ĐỌC THƠ VIẾT VỀ
THƯƠNG
BINH, LIỆT SĨ
*
Đặng Xuân Xuyến giới thiệu
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
Tác
giả: Trần Văn Lợi
TƯỢNG ĐÀI NGƯỜI ANH
HÙNG LIỆT SĨ
TRONG THƠ VIỆT NAM
HIỆN ĐẠI
Trong lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã có biết bao thế hệ những Anh
hùng Liệt sĩ hiến dâng cuộc đời cho đất nước. Với nguồn cảm xúc tôn kính và tri
ân, các nhà thơ đều dành những trang viết trang trọng, xúc động ca ngợi người
Anh hùng Liệt sĩ - những đồng đội đã một thời cùng đạn bom khói lửa, những
người thân ra đi từ một làng quê hay dãy phố. Đó là những bức tượng đài về
những người Anh hùng Liệt sĩ sừng sững, trường tồn được tạc bởi thơ ca.
Một trong những bài thơ ra đời sớm nhất trong
kháng chiến chống Pháp là tác phẩm “Viếng
bạn” của nhà thơ Hoàng Lộc. Bài thơ ngắn
nhưng đã tái hiện sự hy sinh anh dũng của người chiến sĩ Vệ quốc quân. Cái
khoảng cách giữa cõi sống và cõi chết thật mong manh, ngắn ngủi như giang tấc.
Những câu thơ vừa diễn tả được lòng căm thù quân giặc, vừa biểu hiện được tình
đồng đội, đồng chí và tình quân dân cá nước mặn nồng, thiêng liêng:
“Hôm qua còn theo anh
Đi ra đường quốc lộ
Hôm nay đã chặt cành
Đắp cho người dưới mộ…”
Những người lính ra đi và ngã xuống chẳng
tiếc đời xanh, bởi quãng đời tươi đẹp nhất ấy đã hiến dâng cho một lý tưỏng cao
cả: chiến đấu vì Tổ quốc. Họ ngã xuống thanh thản, trở thành những cột mốc nơi
biên cương. Tư thế lúc hy sinh thật hào hùng và bi tráng:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành…”
(Tây Tiến - Quang Dũng)
Sự hy sinh của các anh để cho đất nước được
nở hoa độc lập. Và nơi những Anh hùng Liệt sĩ ngã xuống luôn tươi thắm màu hoa.
Đó là hương thơm của niềm ngưỡng vọng, hương thơm của lòng biết ơn:
Mộ anh trên đồi cao
Hoa hồng nở và nở
Hương thơm bay và bay...
… Trên mộ người Cộng sản
Hoa hồng đỏ và đỏ
Như máu nở thành hoa”
(Mồ anh hoa nở - Thanh Hải)
Cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ nền độc
lập của dân tộc ta là cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, cả nước lên đường.
Chính vì vậy, những hy sinh, mất mát từ cuộc chiến này đã không trừ một người
nào. Trong thi phẩm nổi tiếng Núi Đôi, nhà thơ Vũ Cao đã ca ngợi sự hy sinh anh
dũng của một nữ du kích bằng những câu thơ giản dị mà ám ảnh, xúc động; đau
thương nhưng không bi luỵ:
“… Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm”.
Trong câu chuyện tình này, cái Tôi cá nhân đã
hoà cùng cái Ta dân tộc, tình yêu đôi lứa gắn liền với tình yêu quê hương, đất
nước, gắn liền với lý tưởng đấu tranh cao đẹp. Hình ảnh người nữ du kích sống
trung thành, chết thuỷ chung mãi mãi là cánh hoa thơm trên đỉnh núi, là cánh
hoa thơm trong lòng người. Người người chiến đấu vì sự hy sinh của những cánh
hoa thơm ấy.
Dù ở thời đại nào, trong bất cứ hoàn cảnh nào
thì anh Bộ đội Cụ Hồ luôn sống một cuộc đời giản dị mà cao đẹp và sẵn sàng hiến
dâng tuổi thanh xuân cho đất nước. Và khi ngã xuống, các anh để lại “dáng đứng
Việt Nam” với tư thế hy sinh hiên ngang, bất khuất:
“Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ
Anh chẳng để lại gì cho riêng
Anh trước lúc lên đường
Chỉ để lại cái dáng - đứng - Việt - Nam tạc vào thế kỷ
Anh là chiến sĩ Giải phóng quân.
Tên anh đã thành tên Đất Nước
Ôi anh Giải phóng quân
Từ dáng đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”
(Dáng đứng Việt Nam - Lê Anh
Xuân)
Sự hy sinh của các anh tô thắm những chiến
công, tô thắm màu cờ Tổ quốc để cho “Tổ quốc
bay lên bát ngát mùa xuân”.
Trong những năm chống Mỹ, cả nước làm thành
một đoàn quân điệp điệp trùng trùng hướng về miền Nam ruột thịt. Một thế hệ
luôn sống trong tâm trạng phấn khởi, háo hức bởi được cầm súng ra trận, bởi
được góp phần mình vào sự nghiệp của dân tộc. Phần lớn họ đều có tuổi đời rất
trẻ, tâm hồn lồng lộng gió thời đại. Và khi ngã vào lòng đất, nhiều người vẫn
chưa một lần yêu:
“Thế hệ chúng tôi đi như gió thổi
Quân phục xanh đồng sắc với chân trời
Chưa kịp yêu một người con gái
Lúc ngã vào lòng đất vẫn con trai”
(Đất nước hình tia chớp - Trần
Mạnh Hảo)
Người lớp trước ngã xuống thì người lớp sau
tiếp bước xông lên. Họ nối nhau thành đội hình dài vô tận, dài từ Bắc vào Nam,
dài như… cuộc kháng chiến. Đã có rất nhiều người con của quê hương mãi mãi nằm
lại trên các chiến trường. Mất mát và đau thương không thể nào kể xiết!
“Nếu đồng đội của tôi sống lại
Sư đoàn tôi sẽ thành mấy Sư đoàn…”
(Trường ca Sư Đoàn - Nguyễn Đức
Mậu)
Nhà thơ Nguyễn Đức Mậu có nhiều tác phẩm hay
viết về sự hy sinh của những người lính như: Nấm mộ và cây trầm, Màu hoa đỏ,
Cánh rừng nhiều đom đóm bay… Trong bài thơ Người gỡ mìn, Nguyễn Đức Mậu kể về
người lính công binh chuyên làm nhiệm vụ gỡ mìn, tháo gỡ cái chết ra khỏi thân
hình đất nước. Mặc dù chiến tranh đã chấm dứt nhưng tội ác của giặc vẫn lẩn
khuất đâu đây và nỗi đau vẫn rình rập khắp nơi. Người lính đã nhận về mình cái
chết để đem lại sự sống, để đất đai lại màu xanh cây lá và cho người đến xây
nhà dựng cửa. Sự hy sinh ấy thật cao cả và đáng khâm phục biết bao:
“… Nhưng trái mìn nằm kia
Cướp của anh tất cả
Thì còn lại đất đai muôn thuở
Nơi anh nằm thời gian xanh lá cây
Nơi anh nằm có ngôi nhà cho người đến ở
Hai chữ bãi mìn bàn tay anh xoá
Cái chết cuối cùng phải tháo kíp nơi đây…”.
Còn nhà thơ Trần Mạnh Thường thì “nói hộ” nỗi
niềm của những liệt sĩ Côn Đảo năm xưa qua trường ca Chào anh em ở lại:
“Dù vạn loài hoa phủ trên tấm mồ liệt sĩ vô danh
Các anh nằm đây với nỗi buồn con tàu mắc cạn
Cát nóng bỏng giấc mơ vượt biển
Những trái tim khát khao hiến dâng tới nhịp cuối cùng…”
Những chiến sĩ Cộng sản trung kiên đã chiến
đấu đến hơi thở cuối cùng. Dù thân xác các anh phải “mắc cạn” nằm lại nhưng tâm
hồn và ý chí chiến đấu vẫn khát khao “vượt biển” trở về đấu tranh, vẫn dõi theo
bước đường cách mạng của toàn dân tộc.
Sống vì quê hương và chết vì quê hương, dù
ngã xuống ở vị trí nào chăng nữa thì những liệt sĩ đều để lại niềm nhớ thương
vô hạn cho mọi người, đặc biệt là những người mẹ, người vợ nơi hậu phương. Đó
là điểm tựa cho những người lính và hình ảnh người mẹ già, người vợ trẻ cứ hiện
lên trong tâm trí người lính trước lúc hy sinh. Người ở hậu phương đảm nhận làm
thay phần việc của người đã hy sinh nhưng không thể nào lấp được khoảng trống
khi vắng các anh:
“Người cõng mẹ từ bệnh viện về không phải con trai mẹ mà
là con dâu mẹ
Người bón từng thìa cơm cho mẹ không phải con gái mẹ mà là con dâu mẹ…
Con dâu của mẹ một nách hai con
Anh trên bàn thờ nhìn xuống vai chị gầy, ngân ngấn mắt”
(Con dâu của mẹ - Trần Quốc
Thực).
Chiến tranh đã đi qua mấy mươi năm nhưng trên
khắp đất nước này còn bao gia đình chưa tìm thấy phần mộ của người thân và còn
bao nấm mồ “khuyết danh”. Nỗi day dứt, trăn trở này không chỉ của một gia đình
mà là của toàn dân tộc:
“Xin đừng gọi Anh là liệt sĩ vô danh
Anh từng có tên như bao khuôn mặt khác
Tổ quốc không đánh mất tên anh
Chỉ lặng thầm nhận về mình nỗi đau xanh cùng năm tháng”
(Xin đừng gọi Anh là liệt sĩ vô
danh - Văn Hiền)
Thời gian dần phủ màu xanh cây lá trên những
quả đồi, trên những cánh rừng xưa, nhưng nỗi đau vẫn chẳng dễ nguôi ngoai. Dẫu
vậy, những người vợ liệt sĩ vẫn gắng vượt lên những mất mát, nén nỗi đau để đảm
đương việc nhà, việc nước:
“Quê nhà mấy trận bão giông
Mãi lo nước ngập trắng đồng lúa xanh
Mãi lo cơm đủ áo lành
Còn đâu lúc rảnh để thành Vọng Phu”
(Gió đất - Lê Đình Cánh)
Thật cao đẹp, thật đáng cảm phục và trân
trọng biết bao khi tình yêu của những người lính đã hy sinh vẫn được nâng niu,
gìn giữ, vẫn tinh khiết, trắng trong như thuở ban đầu:
“Bông hồng trắng mọc lên bên cửa sổ
Chị chẳng đếm những mùa cây thay lá
Có ngôi sao trên cánh rừng phương Nam
Lặng lẽ sáng
Một chàng trai trong khung kính xa vời…”
(Bông hồng trắng - Phạm Trọng
Thanh)
Đọc lại những vần thơ trên, chúng ta càng
thấy được sự hy sinh của thế hệ cha anh thật to lớn, đồng thời khắc ghi ân
nghĩa sâu nặng với những người đã khuất và giáo dục, phát huy truyền thống đạo
lý “uống nước nhớ nguồn” cho thế hệ hôm nay và mai sau./.
-----------
Nguồn: baonamdinh.com.vn
Tác
giả: Nguyễn Ngọc Phú
ĐỌC THƠ VIẾT VỀ
THƯƠNG BINH LIỆT SĨ
Đọc lại những bài thơ viết về đề tài Thương
binh liệt sỹ, tôi rất ngạc nhiên khi bắt gặp những tứ thơ gần giống nhau trong
hai thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ nhưng triển khai theo một cách riêng mang
dấu ấn của thời đại, của tâm hồn người Việt trong những hoàn cảnh khác nhau
Đọc lại những bài thơ viết về đề tài Thương
binh liệt sỹ, tôi rất ngạc nhiên khi bắt gặp những tứ thơ gần giống nhau trong
hai thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ nhưng triển khai theo một cách riêng mang
dấu ấn của thời đại, của tâm hồn người Việt trong những hoàn cảnh khác nhau. Ví
như bài “Viếng bạn” của Hoàng Lộc và “Mồ anh hoa nở” của
nhà thơ Thanh Hải. Cả hai bài thơ đều viết theo thể thơ 5 chữ với lối tự sự,
trữ tình. Cũng là nỗi đau nghẹn thắt, nghẹn ngào trước sự hy sinh của đồng đội
nhưng “Viếng bạn” là tác giả được chôn cất người đã mất “Hôm nay đã
chặt cành - Đắp cho người dưới mộ”. Còn ở “Mồ anh hoa nở” thì: “Hôm
qua chúng giết anh - Xác phơi đầu ngõ xóm” và: “Mắt trừng còn
dọa dẫm - Thằng này là cộng sản - Không được đứa nào chôn”. Nhưng khi chúng
quay đi thì bà con làng xóm đã đưa anh về yên nghỉ trên đồi cao bất chấp cả lời
đe dọa lũ giặc. Và trên nấm mộ của người chiến sỹ đó luôn được đắp lên những bó
hoa hồng: “Hoa hồng nở và nở - Hương thơm bay và bay”. Bài thơ
của Hoàng Lộc viết trong thời kỳ chống Pháp mộc mạc mà không đơn sơ, lời thơ
như chạm khắc ký thác. Còn nhà thơ Thanh Hải viết trong thời kỳ chống Mỹ đã
nâng tứ thơ lên trở thành biểu tượng như là một tượng đài có vẻ đẹp bất tử… Và
gần đây nhất tôi lại được đọc bài thơ “Mộ gió” của nhà thơ
Trịnh Công Lộc viết về sự hy sinh của những người chiến binh giữ biển đảo không
về. Không về cả về thể xác và chỉ có cuộc chiến đấu trên biển mới có những ngôi
mộ gió - Ngôi mộ mà dưới đó hình nhân được làm bằng đất sét: “Mộ gió
đây đất thành xương cốt - Cứ gọi lên là rõ hình hài” và: “Chạm
vào gió như chạm vào da thịt - Chạm vào nhói buốt Hoàng Sa”. Có những ngôi
mộ gió trên biển đảo khơi xa thì lại có hàng ngàn ngôi mộ vô danh trên dãy
Trường Sơn trong bài thơ “Khát vọng Trường Sơn” của nhà thơ
quân đội Nguyễn Hữu Quý. Với lối cấu trúc điệp chữ và điệp ý như những điểm
nhấn là cả một dư ba vang vọng và day dứt, thiết tha và ngưng đọng: “Mười
nghìn tiếng chuông ngân trong im lặng - Mười nghìn trái tim neo ở đầu nguồn”.
Có thể nói bai thơ như chạm khắc một tượng đài trùng điệp trải dài ngút ngàn
nhưng không vô vọng với: “Mười ngàn đồng đội nằm rải Trường Sơn - Mười
ngàn hài cốt chưa về khói hương - Mười ngàn khát vọng cùng về bên nhau…”.
Các anh khi ngã xuống vẫn ở trong tư thế: “Anh ngã xuống trên đường
băng Tân Sơn Nhất - Nhưng anh vẫn đứng lên tựa vào xác trực thăng - Và anh chết
trong khi đang đứng bắn - Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”. Một hình
tượng thật đẹp, một vẻ đẹp bi tráng hào hùng của người chiến sĩ trong thời đại
Hồ Chí Minh tỏa ra không chỉ là hào quang chiến thắng mà còn là hào quang của
vẻ đẹp lý tưởng. Nhà thơ Lê Anh Xuân , tác giả của bài thơ nổi tiếng này sau đó
cũng đã hy sinh trong một tư thế tiến công… Chính ngọn súng cũng là ngọn bút và
máu các anh cũng là mực của những dòng viết này.
Trong các bài thơ viết về thương binh liệt
sỹ, những bài hay và thành công nhất có sức lan tỏa rộng nhất, dễ thuộc nhất là
những bài có cốt truyện như “Núi Đôi” của Vũ Cao trong kháng
chiến chống Pháp và “Quê hương” của Giang Nam trong kháng
chiến chống Mỹ. Cả hai đều kể về câu chuyện tình yêu thật cảm động với một cô
gái cụ thể và sự hy sinh trong những hoàn cảnh cụ thể. Với Vũ Cao thì: “Mới
đến đầu thôn, tin sét đánh - Giặc giết em rồi dưới gốc thông - Giữa đêm bộ đội
vây đồn Thứa - Em sống trung thành chết thủy chung” thì ở Giang
Nam: “Giặc giết em rồi quăng mất xác - Chỉ vì em là du kích em ơi! -
Đau đớn lòng anh chết nửa con người”. Giọng thơ Vũ Cao điềm tĩnh, đau đớn
tột cùng nghẹn nuốt vào trong, thì Giang Nam là tiếng kêu xe ruột nghẹn thắt. Có
một tượng đài bất tử được dựng lên từ sự hy sinh của hai cô gái đó. Một tượng
đài thơ và chỉ có thơ mới lưu dấu mãi trong tâm hồn. Đó là: “Em sẽ là
hoa trên đỉnh núi - Bốn mùa xanh ngát cánh hoa thơm” trong “Núi
Đôi” và: “Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất - Có một
phần xương thịt của em tôi” trongQuê hương. Có một Núi Đôi sừng sững
thành địa danh chung trong lòng mỗi người thật ấn tượng thì lại có một Quê
hương thật thấm đẫm, trong sự hy sinh hóa thân vào mỗi cành cây ngọn cỏ cội
nguồn đất đai sông núi. Không phải ngẫu nhiên mà có những cặp bài thơ như một
cặp bài trùng nổi tiếng của hai thời kỳ kháng chiến.
Có hai bài thơ dài khá thành công của hai nhà
thơ nổi tiếng sau này viết khi họ còn là những người lính trực tiếp cầm súng
đánh giặc. Và viết về chính sự hy sinh của những người thân của mình đó là
bài “Phan Thiết có anh tôi” của nhà thơ Hữu Thỉnh và “Nấm
mộ và cây trầm” của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu. Người anh trai của Hữu
Thỉnh hy sinh ở Phan Thiết khi cùng mọi người đi lấy nước cho đồng đội: “Anh
tôi mất sau loạt bom tọa độ - Mặt anh còn cách nước một vài gang”. Cái
khoảng cách giữa lấy nước (cho sự sống) và cái chết thật mỏng manh: “Vài
bước nữa - Thế mà không thể khác - Biển màu gì thăm thẳm lúc anh đi”. Còn
người bạn thân đồng đọi tên là Hùng của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu thì: “Nhận
cái chết cho đồng đội sống - Ngực chặn lỗ châu mai Hùng đứng thẳng - Lửa bén
vào áo lính tuổi hai mươi”. Cứ ngỡ ở đây cả hai thi sĩ không làm thơ nữa mà
họ chỉ ghi lại, gọi lên những phút giây oanh liệt ấy, những thời khắc lịch sử
ấy… để rồi thăng hoa một chiêm nghiệm sự sống hồi sinh từ cái chết hữu hình.
Với Hữu Thỉnh người anh trai vẫn sống trong ký ức của nhà thơ: “Không
nằm trong nghĩa trang - Anh ở với đời anh xanh vào cỏ - Cỏ ở đây thành nhang
khói nhà mình - Đồi ở đây cũng là con của mẹ”. Thì ở Nguyễn Đức Mậu có một
biểu tượng: “Đất đắp mộ Hùng bom trộn lẫn - Cây trầm cháy dở thay nén
nhang”. Và: “Cây trầm đẹp như cuộc đời chiến sĩ - Sống tươi tốt bao
niềm tin bình dị - Thân hy sinh thơm đất, thơm trời”. Đó cũng chính là
tượng đài bất tử sống mãi với thời gian, sống mãi trong ký ức, sống mãi như là
một sự trường tồn trong văn học.
Thơ viết về thương binh, những người “Tàn
mà không phế”, những người không chỉ mất một phần máu thịt mà còn mang
trong mình những cơn sốt sét rừng âm ỉ những di chứng của chất độc da cam. Lại
có những “vết thương lòng” chia cắt không chỉ là thể xác mà cả
tâm hồn, sự trống vắng cô đơn, sự thiếu hụt tình cảm của bao cô thanh niên xung
phong trở về quá tuổi và vào chùa thành sư nữ. Nhà thơ Phạm Tiến Duật trong
trường ca “Tiếng bom và tiếng chuông chùa” viết thật xúc động
về người nữ thương binh từng bị những mảnh bom xuyên vào đầu đau nhức những khi
trái gió trở trời: “Sao sư thầy không gõ mõ - Lại vừa tụng kinh vừa gõ
đầu mình - Có thể nào những giây phút thời bình - Còn có thể làm vết thương
thủa nào tái phát”.
Chiến tranh đã đi qua nhưng khi trở lại dòng
sông Thạch Hãn, người cựu chiến binh Lê Bá Dương đã nức nở, thổn thức: “Đò
lên Thạch Hãn xin… chèo nhẹ - Đáy sông còn đó bạn tôi nằm - Có tuổi hai mươi
thành sòng nước - vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm”. Cũng như năm xưa trong kháng
chiến chống Pháp nhà thơ - Người lính tây tiến Quang Dũng đã từng độc hành khúc
tráng ca lẫm liệt bi thiết: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ - Chiến
trường đi chẳng tiếc đời xanh - Áo bào thay chiếu anh về đất - Sông Mã gầm lên
khúc độc hành”. Vâng, máu xương của các anh hùng liệt sĩ đã hóa thân vào
mỗi ngọn núi dòng sông đất nước, đã hóa thân vào mỗi trang thơ, trang văn cho
các thế hệ mai sau. Đó chính là tượng đài được dựng nên bất tử trong trái tim
mỗi người…
-----------
Nguồn: vanhocnghethuathatinh.org.vn
Tác
giả: Đoàn Minh Tâm
XÚC ĐỘNG THƠ LỤC
BÁT VIẾT VỀ
THƯƠNG BINH, LIỆT
SĨ
Thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung, thơ lục
bát nói riêng có hẳn một dòng thơ viết về đề tài thương binh, liệt sĩ. Ở thời
điểm này, thật khó để thống kê đủ số lượng bài lục bát viết về đề tài này,
nhưng chúng ta có thể ước chừng một con số lên đến hàng vạn bài của hàng nghìn
tác giả từ các nhà thơ nổi tiếng cho đến những người cầm bút nghiệp dư.
Sở dĩ lục bát được ưa chuộng trong dòng thơ
viết về thương binh, liệt sĩ ngoài những lý do về “chuyên môn” như đậm chất trữ
tình và giàu nhạc điệu rất thích hợp để giãi bày tâm tư, tình cảm của người
viết, theo tôi còn có một nguyên nhân sâu xa khác. Lục bát là một trong những
thể thơ truyền thống của dân tộc.
Thiết nghĩ, trong thơ ca, việc sử dụng một
thể thơ của người Việt, do người Việt sáng tạo nên để viết về những liệt sĩ,
thương binh chính là sự tri ân trọn vẹn nhất của các nhà thơ đối với những người
đã không tiếc máu xương mình cho Tổ quốc.
Xót thương và ngợi ca là hai cảm hứng chủ đạo
trong thơ lục bát viết về đề tài thương binh, liệt sĩ. Ở cảm hứng xót thương,
nổi bật lên hình ảnh ngôi mộ, nghĩa trang liệt sĩ. Những vần thơ lục bát đã
theo các nhà thơ đi dọc chiều dài đất nước, theo từng bước quân hành, đến với
nghĩa trang Trường Sơn: “Chắp tay cầu với
hư vinh/ Trường Sơn thành nghĩa trang xanh bạn nằm” (Thai Sắc - Về thăm bạn
ở Trường Sơn), đến với những ngôi mộ nằm nơi đất khách quê người: “Cánh đồng Chum phía ngàn lau/ Mối đùn mộ bạn
xây màu cỏ cây” (Nguyễn Công Bình - Dấu gậy Trường Sơn), với những “mộ gió”
giữa biển: “Ngã vào biển những chiến
binh/ Sóng vun thành mộ lặng thinh bao đời” (Nguyễn Hữu Quý - Lính biển).
Ngôi mộ trong văn hóa người Việt thuộc về cõi âm, mang nhiều ý nghĩa tâm linh,
tượng trưng cho sự chia cắt giữa người sống và người đã mất. Sự xuất hiện với
tần suất dày đặc của hình ảnh ngôi mộ vì vậy gợi nên bao xót thương, đau đớn,
mất mát của dân tộc trước sự ra đi vì nước, vì dân của những liệt sĩ.
Bên cạnh hình ảnh ngôi mộ, nghĩa trang, sự
cảm động, xót thương còn được biểu hiện qua những vần lục bát khắc họa bao tổn
thương về thể xác và tinh thần của người thương binh. Nhiều người lính đã để
lại một phần thân thể của mình nơi chiến trường: “Áo đạn xé, người đâu lành/ Trường Sơn một cánh tay anh gửi rừng”
(Hồ Anh Tuấn - Ra sông giặt áo cho chồng), hay phải chịu những vết thương “cứ trở mình lại đau nhức nhối” làm đau
lòng bao người chứng kiến: “Cậu Thao nửa
tỉnh nửa điên/ Lúc thì hò hét, lúc nghiêng ngả cười” (Ninh Đức Hậu - Cậu
Thao).
Ở một hướng tiếp cận khác, nhiều nhà thơ tập
trung khắc họa những nỗi đau da cam đối với những thương binh, trong đó nhấn
mạnh đến nỗi đau của họ khi chứng kiến con mình phải hứng chịu các di chứng da
cam nghiệt ngã. Lệ Bình đã nói lên cái ngậm ngùi, nghẹn ngào không biết tỏ cùng
ai của vợ chồng người thương binh khi biết con mình nhiễm chất độc da cam: “Bão giông thương phận cánh chuồn/ Đừng làm
thức dậy nỗi buồn da cam/... Trở về từ chiến trường xa/ Ước mơ người lính làm
cha chòng chành” (Lục bát ru trăng). Trong “Ru cát”, Nguyễn Trường Thọ đã kể một câu chuyện buồn về gia
đình người lính nhiễm chất độc da cam. Mười hai lần sinh nở là mười hai lần vợ
chồng người lính từ hy vọng đến thất vọng, từ niềm vui chuyển qua nỗi đau. Mười
hai giọt máu của họ đã không thể cất tiếng khóc chào đời, đành nằm lại bên cồn
cát trắng chơ vơ: “Một nấm cát, một cục
đau/ Mười hai nấm cát đẫm màu khói nhang”.
Ở cảm hứng ngợi ca, các nhà thơ đi vào hai
chủ đề chính. Trước hết, đó là khắc họa vẻ đẹp của những thương binh, liệt sĩ.
Đó là vẻ đẹp ngoại hình: “Ngực chị trắng
mướt cánh cò/ Môi em chín mọng một bờ sông trôi” (Mai Anh Tuấn - Miền vô
danh), là vẻ đẹp trong chiến đấu: “Hy
sinh chẳng chút ngại ngần/ Tuổi xanh đổi lấy ngày xuân khải hoàn” (Đàm Chu
Văn - Giấc rừng). Bên cạnh đó là bất tử hóa sự hy sinh của các chiến
sĩ. Để làm được điều đó, các nhà thơ sử dụng một “công thức chung”: Kết hợp
giữa 4 lớp từ vựng. Thứ nhất là các từ, cụm từ chỉ thời gian ở thời tương lai
như mai sau, ngàn năm...“Trắng ngần da
thịt dòng La/ Ngàn năm vẫn hát câu ca ru người” (Trần Vũ Long - Đồng Lộc).
Thứ hai là những từ, cụm từ chỉ thiên nhiên
như mây, trời, sông, hoa... “Khát bàn tay
khẽ nhẹ êm/ Bồng bềnh mây khỏa trắng thêm màu trời” (Vũ Quang Tần - Ở ngã
ba Đồng Lộc). Thứ ba là những từ, cụm từ mang tính đối lập tương phản hay tương
hỗ có tác dụng tạo thành một vòng tròn tuần hoàn khép kín như “vuông tròn”, “hư
thực”: “Vững bền hơn dãy Trường Sơn/
Những người lính hóa vuông tròn mai sau” (Nguyễn Thiên Sơn - Trưa ở nghĩa
trang Trường Sơn). Thứ tư là những từ, cụm từ chỉ sự biến chuyển, thay đổi
trạng thái như “hóa”, “thành”, “biến”: “Vô
danh! Đâu phải không còn/ Tuổi tên quê quán... hóa hồn núi sông” (Ninh Đức
Hậu - Xóm mộ liệt sĩ vô danh). Với sự kết hợp của 4 lớp từ vựng này, những liệt
sĩ trong các vần lục bát đã hóa thành những tượng đài bất tử trong lòng đất
nước, được nhân dân đời đời tưởng nhớ, tôn thờ: “Mời hồn lính trẻ về đây/ Mái nhà thanh đạm sum vầy khói hương” (Lê
Đình Cánh - Đền thờ người lính).
Có thể nói, những vần lục bát về đề tài
thương binh, liệt sĩ là tấm lòng biết ơn, là sự tri ân sâu sắc của các nhà thơ
nói riêng, nhân dân Việt Nam nói chung gửi đến những người lính đã hy sinh máu
xương mình cho Tổ quốc Việt Nam độc lập, thống nhất, trường tồn.
-----------
Nguồn: qdnd.vn
Tác
giả: Đoàn Mạnh Tiến
SỐNG MÃI NHỮNG BÀI
THƠ
VIẾT VỀ THƯƠNG
BINH, LIỆT SĨ
Bảy mươi tư năm qua, đề tài thương binh, liệt
sĩ đã trở thành nguồn cảm hứng mạnh mẽ, để các nhà thơ viết nên những vần thơ
đầy ấn tượng. Cho đến hôm nay những vần thơ ấy vẫn còn sống mãi, bất chấp sự
tàn phá của thời gian. Viết về đề tài thương binh, liệt sĩ. Bài "Bàn chân thầy giáo" của nhà
thơ Trần Đăng Khoa là một trong những bài được nhiều bạn đọc ưa thích. Mở đầu
là hình ảnh đầy cảm động: "Thầy ngồi
trên ghế giảng bài/ Xếp cạnh bàn đôi nạng gỗ/ Một bàn chân đâu rồi/ Chúng em
không rõ". Rồi tác giả hồi tưởng, nhớ về quá khứ: "Sáng nào bom Mỹ dội/ Mặt bảng đen lỗ chỗ vết
bom bi/ Thầy cầm súng ra đi/ Bài tập đọc dạy chúng em dang dở". Tiếp
đó là những câu thơ tả thực khiến bao người đọc nghẹn ngào: "Năm nay thầy trở về Nụ cuời vẫn nguyên vẹn
như xưa/ NHƯNG MỘT BÀN CHÂN KHÔNG CÒN NỮA!". Ba câu thơ này làm
ta xúc động, nghẹn ngào bởi sự đối lập giữa nguyên ven nụ cuời và cái
khiếm khuyết của cơ thể ("Bàn chân không còn nữa"). Sau
chiến tranh, thầy đã trở lại trường, vẫn là người thầy thuở trước với nụ cười
hiền hậu, thân thuộc những kẻ thù đã vĩnh viễn cướp đi của thầy một bàn chân.
Nghe có cái gì đó đầy thương cảm trong những câu thơ chở nặng tình thương của
những người học trò trước mất mát không thể gì bù đắp: “Ôi bàn chân! In lên cổng trường những chiều giá buốt/ In lên công
trường những đêm mưa dầm/ Dấu nạng hai bên như hai hàng lỗ đáo!". Hình
ảnh những vết chân tròn in dấu lên công trường những chiều giá buốt, những đêm
mưa dầm thật là xúc động. Và đến đây, những câu thơ của Trần Đăng Khoa bỗng
giàu chất suy tư. Từ cái khiếm khuyết trên một phần cơ thể người thầy, tác giả
liên hệ đến cái chưa hoàn hảo của đời mình, đây cũng là tấm lòng của nhà thơ
cúi mình trước sự hi sinh và công hiến của những người thầy giáo đã từng khoác
áo lính. Tấm lòng, tâm hồn người
thầy chính là tấm gương sáng cho mỗi chúng ta soi mình vào đó, nhìn nhận lại
mình, tự thanh lọc tâm hồn mình để sống tốt hơn, hoàn thiện hơn, hoàn
hảo hơn - những câu thơ đầy day dứt ám ảnh, băn khoăn, trăn trở: "Chúng em nhận ra bàn chân thấy giáo/ Như
NHẬN RA CÁI CHƯA HOÀN HẢO CỦA CẢ CUỘC ĐỜI MÌNH. "Bàn chân thầy
không còn nữa" - đó chính là chứng tích của những hi sinh mất mát giữa
chiến trường đạn bom ác liệt, cũng là hiện thân cho tấm lòng yêu nghề,
yêu trẻ của thầy. Đến đây, nhà thơ phát huy cao độ trí tưởng tượng! "Bàn chân thầy gửi lại Khe Sanh/ Hay Tây
Ninh, Đồng Tháp?/ Bàn chân đạp xuống đầu là giặc/ Cho lẽ sống làm người/ Em
lắng nghe thầy giảng từng lời/ Nghe thầm vọng bàn chân đi đánh Mỹ/ Nghe âm vang
tiếng gọi của chiến trường/ Em sẽ đi suốt chiều sâu đất nước/ THEO NHỮNG DẤU
CHÂN NGƯỜI THẦY NĂM TRƯỚC". Qua những câu thơ trên, tác giả làm hiện
lên sống động trước mắt người đọc hình ảnh chiến trường đạn bom khói lửa và
hình ảnh hiên ngang, dũng cảm của người thầy với bàn chân đạp xuống đầu lũ
giặc, bàn chân xông pha trận mạc góp phần cùng đồng đội làm nên chiến thắng. Và
Trần Đăng Khoa kết thúc bài thơ: “Và bàn
chân thầy, bàn chân đã mất/ VẪN DẪN CHÚNG EM ĐI TRỌN VẸN CUỘC ĐỜI".
Bàn chân người thầy giáo thương binh tuy không còn hiện hữu trên đời nhưng
lại đem đến cho các em học sinh bài học làm người, bài học về lòng yêu thươmg,
dũng cảm, bài học về đức hi sinh. Trong hai câu kết này, sự đối lập giữa
CÁI ĐÃ MẤT VÀ CÁI TRỌN VẸN đã làm đóng lại những cảm xúc nồng ấm và tạo nên sức
ám ảnh của bài thơ. Bàn chân của thầy đã mất nhưng vẫn dẫn chúng em đi trọn vẹn
cuộc đời, kì diệu thay!
Cũng viết về bàn chân người thương binh nhưng
tác giả Thi Năng lại thể hiện ở góc độ khác. Những câu thơ nghe hào
sảng, dõng dạc đầy chất ca ngợi, tôn vinh: "Dấu chân tròn in trên mặt đất/ Người thương binh đi giữa quê hương/ Sau
chiến tranh người còn kẻ mất/ Bàn chân anh nằm lại chiến trường/ Anh hi sinh
một phần thân thể/ Cho non sông rạng rỡ tương lai/ Thỏa chí trai dời non lấp
bể/ Nào tiếc chi một mảnh hình hài/ Anh bước trên đường quê rộng mở/ Bình minh
tỏa sáng đất hùng anh/ Dưới cờ sao hồng tươi rực rỡ/ Sống tự do, độc lập/ hòa
bình". (Anh thương binh). Sau chiến tranh, người thương binh đã trở
về. Nhưng nếu Tổ Quốc cần, họ sẵn sàng ra trận lần nữa - "Còn đau dớn nào hơn/ Nếu còn quân xâm lược?/
Còn tủi nhục nào hơn/ Phải cúi đầu nô lệ/ Tổ quốc yêu thương ơi!/ Mười năm đi
bộ đội/ TÔI CÒN MỘT CÁNH TAY/ NẾU CẦN XIN CỨ GỌI") (Lê Nam - Nếu Tổ
Quốc cần xin cứ gọi).
Trên đây, chúng ta đã nói về đề tài thương
binh trong thơ. Còn đối với đề tài liệt sĩ, một trong những bài thơ gây ấn
tượng đối với độc giả là bài Dáng đứng Việt Nam của Lê Anh
Xuân nói về sự hy sinh anh dũng của người lính ở sân bay Tân Sơn Nhất:
“Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất/
Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng/ Và anh chết trong khi
đang đứng bắn / Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng". Bài thơ này
là bản thông điệp về sức mạnh vô biên của người liệt sỹ, cái chết của
anh đã làm quân thù khiếp sợ: "Chợt
thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng / Có thằng sụp dưới chân anh tránh đạn /Bởi
anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm / Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tấn công".
Tác giả đã vẽ lên bức tranh hùng tráng về người liệt sỹ, khí thế tiến công giặc
Mỹ, tinh thần lạc quan cách mạng, lòng yêu nước nồng nàn, người liệt sỹ khi hy
sinh đã tạo nên DÁNG ĐỨNG VIỆT NAM, đó cũng chính là tượng đài của Tổ quốc Việt
Nam anh hùng. Anh bộ đội hy sinh dù không để lại "một tấm hình hay một
dòng địa chỉ" cho riêng mình, nhưng người liệt sỹ ấy mãi mãi là bức tượng
đồng được tôn vinh, gìn giữ và ghi nhận như những giá trị vĩnh hằng của dân tộc
Việt Nam. Người liệt sỹ được nâng lên thành hình tượng cao cả, vĩ đại, tượng
trưng cho vẻ đẹp của dân tộc, của thời đại. “Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ / Anh chẳng để lại gì cho
riêng anh trước lúc lên đường / CHỈ ĐỂ LẠI CÁI DÁNG ĐỨNG VIỆT NAM TẠC VÀO THỂ
KỈ / Anh là chiến sỹ giải phóng quân / TÊN ANH ĐÃ THÀNH TÊN ĐẤT NƯỚC".
Sự hy sinh anh dũng, thanh cao và thầm lặng của người liệt sỹ đã làm cho anh
trở thành hình tượng bất tử, có sức sống mãnh liệt, sức lan tỏa rộng lớn mang
tính thời đại sâu sắc. Anh là biểu tượng cho đất nước, cho dân tộc, tỏa sáng
đến mai sau. Bài thơ khép lại bằng hình ảnh: "Ôi anh giải phóng quân! / Từ dáng đứng của Anh giữa đường bằng Tân Sơn
Nhất / TỔ QUỐC BAY LÊN BÁT NGÁT MÙA XUÂN". Những hình ảnh này đã mở ra
một chân trời mới tràn ngập niềm lạc quan, tin tưởng vào tương lai rạng rỡ của
dân tộc Việt Nam. Như vậy, hình tượng người liệt sỹ hy sinh mang tầm vóc kỳ vĩ,
mang tính sử thi rất rõ,
Còn trong bài Nâm mộ và cấy trâm,
Nguyên Đức Mậu diễn tả một cách chi tiết, cụ thể về cái phút hy sinh của người
liệt sỹ: "Cái chết bay ra từ nòng
súng quân thù/ Nhận cái chết cho đồng đội sống / Ngực chặn lỗ châu mai, Hùng
đứng thẳng / Đồng đội xông lên nhìn rõ Hùng cười / Tay Hùng còn vung lựu đạn
ngang trời / Khẩu tiểu liên vẫn choàng trước ngực / Vành mũi lá sen cổn trong
lửa táp / Nhìn nụ cười mình biết Hùng vui". Đó là cái chết lạc quan
của người chiến thắng. Những câu thơ của Nguyễn Đức Mậu đã bộc lộ trực tiếp
những cảm xúc của tác giả. Những cảm xúc này đã tạo nên trạng thái rung động
thực sự, những hình ảnh, những kỷ niệm với người liệt sỹ cứ bay lượn đi về, đầy
cảm phục, tiếc thương. Cảm xúc đã trở thành nhân tố chủ yếu, nhiều hình ảnh có
sức gợi cảm mạnh mẽ khi nó kể tình được nhiều kỷ niệm gắn bó với người liệt sỹ:
"Hùng ơi! Mai gió mùa Đông Bắc /
Võng bạt canh khuya lại nhớ Hùng / Nhớ khi hai đứa xong phiên gác / Bao gạo gối
đầu chăn đắp chung / Nhớ khi mình ôm giữa rừng /Vị thuốc Hùng tìm qua ba trái
núi / Quả khế rừng nâu con cá suối / Thương mình, Hùng hóa trẽ đi câu".
Và tác giả đã thốt lên những câu thơ như những tình cảm không thể nén lại được
làm người đọc rưng rưng nước mắt: "Chúng
mình có ở cách xa nhau đâu? / MỘT THƯỚC ĐẤT SAO HÙNG KHÔNG NGHE MÌNH GỌI? / Một
thước đất hóa khoảng trời vời vợi / Từ nay mình thương nhớ Hùng hơn xưa".
Viết về những bài thơ về thương binh liệt sỹ,
không thể không nói đến bài thơ Núi Đôi của Vũ Cao. Trong bài
thơ, tình yêu của người con trai và người con gái gắn với tình yêu quê hương,
đất nước. Người con trai ra trận, ngày ngừng bắn anh trở về thăm quê thì được
tin người yêu mình - cô gái du kích đã ngã xuống trên mảnh đất này đã thành
liệt sỹ: “Mới đến đầu ao, tin sét đánh
Giặc giết em rồi dưới gốc thông". Kẻ thù đã giết người yêu của anh,
giết chết hạnh phúc lứa đôi của anh. Biết bao bàng hoàng, đau đớn đến vào lúc
anh trở về thăm quê, lúc náo nức, hy vọng nhất. Trong bài thơ "Quê
hương", Giang Nam cũng đã diễn tả tâm trạng, nỗi lòng người con
trai lúc ấy: “Hôm nay nhận được tin em /
Không tin được dù đó là sự thật / Giặc giết em rồi quăng mất xác / Chỉ vì em là
du kích em ơi! / Đau xé lòng anh, chết nửa con người!". Trong bài thơ Núi
Đôi, người trai cũng bàng hoàng, thảng thốt khi được tìm người yêu mất.
Nhưng anh bộ đội đã không hề gục ngã. Cái chết của người yêu tuy có làm anh đau
đớn nhưng anh vẫn tự hào, kiêu hãnh về cô gái, về người liệt sỹ bởi vì cho đến
phút cuối đời mình, cô gái vẫn giữ được phẩm chất cao quý: trung thành, chung
thủy: “Nửa đêm bộ đội vây đồn Thứa / EM
SỐNG TRUNG THÀNH. CHẾT THỦY CHUNG". Câu thơ này đã chứa đựng sự tôn
vinh, ngưỡng mộ và kính phục. Trước nỗi đau ấy, anh không cúi mặt mà ngước nhìn
lên một cách kiêu hãnh: “Anh NGƯỚC NHÌN
LÊN hai dốc núi / Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen". Ngước và nhìn
lên tự hào về những kỷ niệm với người đã mất. Tám câu thơ cuối cùng đã nói lên
tấm lòng của người lính, của mọi người dân đối với sự hy sinh của người liệt
sỹ: "Ai viết tên em thành liệt sỹ /
Bên những hàng bia trắng giữa đồng / Nhớ thương, anh gọi em: Đồng chí"
/ Một tấm lòng trong vạn tấm lòng/ Anh đi
bộ đội sao trên mũ / Mãi mãi là sao sáng dẫn đường /EM SẼ LÀ HOA TRÊN ĐỈNH NÚI
/ BỐN MÙA THƠM MÃI CÁNH HOA THƠM".
Trong một bài viết nhỏ, không thể nói hết
những câu thơ về thương binh liệt sỹ. Xin được kết thúc bài này bằng bài thơ: Viếng
mộ người liệt sỹ của Nguyễn Quang Tuyên: "Hôm nay về viếng nghĩa trang / Cúi đầu đứng trước những hàng mộ xanh /
Rưng rưng đứng trước mộ anh / Nén nhang hương tỏa nghiêng mình thành tâm / Anh
nằm ở giữa lòng dân / Quê hương đất mẹ ôm anh trọn đời".
27 tháng 7 đã về, mùa tri ân đã về. Xin được
coi bài viết này là những nén nhang thơm ngát, những lẵng hoa tươi thăm dâng
lên vong linh những anh hùng liệt sỹ đã quyết tử cho tổ quốc quyết sinh./.
-----------
Nguồn: khxhnvnghean.gov.vn
Tác
giả: Đặng Xuân Xuyến
VỀ CÂU KẾT 2 BÀI
THƠ “THĂM BẠN” VÀ
“ĐỒNG VỌNG” CỦA NHÀ
THƠ ĐỒNG THỊ CHÚC
Khi đọc cảm nhận của tôi về bài thơ
"Thăm Bạn" của nhà
thơ Đồng Thị Chúc, nhà thơ Khang Minh có chút băn khoăn về câu kết bài thơ: “Phải chi nữ sĩ Đồng Thị Chúc cho thêm hai
câu kết nữa thì hay quá Đặng Xuân Xuyến, vì đọc tới câu "Một cơn gió lạc
bùi ngùi bay qua" có cảm giác
thiêu thiếu cái gì đó, bài thơ chưa thể khép lại ở câu này được! Tiêng tiếc là!”.
Tôi lại nghĩ khác anh, câu kết bài thơ như thế là hợp lý, tròn trĩnh mà còn gợi
rất nhiều sau khi đã đọc bài thơ. Nếu nhà thơ Đồng Thị Chúc thêm một vài câu
thơ nữa sẽ làm bài thơ kém duyên, mất hay.
Chuyện về một câu thơ, thậm chí cả bài
thơ có những cảm nhận trái ngược là lẽ thường. Người này bảo hay, người kia bảo
bình thường, hoặc người này hiểu thế này, người kia hiểu thế kia cũng là "chuyện thường ở huyện". Thơ mà! Thế
nên dân gian mới gắn cho thơ, cho nhà thơ những cặp từ: “thơ thẩn”, “lẩn thẩn”,...
Trở lại chuyện câu kết bài thơ “Thăm Bạn” của nhà thơ Đồng Thị Chúc.
Bài thơ thật ngắn, chỉ có 6 câu nhưng
chứa đựng nhiều nỗi niềm:
THĂM BẠN
Ghé nhà cửa đóng then cài
Đầy sân lá rụng thềm ngoài rêu phong
Dạo quanh trong khoảng thinh không
Mắt đưa tìm bóng, nào trông bóng người
Đành lòng quay gót trở lui
Một cơn gió lạc bùi ngùi bay qua.
*.
ĐỒNG THỊ CHÚC
Nhất là câu kết: "Một cơn gió lạc bùi ngùi bay qua"
gợi nhiều cảm xúc với tâm trạng hụt hẫng, chán chường xen lẫn chút hờn tủi,
cộng thêm chút hoang mang, lo lắng khi nhà thơ chợt nghĩ chuyện không hay của
tuổi già có thể đến với bạn mình... khiến người đọc gai gai người, cùng hụt
hẫng, thảng thốt theo tâm trạng chới với, "bùi ngùi" của nữ sĩ họ Đồng.
Một câu kết hợp lý, tròn trĩnh, vừa gợi
cảm xúc để người đọc thăng hoa, vừa "đóng
lại" để cảm xúc về chuyến "Thăm
bạn" không lan man, loãng chuyện... Nếu nhà thơ thêm một vài câu thơ
nữa sẽ phá mất bài thơ hay vì bố cục bài thơ đã chặt chẽ, câu kết bài thơ hợp
lý và gợi được nhiều cảm xúc như thế, người có tay nghề sẽ không ai làm thế cả.
Hay như bài thơ "Đồng Vọng", một trong số những
bài thơ hay của nhà thơ Đồng Thị Chúc, có câu kết lửng cũng thật hay, để lại
nhiều ám ảnh với người đọc.
Bài thơ lấy cảm xúc từ câu chuyện có
thật: Một lần trên đường đến cơ quan làm việc, bà "gặp đôi anh chị tuổi trung niên nét mặt khắc khổ, anh mặc bộ
quân phục sỹ quan đã cũ, chị mặc cái áo xanh đã bạc màu, đèo nhau
trên chiếc xe đap cà tàng", "đang đi thì xe đạp của họ
xịt lốp và họ phải xuống xe loay hoay xem xét.". Nhìn họ, bà
trào dâng cảm xúc rất lạ, và sau đấy một thời gian, bài thơ "Đồng Vọng" được ra đời:
ĐỒNG VỌNG
Hai người tình
Ngồi bên nhau
Hai mái đầu
Điểm bạc.
Chiếc áo anh đang mang
Vương bụi thời trận mạc
Chị - thân hình khô xác
Nép bên bờ vai anh
Vẫn trong chiếc áo xanh
Bạc qua mùa chờ đợi.
Trăng soi từ vời vợi
Gió về từ xa xăm...
*.
Hà Nội, Tháng 02-1992
ĐỒNG THỊ CHÚC
Cũng theo kể lại của nhà thơ Đồng Thị
Chúc thì "đôi anh chị" ấy
đã già, đã quá cái tuổi sung sức để thực hiện ước mơ thay đổi số phận. Họ có gì
để thay đổi số phận khi họ chỉ có "thân
hình khô xác" với mái tóc "điểm
bạc" cùng tài sản giá trị nhất cả về vật chất lẫn tinh thần là "chiếc áo xanh" "Bạc qua mùa chờ đợi" giờ đã là ký
ức, là kỷ niệm tình yêu một thủa?! Với họ, một bữa cơm ngon, một giấc ngủ đằm
sâu hơn khi bớt đi được một chút canh cánh chuyện cơm áo gạo tiền đã là xa xỉ
với ước mơ của họ thì nói gì đến ước mơ đổi đời, được giàu sang phú quý viển
vông ở tận đẩu đâu. Hai câu kết: "Trăng
soi từ vời vợi / Gió về từ xa xăm... " chỉ gợi ký ức xa vời, chả có
giá trị với thực tại. Đau nhưng mà thực và cũng vì cái đau ấy mà bài thơ mới
nhiều ám ảnh.
Đọc "Đồng Vọng", với hai câu thơ thật hay: "Trăng soi từ vời vợi / Gió về từ xa xăm...
", thể hiện sự tìm tòi và sáng tạo của nhà thơ Đồng Thị Chúc, tôi chợt nhớ
đến những câu thơ như những lát cắt trần trụi, đau đáu xót xa của nhà thơ Phạm
Đức Mạnh:
"Tháng Tư
những người lính kiệt
sức vì đạn bom
thoi thóp sống
lết tìm nhau
nhặt mảnh vụn xuân thì
đang trôi mất
hàn rỉ sét chiến tranh
bó vết thương lòng kiếm
tìm đồng đội."
(Tháng Tư Màu Nhớ)
Những câu thơ trần trụi đến phũ phàng,
không chỉ gián tiếp lên án cuộc nội chiến "huynh đệ tương tàn" mà còn
là tiếng lòng nhà thơ Phạm Đức Mạnh xót xa trước chính sách đãi ngộ hoặc chưa
thỏa đáng hoặc đã bị lãng quên của chế độ đối với những chiến binh vừa bước ra
khỏi cuộc chiến. Những câu thơ: "những
người lính kiệt sức vì đạn bom / thoi thóp sống / lết tìm nhau / bó vết thương
lòng kiếm tìm đồng đội” thật đau và đắng ngắt.
Cả hai bài thơ "Tháng Tư Màu Nhớ" và "Đồng Vọng" đều gián tiếp lên án
cuộc nội chiến vô nghĩa, đều xót xa trước hiện thực cuộc sống "thoi
thóp", mờ mịt, bị chế độ xã hội lãng quên chính sách đãi ngộ hoặc đãi ngộ
chỉ mang ý nghĩa tượng trưng, biểu tượng của những người lính vừa trở về sau
cuộc chiến. Hai bài thơ với hai gam màu khác nhau, hai cách viết khác nhau: một
bên mang gam màu "kỷ yếu", thời sự của Hội chứng chiến tranh, và
người viết đang cố gắng tìm tòi để làm mới diện mạo thơ mình theo cách viết
"hiện đại", một bên là những lát cắt của cuộc sống thường nhật với
gam màu dung dị của cuộc sống, và người viết chỉ nhẩn nha tìm tòi, sáng tạo
theo lối viết nhẹ nhàng, nền nã đã định hình để phả vào thơ hương sắc chân thực
của cuộc sống. Khác, nhưng cả 2 bài thơ đều là tiếng lòng của người cầm bút có
trách nhiệm với tình yêu quê hương đất nước.
Sở dĩ tôi nhắc đến bài thơ "Tháng Tư Màu Nhớ" của nhà thơ
Phạm Đức Mạnh bởi khi đọc những câu thơ tái hiện hình ảnh vợ chồng người cựu
chiến binh trong bài thơ "Đồng
Vọng" tôi chợt liên tưởng tới hình ảnh người lính trong Hội chứng
chiến tranh đã được thể hiện ở nhiều thể loại văn học nghệ thuật, hoàn toàn
không có ý như đặt lên bàn cân để so sánh giá trị nghệ thuật giữa 2 bài thơ và
tài thơ của 2 nhà thơ.
Trở lại bài thơ "Đồng Vọng" với 2 câu thơ kết
thật hay, và không quá lời nếu nói đây là 2 câu thơ tài hoa của nhà thơ Đồng
Thị Chúc:
"Trăng soi từ vời
vợi
Gió về từ xa
xăm..."
Một cái kết mở với những hình ảnh thật
đẹp cho sáng tác thơ ca nhưng lại thật đau, thật đắt để bạn đọc liên tưởng tới
tương lai vợ chồng người cựu chiến binh đã đợi chờ nhau suốt chiều dài cuộc nội
chiến về ý thức hệ giữa 2 miền Nam Bắc: Phía trước vợ chồng họ là "Trăng", là "Gió", là những thứ chỉ dành cho thơ
ca, những thứ chỉ dùng để "ru ngủ đời sống tinh thần", những thứ
chẳng có chút giá trị với cuộc sống thực ở cõi người. Đã vậy "Trăng" còn "soi từ vời vợi", "Gió" còn "về từ xa xăm", lại thêm ba dấu chấm lửng ở câu thơ cuối bài
như mũi kiếm xoáy thêm sâu vào tương lai mờ mịt của vợ chồng người cựu chiến
binh. Ôi! Phần thưởng - cái giá đắng chát dành cho “lý tưởng” của những người
lính trở về sau cuộc nội chiến "huynh đệ tương tàn" là đây sao?!
“Đồng
Vọng” đã vượt lên trên sự cảm thông của nhà thơ Đồng Thị Chúc trước tương
lai mờ mịt của vợ chồng người cựu chiến binh để cất lên tiếng nói chân thực,
trách nhiệm của người cầm bút với quê hương đất nước!
Thật tiếc, khi tuyển chọn "Đồng Vọng" in trong thi phẩm
"Những Gương Mặt Mới", cố thi sĩ Trinh Đường đã thêm 2 câu:
"Tiếng chim gì da diết / Hay từ
quy thương xuân.” vào cuối bài thơ, mà theo ông để “cho thêm phần da diết." nhưng ông đâu ngờ chính 2 câu thơ
"thêm ấy" đã làm cho bài thơ mất đi tính "chiến đấu", giảm
hẳn sự ám ảnh với người đọc vì thế mà bài thơ kém hay.
*.
Hà Nội, đêm 03 tháng 03.2021
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Mời
nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài phê bình,
cảm nhận thơ0
- Đặng Xuân Xuyến -
Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến -
Cảm nhận thơ văn 2l
Mời nghe nhạc phẩm
VẾT CHÂN TRÒN TRÊN CÁT
của Trần Tiến, qua
tiếng hát Thái Bảo:
0 comments:
Đăng nhận xét