BÚT PHÁP KÝ
SỰ CỦA LÊ HỮU TRÁC
QUA ĐOẠN
TRÍCH ‘VÀO PHỦ CHÚA TRỊNH’
*
Lê Hữu Trác
xuất thân trong một gia đình quí tộc, giỏi binh thư, võ nghệ. Làm quan dưới
thời chúa Trịnh được một thời gian, ông nhận thấy xã hội thối nát, cương thường
lỏng lẻo, nhân khi người anh ở Hương Sơn mất (1746), ông liền viện cớ cáo quan
về nuôi mẹ già. Từ đó ông chuyên nghiên cứu y học vừa chữa bệnh cứu đời, vừa
soạn sách, mở trường dạy học truyền bá y đức, y lí, y thuật. (Tác giả Trần Thiện Khanh)
Ngày 12
tháng Giêng năm Cảnh Hưng 43 (1782), Lê Hữu Trác nhận được lệnh chúa triệu về
kinh xem mạch, kê đơn chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Sau đó một thời gian thì
chữa bệnh cho chúa Trịnh Sâm. Những điều Lê Hữu Trác mắt thấy tai nghe trong
chuyến đi từ Hương Sơn ra Thăng Long đã thôi thúc ông cầm bút. Năm 1783 ông
viết xong tập Thượng kinh kí sự bằng chữ Hán. Tập kí sự này là một
tác phẩm văn học đích thực, đặc sắc giá, có giá trị sử liệu cao. Đoạn trích
“Vào phủ chúa Trịnh” trong sách Ngữ văn 11-Nâng cao, tập 1
(Nxb Giáo dục, H.2007) thể hiện được đầy đủ những nét độc độc đáo trong bút
pháp kí sự của Lê Hữu Trác.
Như đã
biết kí là tên gọi chung cho một nhóm thể loại có tính giao thoa giữa
báo chí với văn học. Kí viết về cuộc đời thực tại, viết về người thật, việc
thật, kí đòi hỏi sự trung thực, chính xác. Người viết kí thường quan
tâm, tôn trọng những sự kiện xã hội lịch sử, những vấn đề nóng bỏng đương đặt
ra trong đời sống. Người viết kí miêu tả thực tại theo tinh thần của sử học.
Mẫu hình tác giả kí gần gũi với nhà sử học. Tác giả kí coi trọng việc
thuật lại có ngọn ngành, có thời gian, địa điểm, hành động, và không bao giờ
quên miêu tả khung cảnh, gợi không khí. Tác giả kí khéo sử dụng tài liệu đời
sống kết hợp với tưởng tượng, cảm thụ, nhận xét, đánh giá. Kí bao gồm nhiều thể
văn như bút ký, ký sự, phóng sự, du kí, hồi kí, nhật kí, tuỳ bút... Trong
số đó kí sự thiên về ghi chép chi tiết, tỉ mỉ sự việc câu chuyện có
thật. Tất nhiên đan xen vào mạch tự sự còn có những đoạn thể hiện
suy tưởng nhận xét chân thực, tinh tường của nhà văn trước sự việc. Cái thú vị
của ký là ở những ý riêng, suy nghĩ riêng của tác giả.
Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” vẽ lại một bức
tranh sinh động về cuộc sống xa hoa quyền quý của chúa Trịnh. Lê Hữu Trác sử
dụng người trần thuật ngôi thứ nhất, trực tiếp tiếp cận cung cách sinh hoạt xa
hoa của chúa Trịnh. Miêu tả - tỏ lòng kết hợp chặt chẽ với nhau, “miêu tả hiện thực thì quan sát tinh tường,
tỏ lòng thì thành thực trung hậu, uyển chuyển, kín đáo”. Ngôn từ đậm chất
đời thường và giàu hình ảnh chứ không còn đậm tính ước lệ, tượng trưng và giàu
điển tích điển cố nữa. Nhà văn quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực, tả cảnh
sinh động, thuật việc khéo léo, lôi cuốn sự chú ý của người đọc. Thủ pháp
đối lập được sử dụng hiệu quả, góp phần làm nổi bật hai thế giới: thế giới
vương giả sang trọng và thế giới quê mùa, giản dị, thế giới của người áo vải trong
sáng và thế giới của quan quyền vẩn đục. Biện pháp liệt kê kết hợp với sự
phân tích, phẩm bình sắc sảo làm tăng chất trữ tình cho một bức tranh hiện
thực toàn vẹn về quang cảnh và cung cách sinh hoạt nơi phủ chúa.
Bút pháp kí
sự (du kí, nhật kí, hồi kí...) kết hợp và hoà lẫn với bút pháp châm
biếm văn khoa học xen kẽ văn trữ tình; suy nghĩ biện luận lồng với
phản ánh thực tại, thuật sự và miêu tả thế giới hiện thực được bổ sung bằng
những diễn biến nội tâm của chủ thể quan sát, cảm quan cá nhân vượt thoát khỏi
rào cản người thật việc thật đạt đến yêu cầu khái quát với một giá trị thẩm mỹ
cao... Tất cả điều đó tạo thành những nét đặc sắc trong nghệ thuật viết kí của
nhà văn. Tình huống đấu tranh nội tâm được triển khai hợp lí tôn thêm
nhân cách cao đẹp của người thầy thuốc giỏi Lê Hữu Trác. Ban đầu Lê Hữu Trác
nghĩ tới một phương thuốc cầm chừng, vô thưởng vô phạt nhằm tránh đi sự trói
buộc của lợi danh, quyền thế. Ngay trong tâm tưởng nhà văn đã diễn ra sự giằng
co, xung đột giữa sở thích cá nhân và y đức, lương tâm. Cuối cùng lương tâm,
phẩm chất trung thực của người thầy thuốc đã thắng. Con người nhân đức ở
Lê Hữu Trác luôn tỉnh táo để có hành động sáng suốt như dám quên đi sở
thích cá nhân để làm tròn trách nhiệm cứu người, thẳng thắn trung thực khi nhận
xét bệnh trạng của thế tử, lập luận về phương thuốc chữa bệnh chặt chẽ, thuyết
giải về y lí sâu sắc, táo bạo...
Mở đầu đoạn
trích là một sự kiện cụ thể, chân thực. Tính chất kí trong bút pháp của Lê Hữu
Trác thể hiện rõ ở cách ghi tỉ mỉ sự việc, thời gian. Nhà văn kết hợp biện
pháp kể khách quan với nghệ thuật gợi không khí nhằm làm
nổi bật hành động khẩn trương, gấp gáp của nhân vật: “Mồng một tháng 2.
Sáng tinh mơ, tôi nghe tiếng gõ cửa rất gấp. Tôi chạy ra mở cửa. Thì ra một
người đầy tớ quan Chánh đường”... Rõ ràng, Lê Hữu Trác không chỉ chú trọng ghi
việc, diễn ý mà còn tái tạo sự sống trong tính hoàn chỉnh của nó. Ở đây “trong
việc có người”, người gắn chặt với cảnh, với môi trường hoạt động cụ thể.
Câu văn của Lê Hữu Trác ngắn gọn, giàu thông tin, được viết ra một cách nhẹ
nhàng, tự nhiên, không một chi tiết thừa. Lời văn giản dị, “chắc mà bay bổng”,
vừa “truyền cảm” vừa truyền nhận thức. Người đọc có thể hình dung được rất rõ
một cảnh huống đặc biệt đang xảy ra.
Lần theo
mạch tự sự, người đọc cũng có cảm giác hồi hộp lo âu rồi bất ngờ
nhận ra một cái gì gần gũi quen thuộc như cảm nhận của nhân vật “Tôi” trong tác
phẩm này. Trước mắt ta là hình ảnh nhân vật tôi đã dừng bước với tâm trạng ngạc
nhiên, thoáng một chút thất vọng. Nhịp kể đột ngột chậm lại để ghi người, ghi
việc rõ nét hơn, đầy đủ hơn. Hai chữ “thì ra” vừa diễn tả được tâm
trạng người viết, tạo ấn tượng về sự khám phá, vừa gọi ra được
người thật, việc thật. Nhân vật tôi không hiện ra qua hình dáng cụ thể. Trước
hết anh ta xuất hiện qua giọng nói, qua cảm nhận về âm thanh, và rõ hơn ở hành
động. Nhân vật tôi xuất hiện với tư cách một người trong cuộc, trực tiếp tham
gia, liên quan đến sự việc được miêu tả trần thuật lại. Vì thế ngay từ đầu
truyện người đọc đã có cảm giác đây không phải là câu chuyện hư cấu, mà chính
là bức tranh cuộc sống đang hiện hữu .
Khi tự sự,
tả người, tác giả không vay mượn những khuôn mẫu, chất liệu có sẵn mà hướng tới
khai thác chất liệu đời thường, đời tư. Ở đây lời đối thoại của nhân vật người
đầy tớ được thể hiện một cách tự nhiên, đúng với vị thế chức phận của hắn: “có
thánh chỉ triệu cụ vào. Quan truyền mệnh hiện đang ở nhà cụ lớn con, con vâng
mệnh chạy đến đây báo tin...”.
Lê Hữu Trác
coi trọng việc kể lại có ngọn ngành, chuộng sự thực, ưa sắp xếp sự việc cho đầy
đủ mạch lạc có đầu có cuối, nên dường như cứ một đoạn hay một câu nói về hành
động của tên đầy tớ lại là lời tự thuật về hành động, cảm nhận của Lê Hữu Trác:
“Nghe tiếng gõ cửa... tôi chạy ra...”,
“người đầy tớ nói... tôi bèn”, “tên đầy tớ chạy... tôi bị xóc một mẻ, khổ
không nói hết”. Mạch văn chặt chẽ nhờ sự thể hiện thành công cái lô gíc
nhân quả của sự kiện, hành động. Ban đầu ta tưởng như nhân vật tôi là người chủ
động, nhưng càng đọc càng thấy nhân vật tôi bị cuốn vào hết sự việc này đến sự
việc khác.
Mở đầu đoạn
trích cấu trúc câu văn ngắn gọn, dần dần được mở rộng hơn. Dường như mỗi câu là
một tâm tình, cảm nhận, một sự việc, hành động. Người đọc vừa đồng cảm với nỗi
vất vả và hành động bất đắc dĩ của nhân vật tôi vừa đồng tình với Lê Hữu Trác ở
thái độ mỉa mai châm biếm sự lộng quyền, tiếm lễ của chúa Trịnh Sâm lúc bấy
giờ.
Quang cảnh
và cung cách sinh hoạt trong phủ chúa được ghi lại khá tỉ mỉ qua con mắt quan
sát của một thầy thuốc lần đầu tiên bước chân vào thế giới mới lạ. Không
gian nghệ thuật của tác phẩm ngày càng được mở rộng hơn theo bước
chân, và cách nhìn của nhân vật xưng Tôi. Bức tranh toàn cảnh về phủ chúa Trịnh
không chỉ có bề rộng mà còn có chiều sâu, với một sức gợi mạnh mẽ.
Theo nhân
vật Tôi quang cảnh ở phủ chúa cực kì xa hoa, tráng lệ, không ở đâu sánh
bằng: Khi vào phủ phải qua nhiều lần cửa với những hành lang quanh co
nối tiếp nhau, ở mỗi cửa đều có vệ sĩ canh gác. Khuôn viên phủ
chúa rộng, có trạm dừng chân được kiến trúc thật kiểu cách, với cảnh trí thiên
nhiên kì lạ. Trong vườn, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa
thoang thoảng mùi hương. Bên trong là những Đại đường, gác
tía với kiệu son, võng điều, đồ dùng của chúa được son son thiếp vàng, đồ
dùng tiếp khách ăn uống cũng đều là mâm vàng, chén bạc, của ngon vật lạ... Đến
nội cung của thế tử phải trải qua 6 lần trướng gấm. Nơi ở của thế tử rất
sang trọng, có sập thếp vàng, ghế rồng bày nệm ấm, xung quanh lấp lánh, hương
hoa ngào ngạt... Đoạn tả cảnh nội cung thế tử khá kĩ lưỡng vừa có giá trị hiện
thực đặc sắc - tái hiện một cuộc sống âm u, thiếu sinh khí, thiếu sự sống, sức
sống - vừa đảm nhận chức năng tạo ra cái lí thuyết phục các nhận xét của Lê Hữu
Trác ở đoạn văn này.
Lê Hữu Trác
khéo kết hợp tả tập trung với điểm xuyết, chọn lọc được những chi tiết đắt nói
lên quyền uy tối thượng cùng nếp sống hưởng thụ cực kì xa xỉ của gia đình chúa
Trịnh Sâm. Giọng kể khách quan, trang nghiêm, đan xen với thái độ ngạc nhiên và
hàm ý phê phán kín đáo chúa Trịnh. Nhà văn khéo kết hợp giữa văn
xuôi và thơ ca. Bài thơ vịnh cảnh, tả việc của Lê Hữu Trác ý tứ sâu xa, lời thơ
hóm hỉnh, ẩn giấu một nụ cười châm biếm, mỉa mai. Lời nhận xét của tác giả khá
đa dạng: Trước tiên Lê Hữu Trác đánh giá khái quát vẻ đẹp. Tiếp
theo nhận xét về cảnh giàu sang. Tiếp nữa nêu ấn tượng về cách bày
trí, kiến trúc kiểu cách. Nhà văn dừng lại bình giá tỉ mỉ, sắc sảo các đồ
dùng xa hoa từ nhà Đại đường đến Gác tía. Lời đánh giá nào của lê Hữu Trác
cũng đích đáng, tinh tế và có chừng mực. Nói tác phẩm giàu chất trữ
tình là vì thế.
Tác giả quan
sát các công trình kiến trúc, cảnh trí thiên nhiên qua hình
khối, dáng vẻ kích cỡ, tả khuôn viên chủ yếu qua những ấn tượng về
hương thơm âm thanh, kể về mức độ xuất hiện của thị vệ, quân sĩ để
nhấn mạnh vẻ trang nghiêm của nơi đây. Lê Hữu Trác đặc biệt ưa tả đường
đi, lối vào phủ chúa. Ta có cảm tưởng đằng sau mỗi cánh cửa là một bức
tranh. Đoạn trích gồm nhiều bức tranh với những mảnh màu tối sáng, nhạt đậm
khác nhau, nối liền nhau.
Qua mấy lần
cửa đầu tiên, trước mắt tác giả giống như một cảnh tiên huyền ảo, cây cối um
tùm, hương hoa thơ mộng. Đi tiếp, cảnh giàu sang của phủ chúa được bày ra
chân thật, đầy đủ hơn. Càng đi sâu vào trong, Lê Hữu Trác càng có dịp quan
sát không gian nội thất, không gian cao rộng của lầu gác với các đồ nghi trượng
sơn son thếp vàng, nhất là được biết cái phong vị của nhà đại gia. “Vào phủ
chúa Trịnh” là một quá trình tiếp cận, miêu tả sự thật đời sống xa hoa vương
giả hơn là thăm bệnh, chữa bệnh. Thăm bệnh, chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán
tưởng chỉ như một cái cớ, một dịp may giúp người viết kí hoàn thiện
bức tranh về cuộc sống thâm nghiêm, giàu sang đầy uy quyền.
Lê Hữu Trác
tập trung bút lực xây dựng nên một không khí khẩn trương nhộn nhịp. Trong
phủ chúa người có việc quan qua lại như mắc cửi. Xung quanh chúa luôn có phi
tần chầu trực. Khi Thế tử bị bệnh có đến bảy tám thầy thuốc phục dịch. Nhân vật
Tôi đến thăm bệnh thì không được phép xem mặt chúa, chỉ biết làm theo mệnh lệnh
do quan Chánh đường truyền đạt lại. Xem bệnh xong cũng không được phép đối
thoại, bộc lộ chủ ý trực tiếp trước chúa mà phải viết tờ khải để quan Chánh
đường dâng lên... Tất cả cung cách sinh hoạt với những lễ nghi khuôn phép ấy,
chứng tỏ sự cao sang và quyền uy tột đỉnh của nhà chúa. Cái tài của
Lê Hữu Trác ở chỗ: ông đã để cho sự việc tự nói lên tất cả ý nghĩa của
mình.
Lê Hữu
Trác tổ chức điểm nhìn trần thuật linh hoạt. Có đoạn sự việc
được kể theo quan sát của nhân vật xưng tôi. Có đoạn nhà văn để
cho nhân vật quan truyền chỉ miêu tả, giới thiệu. Người đọc có cảm
tưởng không chỉ có Lê Hữu Trác dẫn ta vào phủ chúa để tự do quan sát
ngắm nhìn mà cả những kẻ hầu cận chúa cũng đưa ta thâm nhập, khám phá
sự thật ở “Đông cung”. Những đoạn nhân vật tôi độc thoại toát lên cái
nhìn sắc sảo và sự cảm nhận tinh tế. Những đoạn kể tả, cho thấy nhân
vật tôi bao quát được một không gian rộng lớn, nắm bắt được thần thái, bản chất
của sự vật hiện tượng. Trong tư cách một người thầy thuốc quê mùa, nhân vật tôi
luôn tỏ ra là một người hoà nhã kính nhường, ham học hỏi y thuật của đồng
nghiệp. Sự đối lập về vị thế so với các vị lương y của sáu cung hai viện,
không khiến nhân vật tôi trở nên nhỏ bé, trái lại càng tôn cao hơn nhân cách và
tài năng của nhân vật này. Vẻ đông đúc của lương y nơi triều đình tự phơi bày
hết sự thực ở phủ chúa đang tồn tại một hệ thống quan lại bất tài, ăn bám.
Các nhà nho
xưa ít khi nói về mình. Nhưng trong đoạn trích này, tác giả đã không ngần ngại
để cái “Tôi” đóng một vai trò quan trọng. “Vào phủ chúa Trịnh” thể hiện trực tiếp cái tôi cá nhân người
cầm bút. Qua đoạn trích ta thấy tác giả Lê Hữu Trác là một thầy thuốc giàu kinh
nghiệm. Bên cạnh tài năng ông còn là một thầy thuốc có lương tâm và đức độ,
không bao giờ để công danh tiền bạc trói buộc. Lê Hữu Trác xem nghề thuốc là
thiêng liêng cao quí, người làm thuốc phải nối tiếp lòng trung của cha ông mình,
phải luôn giữ đức cho trong, giữ lòng cho sạch. Lê Hữu Trác yêu thích tự do,
nếp sống thanh đạm, giản dị do đó đã vượt lên trên những danh lợi tầm thường mà
ở đời thường lắm kẻ đua chen. Ông trở về hành đạo cứu đời với tâm hồn nghệ sĩ:
“Ngày ngày xem bệnh vừa xong/ Đêm đêm tựa
bóng trăng trong gảy đàn”. Ông quan niệm: “Thiện tâm cốt ở cứu người. Sơ tâm nào có mưu cầu chi đâu/ Biết vui,
nghèo cũng hơn giàu/ Làm ơn nào phải mong cầu trả ơn”...
*.
TRẦN THIỆN
KHANH
Địa chỉ: Viện Văn học, số nhà 20 Lý Thái Tổ
quận Hoàn
Kiếm, thành phố Hà Nội.
Email: phebinhvanhoc@gmail.com
Điện thoại: 091.797.32.31
.
.............................................................................................................
- Cập nhật từ email: huongmai8081@yahoo.com, ngày 29.01.2021.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích
đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét