THƠ VÀ VẦN ĐIỆU –
LÀM THƠ DỄ HAY KHÓ
*
Thơ thì ai cũng thích, mà thơ là gì thì không ai
định nghĩa được đầy đủ. Kẻ bảo thơ là tiếng hót của chim sơn ca, kẻ cho là
tiếng thở của gió. Người lại bảo thơ là hoa, là suối, là ánh trăng, là đạo mầu,
là trời là biển... là đủ thứ. Thực vậy thơ là muôn chất, không thể nào tóm tắt
trong một định nghĩa vài dòng được. Có bao nhiêu thi sĩ, thì có bấy nhiêu quan
niệm về thơ, và sản sinh ra nhiều trường phái thơ. (Tác giả Chấn Hưng)
Thật ra thơ và làm thơ là một cảm xúc của con
người trước một hiện tượng hay một sự kiện nào đó, rồi buông vần thơ cho riêng
mình và đã ghi lại cảm xúc ấy bằng biểu tượng cô đọng của ngôn ngữ, vậy là bài
thơ ra đời. Quá trình tập luyện các kỹ năng, am hiểu vần điệu của cách làm thơ
(luật thơ) và vận dụng các qui luật ấy, cách gieo vần nhuần nhuyễn và ý tứ của
từ ngữ súc tích đã tạo ra bài thơ.
Thơ ca theo nghĩa rộng ra thì bao gồm: Thơ, phú,
hò, vè... là một bộ phận văn học còn gọi chung là văn vần để phân biệt với bộ
phận khác của văn học gọi là văn xuôi gồm: Tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch... Là
một bộ phận văn học, môn nghệ thuật này dùng ngôn từ, ngôn ngữ làm phương tiện
biểu đạt, thơ ca cũng gắn với một ngôn ngữ nhất định.
Một đặc điểm của thơ ca, đó chính là vần điệu.
Không có vần điệu là không phải là thơ ca, dựa trên nền tảng là ngôn từ, vần và
điệu, để tạo thành cấu trúc. Ví dụ:
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Hai câu thơ dù có mượn ý từ hai câu thơ Đường
"Phương thảo thiên biên bích. Lê chi sổ điểm hoa. (Cỏ thơm liền với trời
xanh, Trên cành lê có mấy bông hoa.) thì bậc thầy thơ ca Nguyễn Du chỉ sáng tạo
thêm chữ "trời"; chữ "Tận" và chữ "Trắng" cộng
với vần điệu lục bát của Việt Nam đã tạo được hai câu…? Và mùa xuân cuối của
câu sáu, gieo vần vài là chữ thứ sáu của câu tám. Sự gieo vần như vậy cùng phối
hợp về thanh điệu, ngữ điệu giữa các chữ tạo thành cấu trúc có vần điệu chính
đã tạo ra câu thơ rất hay.
Cho nên làm thơ cũng như soạn nhạc, nếu không
nắm vững nhạc lý tiết tấu và điệu thức thì chắc chắn không thể soạn những ca
khúc hay được, dù đã có được năng lực thiên phú đi nữa. Các bộ môn nghệ thuật
cũng vậy. Hễ nói đến nghệ thuật đều phải có quy tắc và cấu trúc, vì khi nghệ
thuật phát sinh là do tư duy cấu trúc tạo thành. Bởi vậy Tản Đà tiên sinh có
phán: Đờn là đờn, thơ là thơ/ Thơ thời có nhịp, đờn có tơ. Đến việc viết văn
cũng cần phải có quy tắc, huống hồ là làm thơ. Quả vậy các nhà thơ nổi tiếng từ
xưa đến nay đều nắm rất vững các quy tắc Luật thơ để sáng tác những vần thơ
mượt mà đẹp đẽ trong vần điệu, để mãi mãi đi vào lòng bao thế hệ yêu thơ là
thế. Trong thơ ca, dĩ nhiên tâm hồn và mỹ cảm là những yếu tố quyết định chất
lượng bài thơ. Song thi sĩ khó mà thể hiện được ý đồ sáng tác nếu không làm chủ
được thi pháp. Và nếu nói tới tác phẩm hay thì rõ ràng kỹ thuật (thi pháp) giữ
một vai trò vô cùng quan trọng để giúp thi sĩ thể hiện tác phẩm, giống như câu
nói nửa đùa nửa thật của danh họa Picasso: "Je ne cherche pas, je
trouve!". Cũng mang hàm ý trên: Họa sĩ không tìm kiếm vu vơ trên mặt vải,
anh ta chỉ vật lộn với chính mình để thể hiện cái ý tưởng mà anh ta đã có sẵn
trong đầu trước khi đặt bút vẽ. Chính qui tắc vần điệu thi pháp trong thơ cũng
tạo cho thi sĩ buông vần thơ hay là thế.
