ĐẠO
GIÁO TRUNG HOA
VÀ
CÁC TÔNG PHÁI NỔI BẬT
*
(Tác giả Đoàn Mạnh Thế) |
I.
KHỞI NGUỒN
Về
khởi nguồn chính thức của Đạo Giáo thì rất mơ hồ, vì nó là một phần trong tín
ngưỡng dân gian Trung Quốc, người Trung Quốc thờ thần gì, có thần thoại gì thì
gần như Đạo Giáo thờ vị thần ấy. Truyền thuyết về Vũ Vương phạt Trụ sáng lập
nhà Chu lưu truyền trong dân gian có thể coi là câu chuyện cổ xưa nhất về việc
hình thành và phát triển của đạo giáo vậy. Theo Phong Thần Diễn Nghĩa thì thủy
tổ của Đạo Giáo là Hồng Quân Lão Tổ, ông này thu nhận được 3 đệ tử là Nguyên
Thủy Thiên Tôn, Linh Bảo Thiên Tôn và Đạo Đức Thiên Tôn. Ba vị này truyền bá tư
tưởng, phép tu tiên cho các đệ tử của mình. Trung Hoa từ xưa đã có nhiều người
chán kiếp hồng trần, muốn tu luyện thành tiên để vượt ra ngoài sự luân hồi sinh
tử nhân gian, nên ba vị này không sợ thiếu đệ tử. Vấn đề nảy sinh là ... nhiều
người đi tu quá, đến lúc ai cũng đủ đạo hạnh và công lực mà chỗ trên thượng
giới thì chỉ có hạn, thế là ba vị tôn sư Ngọc Đảnh Chân Nhân (Nguyên Thủy Thiên
Tôn), Thông Thiên Giáo Chủ (Linh Bảo Thiên Tôn) và (Thái Thượng Lão Quân) Đạo
Đức Thiên Tôn ngồi lại với nhau để "quy hoạch và cơ cấu" lại đám đệ
tử của họ. Theo đó một trận chiến sẽ nổ ra và các đệ tử sẽ lựa bên để tham gia,
rồi tùy theo chiến tích và đóng góp của từng người sẽ chọn ra ai thành tiên, ai
kém hơn thì phải chịu làm thần. Từ đó hình thành nên vũ trụ thần linh của người
Trung Quốc, trong đó có những vị mà chúng ta còn thờ phụng đến tận ngày nay như
Thần Tài, Na Tra, Lục Đinh Lục Giáp, Thiên Lôi,...
Rồi
sau đó tới thời Xuân Thu - Chiến Quốc, lúc này nhà Chu đã suy yếu, nơi nơi chư
hầu nổi lên đánh giết lẫn nhau tranh quyền bá chủ. Trong cơn binh lửa, nhiều
nhà tư tưởng đề ra những đường lối, phương pháp để yên thiên hạ, đưa dân chúng
thoát khỏi cảnh binh đao. Tại nước Chu có một người họ Lý tên Đam, hơn 60 năm
làm chức thủ thư trong thư viện nhà Chu, đọc hết tất cả các sách trong ấy, cộng
thêm thiên tư mẫn tiệp, một ngày nọ ngộ ra chân lý và ông gọi đó là Đạo. Ông
xưng là Lão Tử và khuyên mọi người nên sống vô vi, thuận theo tự nhiên, theo
đạo lý, nhưng khi đó đang là thời chinh chiến, những gì ông nói ko có mấy người
hiểu và nghe theo. Một ngày nọ, Lão Tử leo lên lưng trâu đi về phía tây, từ đó
đi đến ải Hàm Cốc nước Tần, tại đây ông lưu lại 3 ngày, viết ra những điều tâm
niệm của mình, chính là Đạo Đức Kinh sau này. Ông trao bộ sách này lại cho Doãn
Hy, quan giữ ải vì nhận ra ông này có căn cơ, còn dặn rằng cứ theo sách này mà
tu luyện thì sẽ thành tiên, thế rồi Lão Tử tiếp tục leo lên lưng trâu đi mãi về
phía tây, vào tận trong sa mạc, từ đó về sau ko còn ai trông thấy.
Quyển
Đạo Đức Kinh của Lão Tử được lưu truyền rộng rãi trong nhân gian, có nhiều điểm
tương đồng với nhân sinh quan của những người theo phái Âm Dương Gia - Ngũ
Hành, từ đó họ dùng cuốn sách này để hoàn thiện thêm cho học thuyết, thêm mấy
trăm năm nữa, cả hai trường phái này hòa làm một và được gọi là Đạo Giáo. Lão
Tử được tôn xưng là thủy tổ của Đạo Giáo và được ban xưng là Thái Thượng Lão
Quân, tuy nhiên vẫn có ý kiến cho rằng Lão Tử chỉ là một hóa thân giáng trần
của Đạo Đức Thiên Tôn - Thái Thượng Lão Quân mà thôi.
II.
CÁC TÔNG PHÁI ĐẦU TIÊN CỦA ĐẠO GIÁO
Theo
chiều dài của lịch sử Trung Hoa, đạo giáo trải qua nhiều cơn hưng khởi và suy
tàn, hầu như trong mỗi triều đại do người Hán lập ra ở Trung Hoa đều có sự dính
dáng ít nhiều với Đạo Giáo. Trước khi nhà Hán thành lập, Trương Lương, được
người đời xưng tụng là Mưu Thánh từng nhận Hoàng Thạch Công - một trong ba ẩn
sĩ nổi tiếng thời chiến quốc làm thầy. Đến thời Tam Quốc, nhà Hán suy vi, khi
đó nổi lên Thái Bình Đạo.
1/ Thái Bình Đạo
Vu
Cát là một ẩn sĩ ở Sơn Đông, có viết ra một quyển Thần Thư, sau này gọi là Thái
Bình Thanh Lĩnh Kinh, gọi tắt là Thái Bình Kinh. Một đệ tử của Vu Cát đã dâng
sách này cho vua Hán Thuận Đế (tại vị 126-144). Được xem là kinh điển tối yếu
trong giai đoạn ban đầu hình thành Đạo giáo, quyển đạo kinh này bàn về phụng
thờ trời đất, thuận theo âm dương ngũ hành, tảo trừ đại loạn, giúp thiên hạ
thái bình, sách còn bàn sự hưng phế của quốc gia, phương pháp dưỡng sinh, cách tu
luyện thành thần tiên, bùa chú, v.v... Triều đình cho rằng đây là sách tà đạo
nên tịch thu. Ai đọc Tam Quốc Chí đều biết rằng sau này Vu Cát đến đất Cối và
Ngô (nay là huyện Cối Kê của Chiết Giang và huyện Ngô của Giang Tô) lập tịnh
xá, đốt hương tụng đọc đạo thư, tế tạo phù lục bùa chú, lấy nước trị bệnh, thu
hút đông đảo quần chúng. Tôn Sách cho là tà đạo nên giết Vu Cát, nhưng đó là
chuyện về sau.
Tuy
triều đình tịch thu sách nhưng Thái Bình Kinh lại lưu truyền trong dân gian.
Bấy giờ là cuối đời Đông Hán, bọn ngoại thích và hoạn quan lũng đoạn triều
chính, cường hào và địa chủ nắm giữ đất đai, lại thêm bệnh dịch lưu hành, nên
nông dân điêu linh thống khổ đến nỗi đã nổi loạn. Nhân dịp này, Trương Giác
người huyện Cự Lộc, tỉnh Hà Bắc đã lợi dụng Thái Bình Kinh để lập giáo, tên gọi
là Thái Bình Đạo, qua đó quy tụ nông dân để khởi nghĩa gọi là Hoàng Cân - triều
đình nhà Hán gọi là giặc Khăn Vàng. Ông kết nạp được 36 vạn giáo chúng, cứ 1
vạn người thì lập thành 1 "phương", mỗi phương đặt ra 1 đại soái. Ba
mươi sáu phương đó được phân bố ở 8 trong tổng số 12 châu lớn của lãnh thổ nhà
Đông Hán là Thanh, U, Từ, Ký, Kinh, Dương, Duyện, Dự. Năm 184, Trương Giác
thống lĩnh giáo đồ làm loạn Trung Nguyên, triều đình phái ba cánh quân đi đánh
dẹp là Lư Thực, Hoàng Phủ Tung và Chu Tuấn đi dẹp. Cũng trong năm đó thì Trương
Giác bệnh chết, nốc bùa uống đan cũng đếch ăn thua Em ông là Trương Lương lên
thống lĩnh quân sĩ, không lâu sau bị Hoàng Phủ Tung đánh bại hoàn toàn. Hoàng
Phủ Tung tìm đến mộ ông, sai quân băm xác, chặt đầu mang về Lạc Dương dâng Hán
Linh Đế. Tuy Trương Giác, Trương Lương, Trương Bảo đã chết nhưng dư đảng của
Thái Bình Đạo vẫn lẩn trốn trong chốn dân gian, lâu lâu lại có những bậc kỳ
nhân dị sĩ xuất hiện như Nễ Hành, Vu Cát, ...
2/ Ngũ Đấu Mễ Đạo
Ngũ
Đấu Mễ Đạo – dịch nôm là "đạo Năm Đấu Gạo", cũng gọi Thiên Sư Đạo, là
một giáo phái ra đời cuối đời Đông Hán, do Trương Lăng (34–156) sáng lập. Người
đời sau gọi họ Trương là Trương Thiên Sư, nên Ngũ Đấu Mễ Đạo còn có tên khác là
Thiên Sư Đạo. Lăng người đất Phong (nay là huyện Phong, tỉnh Giang Tô), một hậu
duệ của Trương Lương. Trương Lăng từ nhỏ đã nghiền ngẫm về Đạo Đức Kinh, thiên
văn, địa lý, Hà Đồ, Lạc Thư, thông đạt Ngũ Kinh; khi trưởng thành từng làm quan
lệnh ở Giang Châu, thuộc Ba Quận (nay là Trùng Khánh, Tứ Xuyên), thời Hán Minh
Đế. Về sau, ông từ quan, ẩn cư trong núi Bắc Mang Sơn học đạo trường sinh. Thời
Hán Thuận Đế, Trương Lăng vào Ba Thục, tu đạo ở núi Hạc Minh Sơn (cũng gọi Cốc
Minh Sơn), xưng là Tam Thiên Pháp Sư Chính Nhất Chân Nhân, nói rằng mình được
Thái Thượng Lão Quân truyền đạo Chính Nhất Minh Uy, phong làm Thiên Sư. Vì vậy,
dân gian gọi đạo của ông là Thiên Sư Đạo.
Do
người nhập đạo phải nộp 5 đấu gạo, do đó đạo này gọi tên là Ngũ Đấu Mễ Đạo (đạo
5 đấu gạo), đạo này chịu ảnh hưởng nặng nề của Vu thuật – phép phù thủy của dân
tộc thiểu số tại Ba Thục như lên đồng, nhập xác, phù chú, bùa yểm, độc trùng…
nên chủ yếu phát triển ở phía Tây Nam Trung Quốc, còn phương đông thì lại
chuộng đạo Thái Bình như đã kể ở trên. Khi Trương Lăng mất, con là Trương Hành
kế thừa việc truyền đạo. Khi Trương Hành qua đời, con của Trương Hành là Trương
Lỗ kế vị. Cả ba đời ông cháu được người đời gọi là Tam Trương, nhưng trong nội
bộ đạo phải gọi là Tam Sư: Trương Lăng là Thiên Sư, Trương Hành là Tự Sư, và Trương
Lỗ là Hệ Sư. Trương Lỗ cai trị khu vực Ba Thục và Hán Trung gần 30 năm với một
chính quyền hợp nhất tôn giáo với chính trị. Đến năm Kiến An 20 (tức năm 215),
tháng 3, Tào Tháo đánh Hán Trung. Đến tháng 11, Trương Lỗ thua, phải dắt gia
quyến và thuộc hạ về Nghiệp Thành quy hàng Tào. Tào Tháo dùng lễ trọng đãi
Trương Lỗ để lợi dụng thế lực và ảnh hưởng của Trương Lỗ. Tào Tháo phong Trương
Lỗ làm Trấn Nam Tướng Quân, tước Lương Trung Hầu. Năm người con của Trương Lỗ
cũng được phong tước hầu. Tào Tháo và Trương Lỗ còn kết thông gia với nhau.
Chính quyền của Trương Lỗ tại Ba Thục và Hán Trung bị diệt. Tuy nhiên Ngũ Đấu
Mễ Đạo vẫn phát triển, dù tổ chức bị hỗn loạn, nhất là sau khi Trương Lỗ bệnh
và mất. Tín đồ mạnh ai nấy truyền đạo, không theo phép tắc gì cả. Nhiều thành
phần lợi dụng tôn giáo để làm việc bất chính, hoang dâm. Sau đời Tam Quốc đã có
mấy phen giáo đồ Ngũ Đấu Mễ Đạo nổi dậy chống chính quyền nhưng đều bị dập tắt.
Ngũ Đấu Mễ Đạo đã trải qua hai cuộc cải cách do đạo sĩ Khấu Khiêm Chi (Bắc Ngụy)
và đạo sĩ Lục Tu Tĩnh (Nam Triều Tống) tiến hành. Khấu Khiêm Chi cải cách Ngũ
Đấu Mễ Đạo (tức Thiên Sư Đạo) ở phương bắc nên nhánh này gọi là Bắc Thiên Sư
Đạo, còn Lục Tu Tĩnh cải cách Ngũ Đấu Mễ Đạo ở phương nam nên nhánh này gọi là
Nam Thiên Sư Đạo. Đến đời Tùy, Nam và Bắc Thiên Sư Đạo hợp nhất làm một. Sau
đời Đường, cháu của Trương Lăng tức là Trương Thịnh (cháu đời thứ tư của Trương
Lỗ) tiếp tục truyền giáo tại Long Hổ Sơn ở Giang Tây. Núi này dần trở thành một
trung tâm truyền bá Thiên Sư Đạo và giáo phái mang tên mới là Long Hổ Tông theo
tên của nơi truyền đạo là Long Hổ Sơn, và giáo phái này bước qua một giai đoạn
lịch sử mới.
Thời
Nguyên giáo phái này lại hưng thịnh trở lại, và mang tên là Chính Nhất Đạo,
liên tục qua các triều đại, hậu duệ họ Trương luôn là giáo chủ giáo phái, đến
tận năm 1949, Trương Ân Phổ giáo chủ đời 63, tự là Hạc Cầm tiên sinh di cư sang
Đài Loan, và năm 1950 sáng lập Đạo giáo hội của Đài Loan. Năm 1957 ông thiết
lập Đạo giáo cư sĩ hội và Đạo giáo đại pháp sư hội. Năm 1969, Trương Ân Phổ
chết, Trương Uyên Tiên cháu họ Trương Ân Phổ lên chấp vị chưởng giáo năm 1971
do con trai của Trương Ân Phổ mất sớm. Năm 1992, ông này quay về Đại Lục và
sáng lập Hiệp hội Thiên sư đạo Trung Quốc. Năm 2008, Thiên sư Trương Uyên Tiên
lâm bệnh qua đời nhưng không có con trai kế thừa, nội bộ gia tộc họ Trương nổi
lên sự tranh quyền kế vị Thiên sư. Tại Đài Loan có Trương Ý Tướng, Trương Mỹ
Lương, Trương Ý Phượng, Trương Đạo Trinh. Tại đại lục có Trương Kim Đào, Trương
Kế Vũ, Trương Quý Hoa. Ngày 10 tháng 6 năm 2009 (tức ngày 18 tháng 5 Âm lịch),
nhân ngày Tổ sư Trương Đạo Lăng thọ đản, Trương Ý Tướng tổ chức lễ kế vị tại
Đài Bắc xưng là Thiên sư đời thứ 65. Cùng lúc, Trương Đạo Trinh cũng tổ chức lễ
kế vị, xưng Thiên sư đời 64 tại Nam Đầu. Cho đến nay, cục diện 2 vị Thiên sư
cùng tồn tại vẫn diễn ra.
III.
CÁC TÔNG PHÁI ĐẠO GIÁO TỪ ĐỜI BẮC TỐNG TRỞ ĐI
Thời
nhà Tống, thiên hạ loạn lạc, chiến tranh liên miên, nhiều bậc trí giả chán cảnh
sinh linh đồ thán nên bỏ lên núi tu tiên, Đạo gia vì thế lại tiếp tục phát
triển. Trong chính trị, các hoàng đế Tống độc tôn Nho học nhưng về mặt tinh
thần thì phụ thuộc Đạo giáo, hầu như tất cả các vua Tống đều xuất gia tu đạo và
đều có pháp hiệu như đạo sĩ (tất nhiên, chỉ là mặt hình thức).
Thật
ra cũng có nguyên do sâu xa: Thời Nam – Bắc triều, có người phụ nữ lấy chồng,
người chồng đi chiến chinh, một hôm loạn quân sắp kéo đến, bà vợ chỉ vội thu
vén đồ đạc, đặt 2 đứa con trai lên hai cái sọt rồi quẩy đi bằng đòn gánh để
chạy cho lẹ. Ngang qua núi Hi Di, có một người trung niên chạy ra đón bà vào
nhà nghỉ ngơi, cho thức ăn nước uống rồi chỉ vào hai đứa trẻ mà bảo rằng: Lão
đây vốn lên núi lánh đời, tránh xa trần thế, hôm nay đứng trên núi nhìn thấy
hai công tử của phu nhân đây có hào quang rực rỡ bao quanh, chính là khí thiên
tử vậy, phu nhân hãy nuôi dạy hai công tử cho tốt. Có lý nào cả 2 con tôi đều
làm vua ? – Kiến nghiệp là anh nhưng giữ nghiệp là cậu em vậy. Và hai đứa trẻ
ấy chính là Triệu Khuông Dẫn và Triệu Quang Nghĩa, hai ông vua đầu tiên của Đại
Tống sau này. Ông già kia là Trần Đoàn, người khai sinh ra môn Tử vi đấu số.
Tuy
nhiên vì môn tử vi đấu số của Trần Đoàn khá phức tạp và nặng về tính toán nên
đời sau không thịnh, Càng khảo sát chi tiết về mặt thời gian thì càng đòi hỏi
trình độ cao trong luận đoán. Dễ nhất là khán lá số ở mức độ nguyên thủy, tính
cách nói chung, khó hơn là khán ở mức độ Đại Vận, và khó nữa là mức độ Lưu
Niên. Một số nhà nghiên cứu tử vi có trình độ cao có thể phán chính xác đến tận
hạn ngày, thậm chí chính xác tới hạn giờ tai nạn thông qua lá số tử vi. Ở Trung
Quốc hiện nay không thịnh môn này, thay vào đó Hồng Công, Đài Loan và Việt Nam
thì lại khá phát triển.
1/ Toàn Chân Đạo
Thành
tiên là ước mơ cháy bỏng từ xưa của con người, cách thức cổ xưa nhất là đi tầm
sư học đạo, tích lũy công lực rồi chờ đến ngày đến giờ phi thăng thành tiên.
Nhưng sau khi bảng Phong Thần đóng lại thì hình như cõi trên đã hết “tiêu
chuẩn”, nên những người tu phép tiên thì cứ tu, nhưng số người thành tiên được
thì rất hiếm hoi. Đến đời Đường thì xuất hiện một dị nhân nổi tiếng, có thể coi
là người tạo ảnh hưởng lên các hệ phái của Đạo Giáo sau này, ấy là Lữ Động Tân.
Quá trình tu đạo, thành tiên của Lữ Động Tân thì dài dòng, kể ra chắc phải có
riêng một bài, xin hẹn hôm khác. Nhưng rất nhiều bậc đạo sĩ về sau đều nói là
có duyên gặp Lữ và được ông truyền cho bí kíp để tu đạo, từ đó khai sinh ra các
tông phái mới, Toàn Chân Đạo là một trong số đó.
Vương
Trung Phu sinh năm 1113 có tên tự là Duẫn Khanh, sinh ra tại Hàm Dương trong
một gia đình giàu có. Thuở nhỏ ông chăm chỉ, tinh thông cả văn lẫn võ, nhờ vậy
mà nổi tiếng gần xa. Khi người Kim xâm lấn, ông tụ họp nhân dân nổi dậy chống
lại nhưng không thành công, sau đó ông chán chuyện thế sự nên bỏ nhà lên núi đi
tu, nhưng tôi đồ rằng trốn nã thì có. Năm 1159, ông được gặp Lã Động Tân, được
truyền thụ khẩu quyết luyện đan là Toàn Chân. Ý nói bảo toàn tam bảo (toàn
tinh, toàn khí, toàn thần) hội tụ trung cung, kim đan thành tựu. Từ đó ông
chuyên tâm nghiên cứu Đạo giáo, đổi tên là Triết, tự là Tri Minh, thành lập ra Toàn
Chân giáo. Tôn chỉ của Toàn Chân giáo là cứu giúp chúng sinh nên nhân dân rất
kính trọng. Học trò tìm đến ông rất đông, nhưng ông dạy dỗ nghiêm khắc, thường
đánh đập và la mắng đệ tử nên chúng trốn sạch, sau cùng chỉ còn lại bảy người.
Đó chính là Toàn Chân thất tử lừng danh trong Anh Hùng Xạ Điêu của Kim Dung.
Trong thất tử toàn chân, người có thành tựu cao nhất, học được tinh túy nhất là
Trường Xuân Chân Nhân, nhị đệ tử Khâu Xứ Cơ. Khâu Xứ Cơ từng được Thành Cát Tư
Hãn mời đến để đàm đạo về bí kíp trường sinh và đạo an dân trị quốc, có điều
đếu hiểu lão mũi trâu chỉ bảo cách nào mà sau chuyến đi ấy trở về cả Thành Cát
Tư Hãn lẫn ông đều … nghỉ thở cùng năm 1227. Sau khi ông chết, các đồ đệ của
ông lập ra
Toàn
Chân Long Môn phái, riêng phái Toàn Chân trái với suy nghĩ của đông đảo anh em
chỉ xem kiếm hiệp mà ít chịu google, là cho rằng Toàn Chân bị bọn Mông Cổ tiêu
diệt, cái này tôi chê vì mới vừa năm 2017 đây thôi, Toàn Chân Giáo Trung Hóa
vừa kỷ niệm nhiệt liệt 850 năm ngày Vương Sư Tổ lập giáo truyền đạo với khoảng
… 5000 tín đồ, diệt diệt cái con khỉ, nhé! – À quên, đường lối tu luyện của
Toàn Chân là chú trọng luyện đan, sau này thì còn lại dưỡng sinh, nạp khí,
không chú trọng phù chú pháp thuật.
2/ Mao Sơn Tông
Mao
Sơn Tông là tên một giáo phái phổ biến của Đạo giáo, lấy Mao Sơn (núi cỏ mao),
nằm ở giữa hai huyện Kim Đàn và Cú Dung của tỉnh Giang Tô, làm tổ đình. Mao Sơn
có tên xưa là Cú Khúc Sơn, Địa Phế Sơn, Cương Sơn, Kỷ Sơn. Đây là ngọn núi
thuộc hàng động thiên phúc địa nổi tiếng.
Đào
Hoằng Cảnh là người đời Nam – Bắc triều vốn tính thông minh hiếu học từ nhỏ,
lên 4 lên 5, đã bắt đầu lấy cọng lau làm bút vẽ trên tro; lên 10 đọc ‘Thần tiên
truyện’ của Cát Hồng, chịu ảnh hưởng rất nhiều của ông này. Sau khi nhà Nam Tề
thành lập, ông vào triều làm chúc Thị độc cho các vua, được vua quan ưa chuộng,
là tổ sư đời thứ 9 của Thượng Thanh Phái (không chú trọng phù lục). Năm Vĩnh
Minh thứ 10 (492), ông từ chúc về ở ẩn nơi núi Mao Sơn, chuyên lo luyện đơn và
chú thuật, cặm cụi suốt 40 năm sáng lập ra Mao Sơn Tông (coi trọng phù lục),
lại lấy tên núi làm tên giáo phái. Trong thời gian này, triều đình lần lượt mời
ông ra làm quan, ông đều không nhận. Nhưng vì học vấn của ông uyên bác, mối
quan hệ của ông với hoàng thất rất mật thiết, cho nên mỗi khi quốc gia có việc
lớn đều đến hỏi ý kiến ông. Vì vậy người đương thời gọi ông là ‘Tể tướng ở
trong núi’ (Sơn trung tể tướng). Ông học rộng, nhiều tài, ngoài việc tinh thông
bản thảo, y thuật đều có nghiên cứu về thiên văn, lịch pháp, sơn xuyên, địa lý,
họa đồ vật sản, luyện đơn, đúc kiếm, v.v... Ông lại còn giỏi cầm kỳ, khéo viết
chữ thảo, chữ lệ, chế tạo được ‘hỗn thiên tượng’ (một loại máy để xem thiên
văn). Ông một đời viết sách kể có 44 loại, sách về y dược có ‘Bản Thảo Kinh Tập
Chú, ‘Ngoại Khuyết Trửu Hậu Bách Nhất Phương’, là một trong tứ đại thần y trong
lịch sử Trung Hoa.
Mao
Sơn được mọi người biết đến với uy danh đệ nhất khưu tà trừ ma, pháp thuật thần
thông quản đại cao siêu và còn lập đàn, bố trận pháp. Mao Sơn phái có các đời
tông sư rất nổi tiếng, qua nhiều thời, sáng tạo ra những pháp thuật xuất chúng,
có ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa đạo giáo Trung Hoa. Là một môn phái lớn với
những pháp như: Hành thông linh pháp (đi xuyên âm giới), Thiên nhãn thông,
Luyện thi, Thần phù ... Ngoài những pháp thuật kể trên Mao Sơn cón có những
trận pháp vô cùng huyền diệu như: Cửu đăng liên hoa trận, Cửu tiền bôi đỉnh
trận, Bát quái trận,... Cho đến nay Mao Sơn không cón phát triển rộng rãi như
ngày xưa, do quá trình hiện đại hóa của xã hội, nhưng vẫn còn những người biết
và tìm đến học đạo thuật Mao Sơn. Ngày nay Mao Sơn thuật được biết đến rộng rãi
qua phim ảnh, tiểu thuyết, đặc biệt là loạt phim cương thi do Lâm Chánh Anh, cố
diễn viên nổi tiếng chuyên vào vai đạo sĩ trừ tà hồi thập niên 80 – 90 của điện
ảnh Hồng Kông.
*
ĐOÀN
MẠNH THẾ
Địa chỉ: Số nhà 12 Ngách 32 Ngõ 133 phố Hồng Mai
quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
Điện thoại: 039.627.97.29
.
…………………………………………………………………………
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày
15.10.2017.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng
Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét