗ
mộc không sơn phết phía trong rương. Những vết máu ấy hoặc vừa mới xuất hiện
cho chàng thấy, hoặc vốn đã nằm ở đó mà lúc nãy khi mở hòm lần đầu chàng không
chú ý. Chàng thở dài, đậy nắp, ngước nhìn bức hình trắng đen một lần nữa và thì
thầm:
- Cô Thanh Tâm ơi! Xin hãy an nghĩ đừng về nữa. Tôi
đã hiểu rồi nỗi oan khuất của cô! Thôi giã từ! Cô Thanh Tâm nhé!
Rồi chàng bỏ vào buồng ngủ. Quả nhiên từ đó cho đến
sáng, cảnh vật hoàn toàn bình lặng, không còn tiếng động nào đánh thức chàng
trong màn đêm u tịch.
Qua mấy tiếng đồng hồ ngủ bình an trong căn nhà lạ,
Lộc choàng mắt dậy thì bên ngoài mặt trời đã lên cao, nắng rọi chan hoà qua các
khe hở. Lộc ngồi lên, dụi mắt và mấy giây sau mới nhớ lại trọn vẹn câu chuyện
đêm hôm quạ Chàng lao vội xuống đất. Việc đầu tiên là chàng chạy ra phòng
khách, nhìn lên bức hình Thanh Tâm trên nóc tủ. Người như thế sao lại chết quá
sớm! Lộc bùi ngùi lắc đầu thở dài rồi quay lại nhìn chiếc hòm đem kê sát vách,
từng hành hạ súôt đêm quạ Sực nhớ ra sáng nay phải trình diện nhận mhiệm sở,
Lộc tạm gác chuyện nhà, ra sau đánh răng rửa mặt để chuẩn bị đến bệnh viện.
Thay quần áo xong. Lộc bước ra thềm. Toan khoá cửa
thì chàng giật mình thấy cả chục người đứng lố nhố thập thò ngoài đường nhìn
chàng soi mói. Ai cũng ngạc nhiên và dường như thất vọng vì sau một đêm trong
căn nhà ma, chàng vẫn còn nguyên vẹn, không sức mẻ gì cả! Chàng khóa cửa rồi
quay lại nhìn họ và mỉm cười. Lập tức họ tản mác ra xa, nhất là khi chàng bước
xuống sân để ra đường. Bà hàng xóm đứng dưới hàng mướp, há mồm nhìn chàng ngơ
ngác. Đêm qua cả nhà bà nằm yên, hồi hộp lắng nghe mà tuyệt nhiên không thấy
biến cố nào từ nhà Lộc đánh thức bà dậy như người ta đồn đãi. Mà chẳng phải
người ta đồn đãi. Chính mắt bà chứng kiến vài người thuê trước đây, hoặc tung
cửa bỏ chạy giữa đêm khuya, hoặc sáng sớm đã phờ phạc dọn đồ ra và đi vĩnh
viển. Chỉ có mình Lộc là thản nhiên như không, còn mỉm cười gật đầu chào bà
nữa! Bà tò mò hỏi:
- Cậu Ba hồi hôm ngủ được không?
Lộc biết bà ta đang theo dõi mình, nên điềm tĩnh
đáp: - Dạ, được chứ Bác!
° ° °
Bà không biết nói gì nữa, chỉ trố mắt nhìn Lộc ngạc
nhiên. Nếu thế thì bà tiếc lắm, bởi chủ nhân đã gạ bán rất rẻ cho bà mà ba
không dám mua.
Lộc đến bệnh viện gần 10 giờ. Chàng vào trình diện
bác sĩ giám đốc, mà đầu vẫn mang nặng hình ảnh cô gái bạc mệnh. Rất may chàng
được ông cho nghỉ thêm một ngày thu xếp chỗ ăn chỗ ở. Để bù lại thì đêm nay
chàng sẽ phải trực bệnh viện đêm đầu tiên, thay cho một đồng nghiệp xin nghỉ
bất ngờ vì gia đình ở Sài Gòn có chuyện khẩn cấp. Lộc cám ơn rồi vội vã ra phố.
Chàng không về nhà mà xhạy ngay lại tìm bà chủ nhà, có tiệm bán vải ngoài thị
xã. Bà tuổi ngoài năm mươi, buôn bán lâu năm, quen biết gần hết bạn hàng ngoài
chợ. Người ta theo thói quen, lấy tên tiệm để đặt tên cho chủ nhân, nên ai cũng
gọi là bà Kiến An, chánh quán của vợ chồng bà trước khi di cự Vì là người Bắc
lọt vào chung sống giữa khu sinh hoạt toàn dân địa phương, nên lúc nào bà cũng
phải tỏ ra vồn vã với người chung quanh. Chồng bà ngày trước là sĩ quan tiếp
liệu phục vụ ngay trong tiểu khu, mới giải ngũ được hai năm, về phụ với vợ con
đi giao hàng xuống các chợ quận. Nói chung thì đó là một gia đình rất thành
công về mặt kinh tế.
Buổi sáng hôm ấy tiệm vải chưa có khách. Bà Kiến An
đang ngồi ở chiếc bàn nhỏ sát vách bên trong, trước mâm bánh hỏi thịt quay và
ly sữa đậu nành, thì Lộc lừng lững đi vào. Hôm qua từ bến xe đò, chàng có theo
bà đến đây, nhưng chỉ đứng ở ngoài chờ bà vào lấy chìa khoá rồi cùng bà đến căn
nhà cũ.
Vừa gắp miếng thịt quay chưa kịp đưa lên miệng thì
thấy Lộc xuất hiện, bà Kiến An sợ quá, mặt tái nhợt, quăng vội đôi đũa và đứng
bật dậy chờ đợi. Bà yên trí là Lộc đến để chửi bà, vì trước khi cho thuê bà đã
không nói cho Lộc biết căn nhà đó có mạ Kinh nghiệm này bà đã trải qua đến ba
lần: người mướn chỉ ở có một đêm rồi đòi tiền lại và bỏ đi. Huống chi dân tỉnh
lẻ vốn nể người học thức, biết Lộc là bác sĩ, bà càng sợ hơn. Nhưng trái với dự
đoán của bà, Lộc tiến thẳng vào, tự tiện kéo ghế ngồi đối diện rồi mệt mỏi hỏi:
- Cô Thanh Tâm là gì của bà?
Bà Kiến An há hốc mồm nhìn Lộc, khá lâu mới ú ớ hỏi
lại:
- Làm sao bác sĩ biết nó?
Lộc nhắc lại bằng giọng lạnh lùng hơn:
- Cô ấy là gì của bà?
Bấy giờ bà Kiến An mới bật khóc và nói:
- Nó là con gái đầu lòng của vợ chồng tôi! Nó chết
rồi, bác sĩ ơi... chết thảm lắm! Quân sát nhân nhét con gái tôi vào hòm, định
đem đi thủ tiêu. Nhưng con gái toi6 còn sống, tỉnh dậy trong hòm, giãy giụa
vùng vẫy, chúng nó lấy búa đập cho vỡ đầu! Khổ thân con tôi!...
Ngừng một chút, bà nức nở tiếp:
- Bác sĩ ơi! Hôm ấy trời mưa tọ Cả nhà tôi đi vắng.
Hai thằng chúng nó rình từ lâu rồi mà chúng tôi không biết. Đợi cả nhà đi vắng
mà trời lại mưa, chúng nó mới lẻn vào ăn trộm. Trời xui đất khiến giữa lúc ấy
thì cháu Tâm ở ngoài chợ về. Thế là chúng nó túm ngay lấy...
Lộc đưa tay ngăn lời bà, rồi nhắm mắt lại và thở
dài. Chàng không muốn nghe nữa. Bí đát quá! Mọi phỏng đoán của chàng đều đúng
cả. Diễn tiến cái chết của Thanh Tâm, chàng sẽ tìm hiểu sau. Vấn đề phải giải
quyết ngay bây giờ là làm sao để linh hồn người quá cố được an nghỉ, không trở
về nữa. Chàng mủi lòng nhìn bà Kiến An thương cảm. Ngay từ lúc bước vào, chàng
đã ngờ ngợ đoán là bà có liên hệ ruột thịt với Thanh Tâm bởi Thanh Tâm có khuôn
mặt rất giống bà. Gần ba năm nay bà đã khóc nhiều, nước mắt tưởng đã khô cạn
rồi mà hôm nay lại phải trào ra vì câu hoi? gợi nhớ của Lộc. Chàng mủi lòng nói
nhỏ:
- Vâng! Tội nghiệp cô ấy quá, xinh đẹp thế mà lại
yểu mệnh!
Bà Kiến An nâng vạt áo thấm hai bên mắt, rồi mở to
mắt ngạc nhiên hỏi Lộc:
- Làm sao bác sĩ biết nó? Vâng! Con bé xinh xắn phúc
hậu lắm, mà trời chẳng thương! Chắc có ai kể cho bác sĩ nghe, phải không?
Chàng chưa kịp đáp thì bà quay vào gọi lớn:
- Liên ơi, dọn mâm xuống. Lấy cho bà bình trà,
nhanh lên!
Lộc vội cản: - Mời bà cứ tự nhiên. Bà vừa ăn sáng
vừa nói chuyện cũng được.
Bà Kiến An đan hai bàn tay vào nhau, từ tốn nói: -
Không dám! Hay là để mời bác sĩ ăn quà luôn thể!
° ° °
Lộc xua tay:
- Cám ơn bà. Không dám làm phiền bà!
Chàng vừa dứt câu thì cô người làm từ căn buồng nhỏ
ra dọn bàn, đồng thời đặt khay trà nóng, rót ra hai cái tách nhỏ. Chàng đỡ một
ly từ tay bà Kiến An rồi trở lại câu chuyện cũ. Chàng bùi ngùi nói:
- Chẳng có ai kể với tôi cả. Chính bà còn không kể
thì huống chi là người ngoài. Sỡ dĩ tôi biết cô Thanh Tâm là vì đêm hôm qua tôi
gặp cô ấy!
Bà Kiến An ngồi tựa ra thành ghế, đôi mắt nhìn xa
xăm rồi giòng lệ từ từ chảy xuống. Chuyện này với bà không có gì lạ. Con bà đã
hiện về với nhiều người, và người nào cũng phải bỏ căn nhà ấy. Bà sụt sùi nói:
- Con tôi chết oan. Hồn chưa siêu thoát được!
Lộc điềm tĩnh bảo bà:
- Tôi vốn không tin chuyện hồn ma hiện về. Mãi hôm
qua thì tôi đành phải tin. Nhưng tôi hy vọng từ nay con bà sẽ không về nữa đâu.
Bà Kiến An lại thêm một lần ngạc nhiên về câu nói
của Lộc. Bà hỏi lại:
- Bác sĩ bảo sao cơ ạ! Con tôi từ nay không về nữa?
Sao bác sĩ biết?
Lộc chậm rãi giải thích:
- Tôi cũng chỉ đoán thế thôi. hôm qua tôi đã thử và
thấy có kết quả! Tôi đề nghị thế này: Bà với tôi đem chôn cái hòm đó đi. Tại
sao đã hơn hai năm nay mà bà vẫn giữ cái hòm ấy để làm gì?
Bà Kiến An ngắt lời:
- Thưa tại vì dạo ấy cảnh sát đòi giữ cái hòm ấy
lại để làm tang vật. Rồi nhà tôi cứ để đấy. Mấy lần định đem đốt đi mà rồi chả
hiểu sao cứ quên!
Lộc tiếp tục ý kiến của mình. Chàng nói:
- Vâng! Bỏ đi là phải. Nhưng không nên đốt, mà nên
đem chôn. Hôm qua tôi tìm thấy bức hình cô Thanh Tâm bị lật úp trên nóc tủ. Tôi
đã lau sạch và dựng lại đàng hoàng rồi. không có nhang đèn gì cả, nhưng tôi đọc
kinh cầu cho linh hồn cô ấy. Quả nhiên từ ấy cô ta không về nữa. Bà theo đạo
Phật thì bà đón thầy đến cúng cho cô ấy. Còn toi6 là người công giáo, tôi sẽ
xin lễ nhà thờ cầu cho cô ấy yên nghỉ, xong rồi tôi sẽ ở lại căn nhà của bà...
Bà Kiến An cảm động oà lên khóc lớn, rồi đứng dậy
bước sang níu vai Lộc:
- Tôi không biết nói lời gì để tạ Ơn bác sĩ có lòng
đối với con tôi. Vâng! Bác sĩ dạy thế nào, tôi cũng xin vâng theo. Bác sĩ chờ
cho một lát để tôi bảo nó đi gọi nhà tôi. Ông ấy mới ra chợ ăn hủ tíu. Để tôi
cho người đi gọi ngaỵ Hôm nay tôi đóng cửa hiệu để lo việc cho cháu Thanh Tâm!
Trăm sự nhờ bác sĩ cả!
Dứt lời bà gọi người làm, bảo chạy ngay ra chợ. Còn
bà thì lên lầu thay áo dài, chuẩn bị đám tang lần thứ hai cho con gái.
Qua một ngày bận rộn trăm việc, Lộc chờ đêm đến và
quả nhiên căn nhà trở lại bình thường, không còn tiếng động nào nữa. Thậm chí
con mèo đen đêm hôm qua hai lần xuất hiện, tối nay cũng biến mất hẳn, không
quấy rầy Lộc nữa. Bà Kiến An đem bức hình Thanh Tâm về lập bàn thờ cúng kiến
cho con. Còn Lộc thì đến nhá thờ xin tượng thánh giá treo trên nóc tủ. Hàng xóm
chung quanh nhìn Lộc hết sức cảm phục, kéo nhau đi theo đám tang chôn cái hòm
rỗng, cả mấy chục người.
Đêm hôm sau, Lộc có ca trực đầu tiên tại bệnh viện.
Chàng thấy lòng mình thanh thản vì vừa giải quyết xong được một câu chuyện khúc
mắc đã mấy năm ở thị xã này, giúp cho ông bà Kiến An đỡ tủi thân mà vong linh
cô Thanh Tâm cũng được yên ổn bên kia thế giới. Chàng đi một vòng bệnh viện,
qua các khu điều trị chuyên môn, đọc báo cáo của y tá, chữa một vài bệnh nhân
khẩn cấp rồi trở về phòng trực ngồi viết lá thư cho mẹ. Bây giờ thì rất cảm
phục mẹ mình. Chàng sẽ kể tỉ mỉ câu chuyện căn nhà ma mà chàng đang ở để xác
nhận với mẹ rằng mẹ chàng nói đúng: quả thực dương gian có sự hiện hữu của
người từ cõi âm. Chàng coi đây là một kinh nghiệm hiếm có mà chắc sẽ chẳng bao
giờ tái diễn lần thứ hai trong đời.
° ° °
Gần nửa đêm, khuôn bệnh viện bắt đầu lắng đọng.
Người vào thăm nuôi đã ra về hết. Chàng nhờ nhân viên xuống câu lạc bộ mua cho
chàng ly cà phê đá. Trong khi chờ đợi, chàng mở tờ báo cũ cách đây gần ba năm
mà ông bà Kiến An vẫn giữ kỹ trong tủ, bởi tờ báo ấy có đăng bản tin ngắn về
cái chết của Thanh Tâm. " Án mạng rùng rợn: Cướp của giết người. Nạn nhân
là một thiếu nữ 19 tuổi ". Báo chí VN thì thường chỉ làm được một chức
năng là thông tin thôi, chứ ít có trường hợp người ký giả hay phóng viên tự
nguyện lao và những cuộc điều tra rắc rối mà đôi khi đạt được hiệu quả cao hơn
cả cảnh sát, như báo chí bên Mỹ. Lộc đọc lướt qua bản tin, rồi lại chăm chú
nhìn lại bức hình Thanh Tâm in khá lớn bên cạnh. Vẫm là bức hình trên nóc tủ mà
hôm qua chàng đã trao cho ông bà Kiến An đem về nhà lập bàn thờ. Lòng chàng lại
nao nao lên một niềm xúc động khôn nguôi. Chàng gấp tờ báo, cất vào cặp để trả
lại cho ông bà Kiến An. Rồi chàng lấy giấy bút trong ngăn bàn ra viết. Mẹ chàng
chắc chắn sẽ ngạc nhiên vì lần đầu tiên thằng con bướng bỉnh như Lộc mà đành
phải tin có mạ Nghĩ đến đây, bỗng dưng Lộc mỉm cười, ngừng bút, nâng ly cà phê
uống một hớp lớn, rồi đứng dậy bước ra hành lang. Đã quá nửa đêm, sân bệnh viện
không còn một bóng người. Chỉ có những ngọn đèn vàng hiu hắt trong không gian
mờ mờ hơi sương. Chàng đứng một lúc cho thoáng khí, rồi quay vào phòng ngồi
viết tiếp. Bỗng có tiếng gõ cửa. Chàng ngẩng lên nhướng mắt nhìn ra, nhưng
không nhận rõ một cô y tá mặc áo blouse trắng đang đứng ngoài hành lang mờ tối.
Cô lên tiếng:
- Xin lỗi bác sĩ!
Lộc dịu dàng nói:
- Không sao! Cô cứ vào đi. Có việc gì đấy!
Cô y tá bước hẳn vào trong, nhưng đứng sát khung
cửa, dáng điệu rụt rè có lẽ vì lần đầu tiên gắp Lộc. Ở bệnh viện nào thì lâu
lâu vẫn có những ông bác sĩ rất khó tính mà nhân viên cũng như bệnh nhân đều
sợ. Lộc thoải mái nhắc lại:
- Có việc gì đấy cô?
Vừa nói chàng vừa chăm chú quan sát. Cô y tá còn
trẻ lắm, nhưng nét mặt có vẻ xanh xao mệt mỏi như thiếu ngủ lâu ngày, hoặc có
lẽ vì cô chuyên làm ca đêm. Cô nói:
- Thưa bác sĩ, bên khu nội khoa có bệnh nhân vừa
mới chết. Xin bác sĩ xuống chứng nhận để chuyển qua nhà xác. Lộc gấp vội tờ
giấy và đứng dậy nói:
- Vâng! Tôi xuống ngay!
Chàng mở hộc tủ. cất giấy bút vào. Cô y tá nói
thêm: - Thưa bác sĩ! Khu nội khoa, dãy A, giường số 37.
Dứt lời cô quay đi và bước nhanh theo hành lang.
Lộc nâng ly cà phê uống cạn, rồi cũng tất tả ra cửa. Chàng định hỏi thăm cô y
tá vài chuyện về sinh hoạt trong bệnh viện, nhưng cái dáng cao gầy của cô thoăn
thoắt bước đi, mới htoáng đó mà đã xa hẳn Lộc, rồi rẽ sang dãy nhà bên phải.
Lộc vào đến dãy A khu nội khoa đã thấy ở giường số 37 lố nhố dăm ba người đứng
vây quanh, gồm y tá` và vài bệnh nhân hiếu kỳ bên cạnh. Thấy chàng, họ xích ra
để nhường lối. Người chết đã được phủ một tấm khăn trắng kín từ đầu tới chân.
Lộc đến gần, cúi xuống lật tấm vải ra để khám nghiệm lần cuối. Nhưng vừa nhìn
thấy mặt người chết, chàng bật lùi lại một bước, đứng sững và suýt kêu lên
thành tiếng. Vì cái người nằm chết trên giường số 37 đó là chính cô thiếu nữ
mặc đồ y tá vừa sang tận văn phòng gọi chàng.
CĂN NHÀ BÊN KIA ĐỒI
RÙ RÌ
(Tác giả: Tam tang)
Ai từng sống ở Nha Trang trước 75 cũng biết là đoạn
đường từ Ninh Hoà về Nha Trang rất ít dân cư cư ngụ dọc theo khoảng giữa của
đoạn đường này. Nhất là khu vực gần Nha Trang vì một bên là núi đá của dãy
Trường Sơn, một bên là biển sâu rộng. Đất đai khô cằn trắng bạch, cây cối hoang
còn mọc không muốn nổi nói chi là dùng để trồng trọt. Mặt đất cũng như sườn núi
được bao phủ bởi những bụi cây thấp rậm. Thỉnh thoảng ta có thể thấy một vài
mảng sườn núi được khai phá để trồng chuối. Có lẽ chỉ có cây chuối mới chịu nổi
với cái khô cằn, khắc nghiệt của đất đai và thời tiết ở đây!
Hai bên đường thỉnh thoảng mới thấy một mái nhà
tranh ẩn hiện sau các lùm cây. Ta có thể thấy chung quanh nhà là những bụi
chuối, và đằng trước có những giàn cho cây Thanh Long leo. Thanh Long cũng là
một đặc sản của vùng đất khô cằn này! Nếu ai ghét sự ẩm ướt của mưa mùa thì có
thể rất thích thú được sống ở Nha Trang khô ráo này.
Hoàng dạy học tại trường trung học Lê Qúy Đôn, một
trường có tiếng ở miền Trung này. Những ngày nghỉ lễ hay Chủ Nhật, chàng thường
chở vợ đi chơi các danh lam kỳ tích trong vùng để ngắm cảnh và cũng để xả đi
những mệt nhọc sau những ngày làm việc! Hơn nữa là hai vợ chồng son nên không
phải lo lắng về con cái gì cả. Vợ chàng cũng là một cô giáo dạy ở một trường
tiểu học trong thành phố! Cả hai rất mê đi chơi xa trong những ngày nghỉ! Họ
thật là hợp tính nhau.
Một ngày lễ trùng vào thứ Bảy (ngày xưa người VN
làm việc 6 ngày/tuần, gần đây mới đổi 5 ngày/tuần.) Vợ chồng Hoàng quyết định
đi chơi vùng Dục Mỹ để thăm suối nước nóng ở nơi này! Suối nước nóng nằm cạnh
Quốc Lộ 21, nên du khách không phải băng rừng lội suối gì cả. Cuộc đi chơi thật
thích thú. Suối này được tạo thành do các mạch nước ngầm sâu phun lên từ các
khe đá nên rất nóng. Họ cũng như các du khách khác mua trứng gà bỏ xuống các
khe đá và chờ trứng chín để ăn! Mãi mê chơi và ngắm cảnh nên mãi đến 6 giờ
chiều vợ chồng Hoàng mới dẫn xe ra quốc lộ để trở về lại Nha Trang. Tới Ninh
Hoà thì đã gần 7 giờ nên họ quyết định vào một quán ăn làm một bụng trước khi
tiếp tục lái xe về!
Ăn uống xong xuôi đã gần 9 giờ tối, Hoàng chạy xe
chầm chậm để vừa hóng những cơn gió mát của buổi tối thổi vào tư biển Đông.
Ngày mai là Chủ Nhật nên có về nhà trể cũng chẳng sao mà!
Trời đã khoảng gần 10 giờ đêm rồi. Trên trời chỉ có
toàn những ngôi sao lấp lánh, đường vắng hoe không có một chiếc xe nào ngoài xe
của vợ chồng Hoàng. Trời gió hây hây rất mát, vợ chồng Hoàng chuyện trò với
nhau về buổi đi chơi, thỉnh thoảng họ cười rộ lên vì thích thú! Khi xe còn cách
đèo Rù Rì khoảng chừng 5 cây số thì bổng nhiên cái xe kêu bụp bụp vài tiếng rồi
tắt máy. Hoàng cố đạp nhưng cái Honda vẫn chỉ rặn được vài tiếng rồi im bặt.
Chàng xuống xem lại bugi, dây nối, và lại đạp thử. Chiếc xe vẫn nằm lì ra đó.
Ngó quanh chẳng thấy một bóng nhà nào cả, chẳng lẽ phải dẫn bộ xe hơn 10 cây số
để về nhà sao? Giờ này các chổ sửa xe cũng đã đóng cửa cả rồi! Không còn cách
nào khác, Hoàng đành dẫn xe dọc theo lề đường hướng về phía Nha Trang, nơi mà
cả một vùng ánh sáng tỏa lên sáng cả một vùng trời!
Hoàng dang dong duỗi dẫn xe đi bổng nghe vợ la lên
"Anh ơi, có nhà ở đàng trước kìa!" Hoàng hướng mắt theo tay vợ chỉ và
thấy ánh đèn lấp lánh chiếu ra từ một căn nhà bên đường. Không quen đi bộ lại
phải dẫn cái xe nặng nề, vừa mệt vừa khát nước nên Hoàng tỉnh cả người như buồn
ngủ mà gặp chiếu manh vậy. Hai vợ chồng vội dẫn xe vào gỏ cửa nhà. Một cụ già
chừng hơn 60 mở cửa mời cả hai vào và kêu vợ mang nước trà ra đãi khách. Hai
ông bà cụ dáng dấp ốm yếu nhưng có vẻ mặt hiền hậu. Họ hỏi thăm vợ chồng Hoàng
vì sao lại lang thang trong đêm tối như vậy. Hoàng kể cho ông bà cụ nghe về
tình cảnh của mình và xin nghỉ mệt một chút rồi sẽ lên đường. Ông cụ nói,
"Bây giờ đã hơn 10 giờ rồi mà hai cháu dắt xe về tới Nha Trang chắc cũng
gần sáng. Cháu nhắm có thể dắt xe qua được Đèo Rù Rì không đó!? Thôi cứ ngủ tạm
ở nhà hai bác đi, sáng rồi về cũng đâu có muộn gì." Hoàng nghe tới Đèo Rù
Rì đã ớn, lại nghe đồn rằng trên đèo này có nhiều cô hồn chết uổn lắm. Tuy
không tin vào các chuyện này, nhưng vì sợ mệt nên chàng đồng ý xin hai cụ cho
nghỉ lại đỡ một đêm. Ông bà cụ nhường cho vợ chồng Hoàng cái giường gỗ ở nhà
trên, còn họ xuống ngủ ở chỏng tre trong căn bếp.
Vì mệt mỏi sau cuộc đi chơi nên vợ chồng Hoàng đặt
lưng xuống là ngủ ngay, cho đến lúc tiếng gà rừng gáy gần đó đánh thức Hoàng
dậy! Chàng coi đồng hồ, đã 5 giờ sáng rồi! Chàng đánh thức vợ dậy đi rửa mặt.
Thấy cái giường của ông bà cụ vẫn còn buông màn, hai vợ chồng không dám đụng
chạm mạnh sợ làm họ tỉnh giấc. Sau đó Hoàng móc bóp lấy tờ 500 đồng đặt lên cái
bàn gổ, rồi lấy cái tách trà chận lên để gió khỏi baỵ Chàng nói với vợ,
"Ông bà cụ chắc cũng không khá giả gì, coi như mình trả công cho lòng tốt
của họ em nhé!" Xong chàng dắt xe ra đường và thử đạp máy. May quá, cái xe
nổ dòn như chưa từng bị trục trặc gì cả! Chàng đèo vợ chạy chầm chậm hưởng cái
gió mát mẻ của buổi sáng ban mai.
Khi về đến chợ Đồng Đế, Hoàng ghé xe vào một quán
cafe mở cửa sớm, kêu một ly cafe sữa cho vợ và một đen cho mình. Vợ chàng đột
kêu lên kinh ngạc, "Anh làm gì mà sau lưng áo quần toàn là lọ nghe. không
vậy!?" Hoàng nhìn ngoái lại thì đúng là toàn là tro than dính đầy sau
lưng. Quay sang vợ chàng cũng thấy sau lưng nàng toàn là màu đen của than,
"Em cũng thế chứ riêng gì anh đâu!?" Hai vợ chồng lo phủi bụi than và
tự hỏi làm sao lọ nghe. lại bám đầy trên lưng họ được! Lúc đó chị chủ quán vừa
bưng hai ly cafe ra thấy thế liền lên tiếng, "Tui đoán chắc là anh chị ngủ
nhờ ở căn nhà bên kia đèo phải không?" "Đúng rồi! Sao chị lại biết
được hay vậy?!" "Vậy thì thôi rồi! Anh chị lại bị hai con ma chết
cháy cho ngủ nhờ rồi!" Vợ Hoàng hơi tái mặt hỏi dồn, "Chị nói gì, ai
là hai con ma chết cháy vậy?" Chị chủ quán ôn tồn kể, "Số là năm
ngoái cái nhà của hai ông bà cụ Ở bên kia đèo Rù Rì một khoảng bị cháy lụi
trong đêm, ông bà cụ đang ngủ nên bị chết cháy trong đó. Họ không có ai thân
thuộc nên người ta đào chôn họ ngay sau cái nhà bị cháy đó! Từ đó đến nay thỉnh
thoảng lại có người được họ mời vào cho ngủ nhờ qua đêm, và sáng ra thì thấy
mình nằm trơ trọi trên nền nhà cháy hoang đó! Có lẽ anh chị dậy sớm nên chưa
thấy mình nằm trên đất đó thôi!" Vợ Hoàng mặt tái mét, miệng nam mô liên
hồi. Còn Hoàng thì không tin chuyện này cho lắm.
Uống xong ly cafe, chàng lái xe quay trở ngược lại
phía đèo Rù Rì. Vợ chàng sợ hãi luôn miệng khuyên chàng nên quay về Nha Trang,
nhưng Hoàng cứ thẳng một mạch về hướng đêm quạ Một lúc sau, chàng cảm thấy tay
vợ bấu chặt vào vai mình, miệng nàng ú ớ, "Anh coi kìa, đúng rồi, đúng
rồi, cái nhà cháy kia kìa! Thôi mình quay trở lại đi nghe anh!" Không nói
một tiếng, Hoàng quành xe ngay vào ngôi nhà cháy mặc cho vợ chàng ngồi chết
điếng phía sau. Dựng xe xuống và đi vào chổ căn nhà, chàng xám mặt vì thấy
chiếc bàn gỗ bị cháy hơn một nửa và tờ 500 đồng nằm trên đó vẫn được dằn bởi
cái tách nám đen. Tờ 500 bay phần phật vì gió thổi mạnh như nhắc nhở cho vợ
chồng Hoàng là cái chuyện ngủ lại đêm qua ở tại đây là thật, và câu chuyện của
chị chủ quán là không phải là chuyện bịa đặt. Vợ chồng Hoàng là nhân chứng cho
chuyện có thật này! Bước ra phía sau mấy bụi chuối, hai cái mộ nằm chơ vơ không
nhang khói, cỏ hoang mọc trùm lên cả mộ! Hoàng là một giáo viên nên động lòng
trắc ẩn, chàng nói với vợ lấy tờ 500 trên bàn, chạy xe ra chợ Đồng Đế mua bó
nhang và ít hoa quả về đây, còn chàng thì xắn quần áo ra sức nhổ hết mấy cây cỏ
dại trên hai nấm mồ!
Khi vợ chàng mang nhang và hoa quả về tới nơi thì
hai cái mồ đã được dọn dẹp sạch sẻ. Vợ chồng chàng đặt hoa quả trước mồ rồi đốt
nhang cắm xuống đất trước hai ngôi mộ! Hoàng nói nhỏ với vợ, "Tội nghiệp
cho họ em nhỉ, không con cái nên không ai hương khói cả! Nếu khi nào mình có
dịp đi qua đây, anh nghĩ mình nên ghé lai đốt cho họ một nén hương nhe em."
Sau đó vợ chồng Hoàng lái xe ra về, trong lòng thơi thới vì mình đã làm một
việc tốt cho người khác.
Tuần sau đó trong nhà Hoàng bắt đầu có sự lạ! Đêm
về khuya có tiếng lịch kịch ở dưới bếp và trên phòng khách. Vợ Hoàng tỉnh ngủ
hơn nên thường bị các tiếng động này làm thức giấc. Vì là phụ nữ nên tuy nghe
mà nàng chẳng dám ra xem, chỉ nằm nghe mà sợ một mình, cũng chẳng dám đánh thức
chồng vì sợ bị chồng chê là nhút nhát. Tuy thế vì đêm nào cũng nghe, nên một
sáng Chủ Nhật nàng đánh bạo nói với chồng, "Anh có nghe tiếng động lạ
trong nhà mình mỗi đêm không?" "Tiếng động gì vậy?" Hoàng lơ
đảng hỏi. "Tiếng lịch kịch trong bếp và trên phòng khách đó mà!"
"Ối, mấy con chuột nhắt mò ăn đó mà! Để anh mua mấy cái bẫy chuột về đặt
là êm ngay đó mà!" Và hôm đó Hoàng đi mua ba cái bẫy chuột về cho vợ gài
vào ban đêm. Nhưng đâu cũng vào đấy. Tiếng động lịch kịch vẫn xảy ra hằng đêm!
Một đêm nọ vợ Hoàng thức giấc và buồn đi tiểu. Tuy
sợ nhưng chẳng lẽ kêu chồng dậy dẫn đi. Nàng xuống đất xỏ dép đi xuống bếp.
Hoàng ngồi bật dậy vì tiếng thét thất thanh của vợ mình. Nhìn không thấy vợ
trên giường, chàng chạy vội ra phòng khách, cũng không có nàng, chạy xuống nhà
bếp, vợ chàng đang nằm sóng xoãi bất tỉnh trên sàn bếp, nước đọng vũng trên
sàn. Hoàng bế vợ lên giường và lấy dầu gió thoa thái dương cho nàng tỉnh lại.
Hoàng lấy quần áo thay cho vợ và một lúc sau vợ chàng tỉnh lại, nhưng cặp mắt
nàng vẫn như thất thần, nhìn dáo dác chung quanh như tìm kiếm cái gì! Day mãi
nàng mới tỉnh hẳn lại và rồi ôm mặt khóc thút thít! Hoàng hỏi một hồi nàng mới
dám kể, "Em buồn tiểu nên xuống bếp để đi, ai dè khi tới bếp em thấy bà cụ
già ở căn nhà cháy đang đứng nấu nước, bà quay nhìn em làm em sợ quá la lên rồi
té xỉu luôn!"
Hoàng không tin lắm vào lời vợ, cho rằng nàng bị ám
ảnh bởi cái đêm ngủ nhờ tại căn nhà cháy nên tâm thần không ổn định. Nhưng để
trấn an vợ chàng nhỏ nhẹ nói, "Thôi nghỉ đi em, nếu sau này em còn nghe
tiếng động thì kêu anh nhé." Đêm đó trôi qua mà không có sự cố gì nữa! Đêm
sau đang ngủ Hoàng bị vợ lay lay dậy nói thì thầm vào lỗ tai mình, "Đó anh
có nghe tiếng lịch kịch trên phòng khách không vậy?!" Hoàng lắng tai nghe.
Quả thật đúng là có tiếng lịch kịch trên phòng khách thật! Chàng bắt đầu tin
lời vợ mình. Tuy thế là đàn ông nên chàng không đến nỗi sợ chết điếng như vợ
mình! Chàng trườn nhẹ xuống giường, rón rén bước ra phía phòng khách.
Thật ngoài sự tưởng tượng của Hoàng! Ngồi lù lù
trên hai cái ghế là ông bà cụ Ở căn nhà cháy hôm trước! Họ đang thủng thỉnh
nhâm nhi hai ly nước trà bốc khói! Vẫn với dáng điệu hiền từ họ đưa mắt nhìn
Hoàng! Tuy rợn cả da gà, Hoàng vẫn cố lấy giọng hỏi, "Hai bác có phải là
người ở căn nhà cháy bên kia đèo Rù Rì không?" "Đúng đó cháu! Hai bác
xin lỗi đã làm phiền hai cháu nhé!" "Tại sao hai bác lại về
đây?" "Cháu ạ, ở đó lạnh lẻo quá nên hai bác đánh bạo về đây cho được
ấm áp hơn.! Vã lại, hai bác thấy vợ chồng cháu là người nhân đức nên hai bác
nghĩ chắc các cháu chẳng chấp gì hai bác." "Nhưng vợ cháu rất sợ sự
có mặt của hai bác trong nhà này lắm, nó là đàn bà nên yếu bóng vía lắm!"
Hai ông bà cụ có vẻ lo âu, một chút sau ông cụ lên
tiếng, "Hai bác xin lỗi đã làm phiền đến vợ cháu, hai cháu là người có
lòng nhân nên hai bác xin hai cháu là đã làm ơn thì làm cho trót, bác xin hai
cháu làm ơn cho hai bác một lần nữa có được không ?!" "Hai bác cứ
nói, nếu không ngoài khả năng thì cháu sẽ cố gắng thực hiện điều hai bác
muốn." "Cháu hãy xin các sư đến mộ hai bác làm một lễ cầu siêu cho
hai bác là xong! Hai bác vì chết oan nên chưa được siêu thoát, phải có lễ cầu
siêu thì mới có cơ đi đầu thai được!" "Cháu hứa sẽ làm cho hai bác
một lễ cầu siêu vào cuối tuần này! Cháu hơi tò mò một chút, xin bác cho cháu
biết tại sao hai bác lại chết oan vậy? Ai gây ra cái chết cho hai bác?"
"Đêm đó hai bác đang ngủ say trong nhà, một xe đò liên tỉnh chạy ngang qua,
anh lơ xe lên mui cột lại hàng hóa. Anh ta hút huốc và búng tàn về phía lề
đường. Chẳng may tàn thuốc bay lên nóc nhà bác, và mái nhà bắt lửa. Vì đang say
ngủ nên hai bác bị chết cháy trong nhà. Tuy là chết oan và anh lơ xe đã gây ra
sự cố. Nhưng xét cho cùng anh ấy đâu cố ý đốt nhà bác, cho nên hai bác không có
ý báo thù anh tạ Thôi cháu đi ngủ đi và nhớ xin cho hai bác lễ cầu siêu
nhé" Nói rồi ông bà cụ từ từ nhạt nhoà đi.
Giữ đúng lời hứa, vợ chồng Hoàng lên chùa xin các
sư đến chổ mộ Ông bà cụ dựng một đàn cúng giải siêu. Từ đó về sau không ai còn
bị mời vào ngủ trọ Ở căn nhà cháy nữa. Nhà Hoàng cũng trở lại sự yên tỉnh như
xưa. Thỉnh thoảng có dịp đi qua đó, vợ chồng Hoàng vẫn ghé lại thắp một nén
hương và nhổ các bụi cỏ hoang mọc trên mồ cho họ. Hoàng còn làm hơn thế nữa,
mấy năm sau chàng nhờ người cải mộ, đốt lấy tro cốt rồi gửi vào một ngôi chùa
gần đó! Chàng nói với vợ "Mình đã làm ơn thì làm ơn cho trót nghe
em."
HỒN VỀ TRONG GIÓ
(Tác giả: Nguyễn Ngọc
Ngạn)
Ở làng Vạn Yên, dòng họ ông Đào Ngọc Phú là gia
đình duy nhất có nghĩa trang tư thành hình cách đây đã ba thế hệ. Người ta kể
rằng lúc ông nội của ông Phú còn ngồi ghế quan huyện đã dùng thế lực để mua lại
cơ ngơi của một gia đình lân cận giáp ranh phía sau nhà ông rồi cho san bằng, và
lập nghĩa địa riêng, dặn con cháu là khi ông xui tay nhắm mắt thì an táng ấy là
miếng đất có long mạch tiềm ẩn. Dòng họ Đào Ngọc sẽ tiếp tục phát thêm được mấy
đời nữa.
Khu nghĩa trang ấy nằm vào khu đất trũng, có hàng
rào gỗ bao bọc. Quanh năm âm u vì lũy tre già rũ xuống che phủ. Lại thêm cây đa
cổ thụ mọc bên hông, tàn lá ngăn hết ánh sáng mặt trời, khiến những ngôi mộ nằm
trong đó trông càng lạnh lẽo, nhất là những buổi sáng mờ sương hay những khi
chiều tối.
Nhưng có lẽ thầy địa lý đoán sai, cho nên hai ba
thế hệ kế tiếp nhau, dòng họ Đào Ngọc cứ xuống dần, thoái Quan vi dân về làm
ruộng. Gọi là xuống, nhưng ruộng đất còn rất nhiều, so với đại đa số dân làng
thì họ Đào Ngọc vẫn thuộc hàng ăn trên ngồi tróc, vinh hoa phú quý hơn đời.
Chỉ có điều làm ông Phú không hả dạ là vì trong
thâm sâu, ông mê làm Quan. Ông thích chức quyền để được nể sợ, chứ không muốn
chỉ làm người phú hộ. Tuy giàu mà thiếu cái oai phong, hách dịch. Ông bỏ thời
gian đi tìm thầy địa lý mãi trên cao bằng, đón về để coi khu nghĩa địa sau
vườn, và kể rõ câu chuyện ông nội làm Quan năm xưa, hy vọng là có thể nhờ thầy
xoay chuyển lại số mệnh, tái lập con đường hoàng lộ lại cho ông và con cháu.
Nhưng thầy coi xong thế đất rồi bảo:
- Vận số của ông chỉ được đến thế thôi, như vậy
cũng được đại phúc lắm rồi. Tương lai hung khiết chưa biết thế nào, cần phải
thi ân bố đức cho thật nhiều. Cổ nhân đã dạy là Tiên tích đức, hậu tầm long.
Xưa Cao Biền thời Đường bên Tàu sang cai trị nước ta, xây thành Đại La, dùng
phép phong thủy để yểm chấn những nơi có long mạch, hòng làm cho dân
Ông Phú nghe xong, thở dài não ruột, chia tay ông
thầy địa lý, rồi ông ra phía trang sau nhà thắp nhang khắp lượt, con mèo đen
thoăn thoắt chạy theo, con mèo này ông nuôi từ khi mới đẻ, lúc nào cũng gắn bó
không rời ông. Ông buồn rầu nhìn gần 20 ngôi mộ xây cùng kích thước. Phần lớn
lớp xi măng bọc ngoài đã lên riêu xanh mốc. Người lạ đến nhà ông bất chợt ra
vườn sau, nhìn thấy những ngôi mộ san sát ấy, thường khó tránh khỏi cái cảm
giác rờn rợn bao phủ. Nhưng với cả nhà ông thì đã quá quen mắt từng ngày, nên
chẳng bao giờ bận tâm đến. Thậm chí có những đêm trăng mờ, lũ con ông còn dám
rủ nhau ra, chọn một ngôi mộ bằng phẳng, leo lên ngồi cầu cơ gọi hồn về để hỏi
chuyện tương lai. Thầy địa lý đi rồi, bà Phú ngước mắt nhìn chồng và nhắc lại:
- Thầy nói đúng lắm đó ông à! Mình được như thế này
là quý lắm rồi. Phúc đức tại tâm, Thầy bảo phải thi ân bố đức, thì cứ nghe lời
thầy mà làm. Từ nay, giúp được ai cái gì thì mình cứ giúp; ông đừng có đón Thầy
về nữa, tốn phí mà chẳng có lợi lộc gì. Theo tôi thì, cứ ăn ở cho phải đạo là
tốt hơn cả.
Ông Phú nhíu mày gắt nhẹ: - Bà nói chuyện hay nhỉ?
Thi ân bố đức thì lúc nào mà tôi chả rộng rãi hơn người? Cái dạo vỡ đê năm
thìn, không có tôi bỏ tiền cứu lụt ở làng này, thì cả làng không có đủ đất mà
chôn người chết, bà quên rồi hay sao? Rồi cái dạo năm Dậu bị hạn hán, củ chuối
cũng không có mà ăn, dân làng chết như rạ. Nửa năm trời tôi xuất kho phát chẩn
cứu bao nhiêu người đều không là thì ân bố đức hay sao?
Bà Phú dè dặt góp ý: - Hời...Nói của đáng tội, tiền
của ông nội nhà mình thì đều là....là...
- Đều là thế nào? Có phải bà định bảo là tiền của
phi nghĩa, bóc lột của người nghèo có phải không? Tôi cấm bà nghe lời những
quân mất dạy ở ngoài đường.
Bà Phú nhẫn nhục phân trần: - Sao mà cứ động một tí
là ông cứ mắng tôi? Tôi là tôi vì ông, vì các con, nên mới bàn góp cho ông vài
lời, chứ tôi có muốn nói ra làm gì? Tôi chỉ nhắc lại lời thầy địa lý bảo là
mình phải làm phúc. Ông cứu lụt rồi ông phát chẩn thì tôi quên làm sao được?
Chính tôi cùng với người làm gánh từng gánh cơm ra đê cho người ta ăn mà. Rồi
tôi múc cơm rồi tôi phát vải ra cho dân nghèo. Ông tưởng tôi không nhớ hay sao?
Nhưng mà ông ạ! Những việc ấy mình làm là vì lúc ấy ông định ra tranh cái ghế
nghị viên, cần mua cảm tình của thiên hạ chứ không phải là vì lòng tốt đâu ông?
Mình thì mình lừa người được chứ mình che mắt Thánh thế nào được?
Ông Phú tái mặt quát lớn: - Bà câm đi! Bà vào nhà
này bưng bát cơm đầy, kẻ hầu người hạ, ăn trắng mặc trơn. Không nhớ ơn thì
thôi, lại còn giở giọng bạc bẽo.
Bà Phú sợ quá vội lủi thủi bỏ vào nhà. Bà ngẩm nghĩ
lại chuỗi ngày dài đăng đẳng sống với chồng, sinh cho chồng bốn đứa con: hai
trai, hai gái. Quả thực, miếng cơm manh áo thì bà chưa bao giờ phải bận tâm dù
gia cảnh có sa sút đôi chút so với thời trước. Nhưng hai vợ chồng có những khác
biệt quá sâu đậm về tính tình mà luôn luôn bà phải chịu đựng. Bà hiền lành bao
nhiêu thì hình như ông Phú là người mang ác tính bẩm sinh bấy nhiêu.
Anh bếp Nhỡ ở với gia đình bà gần 10 năm, một hôm
ăn cắp mấy đấu gạo mang về cho Mẹ già, bị cô con gái bắt gặp tri hô lên. Với bà
Phú thì chuyện ấy nhỏ nhặt quá, chẳng có gì phải làm lớn. Bà gọi anh lại và
mắng: - Này, mày dốt vừa vừa thôi! Mày cần gạo sao không bảo tao một tiếng? Lần
sau mà giở cái thói ăn cắp là chết với tao đấy nhé.
Bà nạt cho có lệ thôi, chứ bà biết Nhỡ hiền lành.
Lấy trộm gạo là điều bất đắc dĩ. Nhưng không may cho Nhỡ là ông Phú ở trên nhà
nghe thấy, ông gọi Nhỡ lên, phang cho mấy gậy gần què chân rồi đuổi thẳng, bà
Phú xin mãi cũng không được. Ông bảo:
- Nuôi thứ ấy trong nhà thì thế nào cũng có ngày nó
làm nội ứng dắt cướp vào. Đuổi nó đi, cẩn tắc vô ấy náy.
Bà Phú dúi cho ít tiền và bảo Nhỡ mang về nhà cho
mẹ già và dặn hễ khi nào túng quẫn quá, không biết trông vào đâu, thì tìm cách
gặp riêng bà, bà sẽ giúp đỡ. Những việc nhân đức bà làm ngoài sự thúc đẩy tự
nhiên do bản tính trời sinh, bà còn muốn thực hiện để phần nào trả nợ cho
chồng, trả cái nợ do những hành vi bất chính và nhẩn tâm của ông Phú. Bà không
phải là người sùng đạo của bất cứ tôn giáo nào, nhưng bà tin một cách đơn giản
rằng: làm lành thì hưởng phước, gieo gió thì ắt có ngày gặt bão.
Trước đó ông Phú có mối thù với ông Kháng Lạc chỉ
vì tranh nhau mua lại mấy sào ruộng chiêm ở đầu làng. Việc chưa ngã ngũ, ông
Phú cho người nhà nửa đêm lẻn đến nhà ông Lạc, ra lũy tre bên hông, dấu mấy
chai rượu lậu và đồ nghề gần bờ ao rồi báo Tây đoan về bắt. Quả nhiên cái tết
năm ấy, ông Lạc đi tù với đầy đủ tang vật: Cái nồi đồng ba mươi lưng lửng bã
rượu, thúng gạo nếp đã vo sẵn, cái trõ và hai cái bong bóng trâu. Toàn những
thứ chỉ dùng cho việc nấu rượu.
Bà Phú biết việc này, nhưng không dám lên tiếng
trách chồng, chỉ thở dài vì thấy chồng làm những điều thất đức. Bà lo cho đàn
con mai sau phải gánh chịu hậu quả bởi bà vốn tin vào luật vay trả, vào thuyết
quả báo. Con cái nhờ đức của cha, bà thường nghe nói thế, nên bà rất sợ cho hai
cô con gái của mình.
Bốn đứa con của bà, Long đã có vợ hai con cũng ở
ngay trong làng. Kim mới lấy chồng chưa có con, ở khác làng nhưng cùng tổng,
cách một cánh đồng ngô. Còn con gái thứ ba là Nhàn và cậu út Hoành đang ở chung
với bố mẹ. Gia đình như thế thì kể cũng là ít người bởi căn nhà cổ kính truyền
đã ba đời của ông Phú thuộc loại đồ sộ, tường xây mái ngói, cột gỗ lim, trông
oai phong và vĩ đại lắm. Một cơ ngơi rộng rãi như vậy mà chỉ có hai vợ chồng,
hai đứa con, thêm chị người làm và con mèo là hết.
Chị người làm ở với ông bà Phú đã 20 năm còn con
mèo đen thì ông Phú nuôi từ khi mới đẻ đến nay đã lớn lắm, người ta cứ gọi nó
là con cò con. Con mèo gắn bó với ông Phú, đi đâu nó cũng theo đấy, thậm chí
ban đêm nó cũng chui vào buồng ngủ với ông. Ít khi thèm đi rình bắt chuột.
Làng Vạn Yên phần đông là người nghèo, mái tranh
vách đất san sát bên nhau càng làm nổi bật căn nhà đồ sộ của ông Phú truyền từ
đời ông nội để lại. Nhà dựng trên nền cao, mái ngói rêu phong cổ kính, với
những cây cột gỗ lim đỏ thắm, càng làm tăng thêm vẻ nghiêm trang và tăng thêm
cái uy thế cho gia chủ mỗi khi người làng khúm núm đến vay nợ.
Nghề cho vay lãi cắt cỗ giúp cho ông Phú đã giàu
thêm, bà Phú thường vẫn giấu chồng giảm tiền lời hoặc rộng lượng xí xóa mỗi khi
con nợ gặp phải túng bấn, không trả nổi. Riêng ông thì một xu cũng không bỏ
qua. Trong cái cơ ngơi khoảng khoắc ấy, gia đình ông Đào Ngọc Phú rất thanh
thản, chẳng những vì của cải dư thừa mà vì các con đều ngoan ngoãn. Riêng bà
Phú lại càng cảm thấy hạnh phúc vì Long đã cho bà hai đứa nội kháu khỉnh. Còn
Kim tuy chưa có con, nhưng lấy dược chồng hiền, và cho đến nay thì gia đình
chồng cũng tỏ ra quý dâu, chứ không hành hạ như nhiều gia đình khác ở làng Vạn
Yên.
Bà tin rằng đó là do cái phúc mà đã tạo được qua
những việc từ thiện. Nhưng chồng bà thì khác, mỗi khi nghe vợ khen bên thông
gia đối xử tử tế với con gái ông, ông đều vênh mặt hiu hiu tự đắc nói:
- Họ sợ cái uy của tôi chứ tử tế cái gì? Bố bảo tụi
nó cũng chẳng dám động đến cái Kim nhà này.
Bà Phú nén tiếng thở dài, cố đè nén nổi bực mình để
khỏi cải lại.
Cuộc sống đang bình thường như dòng nước êm trôi.
Chỉ một buổi sáng tinh mơ, cả nhà chưa ai thức giấc, gà trong thôn chưa gáy
tiếng thứ nhất. Bỗng con mèo đen đang nằm thiu thiu trên cái ghế bên cạnh
giường ông bà Phú, chồm lên lao vọt qua cửa sổ và kêu thét liên hồi, và cùng
với tiếng thét ngân dài ấy, con mèo chạy vùn vụt trên mái ngói, vụt phóng xuống
trước sân, gầm gừ rên rỉ như giận dữ. Mèo cắn nhau kêu lên là chuyện thường,
nhưng bỗng ông bà Phú nghe gõ cửa. Bà Phú giật mình ngồi nhổm dậy, quay đầu ngó
qua khe cửa sổ, thấy trời còn tối lắm. Tưởng chồng chưa thức, bà rón rén bước
xuống, không muốn làm mất giấc ngủ của chồng, bà vừa vấn tóc, vừa cằn nhằn nho
nhỏ:
- Đứa nào mà gõ cửa sớm thế này?
Nhưng ông Phú cũng đã dậy ngay từ lúc con mèo lao
ra cửa sổ, ông định nhân tiện đi tiểu, nên bảo vợ :
- Bà cứ nằm đây, để tôi xem đứa nào mà dám đánh
thức tôi với bà vào giờ này?
Trong thâm tâm, cả hai ông bà yên chí là chị Thuần,
người giúp việc lâu năm của gia đình này hằng đêm ngủ dưới bếp, sáng nay bẩm
báo việc gì gấp hoặc một trong hai đứa con ở buồng bên kia có chuyện phải gặp
bố mẹ. Ông xỏ guốc, đứng dậy tiến ra tháo then cửa. Trời mờ tối, lại dày đặc
sương mù, ông mở to cặp mắt, chưa kịp lên tiếng thì giật mình ngạc nhiên thấy
một đứa bé gái khoảng ba tuổi đứng dưới sân trong vùng sương mờ ảo, không trông
rõ mặt. Con bé chìa tay xin: - Ông...ông làm ơn cho con nắm cơm...Con... Con
đói quá!
Đứa bé đứng ngay trước mặt ông, cách có mấy bước,
nhưng giọng nói nghe âm vang xa lạ quá, như từ chốn thăm thẳm nào vọng về; ông
bực mình quát lớn theo thói quen hống hách của mình:
- Con cái nhà ai đi ăn xin nửa đêm thế này? Xéo
ngay! Làm mất giấc ngủ của ông. Ông lại vả cho mấy cái bây giờ.
Mặc cho phản ứng dữ tợn của ông, đứa bé vẫn đứng im
ngước lên nhìn ông như thoát tục, mặt nó trắng toát, đôi mắt trừng trừng, nhìn
ông đăm đăm. Khiến chỉ vài giây sau, ông đã mất hẳn bình tĩnh, và như có luồng
gió lạnh buốt bất chợt thổi ập vào người, làm ông lẩy bẩy run sợ. Đứa bé lập
lại bằng giọng sâu thẳm hơn: - Con..Con đói quá, xin ông làm phúc cho con bát
cơm.
Ông Phú đứng á khẩu tại chỗ, mồm há ra, mắt tự
nhiên lạc thần. Vừa lúc ấy có giọng nói đàn bà từ cổng đưa vào: - Con ơi! về
con ơi! Về với mẹ con ơi!
Ông Phú kinh hãi nhìn ra cửa, thấy một người phụ nữ
mặc đồ trắng toát, đứng tuốt ở cuối sân, sát cái cổng xây nhà ông giơ tay vẫy
vẫy. Khoảng cách khá xa, lại gặp màn sương đục, ông không trông rõ mặt, chỉ
thấy mái tóc dài đen nhánh phủ xuống vai nổi bật trên nền áo trắng.
Ông còn đang ngơ ngác, mất thần thì con mèo đen từ
lưng sau lao vụt xuống bên ông kêu thét lên, đôi mắt nó lông lên sòng sọc và
nhe hàm răng nhọn hoắt ra gầm gừ, muốn lao lại vồ đứa bé. Hai chân với những
móng sắt dài, nó cào liên tiếp trên nền gạch. Ông Phú nghe rõ tim mình đập
thình thịch như sắp phá vỡ lồng ngực. Thoáng trong chớp mắt, ông không còn thấy
đứa bé nữa. ông ngước nhìn ra xa, thì hai cái bóng trắng ấy đã ra tuốt ngoài
cuối sân, đang dắt tay nhau bước ra khỏi cổng nhà ông, và mất hút ở khóm tre
bên đường. Cả lúc sau, ông mới định thần, chập choạng bước lui vào nhà, miệng ú
ớ kêu:
- Bà, bà ơi! Bà...bà ra ngay đây ..bà ơi!
Ông lùi hẳn vào bên trong, đóng sập cánh cửa lại,
bà Phú từ trên giường bước xuống ngạc nhiên hỏi:
- Ủa cái thuần nó cần cái gì mà nó gọi sớm thế?
Ông Phú run rẩy ngồi xuống giường lắc đầu lia lịa,
một lúc sau ông mới lấy lại chút bình tĩnh bảo:
- Không! không phải cái Thuần.
- Ơ...không phải cái Thuần thì đứa nào mà gõ cửa
sớm thế? Con Nhàn hay thằng Hoành?
Ông Phú nắm chặt bàn tay vợ, còn bàn tay ông thì
lạnh toát như nước đá, ông thở hổn hển bảo vợ:
- Bà...bà ra xem nó có còn ở ngoài ấy không?
Bà Phú không hiểu gì chỉ biết từ ngày về với ông
Phú, hiếm thấy khi nào ông như thế này. Bà hỏi lại:
- Đứa nào mới được chứ?
- Đứa bé con.
Bà Phú càng ngạc nhiên:
- Đứa bé con nào? Nhà này làm gì có trẻ con?
- Không...biết con nhà ai mà nó đi xin ăn.
- Khổ thân! Ăn xin mà vào giờ này? Nhà này thiếu gì
cơm nguội. Sao ông không cho nó một bát? thôi được, để tôi xuống bếp, tôi bảo
cái Thuần nó lấy cho nó vậy.
Dứt lời, bà bước nhanh ra cửa, bởi vì bà vốn có
lòng từ tâm. ông Phú nói với theo:
- Ừ...bà ra xem nó có còn ngoài sân không?
Rồi ông ngồi trố mắt nhìn theo, hồi hộp chờ đợi. Mở
cửa, con mèo đen lao vụt vào, nhảy lên cái ghế thường của nó. Đêm tối, đôi mắt
nó nhìn đăm đăm như hai ngọn lửa loé sáng có pha chút xíu màu đỏ. Bà Phú bước
hẳn ra thềm, đứng nhìn quanh khắp sân và hai bên hiên, nhưng không thấy đứa bé
nào cả. Bà nhướng mắt, cố phóng tầm nhìn ra phía cổng vì sương sơm dày đặc quá.
Bà đứng trên thềm, quay đầu nói vọng vào: - Có cái đứa nào đâu? Già trẻ lớn bé,
chả có thấy ai hết. Ông chỉ trông gà hóa cuốc, chứ có ăn mày nào mà dám vào nhà
mình giờ này?
Ông Phú lo lắng nói vọng ra:
- Không có ai thì bà vào nhanh đi. Bà vào rồi khép
cửa lại.
Bà Phú làm theo lời chồng, trở vào giường nằm.
Nhưng ông Phú bảo bà thắp cho ông ngọn đèn vặn lớn đặt trên cái bàn giữa nhà
rồi vào nằm bên ông. Bà thấy rõ toàn thân ông Phú vẫn còn run lên bần bật từng
cơn, ông kéo tấm chăn mỏng phủ lên tới cổ và mắt mở trừng trừng ngó lên trần.
Bà Phú lấy làm lạ là tự dưng ông Phú chống bà lại đòi thắp đèn, bình thường khi
đi ngủ, ông không chịu được ánh sáng dù chỉ một ngọn đèn leo lét dựng trên bàn
thờ, ông cũng bắt che lại, đừng để lọt vào mắt ông. Có đèn ông không ngủ được,
ông thường lập đi lập lại như thế!
Bà Phú xoay về phía ông, đưa một tay đặt lên trên
trán, và lần xuống cánh tay, và bàn tay ông, thấy chỗ nào cũng lạnh toát, bà lo
lắng hỏi: - Sao mà lạnh hết lên thế này? Trời muà hè mà sao lạnh rét lên thế
này?
Bà nghe thấy rõ hai hàm răng ông đập vào nhau lách
cách như đi ngoài tời muà đông, gặp gió bấc thổi mạnh, bà đăm chiêu hỏi:
- Ông ơi, ông thấy trong người như thế nào? hay là
lúc nãy ông mở cửa ra thì gặp luồng gió độc? Thôi cứ nằm yên đấy đi, tôi lấy lá
dầu không tôi hơ lửa, tôi đánh gió cho ông nhé!
Ông Phú lắc đầu, cố nói bằng giọng điềm tĩnh hơn: -
Có gì đâu! Nhưng mà bà nhớ là cả bà và tôi cùng nghe thấy tiếng gõ cửa, có phải
không nào?
- Đúng rồi, tôi còn nghe thấy trước ông nữa kia mà.
Tiếng con mèo nhà mình nó kêu trước rồi tiếng đập cửa sau.
Ông Phú chậm rãi kể: - Ừ! Bà làm chứng đấy nhé, rõ
ràng là có tiếng gõ cửa. Tôi ra mở cửa thì thấy có đứa bé con đứng ở dưới sân
chià tay xin cơm, da nó trắng xanh như con nhà giàu mà lại đi ăn xin vào giờ
này, thế có lạ không? Tôi đuổi nó đi, thì nó cứ đứng im nhìn tôi, rồi tôi bỗng
nhiên lạnh buốt. Tháng này làm gì có gió lạnh?
Ông đang nói dở câu thì bỗng con mèo lại tru lên và
lao xuống đất. Lần này nó không phóng qua cửa sổ phía sau mà chồm lên, cào mạnh
trên cánh cửa ra vào , nhe răng gầm gừ liên tục. Ông Phú đang nói, quay mặt
lại, nắm chặt cánh tay vợ, trố mắt nhìn theo con mèo. Vài giây sau quả nhiên có
tiếng gõ cửa, ông Phú toan hét lên vì kinh sợ, nhưng ông nằm bất động, níu cánh
tay vợ thật chặt. Tiếng gõ càng thôi thúc khiến con mèo chồm lên gào cánh cửa,
tiếng gầm gừ càng thảm thiết hơn, ông run lập cập bảo bà:
− Nó...nó...nó đấy bà, nó chưa đi đâu.
Bà Phú gỡ tay chồng ra và bảo:
- Ra cho nó bát cơm để nó đi. Rõ lẩn thẩn! Đêm hôm
khuya khoắt thế này nó vào đây xin bát cơm, chả lẽ đuổi nó đi à? Thôi được rồi,
ông cứ nằm im đó đi. Tôi xuống bếp lấy cơm cho nó.
Bà tuột nhanh xuống giường, xỏ guốc đi ra. Ông Phú
ngồi bật lên, trố mắt nhìn theo chờ đợi. Bà Phú vừa tháo then ngang, vừa nói
lớn: - Đứa nào đập cửa đấy? Từ từ rồi tao mở, làm cái gì mà inh ỏi lên thế?
Rồi bà mở rộng cánh cửa gỗ, con mèo liền đi ra,
nhưng chỉ vài giây sau bước vào, nhẹ nhàng nằm khoan thai bên ông Phú. Bà Phú
bước ra thềm, ngạc nhiên chẳng thấy ai. Bà đứng trên hiên, nhìn ra phía cổng,
cũng chẳng thấy bóng người nào. Bà bực mình hỏi lớn: − Đứa nào đập cửa nhà bà
đấy?
Không có ai đáp lại, bà buột miệng nói: - Lạ nhỉ?
Rõ ràng là vừa đập cửa cơ mà, biến đi đâu mà nhanh thật đấy? Này này, con cái
nhà ai mà nghịch như quỷ thế hả? Bà mà túm được là mày chết với bà đấy!
Bà đứng thêm một lúc rồi vén mùng quay vào nằm bên
chồng, ông Phú hồi hộp hỏi:
- Bà có thấy đứa bé không?
- Có thấy gì đâu?
- Ơ! Mà rõ ràng cả hai lần nó gõ cửa bà đều nghe
thấy chứ đâu phải là tôi ngủ mê! Lần trước tôi ra, thì nó đứng ngay trước mặt
tôi, bận này bà ra thì lại không thấy, thế này là thế nào?
Cả hai cùng im lặng vì cả hai không tìm ra được câu
trả lời, một hồi ông Phú hạ giọng nói như tự hỏi:
- Chả biết là người hay là ma?
Bà Phú đáp ngay:
- Ma với quỷ cái gì? Chắc đứa nào nó trêu mình!
Tuy bà nói thế nhưng lòng bà bắt đầu thắc mắc, vì
bà biết làm gì có đứa nào dám trêu chọc bà ở giữa khuya khoắt như thế này? Ban
ngày còn chả dám huống chi là ban đêm. Đắn đo một chút bà hỏi:
- Mà này ông! Thế ông thấy đứa bé thật à? ông có
chắc không đấy?
Ông Phú gắt nhẹ: - Bà ơi, tôi ngần này tuổi. Cả đời
có biết ma là cái gì đâu. Nhưng mà hôm nay...hôm nay thì tôi thấy lạ lắm....
Bà Phú ngắt lời: - Tôi thì..tôi chỉ sợ ông ngáy
ngủ, mắt nom không rõ thôi. Chứ ông nghĩ mà xem ăn xin gì...chả ai ăn xin vào
lúc nửa đêm như thế này! Huống hồ trẻ con thì giờ này ngủ say như chết ấy, lay
không dậy nổi chớ đừng nói là giờ này lang thang ngoài đường!
Ông Phú càng kinh sợ qua những lời vợ ông vừa nói
thì rõ ràng là ma chứ không phải là người. Bà Phú bổng nhổm dậy, bước nhanh
xuống giường, ông Phú hốt hoảng hỏi: - Bà đi đâu đấy?
Bà Phú vừa xỏ guốc vừa đáp:
− Tôi đi gọi cái Thuần.
Bà mạnh dạn bước ra tháo then cửa, khe khẽ hé mở,
tiếng bản lề để lâu ngày rỉ sét, kêu lên kèn kẹt. Bà mở to mắt nhìn xa xa, dĩ
nhiên không thấy ai, sương vẫn dày đặc trong không gian mờ tối. Bà bước hẳn ra,
đứng lại một lúc trên thềm không thấy động tĩnh gì, bà mới đi nhanh xuống bếp
và gọi: - Thuần ơi!
Chị người làm nằm trên cái giường kê sát cửa bếp,
ngồi dậy vấn tóc và đáp:
- Ớ! Bà gọi con ạ? Có việc gì sớm thế ạ?
Bà Phú ngồi xuống bên cạnh và hỏi:- Này, tối ngày
hôm qua mày quên đóng cửa phải không?
Chị Thuần quả quyết: - Ấy chết! Sao bà nói thế ạ?
Con đóng cổng, cài then cẩn thận lắm, quên làm sao được ạ? Có cô Nhàn làm
chứng, lúc đó cô con vừa tắm ở dưới ao lên, đi ra cổng cùng với con. Bà không
tin thì hỏi cô con là biết ngay ấy.
Bà Phú ngồi thừ người im lặng, chị người làm sốt
ruột hỏi thêm: - Có cái gì thế bà? Có việc gì thế bà? Trộm vào nhà mình hở bà?
hay là có chuyện gì không? Bà làm con lo quá bà ạ!
Bà Phú không muốn để chị người làm kinh hãi, sợ chị
sẽ kể với hai đứa con, cho nên bà đứng dậy và bảo: - Không, tao chỉ hỏi thế
thôi!
Rồi bà bước ra sân, vừa đi vừa nhìn xung quanh một
lần nữa.
Ông Phú vẫn nằm nhắm mắt trên giường, nghe tiếng
chân vợ vội lên tiếng: - Bà kể với cái Thuần à?
- Không, tôi chỉ hỏi nó là tối hôm qua nó có đóng
cổng hay không thôi.
- Rồi nó bảo sao?
- Nó quả quyết là nó có đóng, có cả cái Nhàn ra
cùng đóng cổng với nó.
Dứt lời, bà mén vùng chui vào, ngả người nằm xuống
và nói bâng quơ:
- Lạ thật đấy, tôi thì tôi vẫn cứ cho là ông quáng
gà chứ làm gì có đứa bé con nào?
Ông Phú đã bình tĩnh trở lại, ông gắt nhẹ:
- Ừ thì cứ cho là tôi nhìn lầm đi. Nhưng cả hai lần
nó gõ cửa, bà đều nghe thấy, chứ nào phải riêng tôi? Hỏi bà ai gõ mới được chứ?
Đây nhé, vừa nghe tiếng gõ cửa bà chạy ra ngay lập tức, mà không thấy ai, tôi
hỏi bà cái sân nhà mình nó trống hốc ấy. Giả như có đứa nào nó cố ý trêu tôi
với bà, thì nó núp vào đâu? Nó vừa gõ cửa, bà ra ngay cơ mà! Người mà chạy
nhanh đến thế hay sao? Bà thử nghĩ xem!
Nghe những lời phân tích ấy, bà cho là chồng hoàn
toàn có lý, buộc miệng nói theo:
- Ờ, sân nhà mình thì làm gì có chỗ núp ông nhỉ?
Ông Phú càng tin là mình đã gặp ma, rồi từ đó hai
người im lặng nằm bên nhau, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ. Mãi cho đến khi gà
trong xóm rộn rã gáy khắp lượt, tiếng bước chân, tiếng nói chuyện huyên náo của
dân làng kéo nhau ra đồng trên con đường đất rộng chạy ngang trước nhà. Ông Phú
mới mệt mỏi ngồi dậy ra thềm đứng nhìn khoảng sân gạch đang sáng dần trong ánh
bình minh.
Mặt trời lên, làm ông thấy tỉnh táo hẳn, không còn
sợ hãi như trong đêm. Ông bước xuống sân thong thả đi ra cổng, và quả nhiên
thấy cánh cổng vẫn còn khép kín, cài then trong với chiếc khóa đồng to bản vẫn
nằm im ở vị trí thường lệ. Nhà ông từ mấy đời vì của cải khá nhiều nên xây
tường bao quanh, và đêm đêm bao giờ cũng đóng then để đề phòng trộm cắp. Cổng
khóa có nghĩa là người lớn không hề vào được , huống hồ là đứa con nít ba bốn
tuổi. Ông thơ thẩn quay vào, đi quanh một vòng.
Mặt trời lấp ló sau rặng tre, chiếu những tia nắng
ban mai rực rỡ, in bóng ông chạy dài in trên nền gạch. Ông bước lên hiên, uể
oải ngồi xuống bậc thềm ngay chỗ sáng nay ông đúng nói chuyện với đứa bé lạ
mặt. Con mèo đen lấm lét bước theo, rồi leo lên nằm trên đùi ông.
Bà Phú từ dưới bếp đi lên bưng khay trà toan bước
vào nhà để đặt lên bàn cho chồng như thường lệ. Nhưng ông Phú vẫy bà, chỉ tay
xuống sân và nói:
- Chỗ này nè bà! Nó đứng ngay chỗ này này.
Bà Phú đặt khay trà trên hè và cũng ngồi xuống bên
cây cột gỗ lim. Bà lật hai cái cốc thủy tinh rồi rót nước trà, hơi nóng bốc lên
nhè nhẹ. ông Phú có thói quen sáng thức dậy là phải uống ngay một cốc nước trà
thật nóng và thật đặc trước khi ra hông nhà bếp xúc miệng rửa mặt. Nhìn nét ưu
tư trong ánh mắt chồng, bà Phú tự hỏi: − Hay là thật sự có đứa bé hàng xóm nửa
đêm lẻn vào chọc ghẹo, cốt để làm cho vợ chồng bà sợ? Trẻ con làng này thì có
thiếu gì đứa quấy phá thiên hạ.
Nghĩ thế, bà hỏi: - Này , nó...nó...con cái nhà ai?
ông thấy mặt mũi nó ra sao? ông có nhớ nó không?
− Nào tôi có biết. Bây giờ nghĩ lại tôi thấy chắc
một điều là nó không phải là đứa bé ăn xin. Con nhà ăn mày làm gì có quần áo
trắng tinh như thế ! Với lại bà nói đúng, bố mẹ nào mà xui con đi ăn xin mà lại
đập cửa nhà người ta giữa đêm như thế. Người ta đánh cho què chân chứ lị!
Tất cả những nhận xét của ông Phú, thật ra bà Phú
đã nghĩ đến từ nãy đến giờ, nhưng không muốn nói ra sợ làm chồng càng thêm sợ,
bà chỉ khẽ gật đầu tỏ vẻ đồng ý, ông Phú lại thêm:
- Bà ạ, tôi vừa ra coi lại ngoài cổng, thì cổng vẫn
còn khóa.
Bà Phú bưng cốc nước nóng xoay xoay trên tay quay
sang nhìn chồng. Một người bản tính hung hăng như chồng bà mà từ lúc nhìn thấy
đứa bé lạ mặt trong đêm khuya, bỗng dưng biến thành con người khác với những sợ
sệt không che dấu nổi, thì chắc hẳn đứa bé ấy có cái ma lực gì ghê gớm lắm. Có
thể nó là một oan hồn từ khu nghĩa trang ngay sau vườn nhà bà hiện về chăng?
Nhưng bà lại lắc đầu gạt đi vì bà nhớ lại 20 người chôn sau nhà bà không ai
chết trẻ. Đó là điều làm cho bà vẫn còn ngờ ngợ, nửa tin nửa không tin. Bà phân
vân hỏi chồng:
− Ý ông thì....thì ông nhất định cho rằng đứa bé ấy
nó...nó...không phải là người à?
− Ma chứ không phải là người. Bà nhớ lại mà xem, có
bao giờ con mèo nhà mình nó lồng lộn như đêm hôm qua đâu? Hễ nó gào lên, là lập
tức có tiếng gõ cửa. Giống mèo nó nhận được ma ấy bà ạ! Bà không nghe người ta
kể là quỷ nhập tràng hay sao?
− Có, có nghe! Nhưng mà quỷ nhập tràng nghĩa là
quan tài người chết vẫn quàn trong nhà chưa đem chôn, nếu như mà có con mèo đen
nó nhảy qua thì quan tài sẽ đứng bật dậy, rồi nắp quan tài bung ra, rồi người
chết đuổi theo con mèo. Tôi thì tôi nghe người ta kể như thế.
Bất giác, ông Phú cúi xuống nhìn con mèo đen của
mình đang nằm bên cạnh đùi ông. Và tự dưng ông thấy rờn rợn vì biết đâu nó
chẳng biến thành tinh khi gặp quan tài người chết. Bà Phú uống ngụm nước , đặt
lên, rồi trầm ngâm tiếp:
− Tôi, thì tôi về ở với ông hơn hai mươi mấy năm
rồi trong cái căn nhà này, chưa hề nghe nói nhà mình có ma bao giờ. Nhưng mà
hôm nay nếu ông tin là có ma, thì để tôi bảo cái Thuần nó chạy đi mời Thầy,
Thầy Lĩnh Quang ở bên Xuân Diễn ấy. Ngoài chợ người ta cứ đồn là Thầy Lĩnh
Quang cao tay lắm. Thầy sai được cả âm binh và có phép mở mả trị thằng Trùng
ấy. Để tôi thỉnh Thầy về cúng kiến xem sao, đuổi hồn ma đi khỏi quấy rầy nhà
mình ông nhé.
Ông Phú giơ tay ngăn lại:
− Hẵng khoan bà, tôi không muốn cái chuyện này ầm ỉ
lên. Từ từ xem thế nào đã. Cần thì cũng phải mời nhưng thư vài hôm nữa xem sao.
Bà Phú đồng ý ngay: - Thì tôi sợ ông lo quá rồi
thành bệnh nên tôi mới đề nghị ông như thế, chứ thật ra tôi đâu muốn chuyện này
nó lan ra ngoài cho thiên hạ biết đâu. Miệng đời nó ác độc lắm! Người ta lại
bảo là nhà mình thất đức bị trả quả báo.
Hai chữ thất đức, bà Phú nhấn mạnh để ám chỉ chính
ông chồng những năm tháng đã qua. Ông Phú dường như cũng biết ý vợ nên chớp mắt
nâng ly trà hớp một ngụm lớn rồi không nói gì. Bà Phú liếc mắt nhìn chồng, thấy
ông đã tỉnh hẳn chứ không lạnh người như trong đêm. Tuy vậy ánh mắt ông vẫn
nặng trĩu ưu tư và da mặt sáng nay chợt xanh xao như người sốt rét lâu năm. Để
trấn an ông, bà quay về với luận ngữ cũ hy vọng giúp chồng quên hẳn nổi sợ hãi
vừa xảy ra, bà bảo:
− Trời ơi, đêm qua ông làm tôi sợ quá, tôi tưởng
ông lên cơn sốt rét.
Ông Phú gật đầu rồi nói :
− Bà nhớ đấy nhé, bà đừng để hở cái câu chuyện nhà
mình cho người ngoài nghe đấy! Con Thuần, cái Nhàn, thằng Hoành, bà không được
nói với chúng nó.
Bà Phú đồng ý ngay, bà nhắc lại:
− Với lại đã chắc gì là ma? ông bảo sáng nay ông
nom thấy đứa bé đứng ở đây xin cơm, nhưng mà khi tôi mở cửa ra, tôi chả thấy
đứa bé nào cả. Tôi thì tôi chỉ sợ lúc ấy ông ngái ngủ, mắt nhắm mắt ngủ, trời
lại lắm sương mù cho nên ông nom cái nọ nó xọ ra cái kia chăng?
Ông Phú cũng mong như thế, mong rằng hình ảnh đứa bé
sáng nay ông thấy đứa bé trước cửa nhà ông cũng như người đàn bà đứng ngoài
cổng, đều chỉ là ảo giác. Nhưng rõ ràng không phải, ông nom thấy thật, ông nở
nụ cười héo hắt bảo vợ:
− Tôi là chúa ghét chuyện nhảm nhí, ghét những
chuyện mê tín dị đoan, bà thì còn hay tin vớ vẩn chứ bà có thấy tôi tin ma quỉ
bao giờ? Ấy thế mà bây giờ chính tôi lại gặp.
Ông vừa dứt lời thì từ dưới bếp, chị người làm và
hai đứa con cùng kéo lên, cái Nhàn hơn 20 tuổi, con gái cưng của bà Phú. Thằng
Hoành 16 tuổi, học chữ Quốc ngữ hết lớp ba bậc Tiểu học thì trường làng không
còn lớp cho nó tiếp tục nên đành quanh quẩn ở nhà. Nhàn ngồi xuống bên cạnh mẹ
và hỏi một cách lo lắng:
- Nhà có việc gì thế hở mẹ? Đêm qua có trộm sao mà
sáng nay mẹ xuống đánh thức chị Thuần sớm thế?
Ông Phú đưa mắt nhìn vợ làm hiệu, bà Phú vội xua
tay phân trần: - Trộm đâu mà trộm, mẹ chỉ hỏi chị Thuần là có quên khóa cổng
hay không thôi.
Cái Nhàn thắc mắc hỏi: - Ơ...nhưng mà rõ ràng con
nghe tiếng bố nói chuyện với ai ngoài hè cơ mà? Lúc đó con giật mình thức dậy,
con tính con chạy ra con thấy mẹ chạy xuống bếp gọi chị Thuần.
Bà Phú cười đẩy con: - Bố mày mê ngủ đấy chứ có nói
chuyện với ai đâu! Chuyện vãn gì nữa đêm vậy?
Thằng Hoành ngồi xuống bên cạnh chị, chăm chú theo
dõi nhưng không nói lời nào, chị người làm lên tiếng đổi đề tài: - Hôm nay bà
với cô Nhàn có đi chợ không ạ? Để con mang quang gánh ra cho bà.
Bà Phú hỏi con gái: - Đi hay ở nhà con?
Nhàn ngạc nhiên nhìn mẹ và đáp: - Đi chứ mẹ! Chợ
phiên mà! Mẹ bảo là mẹ mua vải may cho con và thằng Hoành mỗi đứa hai cái áo
cánh mà!
Bà Phú thở dài: - Ờ...ừ...thì đi, nếu đi thì phải
đi cho sớm con ạ. Hôm nay sương nhiều, chốc nữa nắng to phải biết.
Rồi bà quay sang chồng:
- Thế ông có cần mua cái gì không?
Ông Phú uể oải đáp:
- Bà xem trong tủ có còn chè mạn sen không? Hết thì
mua cho tôi mấy gói.
Bà Phú đứng dậy bước vào nhà và nói:
- Ừ, để tôi xem coi.
Rồi bà giục con gái chuẩn bị lên đường, bà bảo chị
người làm: - Lấy cái thúng được rồi. Có mua gì nhiều đâu mà cần quang với gánh.
Chị Thuần và Nhàn xuống bếp, thằng Hoành ra vườn
sau xem tổ chim trên cây bưởi, chỉ còn mình ông Phú ưu tư ngồi trên thềm nhìn
ra cổng, không nói lời nào. Nỗi lo sợ trong đêm gần như tan biến hết dưới ánh
sáng mặt trời. Ông ngẫm nghĩ mãi về cuộc đời, ông không hiểu tại sao ông lại
gặp ma, hay đúng hơn là tại sao ma lại đến với ông?
Những chuyện về thế giới bên kia, về oan hồn vương
vấn dương gian. Ai mà chả từng nghe kể, mà chỉ toàn là tưởng tượng, là hoang
đường, chứ có ai tận mắt gặp hồn ma bao giờ? Cả đời ông vẫn tin như thế cho đến
đêm qua thì suy nghĩ của ông rẽ hẳn sang một khúc quanh khác. Chuyện tiếp xúc
với cõi âm là có thật, chứ chẳng phải là ảo giác thêm mắm thêm muối cho hấp dẫn
người đời. Ông mong câu chuyện sẽ kết thúc ở đây, đừng tái diễn thêm một lần
nào nữa. Ông thở mạnh, vói tay lấy cái điếu cày, rồi tình cờ ngước lên ngọn cây
soan ở đầu nhà, trên một nhánh khác có con quạ đen đậu từ lúc nào, mắt đăm đăm
nhìn ông. ông vung tay đuổi, con quạ vẫn lì lợm đứng tại chỗ, ông tìm cục đá
quăng lên, con quạ vỗ cánh đảo một vòng rồi trở về chổ cũ và vẫn nhìn ông soi
mói, khiến ông hoang mang, đứng dậy bỏ vào nhà.
Một ngày trôi qua rất nhanh, buổi trưa ông thơ thẩn
đi bách bộ trên thềm nhà dưới mái hiên dịu mát. Bà Phú và Nhàn đi chợ chưa về,
con mèo đen đang lững thững theo ông trên trên hè bỗng dưng thét lên rồi chạy
vụt ra cái cổng chính, rồi cứ thế nó nhảy chồm lên cào vào cánh cổng như đang
quần thảo với một kẻ thù vô hình nào đó rất hung dữ. Ông Phú đứng trên nhà,
toàn thân nổi da gà, trố mắt nhìn ra dù không thấy gì ngoài con mèo một mình
gầm thét và cào cấu.
Một lúc sau, con mèo ngừng kêu, đứng lặng im trước
bụi tre một lúc rồi quay vào với ông. Ông thở hổn hển, ngồi xuống bậc thềm xoa
lưng nó bởi biết rằng hồn ma vừa hiện vào cổng trước nhà ông, nhưng có lẽ vào
ban ngày, ông không thấy được. Tuy nhiên, nhìn vào cảnh tượng ấy, ông cũng thấy
rõ là người xưa nói không sai: chung quanh người sống, có biết bao nhiêu hồn
người chết đang lởn vởn bên cạnh, mà mắt trần gian không trông thấy được. Biết
đâu trong lúc này, ông đang ngồi đây thì hai cái bóng ma xa hai mẹ con xa lạ đó
cũng đang ngồi sát bên ông mà ông không biết. Ông hoang mang nghĩ ngợi mãi cho
đến lúc vợ ông và cô con gái đi chợ về, ông mới gượng cười đứng dậy, và cũng
không kể cho ai nghe câu chuyện con mèo vừa đánh nhau với ma ở ngoài cổng.
Hiện tượng quái dị ấy tuy có làm ông sợ, nhưng dù
sao đi nữa nó cũng diễn ra vào ban ngày, ông không hãi hùng lắm. Ông chỉ lo đêm
nay, đứa bé con mặc đồ trắng sẽ lại gõ cửa tìm ông. Cho nên buổi chiều, ông
lặng lẽ ra nghĩa trang sau nhà thắp nhang từng ngôi mộ. Thành khẩn cầu xin tổ
tiên phù hộ cho ông qua cơn khủng hoảng. Có nghĩa là đừng để hồn ma đứa bé tìm
ông một lần nữa.
Lần đầu tiên trong nghĩa trang của chính gia đình
ông, ông cảm thấy cái không khí rờn rợn, vương đầy tử khí. Ông vừa nhắm mắt để
khấn nguyện thì chợt linh cảm từ phía sau có người nào đó đang nhìn ông, ông
quay đầu lại thì chẳng thấy ai. Ông nhắm mắt đọc kinh tiếp thì lại thấy rõ có
ai đứng nhìn lén mình, ông quay lại nữa, thì chợt nhận ra con quạ đen đậu trên
cành đa chỉ cách ông có mấy thước, ông giựt mình, nhặt cục đá ném lên, con quạ
kêu lên mấy tiếng ai oán rồi bay về chờ ông trên nhánh cây soan bên hông nhà.
Buổi tối ông ăn qua loa mấy chén cơm rồi vào buồng vì ông sợ bóng tối ngoài sân
cũng như trong các lùm cây. Lên giường nằm, ông trằn trọc thao thức mãi. Bà Phú
thắp nhang trên bàn thờ rồi chìu chồng cũng lên giường sớm và con mèo đen theo
thói quen, nhảy lên cái ghế dành cho nó bên cạnh giường.
Bà Phú kể cho chồng nghe các chuyện vặt vãnh ngoài
chợ, tránh nhắc chuyện đêm qua, để làm chồng thêm sợ. Ông Phú nghe vợ nói
chuyện, cũng ậm ừ cho qua, nhưng rõ ràng ông không chú ý vì đầu óc vẫn đang
vướng bận, cố gạt đi mà không gạt nổi. Gần nửa đêm bà Phú mệt mỏi ngủ mất trong
khi ông vẫn còn trăn trở, hết xoay bên phải lại đổi sang bên trái. Nằm lâu ông
buồn tiểu lắm, nhưng không dám đi một mình, mà chẳng lẽ lại đánh thức vợ dậy để
rủ vợ cùng đi chung với mình. Nhà cầu nằm mãi sau bếp, ông tưởng tượng giờ này
ông phải băng ngang mảnh sân ra đó, bất chợt đang đi mà hai cái bóng trắng lao
ra chắn lối, thì chắc chắn có thể làm ông kinh sợ đến ngất đi được.
Ông nén tiếng thở dài, nhắm mắt lại cố dỗ giấc ngủ.
Bên ngoài trời đã khuya lắm, ông nghe tiếng sương đêm từng giọt đều đặn từ mái
ngói đến sân gạch, ông kéo tấm chăn phủ kín trên mặt rồi cảm thấy rất khó chịu
vì ngộp thở. Không gian hoàn toàn tỉnh mịch, trời đứng gió, ngoài vườn bao
nhiêu cây lá không một chút lay động.
Ông hồi tưởng lại bao nhiêu năm sống ở làng này, từ
thuở thiếu thời, ông đã lang thang một mình trên đường khuya, dù là đêm trăng
sáng hay đêm tối trời, có bao giờ biết sợ là gì? Rồi sau này khi lập gia đình,
có địa vị trong làng xóm, cũng biết bao đêm ông đi uống rượu ở nhà người này,
người kia. Hoặc khi ra sân đình xem hát chèo, rồi một mình trở về trên những
khúc đường vắng lặng, chỉ có tàn tre hai bên rũ xuống, chuyện ma quỷ có khi nào
làm cản trở bước chân lịch lãm của ông đâu? Ấy thế mà từ đêm qua đến giờ, hễ
nhìn thấy bóng đêm là ông run sợ. Vườn nhà ông cây trái xum xuê, từ nay ông chỉ
dám ra chơi ban ngày mà thôi.
Ông nhớ có lần nghe người ta bảo ma lúc nào cũng
hiện diện quanh ta, nhưng chỉ người nào ma muốn cho thấy, thì mới thấy được.
Ông tự hỏi tại sao ma lại chọn ông để hù dọa? Ông nghĩ mãi không tìm ra lý do.
Một lúc sau, ông Phú vừa lật người nằm ngửa, thì bỗng con mèo bên cạnh ông kêu
rú lên, lao vọt qua cửa sổ, và chạy vùn vụt trên mái nhà, tiếng gào thét như xé
màn đêm. Sau đó có tiếng gõ cửa phía trước, ông Phú giật thót người, hất mạnh
tấm chăn ra khỏi, ngóc đầu dậy lắng nghe. Vẫn những tiếng cọc cọc giống hệt đêm
qua.
Ông hít thở chờ đợi, tiếng gõ vang lên như giục
giã, ông đưa mắt nhìn vợ, hy vọng bà cũng nghe thấy. Nhưng bà vẫn đang say giấc
nồng, hơi thở vẫn đang đều đều, chứng tỏ bà vẫn chưa thức giấc. Ông Phú khẽ lay
vai vợ, bà Phú trở người nằm nghiêng , úp mặt vào tường, xoay lưng về phía ông.
Tiếng gõ cửa vẫn tiếp tục, tiếng mèo gào thê lương vẫn vang lên rộn rã, tiếng
móng vuốt cào cào rin rít trên cánh cửa gỗ. Ông Phú như người say thuốc, như kẻ
bị hớp hồn, nữa tỉnh nữa mê, mất hết tự chủ, tung chăn bước xuống giường, thất
thểu đi ra, ông tháo then ngang, đẩy rộng cánh cửa. Con mèo đen lao vọt lại
chân ông, cắn gấu quần ông, lôi thật mạnh, như cố ý kéo ông vào nhà. Nhưng ông
cứ đứng yên như người bị thôi miên...
Cảnh lại diễn ra y hệt như là đêm qua, trong màn
sương nhạt, đứa con gái mặc quần áo trắng toát, mái tóc rũ xuống, che một phần
khuôn mặt xanh xao, chìa bàn tay xin: - Ông cho con xin bát cơm. Con đói quá!
Ông Phú đứng chết cứng như chôn chân xuống nền
gạch, á khẩu không nói được lời nào. Xa xa ở cuối sân sát cổng ra vào, ông lại
thấy người đàn bà trẻ mặc đồ trắng, cất tiếng gọi: - Về con ơi, về với mẹ con
ơi!
Ông Phú kinh hãi đến tột cùng, tiếng nói của cả hai
mẹ con vừa trong, vừa lạnh như vọng về từ cõi âm. Cả hai khuông mặt đều mờ ảo,
ông không trông rõ, không nhận diện được. Đứa bé chìa tay khẩn khoảng nhắc lại:
− Xin ông bố thí cho con bát cơm, con đói lắm. Và ngay sau đó tiếng người mẹ từ
ngoài cổng cũng cất lên: − Về con ơi, về với mẹ con ơi!
Con mèo đen từ chân ông, lao về phía đứa bé. Lập
tức đứa bé quay lưng và vụt mất. Ông Phú chớp mắt mấy cái và bừng tỉnh. Bấy giờ
ông mới thấy ở cuối sân, hai mẹ con dắt nhau ra cổng. Ông vẫn đứng run rẩy tại
chỗ như có ai níu chặt lấy đôi chân ông, cả phút sau mới hoàn hồn. Ông toan
bước vào nhà, thì một bàn tay bấu mạnh trên vai ông, ông hét lớn quay đầu lại
thì hóa ra vợ ông, bà hỏi:
− Ông làm cái gì ngoài này thế?
Ông Phú thở hồng hộc như người chạy đua đường
trường, bà Phú dìu ông vào nhà, để ngồi ở ghế và vặn to ngọn đèn dầu. Con mèo
đen cũng theo vào, nhảy lên chỗ cũ. Bấy giờ, bà Phú mới nhận ra nét nhợt nhạt
đẫm ướt mồ hôi trên khuôn mặt của chồng. Bà rót nước cho cho ông và bảo:
− Ngồi xuống, ông ngồi xuống rồi hẵng uống cốc nước
nóng này đi đã. Uống cho tỉnh.
Rồi bà lấy cái khăn vải máng ở đuôi giường lau mặt
cho chồng. Ông Phú uống cạn cốc nước, đòi thêm một ly nữa, rồi run run bảo bà:
− Bà....bà cầm đèn đi với tôi, tôi phải đi giải một cái đã.
Bà Phú làm theo chồng. Lần đầu tiên ông hiền lành
bạc nhược khác hẳn với thái độ hách dịch và hung bạo thường ngày. Bà đi trước,
giơ cao cái đèn soi bước, bà đẩy cái cánh cửa cho chồng bước ra, nhưng cánh cửa
vừa mở, ông đã kêu thét lên và lùi lại. Vì thấy hai cái bóng người đứng ngay
trên thềm nhìn ông chờ đợi. Bà Phú vội trách:
− Cái gì mà ông cứ la ầm lên giữa đêm khuya vậy?
Làng xóm người ta kéo sang bây giờ.
Hai bóng người đứng đó cùng lao lại đở ông vì đó là
chị người làm và cô con gái. Chị Thuần lên tiếng: − Ơ ! Con đây mà ông.
Ông Phú đặt bàn tay lên ngực, khò khè thở và mắng:
− Chúng mày....chúng mày ra làm cái gì đây ? Tao cứ tưởng là ma.
Cô con gái đáp: − Tại con đang ngủ, tự nhiên con
nghe bố hét to quá à. Con vội lay chị Thuần dậy, chạy lên xem bố có việc gì
không?
Bà Phú buồn rầu bảo: − Thôi, đi ngủ hết đi. Mẹ rửa
mặt cho tỉnh táo, từ hôm qua đến giờ cứ mê man, nói lung tung.
Và bà bảo chị người làm: − Thôi, chị cũng đi ngủ
đi, còn sớm lắm. Có cần gì thì tôi gọi ngay.
Bà Phú bước xuống sân, ông Phú nắm chặt cánh tay vợ
đi từng bước chậm chạp sát bên cạnh. Ông không dám nhìn ra phía cổng, bởi ông
hình dung hai cái bóng trắng vẫn đứng đó chờ đợi ông. Ra tới bên hông nhà, bà
Phú đặt cây đèn trên bệ nước xi măng, lấy khăn nhúng ướt cho ông lau mặt, rồi
đứng chờ ông đi tiểu bên bệ chuối. Gió thổi xào xạc trong hốc cây, những tàn lá
chuối run lên phần phật, ngọn đèn dâù tắt phụt làm ông Phú lại một phen khiếp
vía.
Trăng thượng tuần soi mờ không gian, chẳng cần đèn
ông cũng đã rành đường đi nước bước từng hốc cạnh trên mãnh đất lâu đời của
ông. Nhưng vì cảm giác hoảng loạn, ông cần ngọn đèn cho đỡ sợ. Bà vợ nắm tay
ông dắt vào nhà, ngang qua mảnh sân, ông bỗng nghe tiếng chó gầm gừ, rồi sủa
vang ở ngoài cổng, ông bấu chặt cánh tay vợ và hổn hển nói:
− Mẹ con nó đang đi ngoài ấy!
Bà Phú ngơ ngác hỏi:
− Mẹ con ai? ông làm sao thế?
Ông Phú run rẫy đáp:
− Bà không nghe tiếng chó sủa hay sao?
Quả thực ngoài ngõ, tiếng chó đang tru lên từng hồi
như ai oán, và lại sủa lên. Và cứ mỗi lúc một xa dần. Ông Phú nhắc lại:
− Đấy, bà có nghe thấy không? Mẹ con nó dắt nhau đi
ngoài đường.
Bà Phú mệt mỏi nhắc lại:
− Mẹ con ai mới được chứ lị? Chó thì đêm nào mà chả
sủa, có khi chó nó sủa bóng trăng, rồi có khi chó nó sủa người đi đánh dặm. Ông
lẩn thẩn mất rồi, ở nhà quê mà đêm không có nghe tiếng chó thì chẳng lẽ cả đêm
người ta thức để canh trộm à?
Bà nói dứt câu, thì hai người cũng vừa lên tới bậc
thềm, đẩy cửa bước vào nhà. Bà Phú bật diêm châm đèn, vừa ngáp vừa bảo chồng: −
Thôi, ngủ đi ông, đừng có giựt mình rồi thức dậy nữa. Cố ngủ đi một tí, trời
sắp sáng rồi. Chốc nữa tôi bảo con Nhàn đi mời thầy thuốc bắc, bốc thuốc cho
ông.
Rồi bà lên giường nằm quay mặt vào vách, nhắm mắt
lại. Ông Phú cũng nằm nhắm mắt, phủ chăn lên tận ngực, nhưng tất nhiên không
ngủ được. Ông nằm lan man nghĩ ngợi một lúc khá lâu, rồi bỗng vùng dậy ngồi tựa
lưng vào vách là vì trong mớ trí tưởng hỗn độn của quá khứ vừa ùa về trong trí
ông. Ông chợt thấy lạnh toát toàn thân vì nhớ ra câu chuyện cũ đã lâu lắm, lâu
đến nỗi chẳng bao giờ ông nghĩ tới cho đến đêm nay bỗng loé lên trong đầu ông,
dắt ông về một kỷ niệm của ngày tháng cũ.
Dạo ấy, ông đã có ba con rồi, nhưng vẫn đam mê cái
thú cô đầu trên phố huyện. Trò tiêu khiển cuối muà này lôi cuốn ông không phải
vì ông thích văn chương thơ phú, hay ghiền tiếng trống chầu kêu khách, mà chỉ
vì nhà hát có những cô hầu rượu trẻ trung lúc nào cũng tựa má, kề vai thân
thiết với ông.
Gọi là đào rượu bởi thiếu nữ ấy không phải là ca
nhi, họ chỉ vì túng thiếu, phải bỏ quê lên thành phố. Tấp vào nhà hát để làm
công việc hầu rượu và quạt mát cho Quan viên đến thưởng thức.
Ông Phú là một trong những Quan viên lắm của nhiều
tiền, thường xuyên ghé chơi, tuy hách dịch lắm nhưng được cái phóng tay rộng
nên chủ chứa ra sức chiều chuộng .
Họ giao ông cho cô đào Tuyết mới ngoài 20 , vào
nghề chưa được nửa năm. Tuyết phục dịch ông chu đáo lắm, từ lời ăn tiếng nói,
dáng đi dáng đứng, từ cái quạt nan cầm tay phe phảy liên tục cho ông, tới cốc
rượu nồng nâng lên miệng ông khi ông kê gối ngã đầu trên đùi cô. Sự chung đụng
xác thịt dĩ nhiên không thể dừng lại ở đó. Lần nào trước khi ra hát từ, ông
cũng ngủ với cô một đêm, rồi mới chia tay hẹn gặp chuyến tới. Bà Phú cũng biết
cái thú của chồng, nhưng chuyện ấy không làm bà bận tâm nhiều lắm. Bởi ông làm
ra tiền, thì đi ngang về tắt để giải sầu một tháng đôi ba ngày cũng không có gì
quá đáng đối với đàn ông thời ấy.
Bẵng đi một thời gian, ông Phú không lên phố huyện
để chuẩn bị ra tranh chức ông Nghị. Gọi là tranh, nhưng có tranh với ai đâu, đó
là thứ Nghị hách, Nghị gật, ngồi làm bù nhìn để diễn tuồng dân chủ cho thực dân
Pháp mà thôi. Quan tỉnh quan huyện hỗ trợ sau lưng, là tất nhiên ông thắng cử,
nghênh ngang vào ngác trong các nghị trường. Có điều ông Phú cũng phải bỏ thì
giờ học chữ Quốc ngữ và mấy câu tiếng Tây, vì chẳng lẽ vào nghị trường mà không
biết đọc, biết viết. Ông say mê chức trọng quyền cao, thú cô đầu dường như ông
quên hẳn.
Cô đào Tuyết ở phố huyện ngóng ông mãi không thấy
tăm hơi. Ông không lên, thì cô không có tiền mà nhà chứa cũng mất nhiều lợi
tức. Cô dọ hỏi cả tháng trời, mới biết ông ở làng Vạn Yên. Đắn đo mãi, cô đánh
liều thuê xe kéo về làng Vạn Yên. Tất nhiên cô không dám đến thẳng nhà, cô dừng
chân ở ngoài cánh đồng làng, mướn một đứa bé đang thả diều gần đó bảo nó vào
gặp riêng ông Phú, nhắn ông ra gốc cây đa cho cô gặp. Làng này thì già trẻ lớn
bé, ai mà không biết mặt ông Phú, cô dặn đi dặn lại thằng bé rằng:
- Này, mày phải gặp cho bằng được ông Phú rồi hẳn
đưa cái mảnh giấy này nhé! Nhớ chửa? Đừng có bạ ai cũng đưa, nhất là bà Phú thì
nên lảng đi ngay. Phải đưa tận tay cho ông Phú, bảo là có cô Tuyết đang đợi ở
gốc cây đa đầu làng ấy. Thôi đi đi! Nhanh chân lên một tí nhé! Đưa giấy rồi ra
đây tao cho thêm tiền nhé!
Thằng bé nhận tiền và mảnh giấy, bỏ luôn cái diều
và chạy thẳng vào làng Vạn Yên. Nó cũng biết ông Phú, nhưng là vì con nhà cùng
đinh, nên chưa bao giờ đặt chân vào nhà ông. Nó đến trước cổng nhà ông, dừng
lại thở, mồ hôi nhễ nhại khắp mặt và lên áo. Trong sân nhà ông hôm nay lố nhố
cả chục người, rồi lại có cả ô tô trên tỉnh xuống, làm nó càng sợ không dám
vào.
Khoảng thời gian này ông Phú bận lắm vì đang chạy
chức nghị viên. Chờ đến hơn một tiếng đồng hồ, thằng bé phân vân không biết làm
sao. Quay lại gốc đa nói thật với Tuyết thì sợ cô đòi lại tiền mà xông vào nhà
gặp ông Phú thì liều lĩnh quá. Lỡ phật ý ông, ông tát cho thì sưng mặt. Nó cứ
đứng sớ rớ mãi ở ngoài cổng cho đến khi chị thuần xách giỏ đi mua thêm rượu,
thấy cử chỉ lấm lét của nó, cất tiếng hỏi:
- Này, mày con nhà ai thế? Làm gì mà cứ thập thò ở
đây thế này? Ăn trộm hả? Xéo ngay không chết bây giờ đấy nhé!
Thằng bé sợ hãi đáp: - Cháu hỏi thăm ông Phú ạ!
Chị Thuần mắng:
- Ớ! Cái thằng này láo thật! Mày là đứa nào mà dám
hỏi tới ông Phú? Cút đi , ốm đòn bây giờ đó!
Thằng bé luống cuống đáp: - Dạ, cháu cần đưa cho
ông Phú mảnh giấy này ạ!
Nó rút trong cạp quần miếng giấy nhỏ đã nhoè nhoẹt
mồ hôi, trao cho chị Thuần rồi bỏ chạy. Chị Thuần không biết chữ nên đứng nhìn
đăm đăm một lúc, rồi trở vào đưa cho anh Long, con trai đầu lòng của ông Phú.
Mảnh giấy nguệch ngoạc mấy chữ ông ra cho em gặp, em đang chờ ở gốc cây đa. Có
việc cần. Tuyết. Long đọc lướt nhanh rồi cất vào túi. Anh không biết Tuyết là
ai mà lại đòi gặp bố mình. Anh lưỡng lự một chút rồi vào nhà mời ông Phú ra mãi
sau vườn rồi đưa cho ông mãnh giấy. Ông Phú đang lúc say sưa với công danh,
nghĩ đến tương lai ông nghị, nên lập tức nổi nóng nghiến răng bảo: - Con đĩ
này! Ai cho phép nó xuống tận đây để tìm tao? Láo thật!
Rồi ông vò mãnh giấy, quăng mạnh xuống gốc cây.
Long ngước lên hỏi bố: - Cô ấy là ai mà tìm bố, bố có định ra gặp cô ấy không?
Ông Phú gắt: - Gặp làm gì? Nó là con đào rượu ở nhà
hát trên phố huyện. Tao mà gặp là tao vả ngay cho mấy cái.
Dứt lời, ông toan quay vào nhà vì khách đang chờ ở
bàn tiệc. Nhưng Long níu lại và ôn tồn nói:
- Bố ạ! Bố không ra gặp cô ấy, ngộ lỡ cô ấy đến
thẳng đây rồi làm sao? Bố sắp sang nghị viên. Hôm nay nhà mình đông đủ Quan
viên, chức sắc, chẳng may cô ấy đến làm ầm ỉ lên thì làm sao?
Chính ông Phú cũng vừa sực nghĩ ra điều ấy, đường
hoạn lộ của ông đang thênh thang, lại để một đứa con gái nghèo hèn làm vỡ chân
ông. Nhưng ông vẫn trấn an con trai : - Nó chẳng dám đến đây đâu! Có mà uống
thuốc liều!
Long tha thiết nói: - Bố ạ! Cô ấy đã từ huyện xuống
làng ta, thì sợ gì mà không đến thẳng đây? Chả qua là cô ấy ngại mẹ con thôi!
Nhưng nếu bố không ra gặp thì thể nào cô ấy cũng đến.
ông Phú đăm chiêu cuối đầu, Long lại đề nghị:
− Hay là bố để con chạy ra xem sao ! Con sẽ nói
khéo bảo cô ấy đừng đến đây. Bảo cô cứ về đi rồi nay mai bố sẽ lên huyện gặp.
Ông Phú ngượng ngùng nhìn con :
- Ờ! Tính thế cũng phải. Đi hộ bố đi. Bảo với nó
dứt khoát từ nay không được lai vãng về đây nữa. Mai kia bố lên huyện, bố sẽ
cho nó một trận.
Long gật đầu, cúi lượm lại mảnh giấy mà vừa rồi ông
Phú đã vứt vào gốc cây. Rồi anh tất tả chạy ra ngoài đầu làng. Từ xa anh đã
thấy Tuyết đứng ở gốc cây, nón cầm tay phe phẩy, anh chạy lao lại thở hồng hộc
vì quãng đường khá xa mà anh thì cố lướt thời gian. Tuyết ngừng quạt, trố mắt
nhìn Long nhưng không dám hỏi. Long đứng lại, cố lấy bình tĩnh và lên tiếng: -
Cô... cô là cô Tuyết phải không?
- Vâng ạ, tôi, đây! Xin hỏi ông là....
- Tôi tên là Long, bố tôi nhận được mảnh giấy của
cô nhưng bận lắm, không ra gặp cô được.
Dứt lời Long giơ mảnh giấy nhàu nát ra trước mặt
Tuyết. Tuyết thất vọng ngồi bệch xuống đất trên nhánh cây cổ thụ, cô buồn rầu
hỏi:
- Thế ông Phú có nhắn gì tôi nữa không?
Long vốn biết bố mình nóng tính, đôi khi không dằn
được cơn giận, nên anh tội nghiệp bảo Tuyết:
- Bố tôi chỉ bảo là từ nay tuyệt đối cô đừng có về
làng tìm bố tôi. Bố tôi không bằng lòng như thế. Gặp ở nhà hát chứ sao cô về
tận đây? Nếu mẹ tôi biết thì làm sao?
Tuyết ứa nước mắt sụt sùi đáp :
- Tôi đâu muốn lê thân về đây đâu , chẳng qua là vì
tôi...tôi...tôi có..mang với bố anh, nên mới phải xuống tìm chứ tự dưng lặn lội
về đây để làm cái gì? Có chửa thì tất nhiên nhà hát người ta đuổi tôi đi rồi,
chứ ai mà cho hầu rượu nữa! Bây giờ thì bụng còn bé nên còn nán được, chứ tháng
sau rồi tháng sau nữa, dấu làm sao được với thiên hạ? Ông nghĩ coi, tôi thì tôi
không nhà không cửa, nhà hát đuổi tôi đi thì tôi chả biết làm sao để sống qua
ngày để sinh đẻ? Vạn bất đắc dĩ tôi mới phải liều xuống đây thưa thật với bố
anh.
Cô nghẹn ngào dừng lại, Long mủi lòng nhìn cô gái
tội nghiệp, cô còn trẻ, lại có nhan sắc mặn mà, bố anh say mê là phải, Long dè
dặt hỏi: - Thế bây giờ cô tính thế nào? Cô tìm gặp bố tôi dể làm gì?
Tuyết đã dự định trước, rành mạch kể:
- Tôi bây giờ lâm vào bước đường cùng rồi, nên mới
phải ngữa tay nhờ cậy bố anh. Đẻ xong, tôi sẽ đem con tôi cho các bà sơ, rồi
tôi đi làm thuê, làm mướn nuôi thân. Tôi không có dám làm phiền bố anh nữa đâu.
Tôi chỉ cần từ đây đến ngày ở cữ thôi.
Long hiểu ra, xúc động vì hoàn cảnh dở dang của cô
gái do bố mình gây nên. Anh thọt tay vào túi nhưng không có đồng bạc nào vì anh
không hề dự trù trước, anh dịu dàng bảo:
- Hay là thế này, tại bố tôi không biết là cô có
mang với bố tôi, bây giờ cô cứ ngồi đợi đây để tôi chạy về cho bố tôi hay, thể
nào bố tôi cũng ra gặp cô.
Tuyết thở phào nhẹ nhõm:
- Vâng... vâng, trăm sự nhờ anh. Anh đi nhanh hộ
tôi một tí nhé, tôi chờ!
Long toan chạy thì Tuyết lại thêm :
- Ấy, ấy, nhược bằng như là bố anh bận quá không ra
gặp tôi, thì nhờ anh nói khéo tôi chỉ xin ít tiền thôi, để tôi sống qua ngày
chờ ngày sinh nở thôi.
Long gật đầu, rồi lập tức chạy lao vào làng , anh
vẫn biết ông Phú ham thú trăng hoa, nhưng anh không ngờ anh sắp có một đứa em cùng
cha khác mẹ.
Về tới nhà, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, anh lại làm hiệu
gọi ông Phú ra sau vườn và kể lại từ đầu đuôi, đồng thời giục bố ra gặp, nhưng
ông Phú gạt đi:
- Quân láo lếu, nó bảo nó có chửa à? Đã chắc gì nó
có chửa với tao? Cái thứ mèo mã gà đồng, ngủ hết người này đến người khác. Thấy
tao có tiền lại giở trò vòi vĩnh. Kệ mẹ nó!
Thế là ông quay gót vào nhà, Long chạy theo níu
kéo: - Bố ơi! Không phải con của bố thì đời nào cô ấy mò về tận đây?
Ông Phú phất tay: - Mày ngu lắm con ạ! Làm cái nghề
đào rượu như nó phải biết mánh khoé chứ! Rồi mày xem, nó sẽ vác cái bụng chửa
đi vòi tiền của mọi thằng đàn ông đã đến cái nhà hát ấy. Gặp ai nó cũng sẽ bảo
người ấy. Tao già đầu rồi, tao không có dại.
Long đứng thừ người một lúc rồi nói:
- Nếu thế thì để con chạy ra bảo cho cô ấy biết để
cô ấy quay về huyện trước trời tối. Bắt người ta chờ khổ thân. Vả lại cô ấy đã
có công mò về tận đây thì...cũng nên biếu cho cô ấy một ít tiền chứ bố!
Ông Phú gay gắt xua tay:
- Đã bảo là kệ nó, mày cứ hay mua việc. Tao không ra,
mày không ra thì nó sẽ phải về. Chửa biết chừng nó sẽ đi tìm thằng khác để báo
tin là có chửa. Tiền bạc tao không tiếc, nhưng giúp nó một lần, nó sẽ ăn quen
thấy mùi ăn mãi, phiền phức lắm.
Long còn đang phân vân, thì có tiếng bà Phú gọi:
- Anh Long đâu, mẹ nhờ một tí nào!
Ông Phú giục: - Vào xem mẹ mày cần cái gì.
Long thở dài chạy vào nhà tìm mẹ, bà Phú gắt:
- Con phải ngồi tiếp khách hầu rượu các Quan chứ!
Sao mà cứ thập thò ở dưới bếp là thế nào? Lên nhà trên mau, đừng để người ta
chờ!
Ông Phú trở lại bàn tiệc, nói cười oang oang với
cốc rượu nồng, không mảy may bận tâm với Tuyết đang sốt ruột chờ ông ngoài gốc
cây đa. Riêng Long thì rất áy náy nhưng không thể rời bàn tiệc. Ngoài cánh đồng
Tuyết hết đứng lại ngồi, nỗi oán hận cả bố lẫn con mỗi lúc một dâng cao, cho
đến khi mặt trời lặn, vẫn không thấy ông Phú hoặc Long ra gặp, cô đành thất
thểu thất vọng tìm đường trở về phố huyện.
Thời gian cứ thế mà trôi, suốt cả nửa năm ông Phú
tíu tít tiếp khách, lại biết mình sắp làm lớn, nên không lên phố huyện hát cô
đầu nữa. Nhưng người tính không bằng trời tính, phút chót tình thế biến chuyển
dồn dập. Cái chức nghị viên bị bãi bỏ sau khi ông tốn khá nhiều tiền để lót
đường từ làng lên tỉnh. Ông buồn đứt ruột vì công danh trắc trở và vì tiếc tiền
vung tay quá hào phóng. Có lẽ mả nhà ông không phát về đường Quan lộc nữa.
Ngồi buồn vài tháng, ông lại mò đến nhà hát cũ. Chị
chủ nhà ra đón ngậm ngùi bảo ông: - Gớm, lâu quá mới lại thấy Quan bác quá bộ
đến thăm chúng em đấy. Chúng em cứ nhắc đến Quan bác mãi.
Ông Phú nghênh ngang bước vào và khinh bạc hỏi: -
Không biết cô Tuyết của tôi bây giờ ra làm sao, chả biết có còn nhớ tôi hay
quên béng mất rồi?
Chủ nhà trố mắt nhìn ông vì tưởng ông nói đùa, giây
lâu chị mới kể: - Ủa, chả lẽ Quan bác chưa biết hay là sao? Cô ấy nghĩ việc từ
khi có mang tháng thứ ba rồi. Em thì chả biết cô ấy phiêu bạt về đâu , mãi sau
này mới nghe người ta nói là cô đẻ thiếu tháng ở nhà thương thí ấy, rồi cả hai
mẹ con chết rồi.
Ông Phú nghe qua chả có phản ứng gì, chủ nhà liền
ngâm bốn câu ngữ, tức là bốn câu thơ mở đầu bài hát nói của Dương khuê mà ngày
trước ông Phú thích nghe mỗi khi nằm kề bên Tuyết.
Lấy ai là kẻ đồng tâm
Lấy ai là kẻ tri âm với nàng
Đêm khuya luống nhưng đàng hoàng
Người đi đâu vắng mà đàn còn đây?
Ông Phú nghe xong, vẩn không tỏ một lời tiếc thương
kẻ bạc mệnh. Chủ nhà biết ý nên cũng không nhắc thêm chuyện ấy nữa, mãi đến khi
tiển chân ông ra về, chủ nhà mới kể thêm:
- Cái dạo mà cái Tuyết mới có mang, nó có xuống tận
làng Vạn yên để tìm Quan bác để báo cho Quan bác biết, nhưng mà nó chờ mãi mà
Quan bác cứ lờ đi. Nó về đây khóc cả tuần lễ rối khăn gói ra đi. Từ đấy, em chả
gặp nó bao giờ cho đến khi em nghe tin nó chết đấy.
Ông Phú khẽ nhíu mày nhưng không nói gì, chỉ biết
sau lần ấy ông không lên phố huyện nữa, cũng ít khi nào ông nghĩ đến người con
gái bạc số đã từng kề cận nhiều đêm bên ông và cưu mang đứa con bất hạnh của
ông. Mãi đến hôm nay , hai cái bóng trắng hiện ra ngoài sân trong đêm , hai mẹ
con dắt tay nhau trong sương mù , thất thểu đi ra khỏi cổng nhà ông, mới làm
ông giật mình liên tưởng đến chuyện cũ. Ông buộc miệng thảng thốt kêu lên nho
nhỏ:
- Hay là hai mẹ con nó hiện về báo oán?
Bà Phú đang nằm thiu thiu, ngơ ngác quay lại hỏi: -
Hai mẹ con nào?
Ông Phú không dám tiết lộ chuyện cũ với vợ, nên làm
bộ lảng sang chuyện khác, ông thản nhiên nói: - Bà chưa ngủ à? Tôi thì tôi mới
chợp mắt lại nằm mê ngay lập tức.
Bà Phú ngồi dậy vấn tóc và bùi ngùi nói:
- Tôi thì tôi biết ông còn thức chứ chưa ngủ đâu.
Có phải là ông đang nhớ đến con bé gì trên phố huyện, dạo mà ông mê đi hát cô
đầu, đúng chưa? ông ngủ với nó, rồi nó có mang, rồi nó về làng tìm ông mà ông
nhất định không ra gặp, có đúng thế không?
ông Phú kinh hãi hỏi lại vợ:
- Sao...sao bà biết?
Bà Phú ngậm ngùi thở dài trách bằng giọng có pha
nước mắt: - Tôi thì tôi biết từ dạo ấy cơ! Thằng Long nó kể cho tôi nghe hết.
Ông ác lắm, con ông mà ông còn bỏ, con bé bụng mang dạ chửa, lang thang đầu
đường xó chợ, không cơm ăn, không áo mặc. Tất nhiên là nó đẻ non rồi, hai mẹ
con nó cùng chết đói. Ông à! Đàn ông năm thê bảy thiếp là chuyện thường. Sao
ông không bảo với tôi một tiếng để tôi giúp nó? Tôi không có muốn ông thất đức,
để con cái tôi nó phải gánh chịu.
Ngừng một chút cốt ý để chồng suy ngẫm, bà Phú lại
tiếp: - Đấy, thằng Long nó trách ông đấy! Cho nên hôm nó có dịp lên phố huyện,
tôi bảo là nó cố tìm cái con bé ấy để dúi cho nó ít tiền. Nhưng mà nhà chủ đuổi
đi lâu lắm rồi, chả biết nó đi đâu?
Ông Phú nằm yên không biết nói sao. Giờ này ông vẫn
không hối hận vì đã xử bạc với Tuyết. ông chỉ sợ hồn ma hai mẹ con về báo oán,
nên ông tự bào chữa: - Bà bảo tôi ác là oan cho tôi. Cái hôm nó về chờ tôi ở
gốc cây đa ngoài cánh đồng, tôi không ra là vì đã chắc gì cái thai trong bụng
nó là con tôi? Đào rượu ở nhà cô đầu thì nay tiếp người này, mai tiếp người
khác. Biết nó có mang với ai?
Bà Phú không nói gì nữa. Chuyện này bà đã dấu kín
bao nhiêu năm, bà vẫn thầm trách chồng là người nhẫn tâm. Bà không nói chỉ vì
bà không muốn các con biết thêm những cái xấu của bố chúng nó, nhất là hai cô
con gái. Bà ngồi lên đẩy cái liếp cửa sổ cho không khí trong lành ngoài vườn
lùa vào, nhưng trời vẫn còn tối quá, nên bà lại hạ xuống. Làng xóm còn im lìm
ngủ yên, gà chưa gáy tiếng nào. Dưới bếp chưa có tiếng động, chứng tỏ chị Thuần
chưa dậy pha trà, bà Phú buồn rầu bước xuống, bưng cây đèn ra hiên để xuống
bếp, bà nói:
- Thôi ông ngủ đi một tí để lấy sức, tôi xuống tôi
đun ấm nước.
- Sao không gọi cái Thuần nó dậy bảo nó đun ?
- Thôi, còn sớm mà! để cho nó ngủ. Đằng nào tôi
cũng dậy rồi.
Bà bước ra ngoài, ông Phú nằm một mình nhớ lại từng
chi tiết cái hôm Long trao cho ông mảnh giấy, rồi giục ông ra gốc đa gặp Tuyết.
Chuyện cũ bao nhiêu năm qua giờ này bổng sống lại trong ông. Nhưng để khỏi áy
náy, ông tự bảo mình:
- Đã chắc gì đứa bé trong bụng là con mình!
Ông vừa dứt lời thì bỗng thấy cơn gió lạnh từ trên
vách ùa vào xối xả như gió bấc muà đông. Lập tức con mèo đen của ông kêu thét
lên và lao mạnh vào liếp cửa sổ. Ngay sau đấy có tiếng gõ cửa liên hồi, ông
giật thót người run lên bần bật. Tiếng gõ không phải ở trước cửa như đêm qua mà
ngay trên liếp cửa sổ, sát cái giường ông đang nằm. Ông co rúm người, cố nhích
ra xa, rồi ú ớ gọi vợ. Con mèo vẫn cào mạnh, vẫn gầm gừ, nhảy lên tuột xuống.
Ông cố kêu nhưng cổ ông dường như bị bóp nghẹt khiến ông không thốt được một
tiếng, chỉ nghe tiếng âm thanh nghèn nghẹn như người sắp tắt thở. Tiếng gõ trên
cửa sổ vẫn vang lên, rồi giọng nói con nít như rót vào tai ông:
- Xin ông bát cơm...xin ông...Con đói quá...
Ông Phú lết mãi mới ra được mép giường rồi ngã lăn
xuống đất, ông lồm cồm bò dậy thì bên ngoài cửa sổ có tiếng nói của người đàn
bà mà ông đã nghe đêm qua: - Về con ơi..về với mẹ...về con...
Mấy tiếng ấy cứ lập đi lập lại xa dần, nhỏ dần cho
đến khi ông không còn nghe thấy nữa. Ông há hốc mồm, hai tay ôm cái gối, từ từ
đứng dậy. Vừa lúc ấy cánh cửa trước mở tung, ông thét lên kinh hãi.... Nhưng đó
là bà vợ vừa từ dưới bếp đi lên, bà bực bội cằn nhằn:
- Ông làm cái gì mà tôi giật mình? Đêm hôm mà cứ
hét ầm lên là thế nào?
Thấy ông ngơ ngác đứng giữa nhà, bà nói tiếp:
- Sao mà tôi đi có một tí mà ông không dám nằm một
mình là sao?
ông Phú hổn hển đáp:
- Mẹ con nó lại vừa mới hiện về bà ơi!
- Hiện về đâu? Bình tĩnh cái đã nào!
- Nó đứng ngay sau cửa sổ, tôi hãi quá mới phải
vùng dậy, toan xuống bếp tìm bà, bà cho tôi cốc nước.
Bà Phú dịu dọng tội nghiệp:
- Tôi đang đun. Nước trong ấm ủ thì hết sạch rồi.
Thôi xuống bếp uống tạm miếng nước mưa đi vậy!
Vừa nói, bà vừa bước ra ngoài, ông Phú lẽo đẽo đi
sau. Nhưng khi ra thềm nhà, ông Phú đứng khựng lại, là vì dưới ánh trăng mờ ông
nhìn thấy hai cái bóng trắng, hai mẹ con dắt nhau ở cuối sân, lầm lũi đi ra
ngõ. Ông giật tay bà, chỉ ra cổng và hoảng hốt kêu:
- Chúng nó kia kià, thấy không? Bà....bà có thấy
hai mẹ con nó không?
Bà Phú lắc đầu, giờ này bà Phú cũng mơ hồ đoán rằng
hồn ma hai mẹ con về chọc ghẹo chồng bà, nhưng đồng thời bà cũng tin rằng có
thể tâm trí chồng bà khủng hoảng trầm trọng cho nên có ít chiết ra nhiều. Người
hoảng loạn thì rất dễ thấy ma, bởi nhìn thấy gì cũng tưởng là ma, bà chán nản
nói:
- Tôi có thấy cái gì đâu!
Bà vừa dứt lời thì ngoài cổng có chó tru lên thảm
thiết, rồi gầm gừ sủa vang rồi cứ thế xa dần, nhỏ dần, cho đến khi im hẳn trả
lại sự yên tỉnh cho màn đêm. ông Phú run run nói:
- Chúng nó đấy, mẹ con chúng nó đấy!
Vào bếp, ông Phú bưng cái gáo đựng nước mưa tu ừng
ực rồi ông lắc đầu mệt mỏi bảo vợ: - Bà ơi, chắc phải bán bỏ căn nhà này đi chỗ
khác bà ơi!
Bà Phú gạt phắt đi:
- Cái gì? Mồ mã tổ tiên của ông ở cả đây mà, bán nó
sao được? Với lại nếu quả thực ông thấy ma đó, thì ma đi theo người, ông đi đâu
cho thoát?
Đối với ông Phú lúc này thì mồ mã tổ tiên cũng
không còn quan trọng nữa, và căn nhà đồ sộ này ông cũng chẳng thấy tiếc chút
nào vì ông sợ quá mức rồi. Đi đâu cũng được, miễn là hai cái bóng trắng kia
đừng rượt theo quấy phá ông, ông lắc đầu bảo vợ:
- Tôi không ở đây được nữa, nhà này bây giờ là nhà
ma. Ở với ma làm sao được?
Bà Phú tội nghiệp bảo chồng:
- Thôi hay là như vầy đi, ông sang ở tạm bên thằng
Long vài hôm xem sao?
Bà Phú đưa đề nghị này là một sự bất đắc dĩ vì sợ
chồng khủng hoảng quá mà kiệt sức, chứ trong thâm tâm bà không muốn mang phiền
toái sang nhà con trai. Vợ chồng nó bận buôn bán lại vướng hai đứa con còn nhỏ.
Chồng bà qua đó rồi cả đêm cứ kêu thét lên như thế này thì chỉ làm khổ con trai
và hai đứa cháu nội mà thôi. Riêng ông Phú thì gật đầu đồng ý ngay:
- Ừ, để tôi sang ở bên thằng Long, chứ ở bên đây
chắc tôi chết mất!
Bước sang ngày thứ ba, ông Phú hốc hác thấy rõ. Hai
đêm thức trắng, ban ngày cố ăn một hai bát cơm mà nuốt không vào, người ông phờ
phạc, hai mắt trũng sâu, mất hết thần khí. Bước đi lảo đảo như sẵn sàng quỵ ngã
bất cứ lúc nào. Với ông bây giờ ngày đi quá nhanh, cứ đến lúc mặt trời lặn là
ông bắt đầu lo sợ. Bà Phú bảo cái Nhàn chạy đi gọi Long để bàn cái việc đón ông
Phú sang ở tạm bên ấy, nhưng hôm ấy Long lên tỉnh chưa về, còn bà Phú và thằng
Hoành thì qua nhà cô con gái thứ hai là Kim vì tin vào luật vay trả cha ăn mặn,
con khát nước, nên bà rất lo cho hai cô con gái.
Ở nhà một mình, ông Phú đăm chiêu đi tới đi lui
trên sân gạch. Chợt nghe tiếng quạ kêu trên nhành cây soan, ông giật mình ngẩng
lên, vẫn con quạ đen đậu chỗ cũ nhìn ông như thách thức, ông lượm cục đất ném
lên, nó kêu mấy tiếng oai oán và bay vụt đi. Một lúc sau tình cờ ngó lại, ông
vẫn thấy nó đậu ở chỗ cũ. Ông bực mình lắm, nhưng cố lờ đi, không thèm để ý đến
nó nữa. Ông thơ thẩn đi ra đi vào, cả ngày chỉ hút thuốc lào và uống nước trà,
cơm canh nuốt không vô.
Bên ông chỉ có con mèo đen làm bạn đồng hành, không
rời ông một bước. Buổi trưa ông ra nằm trên cái võng căng ở đầu nhà, con mèo
cũng nhảy lên nằm gọn trong lòng ông. Cách đầu nhà khoảng 20 thước, có cái ao
nhỏ mà diện tích chỉ bằng hai chiếc chiếu, ông đào cũng cả chục năm để thả cá
giống. Con mèo đang nằm trên bụng ông bỗng nhe răng gầm gừ rồi thét lên và
phóng vọt lại phía cái ao. Ông Phú giật mình xoay người, té bệt xuống đất, ông
run rẩy nằm yên nhìn con mèo đen đang vùng vẫy gầm thét dù chẳng thấy ai bên
cạnh nó.
Ông biết hồn ma của hai mẹ con đang ở đó, chỉ cách
ông 20 bước, và con mèo trung thành của ông đang gắng sức ngăn cản hai bóng ma
không cho tiến về phía ông. Ông toát mồ hôi muốn vùng dậy chạy vào nhà, nhưng
không ngồi dậy nổi. Bỗng con mèo rớt xuống ao, nó cố gắng vùng vẫy ngoi lên,
nhưng rõ ràng có những bàn tay vô hình dìm nó xuống, khiến nó cứ ngoi lên lại
chìm xuống, rồi chỉ trong khoảnh khắc con mèo bị ngộp nước, không cử động được
nữa.
Ông Phú nằm im khá lâu, sợ hãi quá không đứng dậy
nổi. Con mèo của ông đã chết đuối dưới ao. Tim ông thắt lại, mồ hôi vả ra đầy
người, ông vừa tiếc con mèo, vừa sợ cho chính mình. Mấy phút sau ông mới vịn tay
vào cột nhà đứng dậy, ông mở to mắt, từ từ tiến lại bờ ao khom người vớt xác
con mèo lên, rồi thơ thẩn bước những bước không hồn vào ngồi trền cỏ dại. Ông
mệt mỏi cất tiếng gọi:
- Thuần ơi, Thuần ơi Thuần!
Ông gọi hai ba tiếng, chị người làm mới nghe thấy
chạy lên, chị hốt hoảng nhìn con mèo ướt đẫm nằm chết bên cạnh ông. Mèo có sức
khoẻ dai dẳng. Ở nhà quê muốn giết mèo chỉ có cách trấn nước, chị người làm ngơ
ngác hỏi:
- Ối giời ơi! sao ông giết con mèo hở ông?
Ông Phú buộc miệng đáp:
- Tao có giết nó đâu! Ma giết chết nó chứ không
phải tao giết!
Chị người làm trố mắt nhìn ông vì chẳng hiểu ông
nói gì. Chị đứng tần ngần một lúc rồi nói:
- Trời ơi! Không có con mèo thì chuột nó tha hồ mà
lộng hành. Ông ơi! Con đem.... con chôn con mèo ông nhé?
Ông Phú lơ đãng: - Ừ! Đem chôn đi.
Từ đó cả ngày ông thơ thẩn như kẻ mất trí. Đi tới
đi lui trên hè, nói lảm nhảm những câu vô nghĩa. Mất con mèo ông cảm thấy như
mất một người bảo vệ an toàn, hồn ma giết được con mèo thì cũng có thể giết
được ông. Nhớ lời vợ dặn, xế chiều ông lại ra nghĩa trang phía sau nhà, thắp
nhang khấn vái và chuẩn bị đi ngủ sớm để lấy sức. Người cứng đầu tới đâu, gặp
lúc nguy khốn, cũng phải bám víu vào lời cầu nguyện.
Bà Phú trước khi sang nhà con gái đã dặn ông:
- Ở nhà ông cứ đi ngủ sớm đi nhé. Tôi sang cái Kim
một lát rồi tôi về ngay.
Ông cũng có ý định đi ngủ sớm vì ông nghiệm ra rằng
hồn ma chỉ quấy phá ông vào lúc gần sáng. Trưa nay cụ lang Triệu đã đến bắt
mạch, cắt cho ông bảy thang thuốc bổ và dặn ông nên ngủ sớm để lấy sức vì khi
thiếu ngủ, người ta dễ sinh ra hoảng hốt. Ông Phú nói gì thì nói, cụ lang Triệu
dứt khoát cũng không tin là có ma mà chỉ quả quyết là cơ thể ông suy nhược quá,
nên bị những cơn ác mộng làm khổ trong giấc mộng. Cụ bảo:
- Ma với quỷ! Toàn là những chuyện hoang đường, tôi
năm nay đã ngoài 70, chưa biết mặt ngang mũi dọc con ma nó ra làm sao? ông cứ
ăn ngủ điều độ cho lại sức, ma nó thấy ông cũng phải bỏ chạy.
Ông Phú bực lắm nhưng đành chịu vì không làm sao
chứng minh được. Ông cũng mong là cụ lang nói đúng, chứ tình trạng này kéo dài
thì sớm muộn gì ông cũng sẽ chết gục vì kinh sợ hoặc kiệt sức.
Từ trong nhà cầm bó nhang ra vườn sau, ông Phú bỗng
nghe con quạ đen trên cây soan kêu mấy tiếng rồi bay theo ông, đậu trên cành
vườn cây trên đầu ông. Ông nhìn lên, vừa bực bội vừa hoang mang, miệng càu nhàu
xua tay đuổi, nhưng con quạ gan lì đứng yên nhìn ông. Ông thở dài cúi xuống, cố
gắng lờ đi và tiếp tục bước xuống con dốc lần ra nghĩa địa. Ông cần cầu xin tổ
tiên phù hộ để ông và con cháu có thể ở lại căn nhà hương quả, nối tiếp nhau
nhang khói phụng thờ tổ tiên.
Con quạ trên cành bưởi lại kêu một hồi dài rất ai
oán rồi bay vụt đi mất. Ông ngơ ngác nhìn theo và từ đó nó không trở lại nữa.
Nhưng ông bỗng giật mình kinh hãi vì khi còn cách nghĩa trang khoảng chừng mấy
chục thước, ông thấy hai cái bóng trắng của hai mẹ con đang ngủ trên phần ngôi
mộ trong làn khói xanh bao phủ dầy đặc. Lạ nhất là bao nhiêu cây nhang dù không
ai thắp đều bốc khói mờ mịt khiến hai bóng người áo trắng ấy lúc ẩn lúc hiện,
khi còn khi mất.
Ông run rẩy bước lùi lại, lưng đập mạnh vào gốc
cây, bó nhang rớt xuống đất lúc nào không hay. Ông đưa tay dụi mắt và nhìn lại
thì không thấy hai cái bóng trắng đâu nữa. Làn khói dày đặc mới lúc nãy bốc lên
cao trên ngôi mộ, giờ cũng tan biến hẳn, không còn dấu vết gì để lại. Ông đứng
ngơ ngác và mừng rỡ vì đoán đó chỉ là ảo giác do nổi sợ trong lòng tạo nên.
Ông cúi xuống nhặt từng cây nhang lên, lưỡng lự mấy
giây rồi quay vào nhà không dám ra nghĩa trang nữa. Để thử lại cho chắc ăn, ông
xuống bếp đưa bó nhang cho chị Thuần và bảo: - Mày ra cắm mỗi ngôi mả ba que
hương rồi thắp lên cho tao!
Chị Thuần ngạc nhên hỏi :
- Ơ...hôm nay là ngày gì mà thắp hương hở ông?
Ông Phú ậm ừ đáp:
- Thì nhớ đến ông bà cha mẹ thì thắp chứ có là ngày
gì đâu. Mày thì hay có cái tật hỏi lôi thôi. Đi đi -!
Chị Thuần là người thích nói chuyện, nhưng biết
tính ông Phú nóng nảy nên không dám nói gì mặc dù chị thấy ông rất vô lý. Những
người nằm trong nghĩa trang kia là dòng họ của ông chứ có liên quan gì đến chị.
Ông nhớ đến tổ tiên, sao ông không tự ra thắp nhang mà lại sai chị? Có điều hai
hôm nay chị thấy ông lẩn thẩn như người mất hồn, mặt mũi hốc hác tiêu điều nên
chị cũng thông cảm vì ông đang đau nặng, thậm chí phải đón thầy thuốc bắc đến
tận nhà bắt mạch và hốt thuốc cho ông.
Sáng nay chị đã hỏi bà Phú:
- Ông ốm hả bà? Bịnh gì bà có biết không bà?
Bà Phú phân vân chưa biết trả lời ra sao thì chị
người làm nói luôn: - Hay là ông bị ma đè đấy bà ạ!
Bà Phú sợ tiếng đồn sẽ lan ra ngoài cho nên bà vội
gạt đi: - Ma với quỷ cái gì? Trái gió trở trời ốm đau là chuyện thường.
Dứt lời bà bỏ vào buồng hỏi ông Phú: - Hai mẹ con
nó chôn ở đâu, ông có biết hay không? Hay là ông chịu khó lên phố huyện hỏi
thăm rồi làm lễ phát tang cầu siêu cho mẹ con nó.
Ông Phú bướng bỉnh đáp: - Cầu với đạo cái gì? Tôi
đã bảo đã chắc gì của mình mà cứ phải bận tâm.
Bà Phú chán nản bước ra giục Nhàn và thằng Hoành
lên đường và dặn chị Thuần ở nhà thường xuyên để ý xem chồng bà có cần gì hay
không.
Chị Thuần cầm bó nhang đi ra, ông Phú lấm lét theo
sau nhưng núp ở xa xa theo dõi, tuyệt nhiên chẳng có chuyện gì. Hai bóng ma đó
không hề xuất hiện, như vậy rõ ràng là lúc nãy ông hoảng quá rồi đâm ra quáng
gà chứ hồn ma nào hiện giữa ban ngày. Ông chờ chị Thuần đốt nhang khắp lượt rồi
quay vào, ông chạy nhanh vào trước để chị Thuần đừng nhìn thấy ông núp sau cây
bưởi. Con quạ đậu trên cành bưởi ngay trên đầu ông mà ông không để ý vì trời đã
nhá nhem. Khi thấy ông bỏ chạy vào nhà, nó mới kêu lên mấy tiếng làm ông giật
mình càu nhàu chửi.
Ông lên hè, ngồi hút điếu thuốc lào rồi vào buồng,
ông kinh hãi muốn đứng tim khi thấy con quạ đen đậu ngay trên cánh cửa sổ, ở
đầu giường ông. Ông rút một chiếc guốc ném mạnh, nó mới kêu lên mấy tiếng và
bay đi. Ông hạ cái liếp xuống rồi lên giường ngủ lúc trời bên ngoài vẫn còn
sáng rõ. Vợ ông chưa về, lại không có con mèo bên cạnh. Ông thấy căn buồng âm
u, bao trùm một nổi sợ hãi đến rợn người, mặc dầu trời chưa tối hẳn.
Ông nằm thao thức một hồi thì trời bổng chuyển mưa,
bên ngoài không gian tối sầm lại và gió nổi vùn vụt rờn rợn trong các khóm mây.
Lẫn trong tiếng gió rít, ông bỗng nghe văng vẳng có tiếng nói âm vang của hai
mẹ con bên ngoài cửa sổ lúc được lúc mất:
- Con ơi...về với mẹ...con ơi
Bàn tay run lẩy bẩy, ông kéo tấm chăn phủ trên mặt
và nín thở chờ đợi những phút kinh hoàng sẽ lại tái diễn như hai đêm vừa qua.
Trong khoảnh khắc mưa trút nước xối xả và từng tia chớp chói loà như giận dữ
sau cả một tuần nắng gắt. Nước chảy ào ào trên mái ngói, gió thổi hất nước từng
đợt vào liếp cửa. Ông Phú nghĩ đến vợ ông đang bên nhà con gái, chẳng biết bao
giờ mưa dứt để về với ông.
Nằm một lúc không nghe tiếng hồn ma nữa, ông lấy
hết can đảm bước xuống thắp đèn, vặn thật to, để trên cái bàn cạnh đầu giường,
nơi con mèo thường ngủ. Nhưng gió lùa qua kẽ vách liên hồi làm ngọn đèn cứ chập
chờn sắp tắt, ông lại bưng cây đèn lên, nhìn quanh tìm một chỗ khuất gió. Đang
loay hoay giữa nhà thì chợt có tiếng gõ cửa thình lình, ông hốt hoảng hét lên,
đánh rơi cây đèn xuống đất và mò mẫm bước lùi lại giường, ngồi phịch xuống.
Mới khoảng 7 giờ tối, gà chưa lên chuồng mà sao hồn
ma đã về gõ cửa. Tiếng gõ càng mạnh hơn và tiếp theo là giọng chị người làm lẫn
trong tiếng gió:
- Ông ơi, con đây ông ơi, Thuần đây! Mở cửa cho con
với!
Ông Phú hoàng hồn, đặt bàn tay lên ngực và đứng
dậy, ông tiến ra tháo then cửa. Một luồng gió cực mạnh đẩy tung cánh cửa , tát
nước vào mặt ông , chị người làm chạy tụt vào và khép cửa lại. Nước mưa ướt đầm
đià trên mái tóc, trên mặt và lan xuống áo chị, chị hổn hển nói:
- Sao ông không thắp đèn lên, để tối thế này? Con
lên hỏi ông là con có cần sang nhà cô Kim đón bà về hay không? hay là để bà ngủ
bên ấy Ô?
ông Phú đang muốn dấu chuyện hồn ma, và càng không
muốn người làm và các con biết là mình đang sợ hãi bóng đêm, cho nên ú ớ đáp:
- Chả biết bà mày muốn về hay ở lại?
- Bà con thì chắc muốn về ấy, nhưng mà mưa gió thế
này thì chắc bà chả dám về một mình đâu. Con không đón thì chắc bà ngủ bên ấy
luôn đấy!
Ông Phú ngượng ngùng nói: - Thôi mày chịu khó sang
đưa bà mày về. Tao có chuyện cần bàn với bà.
Chị Thuần quay ra cửa nhìn trời ái ngại, nhưng đành
xuống nhà lấy áo tơi đội mưa ra đi. ông Phú trở lại giường, bên ngoài từng tia
chớp vẫn loá lên, soi rõ căn buồng âm u của ông. Ông vừa kéo tấm chăn đắp lên
ngực, thì lại có tiếng gõ cửa đập thình thịch, mà mỗi lần nghe tiếng đập cửa là
mỗi lần ông muốn đứng tim. Ông ngẩng đầu lên, hoàng hồn vì nghe giọng nói chị
Thuần vọng vào:
- Ông ơi, ông đừng ngủ vội ông nhé! Bà dặn là ông
phải uống thuốc đã, thuốc con đang sắc ở dưới bếp ấy. Độ nửa giờ nữa là ông rót
ra uống là vừa ông nhé! Nửa giờ thôi ông ạ, đừng để lâu quá nó cạn hết, bà lại
mắng con đấy. Thôi con đi đón bà đây!
Ông Phú dặn theo: - Chịu khó đi nhanh lên.
- Vâng, nhưng mà trời mưa to thế này thì chắc cũng
gần nửa đêm bà và con mới về đấy. Ông uống thuốc đi rồi ngủ trước đi ông nhá!
Nằm lại một mình, ông Phú lang mang nghĩ ngợi và
cái cảm giác kinh sợ càng tăng lên bởi giờ này chỉ có mình ông trong căn nhà
mênh mông. Bên ngoài, tiếng mưa bỗng dạt hẳn, chỉ còn lớt ngớt rơi nhẹ trên mái
ngói. Gió cũng ngừng theo, chỉ lâu lâu mới xào xạt qua những nhánh cây, những
tàu lá chuối sau nhà.
Hai đêm vừa qua, dường như ông không ngủ được chút
nào. Giờ đây đôi mắt cay nhức, cứ mở ra nhắm lại vô cùng mệt mỏi mà cũng không
sao ngủ được. Nằm mãi càng mệt, ông quyết định xuống bếp canh chừng siêu thuốc
bắc, nhưng chưa kịp ngồi lên thì cánh cửa trước bỗng từ từ mở ra, tiếng bản lề
chậm rãi kêu lên ken két. Một tia chớp sáng loé kéo theo cơn gió cực mạnh đẩy
tung cánh cửa chính, hất nước ào ào vào đến tận giường chỗ ông nằm.
Ông Phú đưa tay vuốt mặt rồi trố mắt nhìn ra , hai
cái bóng trắng của hai mẹ con đang từ dưới sân dắt tay nhau chậm rãi bước lên
thềm. Nước mưa chảy ướt đẫm chảy từ đầu tới chân, hai cái bóng trắng ấy cừ lừ
lừ tiến vào, đi thẳng lại phía ông, ông Phú mắt nhìn trừng, mồm há ra, ngã vật
ra giường, miệng vẩn mở lớn nhưng không nói, không kêu được. Khi vào tới
giường, hai cái bóng trắng bỗng thu nhỏ lại, chỉ như hai con chim sẻ bay lượn
quanh ông, tỏa ra một sức nặng đè xuống khủng khiếp mà ông không tài nào vùng
lên nổi. Ông cảm thấy như có tảng đá nghìn cân đè lên ông và bàn tay bóp chẹt
lấy cổ ông cho đến lúc ông nghẹt thở và ngất đi, không biết gì nữa.
Lâu lắm ông mới tỉnh lại, ông nằm im một lát, người
nhẹ lâng lâng vì không bị bóng đè nữa. Bên ngoài mưa lâm râm, ông thẫn thờ bước
xuống giường , lảo đảo đi ra phía đầu nhà.
Chị Thuần đội mưa đi đón bà Phú, đúng như lời chị
dặn trước, gần nửa đêm mới cùng bà Phú và thằng Hoành trở về, Nhàn thì ngủ lại
bên anh chị Long vì mưa dài dai dẳng, anh chị Long không cho Nhàn về sợ bị cảm
lạnh. Đến nhà, bà Phú không kịp thay quần áo ướt, vào thẳng buồng xem ông Phú
đã ngủ chưa, bà ngạc nhiên không thấy chồng đâu. Bà đánh diêm châm đèn, nhưng
cái đèn ở vị trí thường lệ cũng không thấy, bà lo lắng nhìn quanh rồi cất tiếng
gọi lớn: - Ông ơi...ông đâu rồi ?
Không có tiếng trả lời, chị Thuần từ dưới bếp lao
lên và lo âu cất tiếng từ ngoài cửa để bà Phú đừng mắng chị: - Bà ơi...bà...Lúc
con đi, con đang sắc thuốc, con dặn ông là độ nửa giờ ông xuống bếp rót ra rồi
uống, nhưng mà chắc ông ngủ quên, ông để siêu thuốc cháy hết rồi bà ạ!
Bà Phú đáp: - Mà ông mày có trong nhà đâu... mày
sang buồng cái Nhàn xem sao...xem ông mày có...Hay là mày chạy ra ngoài nhà cầu
xem...
Rồi bà gọi Hoành, cả ba cùng sục xạo mọi góc ngách
trong nhà xem ông Phú ngủ ở đâu. Tìm mãi, gọi mãi không có tiếng trả lời, bà
Phú bắt đầu lo sợ. Trời mưa gió thế này thì chắc ông không ra khỏi nhà, huống
chi mấy hôm nay ông đang khủng hoảng tinh thần, đời nào ông dám đi đâu một mình
giữa đêm khuya? Chị Thuần bưng đèn dầu lên buồng ông bà phú, vô tình đạp phải
miếng thủy tinh của cái chụp đèn mà lúc nãy rớt xuống vỡ tung trên nền gạch ,
chị hớt hãi chạy ra hè, lớn tiếng gọi:
- Bà ơi...bà...Con mời bà lên ngay đây ạ!
Bà Phú cùng cậu con út chạy lao lên, nhìn cái đèn
dầu nằm ở trên giường và những mảnh thủy tinh tung toé khắp nơi, đưa mắt nhìn
nhau không hiểu chuyện gì đã xảy ra trong căn buồng này lúc cả nhà đi vắng. Chị
Thuần sực nhớ ra bảo bà:
- Bà ơi....Con quên..nói với bà...là hồi chiều ở
nhà...ông...ông..trấn nước chết con mèo rồi. Con hỏi ông thì ông bảo là ma giết
nó chứ không phải ông ạ .
Bà Phú hốt hoảng kêu lên:
- ..Thật không?... Ông mày quý con mèo lắm
mà...Sao...sao lại giết nó?
Chị người làm lắc đầu đáp:
- ..Con..con cũng đâu có biết đâu. Con đang ở dưới
bếp thì ông gọi con ra đầu nhà và bảo con chôn nó đi...ông dìm nó xuống dưới ao
cá giống ấy bà ạ!
Bà Phú không nói gì cả, nếu quả thực như thế thì có
lẽ chồng bà bị ma nhập thật rồi. Bởi không đời nào ông giết chết con mèo mà ông
gắn bó bao nhiêu năm nay. Nghe chị Thuần nhắc đến cái ao cá giống, bà thảng
thốt bưng đèn chạy vội ra đầu nhà xem ông có bị rớt xuống ao không? Chị Thuần
và thằng Hoành cũng vội vã chạy theo, rồi cả ba cùng thở phào nhẹ nhõm vì không
có gì. Chị Thuần bảo:
- Ao nông lắm ạ... ông có ngã...Chắc cũng không sao
đâu bà ạ!
Bà Phú thở dài và trở lại đứng trên thềm nhà và gọi
lớn: - Ông ơi....ông ơi....
Bà sực nhớ đến những câu chuyện kinh dị bà nghe hồi
còn nhỏ là ma hay dấu người trong bụi rậm hay dưới bờ ao. Ngày xưa bà không tin
những chuyện hoang đường đó, bây giờ bà tự hỏi biết đâu đó là những chuyện
thật?. Cả ba cái miệng cùng cất tiếng gọi, nhưng tiếng kêu của họ chỉ tan biến
trong màn đêm âm u mà thôi.
Thật ra thì ông Phú không đi đâu cả , trong lúc cả
nhà nhốn nháo tìm ông, thì ông đang ở ngoài nghĩa địa vườn sau. Tối nay, sau
khi bị hai cái bóng trắng xuất hiện và đè lên người ông trên giường. Ông ngất
đi một lúc rồi tỉnh dậy, ông thơ thẩn ra đầu nhà, lấy cái xẻng rồi lầm lũi tiến
ra nghĩa địa mặc dù trời vẫn đang mưa rã rít. Bên cạnh ngôi mộ của cha ông, còn
một khoảng đất trống, ông sắn nhát xẻng đầu tiên xuống đất, rồi cứ thế hì hục
đào dưới trời mưa phùn và gió bấc thổi từng cơn buốt giá.
Tuổi tuy đã cao, đất lại nặng vì đã biến thành bùn,
rít chặt vào lưởi xẻng, nhưng đêm nay có một sức lực phi thường nào đó nhập vào
đô cánh tay ông, khiến chỉ một khoảng sau, ông đã hình thành rất nhanh một cái
huyệt hình chữ nhật cùng kích thước với những cái huyệt khác. ông sẽ xây cho
Tuyết , người con gái bạc mệnh mà ông đã hất hủi, một ngôi mộ giả trong nghĩa trang
gia tộc để trả món nợ tình năm xưa, giờ này đang làm ông ân hận.
Trời đã tối hẳn, mưa lại tuôn xuống xối xả, nhưng
ông cứ cắm đầu hăm hở đào, sắn từng mảnh đất lớn hất lên hai bên, bắn văng lên
cả mấy ngôi mộ xây bên cạnh. Nghĩa trang nằm ở thế đất trũng, nước trong vườn
cứ liên tục chảy xuống, ông đào tới đâu, nước tràn vào huyệt tới đó. Người ông
ướt đẫm từ đầu, nhưng ông không dừng tay, không mệt mỏi. Vợ con ông và chị
người làm chẳng bao giờ hình dung giờ này, giữa đêm khuya ông ra nghĩa địa đào
huyệt, cho nên cả ba người cứ tìm quanh quẩn trong nhà, dưới bếp, ngoài sân và
vạch các bụi rậm trong vườn xem ma có giấu ông trong đó hay không?
Không thấy gì, bà Phú cầm đuốc chạy sang mấy nhà
hàng xóm hỏi thăm. Bà hỏi thăm cầu may thôi, chứ xưa nay mấy khi ông Phú sang
chơi nhà hàng xóm, nhất là ban đêm. Đối với ông đa số những gia đình láng giềng
đều nể sợ nhưng trong lòng họ không ưa bởi ông vừa giàu, vừa hách dịch. Họ
không ưa, mà chính ngay bản thân ông cũng chưa bao giờ thân thiện vì ông vẫn
chủ trương không nên ngồi chung với đám cùng đinh, chúng nó sẽ lờn mặt. Bà Phú
vào gõ cửa mấy căn nhà lân cận, ai cũng ngạc nhiên lắc đầu. Bà rơm rớm nước mắt
cảm ơn hàng xóm rồi quay về.
Cơn mưa vừa ngớt được một lúc, bây giờ lại trở nên
nặng hạt, hất nước từng đợt vào mặt bà, bà hắt hơi mấy cái liền rồi bảo chị
người làm: - Thôi, ngủ lấy lại sức đi con ạ, gần sáng đến nơi rồi, ngủ đi rồi
mai mình tính. Dứt khoát sáng mai thì chắc ông mày phải sang ở tạm bên nhà
thằng Long rồi.
Chị người làm vừa ngáp vừa nói:
- Vâng, con cũng mệt quá rồi ạ! Về mau đi bà, con
đốt lửa con sưởi cho bà, không khéo cảm mất bà ạ! Tại bà với con dầm mưa cả
ngày rồi. Ông đi đâu thì chắc sáng mai rồi ông phải về thôi.
Bà Phú không nói gì nữa, xưa kia chồng bà vắng nhà
cả mấy ngày liền, bà có bận tâm bao giờ bởi biết ông lên phố huyện vui thú cô
đầu. Đêm nay bà lo lắng chỉ vì mơ hồ cảm thấy có chuyện bất thường đang xảy đến
với ông. Về đến nhà bà thay bộ quần áo rồi vào buồng lên giường nằm và cứ nung
nấu mãi một câu hỏi trong đầu là chồng bà đi đâu giữa nữa đêm về sáng thế này?
Bà nhớ lại lúc nào cũng nghe ông bảo là ông gặp ma,
hay là thực sự ma đem ông giấu ở đâu? nếu đúng như vậy, thì đành phải đợi sáng
mai vậy vì ban ngày khi mặt trời lên, ma nó sẽ phải lui về cõi âm của chúng.
Chừng đó, ông Phú sẽ phải tự tìm về nhà.
Bên ngoài mưa vẫn rơi đều đặn trên mái ngói và trên
những chòm cây rậm rạp ngoài vườn, mệt quá, bà Phú thiếp đi lúc nào không hay.
Chẳng biết bà ngủ được bao lâu, nhưng lúc choàng tỉnh dậy thì trời vẫn chưa
sáng rõ, nhất là mưa đêm vẫn chưa dứt hẳn, bà đưa tay dụi mắt và ngạc nhiên vui
mừng thấy ông Phú đang ngồi ở đuôi giường, bên ngoài cái bục màu trắng đục,
xoay lưng lại phía bà. Bà ngồi bật dậy và lên tiếng trách:
- Ông đi đâu cả đêm mà tôi tìm mãi vậy?
Ông Phú vẫn ngồi im không đáp, không quay lại, dáng
điệu gục xuống, bà Phú gắt nhẹ:
- Ơ hay, đi vào ngủ đi. Sao lại ngồi ngoài đấy cho
muỗi nó cắn à.
Vừa nói, bà vừa đưa tay định kéo ông vào mùng thì
ông lẳng lặng đứng dậy, lủi thủi bước ra cửa. Bà bực bội tuột xuống giường và
nói:
- Ơ..ông đi đâu đấy? Còn sớm mà. Sao không ngủ lấy
một giấc đi đã?
Ông Phú cũng chẳng nói gì, ông bước nhanh ra hè rồi
vòng qua hông hè, bà Phú xỏ được đôi guốc để chạy theo, thì ông Phú đã ra tới
đầu nhà và đi ra vườn sau. Mặc dầu dường trơn ướt tối tăm lại thoai thoải dốc,
rất dễ ngã trong những ngày mưa, nhưng ông Phú vẫn bước thoăn thoắt dường như
không muốn bà vợ bắt kịp mình. Bà Phú ra tới hiên sau thì bóng ông đã thấp
thoáng ở cuối con dốc nối liền nghĩa trang.
Bà bực mình toan quay vào nhà, bỏ mặc ông, nhưng bà
thấy tội nghiệp vì bà biết chắc ông đang bị khủng hoảng tinh thần một cách trầm
trọng. Bà thở dài lắc đầu rồi tìm cây gậy chống, lần ra nghĩa địa để kéo ông
vào ngủ. Nhưng ra đến nơi, trong không gian mờ mờ của buổi sáng tinh sương, bà
nhìn quanh thì lại không thấy ông đâu nữa. Tiến sâu vào thêm chút nữa , bà mới
giật mình thấy đất bùn văng tung toé , phủ lên cả mấy ngôi mộ cũ. Bà leo lên
ngôi mộ thấp và cất tiếng gọi:
- Ông ơi...ông đâu rồi? ông làm cái gì ngoài đây
ông ơi...
Không có tiếng trả lời, bà mở to mắt, chăm chú nhìn
quanh, rồi bỗng hét lên giữa không gian vắng lặng: - Á...ông có sao không...ông
ơi...sao..sao ông đến nổi như thế này ông ơi?
Tiếng khóc thống thiết tan nhanh trong tiếng mưa
rơi và gió thổi: - Hu..hu.hu...Nhàn ơi...Hoành ơi...bố chết rồi....bố chết rồi
các con ơi...Giời ơi...ông ơi...
Bà phát hiện một cái huyệt mới đào, nước ngập đầy
tới miệng và xác ông Phú, chồng bà nổi lềnh bềnh trong đó. Thì ra ông đã bị
ngộp nước, chết đuối trong cái huyệt do chính tay ông hì hục đào.
ÁN
MẠNG ĐÊM CUỐI NĂM
Chịu trách nhiệm xuất bản:
BÙI
CAO TIÊU
Biên tập:
NGUYỄN CẨM HƯƠNG
Sửa bản in: GIANG MINH TRƯỞNG
Trình bày bìa: SONG THÀNH
In 1.200 cuốn khổ 13x19cm, tại Xưởng in NXBGTVT
Số trích ngang xuất bản: 373-2009/CXB/27-53/ThaH,
In xong và nộp lưu chiểu Quý I năm 2010
.............................................................................................................
- Cập
nhật theo bản lưu trữ tại tại Công ty TNHH Văn Hóa Bảo Thắng.
- Vui
lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét