HẬU BÁO ‘VĂN NGHỆ’
VÀ ‘NỖI BUỒN CHIẾN
TRANH’ (kỳ 2)
Đại hội Nhà văn lần thứ IV, họp từ ngày 28-10 đến 1-11- 1989 thì quả là
một đại hội “hậu báo Văn nghệ”. Trong “Hòa bình khó nhọc” tôi đã kể khá rõ việc
trước đại hội ông Đào Duy Tùng “mời tôi đến chơi” ở trụ sở Ban Bí thư Trung
ương Đảng, đường Nguyễn Cảnh Chân ngày đêm có công an gác chặt ở hai đầu. Cảm
giác của tôi là hơi buồn cuời: ông ấy, ủy viên Bộ Chính trị phụ trách tư tưởng,
ông ấy sợ. Đại hội họp quá gần với vụ báo VĂN NGHỆ. Họ sợ đây sẽ là cơ hội bùng
nổ phản ứng rộng rãi, dữ dội và ồn ào việc họ xử lý báo VĂN NGHỆ, đến lúc này
hãy còn nóng bỏng. Ông Tùng hỏi tôi nghĩ gì về đại hội lần này. Câu hỏi ngớ
ngẩn và vụng về, tại sao lại hỏi tôi, người mới bị thanh trừng. Rõ ràng ông sợ
tôi đứng ra hoặc anh em lấy tôi làm “một ngọn cờ” (!) để nổi dậy thì sẽ khó cho
các ông quá. Tận dụng luồng gió còn có ít mùi dân chủ của Đại hội Đảng lần thứ
VI, các nhà văn đã đòi và đòi được họp đại hội toàn thể chứ không phải đại hội
đại biểu như các lần trước để cái gọi là hệ thống chính trị loại đi bớt những
người họ không ưa. Anh em cũng đã đòi được quyền đại hội bầu trực tiếp Tổng thư
ký. (Cũng xin nói luôn, trước đây có tục không thành văn, hội nào có nhân vật
thuộc loại khai quốc công thần tham gia ban lãnh đạo thì mới bầu người gọi là
Chủ tịch, như Hội Nhà văn có thời cụ Nguyễn Công Hoan làm Chủ tịch, dưới ông
mới đến Nguyễn Đình Thi là Tổng thư ký. Sau đó lại trở lại chỉ có Tổng thư ký.
Bây giờ thì Chủ tịch tất, lệ mới không biết ra đời từ bao giờ, nhưng mà nhớ lại
từng có lúc dự định – hẳn phải là của Bộ Giáo dục – ngay từ lớp Một, lớp Hai,
các cô cậu nhóc con trưởng lớp sẽ được gọi là Chủ tịch lớp kia mà, “cái nước
mình nó thế” anh Hoàng Ngọc Hiến nói rồi).
Tôi không trả
lời câu hỏi đầy lo lắng của ông Tùng, chỉ nói cái đại hội này, và thậm chí cả
cái Hội Nhà văn của nhà nước kia chẳng có gì quan trọng lắm đâu, ông và các ông
chớ có lo. Đúng ra đừng có nó là hơn. Nguyễn Huy Thiệp viết hay không dính dáng
chút nào đến sự lãnh đạo Đảng đoàn của tôi, tôi viết dở chẳng hề do tội ông
Nguyễn Đình Thi làm Tổng thư ký. Tôi nói một chuyện khác, theo tôi quan trọng
hơn nhiều. Và tôi nói với ông, nghiêm túc, trong gần một tiếng, về sự xuống cấp
trầm trọng ở tầng lớp trí thức nước ta bị Đảng liên tục vùi dập bao phen và
bằng nhiều cách. Với một nền tảng của một tầng lớp trí thức ưu tú của dân tộc
xuống cấp và bị ĐẢNG KHINH BỈ SÂU SẮC như anh Nguyễn Đăng Mạnh đã nói thẳng với
Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh trong cuộc gặp mặt nổi tiếng, thì đừng hòng có một
nền văn học lớn như ta cứ muốn đòi vống lên… Tôi không tin ông Tùng hiểu lắm ý
kiến và mối lo thật sự của tôi. Ông còn lo thậm chí đại hội bầu tôi làm Tổng
thư ký.
Trước đại hội
ít lâu, Nguyễn Khoa Điềm ở Huế ra có đến nhà tôi chơi. Có lần tôi làm trưởng
đoàn nhà văn Việt Nam đi thăm Liên Xô, thành viên có Nguyễn Khoa Điềm và hình
như cả Lê Văn Thảo, nên tôi có hiểu Điềm. Hôm ấy ở nhà tôi, tôi có nói với anh
lần này Điềm phải ra làm Tổng thư ký đi. Theo tôi, Điềm là người hiểu biết hơn
cả, có kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý, và là người đàng hoàng. Nếu Điềm không
làm, tôi dự đoán tình hình sẽ như thế này: tôi thì chắc chắn không bao giờ
người ta để cho tôi làm. Còn mấy người có thể làm được, Nguyễn Quang Sáng thì
nhất định không chịu ra Hà Nội đâu, anh ấy tốt nhưng là người thích tự do ăn
chơi, rượu chè, gái gú, sẽ không chịu bỏ Sài Gòn mà đi. Nguyễn Khải rất có năng
lực và tốt, nhưng lại lười, không muốn làm người đứng đầu gánh vác. Tôi rất e
người ta sẽ chọn một nhân vật sao cũng được, kiểu Vũ Tú Nam chẳng hạn. Sẽ rất
buồn và nhạt nhẽo cái hội dẫu sao ta vẫn cứ phải đành hy vọng. Hai anh em trò
chuyện khá lâu. Điềm nhất định từ chối. Anh bảo để anh đi con đường của tỉnh
chắc hơn. Lúc bấy giờ anh đang làm Phó Bí thư tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế. Tôi
hiểu. Cả sau này, có lần sang làm Tổng thư ký Hội Nhà văn, anh vẫn giữ chắc
chân cùng lúc làm luôn Bộ trưởng Bộ Văn hóa. Con đường ấy rõ ràng và suôn sẻ
hơn, cứ thế mà lên. Ở đại hội, khi bầu cử, anh xin rút tên khỏi danh sách ứng
viên.
Hội Nhà văn
được coi là hội quan trọng hàng đầu, bao giờ cũng được họp ở hội trường Ba
Đình, cũng có một vị rất cao đến dự khai mạc và đọc diễn từ chào mừng. Lần này
lại đặc biệt đáng lo, hội viên cả nước về, trông chừng khí thế rất hăng rất
“dữ”, nghe bảo lúc nào cũng có một ông ủy viên Bộ Chính trị ngồi giấu mình theo
dõi phía sau màn sân khấu, không biết có đúng không. Trí nhớ tôi tồi, tôi không
nhớ những ông quan trọng nào đã đến đại hội.
Vừa rồi có
anh em nhắc chính ông Lê Đức Thọ cũng có đến, và nhân khi ông đến, Phạm Tường
Hạnh liền xông lên diễn đàn kêu cứu và hung hăng tố cáo đám đổi mới.
Nguyễn Duy mô
tả cảnh đó:
“Phạm Tường
Hạnh vứt văn chương
vọt lên đánh
hụt một đường đại đao”
Anh ta gào lên:
“… ối giời
ơi! bác Sáu (Thọ] ơi!...
nhà ta nó phá
tan rồi còn đâu…”.
Anh em còn
nhắc chuyện ông Trần Trọng Tân chăm chỉ một cách bất thường, bỏ nhà đến ăn ngủ
ngay tại nhà khách 37 Hùng Vương, nơi đại biểu các nơi về ở mấy ngày đại hội,
để dò la tình hình chuẩn bị đói phó. Cũng không ngờ họ sợ đến vậy…
Còn những
người đầu tiên ngạc nhiên về đại hội là các nhân viên phục vụ và bảo vệ ở hội
trường Ba Đình. Chưa bao giờ họ thấy tụ hội ở cái nơi long trọng nhất nước này
một đám đông gọi là đại biểu những 396 người hết sức ồn ào và mất trật tự, ăn
mặc đủ kiểu đủ mốt, nói năng ngang tàng, mà lại nghèo đến thế. Tuyệt đối toàn
xe đạp, không ô tô đã đành, chỉ duy nhất một nguời là ông nhà văn đại tá Hồ
Phương cưỡi chiếc xe máy Peugeot từ đời nảo đời nào của Tây, được coi là kỳ
quan.
Tôi không nhớ
người ta đã làm những gì ở đại hội để mà họp được lâu thế, những năm ngày, từ
28 tháng 10 sang tận mồng 1 tháng 11. Gọi là đại hội nhà văn nhưng hầu như
chẳng mấy ai nói thật sự về những vấn đề sâu sắc của văn học. Công kích nhau là
chính, hoặc sỗ sàng dao búa hoặc thâm thúy cay chua. Tất nhiên có phản đối mạnh
mẽ vụ xử lý báo VĂN NGHỆ, trong khi Nguyễn Đình Thi và Chính Hữu im re như
không nghe thấy. (Thậm chí đến cuối buổi bế mạc, Nguyễn Đình Thi bỗng bất ngờ
bước tới ôm hôn tôi thắm thiết)… Còn thì chủ yếu hướng đến chuyện bầu bán, hoặc
ngầm ám chỉ đến chuyện bầu ai, loại ai.
Tôi không để
ý, nhưng về sau Hữu Mai có lần bảo tôi: “Cậu thấy không, tất cả những người rốt
cuộc được bầu vào Ban Chấp hành đều im lặng, không ai phát biểu câu nào suốt
năm ngày cực kỳ ồn ào ấy. Im lặng là vàng…”.
Mấy câu của
Nguyễn Duy trích ra ở trên là trong bản trường ca rất hay của anh “Nhìn từ gần
đại hội nhà văn”. Trong tác phẩm bi hài ấy, anh chia đại hội ra thành hai phe
mà anh gọi là hai phái, “phái vui tươi” tức đám cải cách, và “phái hằm hằm” tức
đám bảo thủ. Nhìn chung phái vui tươi đông hơn, tươi cười, hớn hở, rất thoải
mái, tự do và tài tử; thường bỏ hội trường xuống căng-tin uống bia, thậm chí bỏ
đi chơi đâu đó, thích thì trở về xông lên diễn đàn, ăn nói hùng hồn. Tất nhiên
cũng có người nhỏ nhẹ, mà nghe kỹ sắc tựa dao, như Trần Thùy Mai, con gái Huế
mà lại! Có chuyện anh Trần Độ đi công tác vắng, gửi lại đại hội một bức thư
thẳng thắn và nghiêm trang, Chủ tịch đoàn có Nguyễn Đình Thi và Trần Bạch Đằng
lúng túng không muốn công bố. Anh Nguyễn Văn Hạnh, là Phó Ban Văn hóa Văn nghệ
của anh Độ liền bước lên diễn đàn đọc thư anh Độ. Trong trường ca đặc sắc viết
nhại theo “Chinh phụ ngâm” của mình, Nguyễn Duy ghi lại khoảnh khắc “lịch sử” ấy
như sau:
“Trần Độ biến
nơi nào chẳng thấy
thấy phất phơ
có mấy tờ thư
phấp pha phấp
phới ngôn từ
đoàn Chủ tịch
cứ ậm ừ mần thinh
(…)
Nguyễn Văn
Hạnh một mình một ngựa
phá trùng vây
ở giữa sa tràng
quyết lòng mở
ruột phơi gan
đã vì đồng
đội gian nan sá gì…”.
Đọc xong,
Nguyễn Văn Hạnh lại có thêm mấy lời ngắn của mình. Thư anh Độ và phát biểu của
Hạnh được đông đảo vỗ tay rào rào.
Cũng còn cách
vỗ tay khác, anh nào nói linh tinh và dông dài thì bị phái đối lập vỗ tay kèm
la ó đuổi xuống…
Quan trọng
nhất tất nhiên là đoạn bầu cử, vào buổi chiều của ngày thứ tư. Không khí rất
căng, nhiều người cứ lân la quanh ban kiểm phiếu do Trần Hữu Tòng đứng đầu,
nghe ngóng kết quả. Đại hội nhà văn bao giờ cũng kỳ, lần trước chỉ tròm trèm
300 hội viên, đã bầu ra một Ban Chấp hành hơn 40 người, lần này đại hội toàn
thể gần 400 hội viên lại bầu lần thứ nhất chỉ được có sáu người, theo số ghi
chép của Kim Cúc vốn là nhà báo rất cẩn thận, Nguyễn Quang Sáng cao nhất 203
phiếu, thứ hai đến Xuân Cang 189 phiếu, thứ ba là tôi 188 phiếu, rồi lần lượt
đến Hữu Thỉnh, Vũ Tú Nam, cuối cùng là Chính Hữu 178 phiếu. Đại hội quyết định
dừng lại ở đây đã, sáng mai sẽ bầu tiếp, ít nhất cũng phải được cho đủ chín
người. Kỳ thực lúc đó cũng chưa muộn lắm, thậm chí làm thêm lậm vào buổi tối
một ít cũng chẳng sao, nhưng về sau mới rõ vì sao mà đã có cái quyết định tạm
dừng đó: sáu người vừa được bầu bất ngờ được lệnh Ban Bí thư Trung ương Đảng
gọi sang họp ngay ở trụ sở bên Nguyễn Cảnh Chân. Kết quả bầu sáu người vừa rồi,
có vẻ phái vui tươi hơi lấn át, vả lại còn chuyện bầu trực tiếp Tổng thư ký
nữa, “lãnh đạo” lo, thấy cần chỉ đạo ngay.
Từ hội trường
Ba Đình sang Nguyễn Cảnh Chân chỉ mấy trăm mét, chúng tôi đi bộ sang.
Vừa đến cổng
số 4 Nguyễn Cảnh Chân, tôi gặp ngay một người quen từng gần gũi, biết khá rõ về
nhau và khá thân từ những năm chiến trường: anh Trần Kiên, lúc này đang là ủy
viên Ban Bí thư, Trưởng ban Kiểm tra Trung ương Đảng. Anh Kiên nắm tay tôi:
"Khoan vô đã, tao có chút chuyện muốn dặn mày…".
Cho phép tôi
tạm dừng lại đây, để nói về anh Trần Kiên, một nhân vật rất đặc biệt, ngày ấy
đã hiếm, bây giờ thì chắc không còn (…). Sau 1975 anh Kiên còn trụ ở Tây Nguyên
khá lâu, rồi lại ra làm Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp. Bố trí như thế nghe rất phải
thôi, còn ai hiểu Tây Nguyên và hiểu rừng hơn anh. Vậy mà thật nghịch lý, chính
anh lại là một trong những người phá rừng Tây Nguyên nặng nề nhất. Đúng ra thời
ấy có chủ trương từ trung ương nay nghĩ lại thật kỳ quặc: dùng Tây Nguyên để
giải quyết vấn đề lương thực cho cả nước. Thậm chí có chủ trương đổi một héc ta
rừng lấy một héc ta lúa hay sắn, mà đâu chỉ một héc ta, hàng nghìn, hàng nghìn.
Tôi lên Đakglei, thấy một công ty của quận 5 Sài Gòn đang khai thác gỗ ở đấy,
tôi nói với anh Kiên thế này thì chết thôi anh ơi, còn gì rừng. Anh bảo cần thì
phải làm thôi, đổi rừng lấy cái ăn cho dân đang đói đã… Vậy đó, tác giả của
những tai họa hầu như không còn cứu chữa được ấy lại chính là những con người
vô cùng trong sạch, tận tụy, có tính kỷ luật cao nhất, và càng lạ hơn nữa, như
anh Kiên, một người rất chân thành ham học và cực kỳ thông minh.
Trên đường
hai anh em cùng đi từ Bắc vào Nam, anh thường thật thà rỉ rả hỏi tôi mình đánh
nhau với bao nhiêu kẻ thù, phải thường xuyên giáo dục kiên định quan điểm bạo
lực, vậy tại sao lại còn cho chiếu những bộ phim “xét lại” kiểu như “Đàn sếu
bay qua”, “Người thứ 41”, “Trái tim trong ba lô”… của Liên Xô và các nước Đông
Âu theo anh là đầy rẫy tư tưởng hòa bình chủ nghĩa có hại. Tôi kiên trì giải
thích cho anh, thấy anh im lặng lắng nghe, hình như cũng có khiến anh đỡ thắc
mắc đôi chút.
Hôm vào đến
Sài Gòn, tôi có rủ anh đến thăm anh Hoài Vũ. Sài Gòn vốn có đến mấy triệu người
Hoa, nên ngoài bản tiếng Việt, báo “Sài Gòn giải phóng" còn in thêm bản
tiếng Hoa do anh Hoài Vũ làm Tổng biên tập. Tôi ngạc nhiên thấy anh Kiên cầm tờ
báo tiếng Hoa đọc ngon lành. Tôi hỏi anh học chữ nho bao giờ mà đọc giỏi thế.
Anh bảo có học được trường lớp nào đâu, chỉ là hồi trẻ, đi làm thợ mộc, tới nhà
người ta, thấy mấy câu đối, câu liễn hay hoành phi, hỏi mò mà biết dần, lâu rồi
cũng quen…
Tại Đại hội
VII của Đảng (1991), có một sự việc nghiêm trọng: một đám người nào đó, rất có
thế lực, gửi đơn tố cáo đại tướng Võ Nguyên Giáp về lý lịch của ông, vu cho ông
có dính dáng đến mật thám Tây từ hồi Pháp thuộc, đòi tước tư cách đại biểu của
ông, tức đuổi ra khỏi Đại hội. Anh Trần Kiên là Trưởng ban Kiểm tra tư cách đại
biểu của Đại hội, anh dứt khoát gạt đi, kiên định bảo vệ ông Giáp đến cùng. Một
sự dũng cảm và một đức cương trực đáng ghi vào sử sách…
Một người như
vậy, anh Trần Kiên, đứng chờ tôi ở cổng Ban Bí thư sau cuộc bầu bán còn dở dang
chiều ngày thứ tư đại hội nhà văn. Anh nắm cánh tay tôi, nói nhỏ: “Tao dặn này,
có đứa nào giới thiệu mày làm Tổng thư ký Hội Nhà văn mày đừng nhận nghen”. Quả
thật tôi ngạc nhiên về câu dặn vụng về đến thế ở một người nổi tiếng từng trải
như anh. Tôi bảo: “Tôi hỏi lại anh điều này nhé, đấy là ý tự anh nói ra với
tôi, hay ý Ban Bí thư nhờ anh nói giùm?”. Anh hơi nhăn mặt: “Cái thằng này! Sao
mày hỏi tau câu khó thế?”. Tôi cười: “Tôi không làm đâu, tôi cũng đủ thông minh
để hiểu tất cả rồi, kể cả mục đích Ban Bí thư gọi gấp chúng tôi sang đây. Anh
có thể báo cáo lại để các vị an tâm…”.
Đây là lần
đầu tiên tôi nói với anh Kiên một câu gay gắt như thế. Nhưng rồi về sau chúng
tôi vẫn thân nhau, sau lưng chúng tôi là cả mấy mươi năm vào sinh ra tử cùng
nhau trong hai cuộc chiến… Cuộc làm việc vội vã với hầu như đông đủ Ban Bí thư
có thể tóm tắt gọn thế này: vận động, hay đúng ra là ép Nguyễn Quang Sáng,
người vừa được cao phiếu nhất, sáng hôm sau giới thiệu Vũ Tú Nam làm Tổng thư
ký.
Sáng hôm sau,
đại hội họp tiếp. Nguyễn Duy thật giỏi khi gọi phái đổi mới là Phái Vui tươi,
và phái bảo thủ là Phái Hằm hằm. Phái vui tươi, coi đã bầu được sáu người chiều
hôm trước đã là thắng lợi rồi, nên sáng hôm sau bèn hào hứng rủ nhau… bỏ đi
chơi. Một số la đà uống bia ở căng-tin, số khá đông kéo nhau rảo phố Hà Nội,
lại còn một nhóm không ít, trong đó có cả Nguyễn Khoa Điềm, tổ chức đi du lịch…
tít Lạng Sơn. Còn phái hằm hằm thì quyết hằm hằm, họ hằm hằm bám đại hội, cố
lật ngược tình thế. Rốt cuộc bầu thêm được ba người: Nguyễn Thị Ngọc Tú, Hữu
Mai và Nguyễn Khải.
Và bầu Tổng thư ký Vũ Tú Nam.
Tôi vốn loàng xoàng vậy mà hóa ra là nhà tiên tri, chẳng thua gì bà già
mù Vanga nổi tiếng bên Bulgarie!
Ngày hôm sau
Ban Chấp hành mới họp phiên đầu tiên, quyết định cử ra một bộ phận Thường trực
gồm bốn người: Tổng thư ký Vũ Tú Nam tất nhiên phụ trách chung, Chính Hữu làm
Trưởng ban Đối ngoại, Hữu Mai làm Trưởng ban Công tác hội viên, thực chất là
người lo chính sách và cơ sở vật chất của hội; tôi làm trưởng một ban có cái
tên nghĩ ra hơi kỳ, gọi là Ban Sáng tác. Họp Thường trực, tôi đề nghị chúng ta
chỉ có bốn người, nên quy chế làm việc cần giống như Hội đồng Bảo an Liên Hiệp
Quốc, khi biểu quyết phải là đồng thuận hoàn toàn, mỗi thành viên phải có quyền
phủ quyết. Nhưng cả ba vị đều kiên quyết phản đối, cứ phải theo nguyên tắc
thiểu số phục tùng đa số thôi. Thế là tôi bị kẹt vào thế khi cần quyết định
những chuyện quan trọng, tỷ lệ thua của tôi sẽ là 1/3. Vậy tôi có nên ở lại
trong một tập thể như thế này không? Hay là rút lui ngay từ bây giờ, từ chức
luôn ngay lúc này? Tôi về trao đổi với một số anh chị em đã bầu tôi, người bàn
vô người bàn ra. Cuối cùng tôi quyết định thôi thì cứ ở lại, cố gắng ngăn bớt
những việc xấu, và nỗ lực tối đa làm được một số điều tốt. Nghĩa là giai đoạn
mới này của tôi cũng sẽ rất khó khăn, căng thẳng, chẳng kém thời làm báo “Văn
nghệ”; thôi thì cứ xin nói luôn, suốt nhiệm kỳ 4, 5 năm ấy tôi “thắng” được một
vụ kha khá, và “thua” một vụ cũng khá đậm.
Có lẽ tôi
cũng nên nói qua một chút về ba người còn lại trong ban Thường trực bốn người
của chúng tôi.
Chính Hữu thì
chắc chẳng cần nói thêm.
Anh Vũ Tú Nam
là người hiền lành và đứng đắn, rất vừa phải hầu như trong mọi sự, viết cũng
như ứng xử và điều hành, quản lý. Trong mấy “vụ việc” của tôi, vụ Đề dẫn năm
1979 cũng như vụ báo “Văn nghệ”, thái độ của anh là “trung bình”, không gay gắt
cũng không nhiệt tâm bảo vệ hay công kích. Vũ Tú Nam là em ruột anh Vũ Cao,
nhưng tính tình hai người khá khác nhau, và thực tình tôi thích anh Vũ Cao hơn.
Anh ấy dân dã và nghệ sĩ hơn. Anh được phong đại úy từ năm 1957, nhưng mãi mấy
năm sau có lần anh tâm sự sao mình chờ mãi không thấy được lên thượng úy nhỉ,
thượng là cao tất phải hơn đại chứ, anh yên trí vậy… Chúng tôi ở nhà số 4 Lý
Nam Đế, nghe nói được xây từ hồi Nhật chiếm Đông Dương, dành cho sĩ quan Nhật.
Cầu thang và sàn các phòng toàn bằng gỗ lim, anh em đều lau sàn các phòng sạch
bong, và trước cửa phòng đều có bảng ghi “Yêu cầu không đi giày dép vào phòng”.
Có anh nghịch còn viết thêm “… trừ ông Vũ Cao!”, vì anh Cao bao giờ cũng đi
chân không. Vũ Cao lùi xùi bao nhiêu, thì Vũ Tú Nam thẳng thớm bấy nhiêu. Vậy
mà con người luôn cẩn trọng và vừa phải ấy cũng đã có lúc gặp tai nạn văn
chương. Năm 1962 anh viết truyện cho thiếu nhi “Cuộc phiêu lưu của Văn Ngan
tướng công”, na ná theo kiểu “Dế mèn phiêu lưu ký” của Tô Hoài, chế giễu một
con ngan lố bịch, cái gì cũng biết một chút, biết bay một tí, biết chạy một tí,
biết bơi một tí, biết hát ồ ề một tí, tức là cái gì cũng biết nhưng chỉ mới
biết đầu cua tai nheo, không đâu vào đâu nhưng làm việc gì cũng dối trá lại
huênh hoang. Truyện hiền khô, vô hại, vậy mà bỗng nhiên bị báo Tiền phong đập
cho một bài phê phán nặng nề, lại nghe nói có cả một cuộc hội thảo ở Viện Văn
học để lên án, lúc này tôi đã đi vào Nam không biết rõ hết chi tiết, chỉ nghe
nói nó bị kết tội nặng gọi là “biểu tượng hai mặt” (symbole équivoque), một lối
vu vạ khá phổ biến lúc bấy giờ, chắc do một số vị nào đó rất to, có tật giật
mình, cho rằng nó nói Ngan chính là ám chỉ mình, và hiểu văn học cũng y như
khoa học, phải viết sao cho chỉ hiểu duy nhất một nghĩa, hiểu thêm một nghĩa
khác nữa thì đích thị là ác ý rồi… Nghe bảo còn có chuyện ông bạn nhà văn Liên
Xô Marian Tkachev rất giỏi tiếng Việt mau mắn dịch nó ra tiếng Nga, đúng lúc ta
đang theo Tàu chống Nga của Khrouchev, nên nó còn tội có xu hướng xét lại nữa…
Nhưng rồi vụ việc cũng nhẹ nhàng qua đi. Nghe nói chính ông Nguyễn Chí Thanh đã
bênh vực Văn Ngan.
Người thứ ba
trong Thường trực là Hữu Mai, bấy giờ có chủ trương chuyển một số nhà văn vốn ở
trong quân đội sang Hội và một số cơ quan văn học nghệ thuật để tăng cường “sự
vững vàng về chính trị” cho những nơi này. Hữu Mai đối với tôi là một người
“trung tính”, không thân không sơ, tôi nhớ vụ Đề dẫn, vụ báo “Văn nghệ” của tôi
anh hầu như hoàn toàn đứng ngoài. Nhưng rồi xảy ra một việc: tôi không nhớ rõ
Hội Nhà văn Hung hay Thụy Điển cho ta một số tiền và ta đã dùng số tiền đó xây
lại Nhà Sáng tác ở Quảng Bá khá khang trang, Quảng Bá hồi đó gần như hoàn toàn
nông thôn, yên tĩnh, thoáng đãng, thi vị nữa. Nhưng rồi chẳng mấy ai lên ngồi
Quảng Bá để sáng tác, mặc dầu ở đó đã có cả bộ phận phục vụ khá chu đáo. Vì nó
gần Hà Nội quá. Tôi nhớ chỉ có anh Thái Bá Tân lên ở nhờ một phòng do bấy giờ chưa
có vợ chưa có nhà. Và một anh, thôi thì xin không nói tên làm gì, đưa bồ lên
cùng vui thú một thời gian. Lại thêm đến lúc này Ban Văn hóa Văn nghệ Trung
ương đã giải thể, nhập cùng Ban Tuyên huấn và Ban Khoa giáo thành Ban Văn hóa
Tư tưởng, anh Trần Độ đã chuyển sang làm Thứ trưởng Bộ Văn hóa, và anh đã có
sáng kiến xây một khu nhà Sáng tác cho các ngành văn học nghệ thuật cạnh hồ Đại
Lải gần Phúc Yên, xa Hà Nội một cách vừa phải, rất đẹp, yên tĩnh, thuận lợi cho
nghệ sĩ sáng tác. Vậy là người ta đổ lên Đại Lải, nhà Quảng Bá đâm ra ế, bỏ mốc
meo, lại tốn người trông coi. Hữu Mai, là người phụ trách cơ sở vật chất của
hội, bèn đề nghị cho khách du lịch có thể thuê, ta lấy tiền đó lo cho việc khác
của hội, Ban Thường trực thấy cũng là phải. Chắc ai cũng biết các nhà văn ta
vốn tếng tăm khá oai trong xã hội, nhưng cũng là cái giới rất lắm chuyện. Lập
tức rộ lên gần như cả một phong trào phê phán chê trách, cho rằng cái Ban
Thường trực này lấy chỗ sáng tác “thiêng liêng” của anh em đi buôn, trong số
gay gắt nhất lại thấy có Đào Vũ, và tập trung công kích chủ yếu vào Hữu Mai. Có
điều lạ là Thường trực không hề lên tiếng bênh vực Hữu Mai. Tôi bèn bàn với Hữu
Mai đánh tiếng mời Đào Vũ lên ngồi sáng tác ở Quảng Bá ba tháng đi. Tôi nói
trước với Hữu Mai: Để rồi anh xem nhé, chuyện này sẽ hay lắm đấy! Giấy mời Đào
Vũ được trang trọng đưa đến tận nhà. Tôi tiếc không nhớ rõ số tiền phải tiêu
tốn cho một nhà văn ngồi sáng tác ba tháng ở Quảng Bá là bao nhiêu. Ngay sáng
hôm sau Đào Vũ đã có mặt rất sớm ở cơ quan hội, nhưng không gặp bất cứ ai trong
Ban Thường trực, kể cả Hữu Mai, mà đi thẳng luôn đến chỗ cô kế toán, tuyên bố:
“Tôi đấu tranh là đấu tranh cho quyền lợi của tất cả hội viên, chứ nhà tôi ở
ngay phố Huế, Quảng Bá gần xịt, tôi lên đó làm gì. Hội đã có giấy mời, đề nghị
đưa cho tôi đúng số tiền như được lên Quảng Bá, tôi ngồi nhà viết tiện hơn
nhiều…”.
Đào Vũ là
người cao lớn, còn cô kế toán của chúng tôi thì vừa trẻ vừa thấp bé, cô ngồi
cặm cụi đếm kỳ đủ số tiền cho ông nhà văn cao lớn oai phong đang đứng trước mặt
mình, thỉnh thoảng ngước nhìn lên, kinh ngạc và không giấu được khinh bỉ.
Từ đó cũng
vắng hẳn chuyện công kích cách sử dụng nhà sáng tác Quảng Bá.
Còn Hữu Mai,
tôi nhận thấy anh hiểu tôi hơn, chắc đỡ đi nhiều định kiến từng có, thân với
tôi hơn, hay đến nhà tôi chơi, tâm sự với tôi những khó khăn của một anh cũng
được gọi là lãnh đạo cái hội nghe chừng rất sang trọng, thực chất là làm dâu
trăm họ, phải biết chiều mấy trăm hội viên từ ông già đến ông trẻ, đều khó tính
theo trăm nghìn cách khác nhau. Anh thường rủ tôi đi ăn ở quán cháo rất ngon
đầu phố Cấm Chỉ, có hôm còn mời tôi ăn tiết canh một quán cũng gần đó, may quá
tôi vốn sợ món ấy, không dám động đũa, còn Hữu Mai say sưa ăn ngon lành, bị một
trận kiết lỵ suýt chết…
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 2l
Mời nghe Khề Khà
Truyện đọc truyện ngắn
CHUYỆN CU TỐ LÀNG
TÔI của Đặng Xuân Xuyến:
*
NGUYÊN NGỌC
Địa chỉ: Phố Cổ Hội An, tỉnh Quảng Nam.
........................................................................................
- Cập nhật
từ email: dovantuyenbk@yahoo.com.vn ngày 17.02.2021.
- Ảnh dùng
minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết
không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét