NGUYỄN
QUANG THIỀU
KHÔNG
NÊN LÀM THƠ VÔ LỐI
Nguyên
bản của Nguyễn Quang Thiều - Bài in trên báo Văn nghệ - Bộ mới số số 4 + 5 + 6
(ngày 22 -1 - 2022) Nhâm Dần
ĐƯA
CHÁU VỀ QUÊ NỘI
Những cơn mưa đã rửa sạch con đường
Rửa sạch những vòm cây, những khu vườn yên
tĩnh
Mùa hạ mở, rộng những chân trời khung cửa
Những búp sen hồng thắp sáng ban mai
Đó là ngày tôi đưa cháu tôi về quê nội
Để cháu nhận ra dòng sông, dãy núi, cánh đồng
Nhận ra giọng làng Chùa nồng thơm mùa gặt
Nhận ra những mái nhà trầm mặc xuống suy tư
Nhận ra hoa, nở cả trong bóng tối
Nhận ra mây bay trên những ưu phiền
Nhận ra gió tự do không bao giờ khuất phục
Nhận ra cuốn sách người ngôn ngữ của lương tri
Và tôi bế cháu tôi dưới vầng dương rực rỡ
Người ban tặng cháu tôi những hạt giống vàng
Để gieo xuống cánh đồng người năm tháng
Những mùa màng nhân ái mãi lên xanh.
Tôi
đã viết về cái gọi là “thơ Vô lối” của Nguyễn Quang Thiều và những người làm vô
lối khác khá nhiều chuyên luận nay không nhắc lại nữa. Chỉ biết rằng “Thơ vô
lối” là một quái thai văn chương!
Số
tết Nhâm Dần báo Văn nghệ (bộ mới số 4+5+6/22-1-2022) in một ceri của những cây
vô lối “gạo cội”: Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Inrasa, Phan Hoàng,
Mai Văn Phấn, Trần Hùng, Tuyết Nga, Mai Quỳnh Nam, Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh…
Đọc nghe tởm lợm, buồn nôn! Điển hình là bài “Đưa cháu về quê nội” của Nguyễn Quang Thiều.
Bài
này thể hiện rõ “chất vô lối” của Nguyễn Quang Thiều: ồn ào, sáo rỗng, hô khẩu
hiệu suông, đại ngôn, thừa chữ, thiếu lời, thiếu ý…
“Những cơn mưa đã rửa sạch con đường
Rửa sạch những vòm cây, những khu vườn yên
tĩnh
Mùa hạ mở, rộng những chân trời khung cửa
Những búp sen hồng thắp sáng ban mai
Đó là ngày tôi đưa cháu tôi về quê nội…”
Khổ
mở đầu đã lắm lời, lắm chữ mà không đủ ý. Mưa đâu chỉ rửa sạch một con đường,
vòm cây, khu vườn yên tĩnh? Kể mưa rửa sạch thì kể bao giờ mới hết! Mưa rửa
sạch là đủ, cần gì phải kể những cơn mưa! Vậy có nhiều cơn mưa không rửa sạch
(!). Câu này thừa ba chữ: “Những, con, đã”. Tôi đã nói nhiều người làm “vô lối”
không hiểu thuật “thôi xao - thôi 推: đẩy , xao 敲 : gõ” một đặc sản trong thơ!
Trong “Người đàn bà gánh nước sông”
Nguyễn Quang Thiều cũng dùng thừa chữ, thừa lời thiếu ý, như thế - “Đã năm, mười năm, ba mươi năm, nửa đời tôi
thấy”. Đây không phải chỉ Nguyễn Quang Thiều kém cõi tiếng Việt mà đám vô
lối đều như thế cả. Con đường, vòm cây, khu nhà yên tĩnh có bị bụi bẩn mới nhờ
đến mưa rửa sạch. Còn con đường, vòm cây, khu nhà yên tĩnh có bị bụi bẩn đâu mà
phải nhờ mưa rửa sạch? Nhất là khu nhà yên tĩnh. Khu nhà yên tĩnh (安靖)là khu
nhà an bình, yên ổn thì cần chi mưa rửa nữa, đấy hiểu theo cả nghĩa đen và
nghĩa bóng nữa! Nguyễn Quang Thiều không biết nghĩa chữ Hán nên cho mưa rửa cả
những nơi sạch sẽ, tốt đẹp (!)
“Đó là ngày tôi đưa cháu tôi về quê nội”.
Ngày đưa cháu nội về quê nhờ mưa rửa sạch bụi bẩn, còn ngày đưa cháu về quê
ngoại thì sao? Thơ viết gì mà hớ hênh, cực đoan vậy!
“Để cháu nhận ra dòng sông, dãy núi, cánh
đồnộig
Nhận ra giọng làng Chùa nồng thơm mùa gặt”
Dòng
sông, dãy núi, cánh đồng, giọng làng Chùa nồng thơm mùa gặt thì trên cõi Việt
này quê đâu chả thế. Cái giọng làng Chùa nồng thơm mùa gặt có gì đặc sắc đâu.
Làng nông nghiệp 80% là nông thôn, nông dân, giọng miền quê nào chẳng nồng thơm
mùa gặt. Tác giả tưởng rằng chỉ là Chùa có ruộng đồng, có cây lúa (!) Quá chung
chung không điển hình.
Hai
khổ, khổ gần kết và khổ kết là những câu xiếc chữ, đại ngôn, sáo rỗng, hô khẩu
hiệu suông, ba hoa chích chòe “ba voi
không ngọt bát xáo”:
“Mây bay trên những ưu phiền, gió tự do không
bao giờ khuất phục, cuốn sách người ngôn ngữ của lương tri, tôi bế cháu tôi
dưới vầng dương rực rỡ, mùa màng nhân ái mãi lên xanh…”
Cũng
như đám vô lối khác, Nguyễn Quang Thiều sính dũng chữ Hán chưa Việt hóa: yên
tĩnh (安靖), hạ (夏), hồng (紅), hoa (花 hoa ), trầm mặc (沈默), suy tư (推思), khu (区,chân
(甄, ưu phiền (憂煩), tự do (自由), khuất phục (屈服), ngôn ngữ (言語), lương tri (良知),
nhân ái (仁愛), ban tặng (頒贈),(25 chữ)… Bài vô lối “Đưa cháu về quê nội” gần như bị Hán hóa!
Thời
hiện đại hay thời nào cũng thế, thơ có vần, thơ không vần không quan trọng. Miễn
là tư tưởng, tình cảm của tác giả gửi đến người đọc như thế nào. Thơ không vần
không mới, nó cũ như trái đất. Ngay cha ông ta từ thuở sơ khai đã làm thơ không
vần. Các cụ đặt tên các loại ấy là: cáo, chiếu, biểu, hịch. lệnh, sớ…
«Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông, bờ cõi đã chia
Phong tục Nam Bắc cũng khác… »
(Bình
Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi thay Lê Lợi viết Cáo)
Các
thi sĩ hiện đại:
Thời
chống Pháp:
“Đằng nớ
Vợ chưa đằng nớ
Tớ còn chờ Độc lập
Cả lũ cười vang trên ruộng bắp
Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu!”
(Nhớ
- Hông Nguyên)
“Người đẹp như tuyết
Chạm vào thấy nóng
Người đẹp như lửa
Sờ vào thấy mát
Không đói,
Gặp người đẹp cũng đói
Không khát
Gặp người đẹp cũng khát…”
(Lò
Ngân Sủn)
“Nhưng em hỡi
Nếu có chàng trai chưa từng vượt qua sóng gió
Nếu có chàng trai chưa từng vượt qua thử thách
gian lao
Có lẽ nào sánh với tình em!
(Hà
Nhật)
“Nhà tôi buồn
Nuôi một con chó
Một hôm nó nói tiếng người:
Con người sống với nhau ác độc lắm!”
(Phỏng
theo Thơ hậu hiện đại Thụy Điển - Phạm Viết Đào dịch.
Nguyễn
Quang Thiều không biết chữ Hán, nhưng sính dùng chữ Hán, dùng bội thực, chữ chỉ
dùng trong ngành chuyên môn, bói toán,chưa Việt hóa bao nhiêu : Càn khôn (乾坤),
lịch trình (历程), hữu hạn (有 限),vô hồi (無回 Đào), nhẫn nại (忍耐)…. Chữ ta có trời
đất, bước chuyển, chỗ dừng, chịu đựng, không về,…sao không dùng ? Mỗi chữ mỗi
câu thơ, người làm thơ tiếng Việt đòi hỏi phải sáng tạo từ mới thuần Việt, giữ
gìn sự trong sáng tiếng Việt :
«Một tiếng chim kêu Sáng cả rừng» (Khương
Hữu Dụng). Chữ Sáng làm sáng câu thơ, sáng bài thơ. Người đời chỉ nhớ đến chữ
Sáng. Đời nhớ Khương Hữu Dụng chỉ một chữ Sáng!
Thuở
xưa cha ông ta chỉ dùng chữ Hán (âm Hán Việt).
Ngay
đến sau Cách mạng tháng Tám các lớp ấu trò trường làng còn học cửu chương bằng
tiếng Hán Việt :
«Nhị nhị thành tứ
Nhị tam thành lục
Thất cửu lục tam
Cửu cửu bát nhất»…
(2x2
= 4
2x3
= 6
7x9
= 63
9
x9 = 81)
Thế
nhưng thơ văn tổ tiên viết rất thuần Việt
«Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau »
…
« Hỏi tên rằng : Mã Giám Sinh
Hỏi quê rằng : Huyện Lâm Thanh cũng gần»
(Đoạn
trường tân thanh – Nguyễn Du)
«Thiên địa phong trần
Hồng nha đa truân
(Thuở
đất trời nổi cơn gió bụi
Khách
má hồng nhiều nỗi truân chuyên)
(Đoàn
Thị Điểm hay Phan Huy Ích dịch Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn)
Thời
cận đại :
«Nước non nặng một lời thề
Nước đi đi mãi không về cùng non»
(Tản
Đà)
«Bèo dạt mây trôi
Chốn xa xôi
Em ơi ! Bèo dạt…»
(Dân
ca Quan Họ)
Nêu
cha ông không giữ gìn sự trong sáng tiếng Việt, viết như Nguyễn Quang Thiều và
đám vô lối bây giờ thì ai đọc (đoạn này lấy lại một phần trong các chuyên luận
phê bình thơ Vô lối) !
«Bách niên trong cõi nhân ta
Tài tự, mạng tự khéo là tăng nhau»
…
Chất vấn rằng : Mã Giám Sinh
Chất vấn rằng : huyện Lâm Thanh cận nhà»
«Bình chuyển, vân di..y ..y
Xứ viễn phương
Muội y , muội vẫn đợi, vẫn vọng…Bình chuyển »
« Thiên địa gió bụi
Hồng nhan nhiều nạn»
Thì
còn chi Kiều, Chinh phụ ngâm, dân ca Quan Họ!
Kết
lại rằng: Bài “Đưa cháu về quê nội”
không một chút rung cảm, người đọc ngỡ như đọc bản tuyên cáo của Tuyên huấn
Công an. Tất cả câu chữ vừa lai Tàu.
Ô,
vừa nặng nề như đá sỏi.
Cũng
viết về thăm quê sao tiền nhân viết cả gần trăm năm mỗi lần đọc, mỗi lần rung
cảm:
“U tôi ngày ấy mỗi mùa xuân
Dặm liễu mây bay sắc trắng ngần
Lại dẫn chúng tôi về nhận họ
Bên miền quê ngoại của hai thân
Tôi nhớ đi qua những rặng đề
Những giòng sông trắng lượn ven đê
Cồn xanh, bãi tía kề liên tiếp
Người xới cà, ngô - rộn bốn bề
Thúng cắp bên hông, nón đội đầu
Khuyên vàng, yếm thắm, áo the nâu
Trông U chẳng khác thời con gái
Mắt sáng môi hồng má đỏ au.
Tà áo nâu in giữa cánh đồng
Gío chiều cuốn bốc bụi sau lưng
Bóng U như bóng người thôn nữ
Cúi nón mang đi cặp má hồng
Chiều mát, đường xa nắng nhạt vàng
Đoàn người về ấp gánh khoai lang
Trời xanh , cò trắng bay từng lớp
Xóm chợ lều phơi xác lá bàng.
Tới đầu làng gặp những người quen
Ai cũng khen U nết thảo hiền
Dẫu phải theo chồng thân phận gái
Đường về quê mẹ vẫn không quên.”
(Đường
về quê mẹ - Đoàn Văn Cừ)
Nguyễn
Quang Thiều không nên viết “ thơ Vô lối”. Nếu Nguyễn Quang Thiều và đám Vô lối
cứ viết tràn lan thì rất nguy hại cho thơ ca dân tộc! Chí nguy ! Chí nguy!
--------------------------------
Đỗ
Hoàng dịch ra thơ Việt
ĐƯA
CHÁU VỀ QUÊ NỘI
Những cơn mưa đã rửa sạch con đường
Rửa sạch vườn cây, khu nhà yên tĩnh
Hạ mở rộng chân trời cửa kín
Bông sen hồng thắp sáng ban mai!
Ngày tôi đưa cháu về quê nội
Để cháu nhận ra sông, núi, đồng làng
Nhận ra giọng làng Chùa nồng thơm mùa gặt
Nhận ra ngôi nhà trầm mặc thinh không.
Nhận ra hoa nở cả trong bóng tối
Nhận ra mây bay trên những ưu phiền
Nhận ra giá tự do không khuất phục
Nhận ra sách ngôn ngữ thánh hiền.
Tôi bế cháu giữa vầng dương rực rỡ
Người ban tặng cháu tôi những hạt giống vàng
Để gieo xuống cánh đồng năm tháng
Nhân ái lên xanh thêm bội mùa màng!
*
Hà
Nội ngày 17/1/2022
Đỗ
Hoàng
Mời thư giãn với
nhạc phẩm PHIÊN GÁC ĐÊM XUÂN
của Nguyễn Văn Đông, qua tiếng hát Tuấn Vũ:
*.
Hà
Nội ngày 18/1/2022
ĐỖ HOÀNG
Quê quán: Cao Vân, Lệ Thủy, Quảng Bình.
Hiện sống và
làm việc tại Hà Nội.
Email: donguyenhn@yahoo.com
Điện thoại: 091.336.96.52
.............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản từ email tác giả gửi ngày 21.01.2022.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng
Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
..
Quả thật "Đưa cháu về quê nội" rất lối mòn, sáo rỗng. Nói như các Cụ thì là Thiều đang cố "rặn".
Trả lờiXóa