Thơ Mới ngày nay:
Cũng như tôi, bạn cũng bâng khuâng một số kiến
thức về Luật thơ được trang bị trên ghế nhà trường không thỏa mãn cho chúng ta
hiểu được thế giới thi ca ngày xưa và ngày nay. Bài viết này cũng mạnh dạn
trình bày lại một số thi pháp để chúng ta biết được vấn đề làm thơ dễ hay khó,
và từ đây chúng ta có thể thưởng thức một bài thơ hay dở thế nào. Và nắm được
vần điệu thơ để sáng tác thơ... để tránh rơi vào tình trạng tha hóa thẩm mỹ,
dung tục gượng ép. Bài viết không đi vào các dòng thi ca mà chỉ trình bày kiến
thức về thi pháp mà những bài thơ xưa quy định chặt chẽ: Thơ Đường luật, lục
bát và song thất lục bát.
Đầu thế kỷ XX phong trào chữ Quốc ngữ lan khắp,
nhiều trí thức lớn đã trăn trở với nền tân học đã tiên phong khai sinh ra những
dòng văn xuôi và văn vần mới. Nguyễn Văn Vĩnh chuyên dịch thơ ngụ ngôn của La
Fontaine, đã tìm ra một điệu mới để dịch bài Con ve và con Kiến (1913) mà nhiều
người cho Ông là người khai sinh ra dòng Thơ Mới cùng với Tản Đà Nguyễn Khắc
Hiếu. Năm 1932 sự xuất hiện của phong trào Thơ Mới, là một cuộc đại cách mạng
trong lịch sử thơ ca của Việt Nam. Thời kỳ đầu, các thi sĩ Thơ Mới đả phá thi
pháp của thơ cũ và tư tưởng nghệ thuật cũ. Tuy nhiên, nhìn lại các tác phẩm
thời kỳ này, sẽ thấy nó vẫn kế thừa, tiếp nhận và chọn lọc, dung hòa nghệ thuật
của các nền tảng: Ca dao-thơ thuần Việt - thơ Trung Hoa- và văn chương phương
Tây (Pháp). Cùng với việc đón nhận làn gió mới nhưng cũng không xa rời các nền
tảng trên, đã được Việt hóa hàng ngàn năm. Trong cuộc cách mạng này, Thơ Mới đã
bỏ đi rất nhiều hình ảnh cũ kỹ sáo mòn. Nhưng Thơ Mới cũng giữ lại và làm mới
không ít các hình ảnh tuy đã cũ, về tâm hồn về tâm linh tín ngưỡng của đời sống
Việt. được kết hợp và diễn tả theo một kiểu thức mới, tạo ra những cảm xúc và
hiệu quả thẩm mỹ mới, lạ lùng và xao xuyến. Và đặc biệt Thơ Mới đã tiên phong
trong vần điệu và một thi pháp mới lạ mà ta có được cho đến hôm nay.
Trong Thơ Mới câu thơ không có hạn định nào về số
chữ. Và cũng không tuân theo luật bằng trắc nào như trong thơ cũ. Thơ mới mở
rộng ra, có thể đặt những câu ngắn từ 2, 3 chữ hoặc dài đến 9, 10 chữ. Nhưng vẫn
theo những vần luật sau đây:
- Vần
liền: Vần theo những cặp gián cách, từng cặp vần bằng trắc theo nhau
liền, ví dụ trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ:
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan,
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới,
Đâu những cảnh bình minh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng,
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng,
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới.
- Vần
chéo: Là cách gieo vần bắt chéo, câu 1 vần xuống câu câu 3, câu 2 vần
xuống câu 4, ví dụ trong thơ Huy Cận:
Hạnh phúc rất đơn sơ.
Nhịp đời đi chậm rãi,
Mái nhà in bóng trưa,
Ong hút chùm hoa cải.
- Vần
ôm: Là cách gieo vần để cho vần câu 1 với câu 4, ôm lấy vần câu 2 với
câu 3. Ví dụ trong bài thơ Tiếng thu của Lưu Trọng Lư:
Em nghe mùa thu,
Dưới trăng mờ thổn thức,
Em không nghe rạo rực,
Hình ảnh kẻ chinh phu
- Vần
hỗn tạp: Là cách tham dụng tất cả các lối vần trên trong một bài, không
theo một định lệ nào cả. Ví dụ trong bài thơ sau đây của Thế Lữ:
Tiếng địch thổi đâu đây.
Cớ sao mà réo rắt ?
Lơ lửng cao đưa tận lưng trời xanh ngắt.
Mây bay, gió quyến, mây bay...
Tiếng vi vu như khuyên van như dìu dặt
Ánh chiều thu
Lướt mặt hồ thu.
Sương hồng lam nhẹ tan trên sóng biếc.
Rặng lau già xao xác tiếng reo khô,
Như khuấy động nỗi nhớ nhung thương tiếc.
Trong lòng người đứng bên hồ
Nhưng Thơ Mới vẫn có qui tắc và cũng phân làm
các thể loại, số câu số chữ, cách gieo vần, và tựu trung gồm có mấy thể loại
sau đây:
- Thể
năm chữ: Mỗi câu có 5 chữ. Số câu không hạn định, thường chia làm khổ 4
câu. Vần có thể theo các kiểu vần liền, vần chéo, vần ôm hoặc vần hỗn tạp. Thường
cứ gián cách vần trắc với vần bằng. Nhưng chỉ có vần cước không có vần yêu. Thể
thơ này phân làm khổ 4 câu như thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt. Ví dụ như bài thơ Đi
chùa hương của Nguyễn Nhược Pháp, Khách lạ đường rừng của Nguyễn Bính.
- Thể
bảy chữ: Mỗi câu thơ có 7 chữ. Số câu không có hạn định, có thể chia
thành khổ 4 câu. Tất cả phép niêm luật đối của thơ Đường luật đều bị bỏ qua,
nhưng có khi vẫn được duy trì một phần, nhất là luật bằng trắc vẫn còn. Gieo
vần theo các kiểu thơ Pháp, giống như kiểu tứ tuyệt cũ 4 câu 2 vần, hay 4 câu 3
vần. Ví dụ như trong bài thơ Trăng của Xuân Diệu
- Thể
tám chữ: Mỗi câu có 8 chữ (hoặc xen vào ít câu 7 chữ hay 9, 10 chữ). Số
câu không hạn định, thường dài, nhưng cũng có thể chia làm khổ 4 câu 6, 8 câu..
Về thanh bằng trắc trong câu, thường chỉ áp dụng luật hoán thanh tổng quát vào
các chỗ ngắt đoạn. Vần thường theo kiểu vần liền, có khi có cả vần liền, có khi
có cả vần yêu, câu thơ có giọng như Hát nói. Ví dụ như bài Cây đàn muôn điệu
của Thế Lữ.
- Thể
sáu tám: Tuy là loại thơ cũ, trước kia người ta thường dùng để sáng tác
truyện liên hồi hàng ngàn câu. Trên cơ sở này người ta sáng tác ngắn đi và theo
lối gieo vần truyền thống. Ví dụ bài thơ Ngậm ngùi của Huy Cận
Nắng chia nửa bãi chiều rồi,
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá sầu.
Sợi buồn con nhện giăng mau,
Em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây.
Lòng anh mở với quạt này,
Trăm con chim mộng về bay đầu giường.
Ngủ đi em mộng bình thường,
Ru em sẵn tiếng thùy dương mấy bờ
Cây dài bóng xế ngẩn ngơ,
Hồn em đã chín mấy mùa thương đau.
Tay anh em hãy tựa đầu,
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi.
Vần điệu niêm luật trong một bài thơ Đường
luật:
- Niêm nghĩa đen là dán dính lại bằng chất hồ.
Trong thơ, niêm là cách xếp đặt các câu thơ cho dính lại với nhau về nhịp thanh
bằng thanh trắc và gây sự liền lạc mật thiết về âm điệu.
- Vần ở vào chữ chót câu đầu và các câu chẵn
(như vậy bài thơ có 5 vần và chỉ dùng vần cước). Cả bài gieo một vần (độc vần).
Vần bằng (thuộc thanh bằng)
- Thanh luật là luật chỉ định trong một câu thơ,
chữ nào phải thanh bằng, thanh trắc. Chữ thanh bằng là chữ có dấu huyền hoặc
không dấu, chữ thanh trắc là chữ có các dấu: Ngã, hỏi, nặng, sắc.
Trong thơ Đường luật, câu thơ nào cũng có 7 chữ,
thanh luật áp dụng cho các chữ trong câu như sau:
a- Chữ chót (chữ thứ 7) tùy thuộc vị trí câu thơ
đối với vần thơ. Nếu câu thơ mang vần (câu 1,2,4,6,8) thì chữ ấy bằng, nếu câu
thơ không mang vần (câu 3,5,7 thì chữ ấy trắc).
b- Chữ 2,4,6 theo phép Nhị tứ lục phân minh,
nghĩa là 3 chữ này phải bằng, trắc, bằng hoặc trắc, bằng, trắc.
c- Chữ 1,3,5 theo phép Nhất tam ngũ bất luận
nghĩa là không kể đến luật bằng trắc, được tự do. Tuy nhiên trên thực tế, chỉ
chữ 1 và 3 được bất luận, còn chữ thứ 5 phải khác thanh với chữ chót của câu
thơ
Ta thấy ở luật bằng trắc này, luật lệ cốt yếu
nhằm vào các chữ 2,4,6. Nhịp thanh của câu thơ dựa vào đó mà thay đổi lên
xuống. Cho nên bài thơ nào bắt đầu với một câu thơ luật bằng thì gọi là bài thơ
luật bằng. Bài thơ nào bắt đầu với câu thơ luật trắc gọi là bài thơ luật trắc.
Khái quát vần luật trên ta có một ví dụ bình
giảng bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu. Bài này được coi là kiệt tác trong mấy
nghìn năm qua của loại thơ Đường luật:
Tích nhân dĩ thừa Hoàng Hạc khứ
Thử địa không dư hoàng hạc lâu
Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Dịch thơ:
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu
Mà nay Hoàng Hạc riêng lầu còn thơ
Hạc vàng bay mất từ xưa
Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?
(Tản Đà - dịch)
Về mặt hình thức, dễ nhận biết đây là bài thơ
Đường luật thể thất ngôn bát cú (bảy chữ, tám câu) nhưng ngay trong mấy câu mở
đầu, đã thể hiện một cú pháp rất đặc biệt, bởi sự phá hết niêm luật và thi pháp
của thơ Đường. Về luật bằng trắc, câu 1 và câu 3 là những câu thể hiện sự phá
cách táo bạo nhất. Theo luật thơ Đường, các vị trí nhị tứ lục thất trong câu
thơ phải tuân thủ theo đúng quy định bằng trắc. Các vị trí 1,6,8 trong câu thơ
thứ nhất đã hoàn toàn biến đổi ngược lại với quy định. Luật bằng trắc của bài
thất ngôn bát cú, thơ vần bằng trong câu đầu lẽ ra phải là: BBTTTBB (Ví dụ:
Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn - Bà Huyện Thanh Quan) thì câu thơ đầu của
Hoàng Hạc Lâu biến thành TBTBBTT Tích nhân dĩ thừa Hoàng hạc khứ. Tiếp đến, câu
thứ 3 được cấu tạo với một loạt 6 thanh trắc đi với nhau, gợi lên một niềm xót
xa trước sự nghiệt ngã của thời gian, của cuộc đời con người BTTTTTT Hoàng hạc
nhất khứ bất phục phản.
Thơ Đường vốn trọng sự cô đọng của câu chữ, đặc
biệt tránh việc phải dùng những hư từ, trong bài thơ này được dùng một từ lặp
lại nhiều lần "Hoàng Hạc" được 3 lần. "không" được 2 lần,
tạo nên hiệu quả sự ám ảnh khôn nguôi về Hạc vàng. Hoàng Hạc Lâu là một kiệt
tác của Trung Hoa và cũng là đỉnh cao chói lọi của thơ Đường nói riêng và của
văn học Trung Hoa nói chung, ngàn năm không ai vượt qua nổi. Thi tiên Lý Bạch
đứng trước Hoàng Hạc Lâu cũng phải gác bút mà thốt lên rằng: "Đình tiền
hữu cảnh đạo bất đắc/ Thôi Hiệu đề thi tại thương đằn" (trước mắt có cảnh
đẹp nhưng không sao nói được, vì đã có thơ của Thôi Hiệu sừng sững ở trên đầu).
Và giai thoại làm thơ:
Vương Bột thời tuổi trẻ đã nổi tiếng thần đồng,
hạ bút thành thơ. Vương Bột cũng từng lặn ngụp chốn quan trường. Làm thơ nổi
tiếng được xếp vào: "Tứ kiệt Sơ Đường" (cùng với: Dương Quýnh, Lạc
Tân Vương, Lư Chiếu Tân). Cha Vương Bột bị điều đi xa làm thứ sử, anh đi thăm
cha, bị đắm thuyền chết, yểu thọ 29 tuổi.
Bài thơ trên trích ra từ bài phú thể biền ngẫu
(bài "Tự" hoặc Tựa) gọi là "Đằng Vương các tự" nhân dịp một
bữa tiệc lớn được tổ chức ở Đằng Vương Các. Vương Bột đọc theo yêu cầu của chủ
nhân lúc ấy là đô đốc Diêm Bá Tự. Bài phú được mọi người tán thưởng, thán phục
tài hoa của chàng thi sĩ trẻ. Nhưng về sau có người chê rằng "hai câu thơ
đầu còn có chỗ dở"... Truyền thuyết kể rằng sau khi chết, hồn Vương Bột
vẫn còn uất ức vì chưa hiểu tại sao người ta chê thơ mình, nên đêm khuya thanh
vắng thường hiện hình trên sông nước, níu áo những văn nhân sĩ tử qua đường,
miệng đọc hai câu thơ trên và hỏi: "Ta dốt ở chỗ nào xin chỉ giúp".
Nhưng ai cũng chỉ khen hay. Hồn Vương không hài lòng, mắng sĩ tử kia còn dốt
hơn, đi thi khoa này ắt hẳn không đậu. Quả nhiên mấy người bị mắng đều thi rớt.
Hồn Vương Bột sau đấy vẫn cứ dật dờ trên sông nước.
Ngày nọ có một văn nhân đi ngang qua đấy, hồn ma
Vương Bột lại hiện hình níu áo hỏi. Chàng văn nhân cười bảo: "Nhà ngươi
từng nổi tiếng "tứ kiệt Sơ Đường" mà bao năm không nhận ra cái dốt
của mình ư?". Nói xong dứt áo quay đi. Hồn Vương tha thiết nài nỉ khách
giải thích. Khách văn nhân chẳng đành phụ lòng cố thi nhân họ Vương bèn nói
"Hai câu thơ thừa chữ "dữ" (với) và "cộng" (cùng). Nếu
bỏ hai chữ ấy thì câu thơ tuyệt gọn và thanh thoát lại liền mạch:
Lạc hà cô vụ tề phi
Thu thủy tràng thiên nhất sắc
Hồn Vương Bột ngẩn người hiểu ra, bèn bái tạ vị
khách qua đường... Từ đó không ai còn nhìn thấy bóng ma nhà thơ trẻ tài hoa
Vương Bột xuất hiện nữa, hẳn là linh hồn ông đã siêu thoát.
Sao lại có câu chuyện làm thơ bi thiết mà thú vị
đến thế!
Vì sao bao người khen bài thơ hay mà không nhận
ra hai từ dư thừa? Người chê Vương Bột sao chẳng chịu nói ra? Biên giả cho rằng
cái tài năng lập ý, chọn cảnh vật đã hay đến nỗi nó lấn át hai giới từ dư thừa
(dữ, cộng) khiến nhiều người không để ý. Cho hay, văn chương chẳng biết đâu là
bến bờ hoàn hảo. Thi sĩ Vương Bột chết thành ma vẫn trăn trở không thể siêu
thoát được. Hồn ma ông vẫn muốn làm cho câu thơ được toàn bích. Câu chuyện sáng
tạo văn chương công phu như thế thật là kỳ thú lắm! Trong bài này, chúng tôi
vẫn ghép hai từ "dư thừa" nguyên tác của Vương Bột. (*)
Toàn bài Đằng Vương các tự của Vương Bột như
sau:
Lạc hà dữ cô vụ tề phi
Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc (...)
Đằng vương cao các lâm giang chủ
Bội ngọc minh loan bãi ca vũ
Họa đống triêu phi Nam phố vân
Châu liêm mộ quyển Tây sơn vũ
Nhàn vân đàm ảnh nhật du du
Vật hoán tinh di kỉ độ thu ?
Các trung đế tử kim hà tại ?
Hạm ngoại Trường Giang không tự lưu
Dịch thơ:
Gác Đằng cao ngất bãi sông thu
Ngọc múa vàng reo nay thấy đâu?
Nam phố mây mai quanh nóc vẽ
Tây sơn mưa tối, cuốn rèm châu
Đầm nước mây vờn ngày tháng trôi
Mấy phen vật đổi với sao dời
Đằng Vương thuở trước giờ đâu tá?
Sông lớn ngoài hiên luống chảy hoài !
(Tương Như - dịch)
Giai thoại Hữu Loan:
Lạ lùng! Ai đó đọc hoặc ngâm bài thơ Màu tím hoa
sim, độc giả đều bâng khuâng. Nghe các ca khúc phổ bài thơ Màu tím hoa sim
thính giả đều bâng khuâng và... tất cả chúng ta đều bâng khuâng. Chỉ một bài
thơ này mà nhiều nhạc sĩ phổ thành ca khúc. Vào năm 1960 Dzũng Chinh soạn Những
đồi hoa sim bằng điệu slow rumba theo âm giai Rê thứ. Nhạc sĩ Anh Bằng cũng
phỏng theo ý thơ, để soạn ca khúc Chuyện hoa sim. Duy Khánh soạn Màu tím hoa
sim phần ca từ theo sát bài thơ. Phạm Duy soạn Áo anh sứt chỉ đường tà (từ 1949
đến 1971 mới hoàn thành). Và là đề tài cho các nhạc sĩ soạn ra các ca khúc như
Tím cả chiều hoang, Tím cả rừng chiều, Chuyện người con gái hái sim... Tất cả
đều thành công.
Bài thơ và tác giả vẫn thăng trầm theo bao sự
kiện của dòng đời. Nhưng đặc biệt Màu tím hoa sim trở thành bài thơ được trả
tiền bản quyền cao nhất trong lịch thơ ca Việt Nam (kể cả châu Á). Vào năm
2004, Hữu Loan sửng sốt bằng lòng chuyển giao bản quyền tác giả bài thơ với giá
100 triệu đồng cho Công ty Cổ phần Công nghệ Việt (Vitek) (**)
Trong giữa thế kỷ XIX, khi soạn xong Đại Nam
quốc sử diễn ca theo thể thơ lục bát, Lê Ngô Cát dâng lên vua Tự Đức và được
trọng thưởng, một xấp vải gấm và hai quan tiền. Về sau được tương truyền 2 câu
thơ: "Vua khen thằng Cát có tài/ Ban cho cái khố với hai đồng tiền".
Thưởng hay trả công? Bạn hãy so sánh giá trị đồng tiền trong hai thời kỳ và
thời giá hiện nay!
Mãi mãi thơ vẫn là thơ
Từ phong trào Thơ Mới cho đến nay, làng thơ Việt
Nam cũng đã trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đã hình thành nên các xu hướng
và vai trò nhất định của thơ đã gắn liền sứ mệnh của mình với một thời kỳ nhất
định nào đó trong lịch sử. Và các thời kỳ này đủ thời gian để cho các nhà phê
bình đánh giá. Thời đại ngày nay có xu hướng thơ cận đương đại và đương đại.
Nhìn về mặt tổng thể, sự phát triển của thơ Việt
Nam đương đại không còn yếu tố nhạc tính của thơ, độ mờ nhòe của ngôn ngữ, màu
sắc lạ hoắc của ngôn ngữ, với những cách tân này người đọc càng cảm thấy mù mờ
hơn về "ý đồ nghệ thuật" của các nhà thơ này - các cấu trúc của thơ
bị phá vỡ, hình thức ngắt câu, hình thức xuống thang nhiều khi quá lạm dụng để
làm lạ hoắc giọng điệu, chưa được giới yêu thơ đồng cảm. Phải chăng đây là chân
dung của nàng thơ hiện đại!. Người ta cố gắng cách tân giọng điệu và ngôn ngữ,
để tạo ra những nét mới theo kiểu phong trào. Kết quả cho ra đời những bài thơ,
khi đọc lên đã thấy mệt và không ai hiểu nổi! Không ít người lại đưa ngôn ngữ
vào thơ quá dễ dãi, quá bình dân và ngôn ngữ đời thường làm giảm tính nghệ thuật
của thi ca. Hiện nay thơ bùng nổ về số lượng nhưng lại giảm về chất lượng ngày
càng nhiều, chính điều này làm cho thơ ngày càng ít người đọc hơn, không còn
được chào đón như những dòng thơ trước. Như nhận xét của Nguyễn Gia Nùng: Trong
một vạn câu giống thơ, chọn được một câu thơ đã ứa nước mắt mừng vui (***). Đến
đây có thể suy ngẫm câu này của nhà thơ nước Anh, Bulwer Lytton: In science,
read by preference, the newest works, in Literature the oldest. The classic
literature is always modern (Trong lĩnh vực khoa học, người ta thích đọc những
tác phẩm mới nhất, còn trong lĩnh vực văn chương người ta thích đọc những tác
phẩm cũ nhất. Văn chương cổ điển thì luôn tân kỳ).
Làm thế nào để có một bài thơ hay? Đây là nỗi
trăn trở của các nhà thơ, người làm thơ. Bởi vì một bài thơ hay, sống với thời
gian, và được người đời mến mộ, thì nó chẳng cần theo một xu hướng nào cả!
Những bài thơ ấy tự nó đã định cho mình một xu hướng riêng trong lòng công
chúng và nó sẽ tồn tại theo thời gian.Thơ Mới và thơ Hiện tại đã tiến một bước
ngắn hơn 80 năm, so với nhiều thế kỷ của thơ Truyền thống, quá trình cách tân
tìm cái mới của thơ ca cần phải quan niệm một cách sâu sắc hơn. Và dù đổi mới
thế nào đi chăng nữa, thi ca vẫn phải là tiếng nói hồn nhiên nhất, nguyên sơ
trong sâu thẳm trái tim và giàu tính nhân bản về đời sống vì sự cao đẹp của con
người, và muôn đời mãi mãi thơ vẫn là thơ!... ?
Tài liệu tham khảo:
1- Thi ca từ Trung
Hoa- Phùng Hoài Ngọc, Nxb Đại Học Quốc Gia TPHCM 2008, tr.63 sđd.
2- Tạp chí KTNN số
621- Phanxipang-tr: 41, 113, sđd.
3- Thi Nhân Việt
Nam - Hoài Thanh, Hoài Chân.
4- Tuyển thơ 30
năm Nguyên tiêu Phú Yên 1980-2010 Hội VHNT Phú Yên - Nxb TT&TT -2010,
tr.434.
*
CHẤN HƯNG
Địa chỉ: thành phố Tuy Hòa
Tỉnh Phú Yên.
........................................................................................
- Cập nhật từ email: tahongtruong@yahoo.com.vn
ngày 23.05.2018
- Bài viết không thể hiện quan
điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét