NGUYỄN ANH
TUẤN, THƠ LÀ PHÚNG DỤ
– PHÚNG DỤ
LÀ THƠ
*
(Nhân đọc nhanh tập thơ “Phúng dụ từ những đám
mây”,
Nhà xuất bản Hội Nhà văn,
2020)
1- Đọc nhanh một cuốn thơ mới của một tác
giả mới(Tác giả Đỗ Quyên)
Là hạnh phúc cho những người yêu thơ;
thường là vậy. Tôi luôn gắng giữ mình hạnh phúc yêu ấy. Bất kể thơ nào, tác giả
nào…
Nguyễn Anh Tuấn là tác giả không mới trong
làng thơ Việt hiện nay nhưng duyên tôi vừa mới tới được, nhờ thi phẩm đầu tay
của anh sau hơn 25 năm sống thơ [1].
Nhớ, lâu rồi trong các lần đọc trước. Trên
mạng, nhất là giữa “siêu thị thơ” Facebook, những chùm “thơ lạ” của tác giả lạ
Nguyễn Anh Tuấn. Lạ, bởi bài thơ nào thấy cũng có tên bắt đầu bằng từ “Phúng
dụ” [2], và mỗi bài thơ con con thôi mà đủ thứ sự đời. Tôi cho chúng vào
kho thơ của riêng mình, cả phúng dụ cùng không phúng dụ. Rồi… quên! Cho đến
tháng trước.
Ở đời rất nhiều cái lạ một khi quá ngưỡng,
hết còn lạ. Thì cũng phải thôi. Trong nghệ thuật càng đúng. Bởi nghệ thuật là
gì? Ở mức độ căn bản, là biến cái quen thành cái lạ; tới tầm trung cấp làm cho
cái lạ trở nên quen thuộc. Lên tầng cao thượng, nghệ thuật không phân biệt lạ
và quen.
Khi Nguyễn Anh Tuấn thẳng tay (nhắm mắt
hay mở mắt, ta không thể biết; có thể chàng mắt nhắm mắt mở cũng nên!) tạo dựng
một tập thơ ngót 100 bài lẻ, và tất nhiên cả tên sách, đồng phục bằng nghệ
thuật phúng dụ như một thủ pháp, ít nhất về hình thức. Thì đó không phải dạng
vừa, ít nhất về hình thức. Riêng tôi, hết còn thấy lạ trước từ khóa “phúng dụ”
một khi nó đã là rừng phúng dụ.
2- Thủ pháp phúng dụ của Nguyễn Anh Tuấn là một
phát kiến trong cách làm thơ tiếng Việt hiện nay
Đó là theo quan sát không thể toàn diện
nhưng trọng điểm của tôi. Và đồng ý với quả quyết của nhà phê bình Ngô Đức
Hành: “Chỉ riêng điều này cho thấy,
Nguyễn Anh Tuấn là nhà thơ duy nhất về phúng dụ.” [3]; và Ban biên tập
Văn chương phương Nam: “Nguyễn Anh Tuấn
là nhà thơ tiên phong (avant-garde) về phúng dụ.” [4]
Như một thi sĩ (chất-thi-sĩ ở con người
tác giả chứ chưa hẳn ở tác phẩm), cao vọng của anh là trở thành chủ nhân thi
pháp phúng dụ. Lúc đó nhà thơ này sẽ là một trong không nhiều nhà thơ cách tân
thi ca Việt Nam bằng việc “phát minh thành công” một phương pháp làm nghệ thuật
mới, với một dòng thơ mang hệ mỹ học mới trong phong cách mới có nghệ thuật
ngôn ngữ mới ở hình thức diễn ngôn mới, v.v. mới và, v.v. mới. Mọi điều mới đến
từ một hình thức tu từ không bao giờ xưa cũ trong văn nghệ: phúng dụ.
Tất cả đang ở thì tương lai. Còn hiện tai,
như nhà nghiên cứu - phê bình Hoàng Thụy Anh cũng vừa xác nhận thủ pháp phúng
dụ chính là phương thức nghệ thuật đặc trưng tạo thành tập thơ, và đã dẫn lại
định nghĩa:
“Phúng
dụ là hệ thống những ẩn dụ, nhân hóa, vật hóa (thường là vật hóa) được sử dụng
để biểu đạt một nội dung triết lí hay bài học luân lí mà người ta không muốn
trình bày trực tiếp… Phúng dụ sớm đi vào nghệ thuật văn chương trong những bài
đồng dao, ca dao, truyện ngụ ngôn… mà dân tộc nào cũng lưu giữ trong kho tàng
văn hóa của mình, trước khi thể loại tiểu thuyết xuất hiện.” [5]
Thành hay bại, tôi ủng hộ đến cùng nẻo thơ
Nguyễn Anh Tuấn! Bởi không quá bất ngờ, khi thấy cũng như quan niệm thơ là một
tổ hợp các kiểu cách phúng dụ bằng các hình thái “ngôn ngữ quái đản”.
Dùng lại chữ “quái đản” vốn rất nổi tiếng
(mà không được đồng thuận trong giới phê bình thơ) của nhà nghiên cứu - lý luận
Phan Ngọc, cũng hàm ý rằng, ngôn ngữ và diễn ngôn trong thơ Nguyễn Anh Tuấn
nhiều phần “quai quái”, nổi lên là vấn đề phúng dụ đã được/bị phơi trần.
3- Đọc tập thơ “Phúng dụ từ
những đám mây” như một…trường ca!
Tôi những muốn gợi ý vậy. Và vững tin hơn
khi mà bài viết gần xong thì thêm được câu “chỉ đạo” từ nhà nghiên cứu - lý
luận La Khắc Hòa: “Hiện nay, nhiều thể
loại chui tọt vào một tác phẩm.” [6]
Chủ đề thơ Nguyễn Anh Tuấn tuy biến động
đến khôn lường, đa dạng như nồi lẩu thiên địa (“sông, làng, phố, biển, lửa, cõi niết bàn, trăng, hạt bụi, bông hồng, tờ
lịch, giấc mơ, con ếch, người mẫu” [7]), song liền mạch nhất quán, từ
thủ pháp đến ngôn ngữ nghệ thuật, từ giọng điệu tới tự sự thi ca, từ nhân vật
trữ tình đến nhân vật điển tích… Tất cả các bài thơ như những vật đồng dạng
phối cảnh với nhau.
Nhờ sự nhất quán đó ta có thể đan ghép cả
một tập các bài thơ bình thường, ngăn ngắn [8] thành một trường ca
(hiểu theo hướng hiện đại). Tức là, ở đây thi pháp thực hành văn bản không chỉ
là phương pháp sáng tạo, là nghệ thuật thơ mà còn là hình thái thể
loại [9].
Với thứ thơ lạ mà từng bài thơ có nhiều
tương đồng về hình thức và nội dung như dòng thơ phúng dụ này, nên chăng đọc
chúng trong tổng thể của một phương pháp viết cũng như một tâm thế cảm thụ,
ngoài việc đặt chúng trong một không gian nghệ thuật. Việc trường ca hóa “Phúng
dụ từ những đám mây” trong ý nghĩa đó.
Cảm ơn Hoàng Thụy Anh đã chọn ra và lý
giải:
“Lấy
ví dụ về hình ảnh lửa trong các bài thơ “Phúng dụ mẹ”, “Phúng dụ ánh mắt”,
“Phúng dụ biển”, “Phúng dụ bonne nuit”, “Phúng dụ thần lửa”, “Phúng dụ về lửa”,
“Phúng dụ eden”, “Phúng dụ valentine”, “Phúng dụ hoàng hôn những cánh dơi” và
thử liên kết chúng với nhau. Theo Kinh Thánh, lửa vừa mang yếu tố tích cực vừa
mang yếu tố tiêu cực: “Mọi rực rỡ bắt đầu từ lửa/ Mọi kết thúc do rực rỡ lửa”
(Phúng dụ thần lửa). Dựa vào Kinh Thánh, dựa vào mối quan hệ tương đồng, Nguyễn
Anh Tuấn triển khai giá trị và ý nghĩa ngọn lửa trong đời sống, ngọn lửa của
tình yêu, ngọn lửa của tâm hồn, ngọn lửa của thi ca.” [10]
để rồi từ những bài thơ cụ thể và nội dung
trên chúng ta tạo nên một chương về lửa trong bản “trường ca phúng dụ”.
Đoạn mở đầu chuyên
luận [11] cũng đã nhấn mạnh tính trường ca của một sáng tác thơ được
gọi là trường ca cần thể hiện hài hòa qua 6 tiêu chí, trong đó số 1 là “Thể
tài: mang tinh thần và nội dung không của từng cá thể hay giữa các cá thể, mà
thuộc về giá trị chung – đất nước, quê hương, nhân loại, dân tộc,
cộng đồng – trong một chủ đề nhân văn có ý nghĩa xã hội rộng
lớn. (Đây nên được xem như kim chỉ nam về tư duy thể loại trên bản đồ
nghệ thuật thơ có tính trường ca)”.
Khoan xét 5 tiêu chí sau (mà chắc tập thơ
chúng ta đang bàn có cái được, có cái không), tiêu chí đầu là thể tài xem như
đạt. Lại xin dẫn bài nghiên cứu ngắn, gọn nhưng đủ sâu, sát nói trên:
“Đa
phần các bài thơ gắn với các giá trị văn hóa – văn học – lịch sử của dân tộc
Việt và của thế giới. Anh vay mượn các tư liệu từ Kinh thánh, Phật giáo, sử
thi, ca dao, cổ tích, thần thoại… đưa vào thơ mình và không lý giải hay trích
dẫn nguồn. Các dữ kiện như Chúa, Zeus, Muse, Tazan, các tầng trời, vầng mây,
lửa, niết bàn… là nơi anh nén phần chìm của bài thơ.” [12]
Cuối cùng, liên quan đến chuyện
không-gian-thơ mà tập thơ “Phúng dụ từ những đám mây” can dự.
Như đọc thơ haiku. Thành thực mà nói giữa
chúng ta, trừ các đấng bậc quá sành thơ ca nói chung hoặc rất am tường văn hóa
Nhật Bản, lần đầu đến với kiệt tác haiku như bài “Con ếch” của Basho, mấy ai mà
không thấy nó tầm thường, nếu không dám nói là kỳ cục? Ếch với chả ao! Nhưng
khi đọc “Con ếch” và mọi bài haiku hay dở nào khác trong cùng một thi giới của
thể thơ ngắn nhất trần gian ấy, ta có thể cảm thụ dần dần cái độc đáo vời vợi,
cái “đang là” vĩnh cửu của thiên nhiên và tâm trạng, rồi cái khôi hài mím môi…
đến từ nhân sinh quan và thế giới quan của thi ca Nhật Bản.
Như đọc thơ Bùi Giáng. Cũng thành thực mà
nói giữa chúng ta… (Nhưng thôi, xin dành dịp khác.)
Thắt lại một câu: Chớ nên đọc một bài thơ
phúng dụ nào đó của tác giả Nguyễn Anh Tuấn như là một sáng tác độc lập.
4- Chất uy-mua/ khôi hài trong “Phúng dụ từ những
đám mây” có cơ đạt gần đến độ Không
Được như thế có thể gọi là khôi hài đen
(humour noir), khi điệu cười đến từ sự nghi vấn và đàm tiếu. Ở tập thơ chính
tác giả cũng đã sử dụng vài lần các từ “umua”, “umua đen”.
Trong thơ Việt Nam đương đại, và cả hiện
đại, cực hiếm các cao nhân đưa được khôi hài đen vào thơ trữ tình. Đây là khác
biệt lớn giữa thơ Việt và thơ Mỹ. Còn ở loại thơ phi trữ tình thì người Việt là
số dách trên trái đất này! Như Tú Mỡ, Xuân Sách (với tập thơ truyền đời “Chân
dung nhà văn”) trong thể thơ châm biếm, trào phúng. Gần đây là Nguyễn
Bảo Sinh ở thể thơ dân gian. Trường hợp độc nhất vô nhị - ở Việt Nam và có lẽ
toàn cầu - là trường phái Bút Tre nhưng tiếc thay không được tính là thơ; nó
vè.
Các tác giả Nguyễn Đình Chính (với lối thơ
“Thơ chẹc chẹc” rất đỗi đặc hiệu), Nguyễn Quốc Chánh, Bùi Chát đại diện nhóm Mở
Miệng; và Đinh Linh, Lê Đình Nhất Lang, Nguyễn Hoàng Nam, Đỗ Kh. đều có thơ
khuynh hướng khôi hài đen theo những giai điệu khác nhau. Tôi thống khoái lối
thơ Đinh Linh - uymua đen đặc phong thái ngạo nghễ gác chân góc bàn coffee Mẽo
mà phê phê khói thuốc lào vặn vẹo ngôn ngữ An Nam. Tiếc (vâng, lại tiếc nữa!),
với ba tác giả đầu tiên lắm lúc thơ “đen” quá cảnh giới khi cảm hứng thời cuộc
thăng thiên, ẩn ức chính trị cao vọt. Chuyển thành “khôi hài thâm”. Chất hài
hước ở sắc thái mới nó đục hơn về tâm tư dễ chuyển đổi nội dung thành thơ
tranh đấu và thơ phản biện/ phản kháng/ phản v.v. Hai/ba/bốn
“thái độ thơ” đó khiến tính trữ tình suy giảm, nhưng lại không đủ ý thức mới
mẻ, suy tư cao sâu để trở thành loại hình thơ trữ tình chính
trị [13] (như ở nhân vật xuất chúng dị thường sẽ xuất hiện cuối đoạn
này.) Và lâu nay cả ba vị đã cùng ngưng bút thơ. Cần nhấn mạnh tới Nguyễn Đức
Tùng của mươi năm trước, như một tay bút hiếm hoi gần đạt độ Không trữ tình
khôi hài đen, trong một lối thơ thử nghiệm; đọc không ra thơ - nghĩ mới thành
thơ. Tiếc (biết rồi, khổ lắm, tiếc mãi!) nó không được tác giả hoàn thiện, với
các bài đủ “đen” thì ít tình. Cho đến nay với bốn vị sau cùng trong khối G7
trữ-tình-đen kể trên, kẻ thì xa dời người thì ít còn thơ thẩn. Dường như thơ
đương đại Việt lúc này chỉ còn hai tài năng: Lê Vĩnh Tài và Phan Nhiên Hạo,
tương đối khả ái khoản black humor/ dark humor khi chủ tâm phất phơ
nhếch mép trong vài ý tứ mà không thành hẳn giọng điệu hài hước; và cũng chỉ ở
một số bài thơ chứ chưa thành phong cách viết. Với Nguyễn Hàn Chung, âm vực
giễu hài cao, ngôn từ dân dã thuần thục, dưng mà độ vui tếu phồn thực xếch
xì Nam Bộ pha Huê Kỳ cũng ngất ngưởng, thành thử khôi hài đen bị giảm vẻ
nghiêm trang. Thôi thì khỏi tiếc. Dồn nỗi tiếc thương cho Sơn Núi - Nguyễn Đức
Sơn: Thi bá vừa nằm xuống tháng trước, kéo theo một đỉnh thơ đủ ba cung bậc
bi-hài-tráng như hiện tượng kỳ quái đầy nhân bản của văn chương và xã hội Việt
Nam suốt thế kỷ chiến tranh và hậu chiến. Khôi hài đen trong thơ trữ tình nói
chung và thơ trữ tình chính trị nói riêng ở Nguyễn Đức Sơn là gì? Là “táo bón”
từ bốn thứ thực phẩm chức năng trong cái dạ dày bốn mùa khoai ngô: đè nén thời
cuộc, bùng nổ tình dục, dung hòa thiên nhiên và, cuối cùng, an nhiên thiền
đạo [14].
Vậy Nguyễn Anh Tuấn của chúng ta thì sao
ạ? Nếu dạn tay phê lối viết phúng dụ đang như một thử nghiệm; cũng chẳng quá
sai. Nhưng là thử nghiệm với các điều khác (xem Mục 6), còn về
chất humor kể như ổn. Quý là ở chỗ tác giả giữ độ đậm nhạt dìu dịu về
khả năng khiêu khích (điều tất yếu của khôi hài), nghĩa là tính tri thức cao.
Gọi là “khôi hài nâu” cho nó lành! Hài hước mà không giễu nhạo, châm biếm, chỉ
trích (nên không thuộc về dòng uymua hậu hiện đại – Xem tiếp Mục
5).
Một trong các thành phần thơ làm nên chất
khôi hài nâu ấy, là việc chêm, đệm chữ cửa phật câu nhà thờ tiếng cư dân mạng,
nhất là các từ ngoại ngữ (Anh, Pháp, Latinh… khi thì chuẩn lúc lại lung tung
beng.) Đa phần có ngữ nghĩa đơn giản. Ở thời đại 4.0 dường như không là vấn đề
với đại chúng. Về nội hàm, các chữ đó không có nội dung ngoại ngữ, và càng
không có nội dung văn chương tự thân.
Nhưng, thái quá bất cập. Hơn đâu hết, ở
thơ phúng dụ Nguyễn Anh Tuấn, cách dụng ngôn quai quái (từ cú pháp thơ đến điển
tích, kiến thức, kinh sách) – ở các bài không thành đạt – đang trở thành rối
rít. Tiếc, làm giảm chất khôi hài đen (điều trong thơ vốn rất khó tới như đã
nói) cùng lúc cản trở tiếp cận thơ ở lần đọc đầu tiên.
Trữ tình ngoại đề: Sau một
loạt còm trên FB rằng chẳng thấy phúng dụ ở đâu trong một bài
thơ anh vừa đăng trong một tút, tác giả bảo (riêng với tôi): “Sự nghi thức
càng chuẩn mực sẽ càng hài hước một cách rất nghiêm chỉnh.” Tôi bảo (cũng riêng
với tác giả): “Bài thơ đó dùng cách nói và lối viết chân chỉ khẩu hiệu, và khôi
hài đen thành quả.” Của đáng tội, hai chúng tôi vung chuột thì thụt
bên trong, bởi người còm phát hỏa là nghiên cứu gia tầm cỡ, chừng 30
năm trước từng làm tự điển văn học (chắc trong đó có từ nguyên “phúng dụ”). Một
thi sĩ có số đã ôkê ngay tắp lự. Nhị vị tôi đều quen biết. Rồi 2-3 bạn “phây”
khác cũng ngay tắp lự ôkê. Tôi mừng; tác giả được nhận các phản hồi (dù âm
tính) trước trò phúng dụ của anh ta.
Trong tập thơ ít nhất có sáu bài tôi từng
đọc mang, hoặc muốn mang, con mèo khôi hài đen. Theo thứ tự thành công, đó là
“Umua đen ở bãi biển”, “Phúng dụ mẫu nhân vật umua”, “Phúng dụ J.
Fucik”, “Phúng dụ Di Lặc”, “Phúng dụ những bông hồng umua đen”, và
“Phúng dụ nỗi trác tuyệt” (bài sau cùng hơi phô về nội dung).
5- Các điểm son khác hiển lộ nơi tập thơ
- Thủ pháp phúng dụ rất riêng của tác
giả khiến một điều quan yếu phải chậm bàn đến: Là chủ nhân một tập thơ trữ tình
với mật độ thơ tình yêu đủ cao, Nguyễn Anh Tuấn hoàn toàn bứt khỏi hàng ngũ các
nhà thơ lãng mạn – hiện thực truyền thống và bài bản, từ tâm tư văn chương đến
thể loại viết lách. Đây là một cây bút hiện đại của trữ tình và hiện thực – có
phần không tưởng nhưng không lý tưởng kiểu cũ. Dù với lên những cao thiêng trên
trời (Phật, Chúa, Thần lửa, mây…) thơ này có các mặt hàng siêu thị bát nháo
kinh tế thị trường toàn cầu hóa. Dẫu mang đôi nét ngẫu nhiên của kỹ thuật văn
chương hậu hiện đại (thậm chí cả tính liên bản như đã được bàn xét kỹ ở bài
trong Ct 5), thơ này tỏ ra không ham trò phá phách của cuộc chơi lớn lao mà bát
nháo mang tên Hậu hiện đại, xét về tâm thức. Chân - Thiện - Mỹ vẫn là chân đế
cho tập thơ. Đường thơ vọng tới chân lý không hoài nghi. Một nẻo xa của tân cổ
điển?
- Hầu hết các bài thơ tôi đọc đều có độ
bất ngờ cao, mà không hề khiên cưỡng hoặc dụng công (dùng tứ có hình ảnh, tình
tiết lạ lẫm hoặc từ/câu cuối cùng bất ngờ như thông thường). Tôi ngờ rằng tay
thơ này có bí kíp của chàng, tạm gọi là cú pháp bất ngờ. Thế là ăn tiền
rồi! (Ôi, giá như thơ sinh ra tiền!?) Thơ, căn bản là một cuộc chiến du kích
của ngôn ngữ; nó bí mật bất ngờ.
Đi trước và gần giống ý trên, nhà nghiên
cứu - phê bình Văn Giá cũng từng khẳng quyết điểm son tương tự, khi sách vừa ra
lò: “Nguyễn Anh Tuấn đầu tư vào những
liên tưởng xa, bất ngờ, không tính lý do, tạo ra những vùng mờ, khơi gợi. Theo
đó, ở những chỗ thành công, ngôn từ luôn được lạ hóa, đủ làm nên những ngạc
nhiên.” [15]
- Một cách cực đoan, toàn tập thơ là một
cuộc chơi của các ma trận ý tưởng và bản đồ cảm xúc. Nội dung, chủ đề thơ chỉ
là cái đinh theo tranh.
- Từng bài thơ được tác giả tự biên tập đủ
kỹ (nhất là bây giờ hầu hết nhà xuất bản không làm trọn bổn phận). Người đọc có
thể hiểu/cảm; thích hoặc không, nhưng đâu dễ thò mắt vào để sửa chữa các lỗi
câu chữ dư, thừa, lạc, đuối, lép… thường thấy ở các tập thơ đầu tay. (Vả, với
một lối thơ “quai quái” mấy ai đủ “quai quái” mà vào cuộc như là đồng tác giả?)
- Vần điệu tương đối tự nhiên, không lụa
nhưng chảy. Đa phần là thơ tự do; hứng lên thi sĩ vần điệu thì cũng điệu đà như
ai (“Umua đen ở bãi biển”, “Phúng dụ trăng”…). Chưa thấy bài thơ vần điệu nào
điệu nghệ?
- Ảnh hưởng từ thi bá Lê Đạt rõ, còn hơi
phô (xem tiếp mục sau). Có một bài thơ (không trong tập thơ) giăng hẳn tên Lê
Đạt thì ôkê… con gà nâu. Hóm!
6- Những vấn đề tồn tại trong thơ Nguyễn Anh Tuấn
phải chăng cũng không ít, nặng ký?
Ngay cả khi che khuất (chứ không thể bứng
hẳn ra) các chữ “phúng dụ” cho vừa tầm đón đợi nơi các độc giả chưa kịp làm
quen, câu hỏi trên vẫn đặt ra. Tôi thử nêu vài điểm:
- Lớn nhất là vấn đề sử dụng kiến thức
“ngoài văn bản” (kinh sách, điển tích, nhân vật, sự kiện, tiếng nước ngoài… )
Riêng vụ này, tôi đồ rằng có nhẽ cần “đầu tư” một chương thật là “khủng” nếu
như liều mình làm hẳn một chuyên luận!? Nói theo kiểu hành chính, phải có Hội
đồng khen thưởng cấp Bộ hoặc Hội đồng kỷ luật cũng cấp Bộ, tùy thành bại trong
từng bài mà xử lý. Ở đó xin sẽ bàn thêm về hai trọng điểm mà Hoàng Thụy Anh
từng nhận định (“Phúng dụ từ những đám mây”, với tôi, là thi ca của vẻ đẹp tư
tưởng.”, và “Như vậy, tính liên văn
bản trong thơ Nguyễn Anh Tuấn diễn ra từ vi mô đến vĩ mô […]” [16].
- Thứ đến là vấn đề ngôn ngữ nói riêng và
hiệu quả của diễn ngôn, tầm đón đợi từ người đọc nói chung.
Theo hướng này, có thể ví “Phúng
dụ từ những đám mây” như một khoảng không gian của sân vận động Hàng
Đẫy (chưa tới tầm sân Mỹ Đình), nơi các môn “thể thao ngôn ngữ” tập dượt.
Nghiêm chỉnh: bên cạnh thủ pháp phúng dụ như biện pháp chuyển nghĩa trên
bình diện rộng toàn tác phẩm chứ không chỉ từng bài / đoạn, thơ Nguyễn Anh
Tuấn - hay dở chưa xét đến - có thể còn nghiêng về khuynh hướng thơ ngôn
ngữ (vốn là một trào lưu mạnh của Âu-Mỹ nửa sau thế kỷ trước).
Trên toàn cảnh thi ca Việt Nam hiện đại và
đương đại, tuy không thành hình như một phong trào, song tùy thời kỳ cũng có
một tập hợp sáng tác với vài tác giả đại biểu ở đôi ba yếu tố phụ của dòng thơ
ngôn ngữ: Đoàn Phú Tứ và nhóm Xuân Thu nhã tập; Bùi Giáng, Đinh Hùng và Thanh
Tâm Tuyền trong “khối thi ca miền Nam trước 75”; Đặng Đình Hưng, Trần Dần,
Dương Tường và Lê Đạt trong nhóm Nhân văn - Giai phẩm… Cần kể thêm một số tác
giả đương đại “đánh lẻ” như Du Tử Lê (thơ thể nghiệm với dấu gạch chéo/ slash
“/”, dấu gạch nối/ hyphen “-”, cách đặt dấu chấm, phẩy, không viết hoa tất cả
các chữ), Nguyễn Linh Khiếu (trường ca “Phồn sinh”), Nguyễn Quang Thiều, Đinh
Linh… “Thơ hũ nút” - đó là định danh phê phán từ dư luận độc giả khi các tác
giả đó mới xuất hiện (và còn đến tận bây giờ với các “Thượng đế” đã khó tính
lại nhớ dai.)
Chữ nghĩa ở tập thơ đang bàn không bí
hiểm, kỳ khu về mỹ học ngôn từ; mà rậm rịt, chi chít đơn thuần ở hình thức tu
từ. Nhiều nội hàm, ít nội dung; chúng chưa tinh luyện. Nói vui là hơi rối rít.
Rất ít những bài thơ tinh khiết. Ở người thơ chẳng biết tâm hồn thống khổ
hay phơi phới ra sao, mà trên tay tôi trong mắt tôi là những trang thơ lôi cuốn
như sách truyện? Theo những bài đậm đặc vấn nạn cõi tạm nhất (“Phúng dụ cảnh
giới của Buddha”), ái tình gái trai đau xót nhất (“Umua đen ở bãi biển”), hay
thân phận văn nhân trớ trêu nhất (“Phúng dụ J. Fucik”) thì mảng thuyền thi ca
của người vẫn lươn lướt. Như muốn cập tới bến đậu nào đó cho con đò chữ nghĩa
của riêng mình, mà không hoài ngoái sóng gió xao động đằng sau - nơi lòng độc
giả. Thơ mà đọc như truyện; hay đấy, và cũng không hay đâu!
Trên một đỉnh “Thơ hũ nút”, Trần Dần và Lê
Đạt là hai sư ông giữ kho từ vựng tiếng ta hiểm và tinh, theo hai sườn dốc khác
hẳn nhau (mà tác giả của chúng ta có vẻ đang lần theo vết Lê tiên sinh). Nhị vị
thi nhân Trần và Lê như đã làm theo chỉ đạo vọng về từ nhóm Xuân Thu nhã tập
khi “đào luyện trong cái đặc biệt của
ngôn ngữ Việt Nam…” [17]
Vậy, Nguyễn Anh Tuấn có chọn cho mình một
lớp độc giả chung nào đó, hoặc độc giả riêng cho từng bài không? Hay bất chấp;
như các sư phụ, các liền anh? Thơ Tuấn, Tuấn cứ “phúng” cứ “dụ”…
- Rồi là vấn đề cú pháp thơ, ở toàn
tập sách, khi mạnh khi yếu, chưa đều tay. Theo tôi thấy trong thơ nói chung, cú
pháp quyết định hình thức (như phong cách và nhất là nhịp điệu); còn ngữ pháp
ảnh hưởng đến nội dung (ý tưởng, nhất là cấu tứ). Ẩn mật hoặc tối nghĩa ở thơ
Nguyễn Anh Tuấn dường như đến từ một cú pháp riêng nào đó mà chúng ta cần tìm
hiểu. À rõ ràng là, việc dịch thơ của các tác giả có cú pháp thơ riêng biệt sẽ
gặp khó khăn hơn với các tác giả khác. Dịch Đặng Đình Hưng, Bùi Giáng, Lê Đạt
chắc sẽ khổ hơn dịch Tô Thùy Yên, Trần Dần; và còn khốn khổ hơn nữa nếu so với
khi dịch các tác giả “bình thường” như Huy Cận, Vũ Hoàng Chương, Xuân Diệu…
- Chưa hết. Vì kiểu làm thơ hai phần theo
lý tính, một phần cảm tính, lại chao chao trong các ma trận ngôn ngữ và điển
cố, thơ của tác giả này không ham hoặc chưa / không đạt tới các câu-thơ-hay,
các câu “nhãn tự - thần cú” vốn luôn là chứng chỉ mà Nàng thơ và Trời đất cấp
cho mọi nhà thơ thành danh [18]. Thi nhân làm nên các câu hay; hay là, các
câu thơ làm nên thi nhân. Thì cũng vậy thôi…
- Đôi điều nữa lấn cấn. Có thể chỉ là
chuyện nhỏ. Như việc chấm, phẩy sai luật, dấu ngoặc khép không cần thiết… Thiển
ý tôi, không nên xem như thuật lạ hóa, tạo mới:
“Mà,
không thêu con người / Bỗng. hiện lên một viên phấn
trắng” (“Phúng dụ viên phấn trắng”); hay “Bỗng. buốt lừng “trăng
sáng” (“Phúng dụ Sentiment”); rồi “Kìa, ngòi bút của đấng thi nhân/ Bỗng.
thơm biếc ngôi từ nỗi hát” (“Phúng dụ Vũ khúc bạch dương”) [19]. Cá
rằng nhiều bạn đọc sẽ bảo đó chỉ là “lỗi của cậu đánh máy”!
*
Ôkê con gà đen, Nguyễn Anh Tuấn! Chắc là
Đỗ Quyên tôi, ở những lần đọc tiếp, sẽ làm thẳng dần những dấu hỏi nhấp nhô kể
trên đang rải rắc khắp trong ngoài tập thơ. Nhược bằng không, chúng sẽ là các
nhược điểm, với cá nhân tôi. Hy vọng không vậy. Amen! Nhân danh Cha, Con và các
Thánh thần. Oh non, xin lỗi sir poet… Nhân danh Thượng đế Bạn đọc và Nữ thần
Phúng dụ Muse!
7- Thi pháp ngập ngừng/ lảm nhảm
Một lý thú về phong cách ở tập thơ. Nay
mới bàn, chẳng muốn nó che lấp thi pháp phúng dụ mà thơ Nguyễn Anh Tuấn hướng
tới. Phần vì ở thơ anh, nó – thi pháp ngập ngừng/ lảm nhảm – không nổi trội,
nhưng tôi tin đấy sẽ là một đòn bẩy trong tầm tay góp phần thúc đẩy nghệ thuật
phúng dụ đạt đỉnh khi đang còn lưng chừng dốc.
Thì cũng chỉ là một cách nói, tôi bày đặt
ra: Thi pháp ngập ngừng/ lảm nhảm và Thi pháp rành mạch/ tư
biện. (Cảm phiền tác giả và Quý độc giả, chữ “lảm nhảm” trông lem nhem thật
đấy, nhưng đắc địa. Gốc khoa học của lảm nhảm là gì, nếu không là vô thức, tiềm
thức?)
Thử lập danh sách nhà thơ Việt Nam thời
nay viết theo Thi pháp ngập ngừng/ lảm nhảm: Nguyễn Vỹ, Lê Đạt, Nguyễn
Hoàng Nam, Vương Ngọc Minh/ Lưu Hy Lạc, Thường Quán, Nguyễn Bình Phương, Đỗ Kh,
Tuyết Nga, Du Tử Lê (đã chú giải ở phần trên), Khế Iêm (trước giai đoạn thơ Tân
hình thức [20]), Chân Phương, Hoàng Xuân Sơn…
Đối ngược là Thi pháp rành mạch/ tư
biện với nhiều, rất nhiều đại biểu (thường là các thi sĩ mang giọng điệu
xa hay gần từ âm hưởng bi tráng ca). Ở đây chỉ nêu tượng trưng: Thâm Tâm và
Trần Dần; Trần Mạnh Hảo và Phùng Quán; Hữu Thỉnh và Phạm Đình Ân; Chế Lan Viên
và Bùi Chí Vinh; Nguyễn Viện và Hải Như; Cao Tần và Đặng Huy Giang; Trần Nhuận
Minh và vân vân…
Dòng thi ca ngập ngừng, lảm nhảm được thấy
rõ nhất qua cú pháp thơ không trùng với cú pháp tiếng Việt bình thường; sau đó
là ý tản mạn, nghĩa mờ; hình ảnh phân tán “tranh nhau” làm hình tượng khiến một
bài thơ có 2-3 tứ (thường gọi là nhiều bài thơ trong một bài thơ); tự sự dông
dài, chuyện nọ xọ cảnh kia… Cách viết này dễ bị nhấn chìm. Người đọc khó đón
nhận thông điệp, nếu thơ quả thực có cái gọi là thông điệp.
“Ngập ngừng lảm nhảm” là lối viết hiếm.
Như một thứ tật, tật hành văn. Mà tật này vẫy gọi tài. Có những tài thơ oái ăm
vậy đấy. Không thể quên cái kỳ khôi khó coi mà hấp dẫn trong thơ Nguyễn Vỹ,
theo nhìn nhận của tôi, có phần đắc lực của thứ thi pháp đang được
bàn [21].
Khá nhiều bài được Nguyễn Anh Tuấn nghiêng
theo lối viết này, và thành đạt: “Phúng dụ Hà Nội”, “Phúng dụ những tiếng gà”,
“Phúng dụ niết bàn”, “Phúng dụ Styx”, “Phúng dụ người
đêm”, “Phúng dụ phép màu”…
Trước đây tôi đã thử bàn đến thi pháp ngập
ngừng/ lảm nhảm ở một số bài viết, và tới nay chỉ mới phác thảo được thế này.
Âu cũng nhờ gặp tập thơ mới. Và biết thêm được hai ý kiến hay hỗ trợ:
Một là, luận điểm “Tính phi đối xứng làm nên nét độc đáo của thơ” đến từ nhà nghiên
cứu Hoàng Kim Ngọc [22]. Mệnh đề đó có thể triển khai thành một chương
hoặc cả một tiểu luận mà phong cách nói trên trở thành ví dụ tốt. Vâng, phi đối
xứng chính là tật, xa hơn nữa là “quái đản”.
Hai là, bàn về thơ Thường Quán, nhà thơ Vũ
Thành Sơn viết: “[...] tôi thích ở
chỗ, những khoảng lặng. Những khoảng lặng hay có thể nói là những khoảng trống
ấy được tạo ra từ những ngắt đoạn, những chuyển hướng đột ngột, những
bỏ lửng, khiến cho người đọc có cảm tưởng bài thơ như “tối nghĩa”, “khó
hiểu” (tôi cố ý để trong ngoặc
kép “nghĩa” và “hiểu” dành nói về cách đọc, cách viết phổ
biến trong khá đông người Việt Nam hiện thời). Đó là những khoảng
trống làm cho người ta kinh sợ (Blaise Pascal).” [23]
8- Khoảng 60 bài thơ tôi đã đọc trong và ngoài
tập thơ
Tự tin mà nói tôi “cảm” được gần như tất
cả, dù không thích chừng 1/3 số bài. Và thú thật, tôi không “hiểu” được
tới 1/5 số bài trong đó không ít bài có lẽ hay. Lỗi tại tôi mọi đàng! Cuốn thơ
chúng ta đang ngự trên nó là ví dụ rõ cho cá nhân tôi thử nghiệm nhanh, nhiều
trạng thái thơ: cảm, hiểu/ không hiểu, hay/ không hay, thích /không thích, v.v.
Nhưng không có trạng thái chán. Các nhà
bình thơ Trung Hoa thường bảo, văn chương chán nhất là bởi nhạt. Thơ nhạt còn
tệ hơn thơ dở. Nguyễn Anh Tuấn đã vượt thắng cửa ải đầu tiên. Với thơ được/ bị
viết theo phương cách nhất quán, như một kiểu “chế tạo thơ”. Đồng điệu mà không
đơn điệu. Tài!
Mời xem Phụ lục gồm bốn bài rút
từ tập thơ mà người viết mạn phép làm theo bảng điểm Hay, OK, Đạt, Chưa đạt với
cách đọc của mình. Dòng thơ này dường như không có các bài yếu/ dở? Và tôi chưa
đọc được bài nào rất hay/ xuất sắc thì phải? Sao vậy ta?
9- Bài viết được hình thành từ các cảm nghĩ ban
đầu của bản thân, kèm nhận định từ một số tác giả nghiên cứu, phê bình…
Tôi hạ bút trong khi đọc nhanh những gì
trong và ngoài “Phúng dụ từ những đám mây”.
Tới những lần đọc lại và chậm, liệu sẽ
thấy nhiều điều hay hơn của loại thơ còn đang lạ này? Tôi không thể biết. Trải
nghiệm đọc thơ đâu phải là con dao pha để thực hành với đủ loại thịt cá rau
quả?
Mong tác giả cho tôi và mọi người được chờ
các sáng tác mới, chuyển đổi từ thủ pháp phúng dụ thành công như đang là sang
thi pháp phúng dụ. Không hề dễ, không thể nhanh. Không sao tính được bằng số
lượng bài thơ, trang sách hoặc số năm tháng sắp tới.
Làm một người đọc, chờ thơ cũng là hạnh
phúc; và mang hơi hướng khôi hài đen.
Để chúng ta cùng an tâm “trong khi chờ
Godot”, nên chăng dùng các lời sau, vẫn là đến từ tác giả Văn Giá (X. Ct 1):
“Cái
chữ “phúng dụ” [...] có thể gây cản trở ít nhiều đối với ai
đó [...] Suy cho cùng, những bài thơ hay (vâng, chỉ những bài thơ
hay) nào chẳng hàm chứa một ý nghĩa khái quát nào đó. Cho nên, thiết nghĩ, cũng
chẳng chấp vào cái chữ phúng dụ làm gì.
Thơ
Nguyễn Anh Tuấn thường hay có mặt lớp ngôn từ trực tiếp hoặc liên quan đến văn
hóa/văn chương Đông Tây kim cổ [...] Điều đó ít nhiều cũng gây cản
trở người đọc, nhất là bạn đọc khi không có đủ một tri thức rộng làm nền. Tuy
nhiên, điều này cũng chưa phải là cốt yếu.
Cái
làm nên những bài thơ thành công nhất [...] nằm ở chỗ có sự kết phối
nhuần nhị, tự nhiên giữa những cảm xúc và suy tưởng, giữa hình ảnh và ý tưởng,
giữa ngôn từ và cấu trúc, giữa hiển ngôn và hàm ẩn. Nặng về suy tưởng, dễ gò
ép. Ngả về cảm xúc, dễ bị miên man. Không ít những bài thơ trong tập thơ này
chưa đầy chưa nhuyễn hai điểm cốt yếu đó.”
10- Bonus tới Quý bạn nào phản cảm từ
“phúng dụ”
Chỉ cần thay “Phúng dụ” bằng “Thơ”.
Tin là bạn sẽ hiểu đúng đến 96% tập sách “Phúng
dụ từ những đám mây” gồm 96 bài thơ từ một người thích ký tên như
sau trong các thư email: Nguyễn Anh Tuấn, Nhân Vật Phúng Dụ Trữ Tình, Thơ
Phúng Dụ.
Thì vẫn, thơ là phúng dụ – phúng dụ là
thơ.
*
PHỤ LỤC
- Bài hay:
PHÚNG DỤ TỪ NHỮNG ĐÁM MÂY
Mặt
đất một ngày rêu
Xanh
những giấc mơ xanh huyền thoại
Rối
vào nhau hạnh phúc gồm khổ đau
Mặt
đất một ngày hoa
Em
xinh đẹp như bài thơ tôi viết
nhưng
không hiểu được
Và,
trở về, tưởng tượng biếc màu đêm
Mặt
đất một ngày trăng
Tôi sẽ
giã từ với niềm nuối tiếc
Chưa
lắng đọng được cho em một chút ấm nồng
Mặt
đất một ngày tinh cầu số
Ngày
đó, phép thiêng ngôn ngữ mở
Câu
chuyện loài người được kể bởi những đám mây.
- Bài OK:
UMUA ĐEN Ở BÃI BIỂN
Bãi
tắm đông đúc vắng
Biển
động êm ái sóng
Em
mảnh khảnh đẫy đà
Sải
dài từng bước ngắn
Những
thô thô duyên dáng
Những
trắng trắng đen đen
Những
giá băng nóng bỏng
Những
lạ lùng thật quen
Bao
năm gần thăm thẳm
Cùng
chung sống đơn phương
Kẻ
rạch ròi lẫn lộn
Người
mạch lạc lung tung
Đành
bên nhau cách biệt
Em xa
hút trong tay
Đất
trời yên vun vút
Gió
ngừng. Tóc lộng bay.
- Bài đạt:
PHÚNG DỤ HÀ NỘI
Hà Nội
Phồn
hoa lắm
Người
đi
Bóng
dẫm bóng
Mỗi
nét văn trống đồng luôn kể rõ thiên cơ.
- Bài chưa đạt:
PHÚNG DỤ SENTIMENT
Biếc
ngắm người đàn ông, buổi sáng
Nhặt
sâu trên lóng lánh nụ hôn
Đêm
hôm qua, sự kì diệu
Cô
chuột lãng mạn làm với bông cúc trắng
Phập
phồng mây ở não người
Bỗng.
buốt lừng “trăng sáng”
Chữ
viết mọc linh hồn làm thơm biếc bàn tay.
♦
TÀI LIỆU THAM KHẢO & CHÚ THÍCH
[1]
Ngoài tập thơ “Phúng dụ từ những đám mây” – Nguyễn Anh Tuấn, Nhà xuất bản Hội
Nhà văn, 2020 - có thể xem thêm những bài thơ theo kiểu “phúng dụ” và “không
phúng dụ” của cùng tác giả ở một số trang mạng:
+
Phúng dụ
-
FB Thơ hiện thời Plus (Văn Giá giới thiệu và tuyển chọn)
https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=832126810634114&id=182183488961786
-
vanviet.info 8/2/2019
http://vanviet.info/tho/tho-nguyen-anh-tuan-2/
-
trangngaunhien.wordpress.com 11/4/2020
https://trangngaunhien.wordpress.com/2020/04/11/tho-nguyen-anh-tuan-3/
-
vanchuongphuongnam.vn 2/4/2020:
https://vanchuongphuongnam.vn/nguyen-anh-tuan-phung-du-cac-tang-troi.html
+
Không phúng dụ
-
Blog Ánh sáng lời
http://anhsangloi.blogspot.com/2018/
-
Trang thơ Thi Viện
https://www.thivien.net/Nguy%E1%BB%85n-Anh-Tu%E1%BA%A5n/author-z1ZxOsw3SlT54d7k7rgd9g
[2]
Trên file bản thảo (không rõ trùng với bản in sách hay không), tôi thấy tập thơ
gồm tổng cộng 96 bài, với bài số 1 “Phúng dụ vầng mây”; từng bài nối tiếp nhau
cho đến bài thứ 96 “Phúng dụ người mẫu” không phân chia theo phần/mục khác nhau
(như đa số sách thơ hiện nay). Ba trường hợp ngoại lệ: duy nhất không có từ
“Phúng dụ” ở nhan đề là bài “Umua đen ở bãi biển”, và 2 bài có từ
“Phúng dụ” ở nhan đề nhưng không ở từ đầu tiên, “Ly café phúng dụ” và “Chim
phúng dụ”.
[3]
Ngô Đức Hành; “Nguyễn Anh Tuấn
và tập thơ Phúng dụ từ những đám mây“, vanchuongphuongnam.vn
25/3/2020.
[4]
“Nguyễn Anh Tuấn –
Phúng dụ các tầng trời“, vanchuongphuongnam.vn 2/4/2020.
[5]
Hoàng Thụy Anh; “Nguyễn Tuấn Anh
làm biếc non tiếng hát“, vanchuongphuongnam.vn 22/4/2020.
Tham
khảo thêm: Ngô Đức Hành (X. Ct 3)
“Khái
niệm phúng dụ (chữ Hy Lạp là allègoria) đã xuất hiện từ thời cổ đại. Nguyên tắc
phúng dụ được dùng phổ biến trong mỹ học và nghệ thuật trung đại châu Âu. [...]
Phúng dụ (hay nói bóng hoặc ám chỉ), là một biện pháp chuyển
nghĩa trong nghệ thuật ngôn từ; một kiểu hình tượng, một nguyên
tắc tư duy và tổ chức trong nghệ thuật nói chung.
Theo
nhà phê bình văn học Lại Nguyên Ân, ngay trong ca dao, hò vè xưa, cha ông ta đã
dùng cách nói ám chỉ, đó là mức sơ khai của phúng dụ. Ví
dụ: “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao” diễn
tả một triết lý về sự đoàn kết. Có thể coi phúng dụ là dạng thức ẩn dụ
nhưng với quy mô lớn hơn, không chỉ ở cấp độ câu, đoạn mà còn bao
quát toàn bộ tác phẩm. Phúng dụ dựa trên cơ sở lối nói ngụ ý, bóng gió, biểu
đạt một ý tưởng trừu tượng, khái quát bằng hình ảnh trực quan.” (Đỗ Quyên
nhấn mạnh)
[6]
Vũ Gia Hà; “Nhà phê bình văn
học La Khắc Hòa không có đối thủ trong việc gây cười“, vanhien.vn
3/7/2020.
[7]
X. Chú thích 5.
[8]
Đa số các bài trong tập thơ đều ngắn với trung bình 120 từ, được trình bày vừa
một trang sách nhỏ; bài dài nhất (và nằm trong số các bài “dễ hiểu” nhất) là
“Phúng dụ đêm mùa hạ”, chừng 390 từ, ở các tr.53-56.
[9]
Vẫn biết gán ghép này sẽ là chênh vênh trên mặt bằng quan niệm về thể thơ
trường ca hiện đại, tôi vẫn mạnh dạn mà ghép gán, với ý thức thường trực nơi
một người quan tâm – gần như từ A đến Z – các vấn đề thơ dài và trường ca Việt
Nam từ thời Thơ mới tới nay. (X. các chuyên luận “Trường ca Việt
Nam: Tác giả và tác phẩm“, vanviet.info 28-30/4/2015; và “Đến sự hiện đại
hóa thơ Việt từ “trường phái trường ca Việt“ vanchuongviet.org
11/5/2016).
Nếu
cách nhìn trên phần nào đúng thì kẻ viết bài này (từng có vài trường ca được
làm theo phương thức đó) cũng là “đồng minh” của tác giả. Dù hai chúng tôi khác
nhau ở đích sáng tác: ĐQ chủ tâm viết trường ca bằng cách làm một chuỗi thơ rời
rạc rồi cắt ghép chúng lại gần nhau theo cùng chủ điểm. Còn Nguyễn Anh Tuấn ắt
là khi viết đã vô thức và khi biên tập, sắp xếp tập thơ đã không chủ ý ghép nối
các bài thơ độc lập để hình thành chương hồi.
Trữ
tình ngoại đề: Hơn chục năm trước, có bạn thơ (sau này trở thành một nhà nghiên
cứu văn học tạo tiếng vang) đã ngạc nhiên khi thấy trong danh sách thơ dài và
trường ca Việt Nam ở biên khảo nói trên lại có tập thơ “Vỉa từ” của nhà thơ
Nguyễn Hữu Hồng Minh. Chúng tôi tranh biện: “Tập thơ đó có thể độc đáo nhưng
không thể ở thể loại trường ca!” – “Thì vẫn. Chính cái độc đáo đã chuyển hóa
thể loại cho nó, bởi mọi thể loại văn học không bao giờ ổn định; còn riêng với
trường ca thì như nghiên cứu gia văn học Nga Y. N. Tynhianov khẳng định: ‘Hãy
thử định nghĩa khái niệm ‘trường ca’, tức một khái niệm về thể loại. Tất cả mọi
cố gắng đưa ra một định nghĩa thống nhất đều không đạt được!”
[10]
X. Ct 5.
[11]
X. Ct 9.
[12]
X. Ct 5.
[13]
Một tư liệu hữu ích, liên hệ xa với chuyện uymua đen đang bàn: Là người viết
sách “Thi pháp thơ Tố Hữu” (1987), Giáo sư Trần Đình Sử vừa cho đăng “chuyện
bây giờ mới kể” về cách phân biệt mà ông từng làm thỏa đáng ở “thái độ” tuy
không kết quả ở “nội dung”, khi trao đổi trực tiếp với nhà thơ cách
mạng Tố Hữu trong vấn đề loại hình thi ca và điệu thức thể hiện:
“Thơ
trữ tình chính trị là một thuật ngữ có tính thế giới để chỉ một loại
thơ, thơ chính trị, tức là thơ tuyên truyền chính trị. Đối lập với nó
là thơ trữ tình bình thường. Mấy chữ trữ tình cách mạng chỉ
nói về nội dung, không nói về lọaị hình. Đối lập với cách
mạng chỉ có thể là không cách mạng hoặc phản cách mạng, mà đều mang nghĩa xấu.
[...] Giọng thơ quyền uy cũng khác với quyết liệt. Quyết liệt
là tính chất của lời nói, còn quyền uy là thái đội đối với
người nghe, thái độ đối với chân lí [...] (Trần Đình Sử; “May mà tôi không
xin gặp nhà thơ Tố Hữu“, vanviet.info 11/6/2020 – ĐQ nhấn mạnh)
[14]
Nói thêm: Không hẳn hễ thơ “phản biện” thì humour noir. Tập trường ca
“Văn đàn bi tráng” của thi sĩ Nguyễn Vũ Tiềm là một ví dụ lớn. Rất nghiêm trang
và thê thiết, rất trực diện và cụ thể, rất hệ thống và dông dài (trường ca mà
lị!) như người trong cuộc, tác giả đã lập một bàn tròn bằng thơ tổng kiểm thảo
đủ các sự kiện, nhân vật chủ yếu là của văn chương hiện đại miền Bắc Việt Nam
từng bị “bi” suốt thời gian góp phần làm “tráng” thi ca và xã hội, đất
nước. Và cũng không hẳn có “bi” có “tráng” thì không “hài”. Một câu ai cũng
biết của K. Marx: “Giai đoạn cuối cùng của một hình thái lịch sử, chính là tấn
hài kịch của nó.”
[15]
Văn Giá (tuyển chọn và giới thiệu); “Chùm thơ phúng dụ
của Nguyễn Anh Tuấn“, FB Thơ hiện thời Plus (X. Ct 1).
[16]
X. Ct 5.
[17]
“Ngăn cái họa mất gốc. Văn chương, tư tưởng lấy quốc văn làm khí cụ độc nhất,
đào luyện trong cái đặc biệt của ngôn ngữ Việt Nam…” - Trích bài “Quan niệm”.
(“Xuân Thu nhã tập“;
vi.wikipedia.org)
[18]
Thành thực mà nói, các câu”Chữ trỗi lên loạt gà gáy/ Vang lên không trung những
tia mặt trời”, và “Sau đêm biếc kỉ niệm/ Những chồi non bỗng thức
giấc thành người” như đã được chọn trích ở đoạn giới thiệu trong FB Thơ
hiện thời Plus (X. Ct 1), tôi cũng”đọc rất thích”mà chưa khoái tỷ. Chúng chưa
là các câu-thơ-hay.
[19]
Các chỗ nhấn mạnh là bởi Đỗ Quyên.
[20]
Thơ Tân hình thức Việt cũng có giọng “lảm nhảm” nhờ kỹ thuật lặp lại, bên cạnh
4 yếu tố khác với mấu chốt là kỹ thuật vắt dòng để cùng tạo nên thi pháp cho
thể thơ mới này của nền thi ca Việt Nam từ trước đến nay. Khế Iêm từng dùng
cách nói ấn tượng rằng, dòng thơ này có “vũ điệu không vần” (cũng là tên cuốn
sách mới, quan trọng nhất của ông về lý luận và thực hành thơ Tân hình thức
Việt).
So
sánh với các điều ở đây, ta có thể thấy cú pháp “vũ điệu” ở thơ Tân hình thức
(vốn là thể thơ không vần) như một kiểu đối ngược với cú pháp “ngập
ngừng” của thơ vần điệu và thơ tự do bình thường. Và nó là đối ngược về
nhịp chảy ngôn từ; khác với đối ngược của cú pháp “rành mạch/ tư biện” (ở thơ
vần điệu và thơ tự do bình thường) lại là đối ngược về phong cách diễn đạt.
[21]
Về một trường hợp quý hiếm như thế ở kỷ nguyên Thơ mới, vài trích dẫn dưới đây
cho thấy sự lúng túng bất cập của giới phê bình đương thời và cả sau này:
“Ở
Sài Gòn, trong quyển Hồn Thơ nước Việt thế kỷ XX [1967] tác giả Lam Giang đã
nhận định như sau: “Phê bình Nguyễn Vỹ, Hoài Thanh phát biểu một ý kiến võ
đoán: “Nguyễn Vỹ chí lớn mà tài nhỏ nên hay lập
dị, chứ thật sự ít có thành tích văn chương”.
Riêng về
thơ, ông nhận được nhiều lời khen chê: [...] Nguyễn Vỹ có [...]
một lối thơ mới trên thi đàn [Như:]
“Đến
ngày nay cảnh non sông đã phủ mấy lớp sương mù
Mà
còn rên dưới rễ cỏ những vết hận lòng lai láng…” [...]
Vì
lẽ đó, Thế Lữ cho rằng ông có ý định toan lòe và bịp mọi người [...],
còn Vũ Ngọc Phan thì viết: [...] tầm thường, chỉ cầu kỳ có bề mặt.
Giới
thiệu Nguyễn Vỹ, Hoài Thanh và Hoài Chân cũng đã viết như sau: “Nguyễn Vỹ
đã đến giữa làng thơ với chiêng trống, xập xoèng inh cả tai. Chúng ta đổ
nhau xem. Nhưng chúng ta lại tưng hửng trở vào vì ngoài cái lối ăn mặc và những
điệu bộ lố lăng, lúc đầu ta thấy con người ấy không có gì…” Chê
bai, nhưng ngay sau đó hai ông cũng phải nhìn nhận: “Một bài như
bài “Sương rơi” được rất nhiều người thích. Người ta thấy Nguyễn Vỹ
đã sáng tạo ra một nhạc điệu riêng để diễn tả một cái gì đương rơi.
Cái gì đó có thể là những giọt lệ… Nhưng “Sương rơi” còn có vẻ
một bài văn. “Gửi Trương Tửu” mới thực là kiệt tác của Nguyễn
Vỹ. Lời thơ thống thiết, uất ức, đủ dãi nỗi bi phẫn cho cả
một hạng người.”
(“Nguyễn Vỹ“;
vi.wikipedia.org - Đỗ Quyên nhấn mạnh các chỗ liên quan đến Thi pháp ngập
ngừng/ lảm nhảm. Riêng 2 câu thơ trên của Nguyễn Vỹ, tôi còn thấy dù ở nhịp thơ
và thi ảnh cũ, nhưng cách diễn đạt rậm rịt lại… giống trong tập thơ “Phúng dụ
từ những đám mây”.)
[22]
Hoàng Kim Ngọc (Chủ biên) và Hoàng Trọng Phiến; “Ngôn ngữ văn chương”, Nhà xuất
bản Đại học Quốc gia, 2011; tr.113.
[23]
Vũ Thành Sơn; “Hải đảo, trở lại“,
FB Thành Sơn Vũ 28/6/2020 - Đỗ Quyên nhấn mạnh.
*.
Vancouver, 19/6 - 8/7/2020
ĐỖ QUYÊN
(tên thật: Đỗ Ngọc Thủy)
Địa chỉ: Melbourne, thành phố Vancouver,
tỉnh British
Columbia, Canada.
........................................................................................
- Cập nhật
từ email: tahongtruong@yahoo.com.vn ngày 29.10.2020.
- Bài viết
không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại..
0 comments:
Đăng nhận xét