"NĂM CỤ KHI
KHÔNG RỚT CÁI ÌNH..."
Một
người bạn hỏi tôi có thuộc toàn bài thơ có 2 câu này không, sưu tầm tên 5 vị
thượng thư đó và những sự việc liên quan đến họ, giúp bạn với:
“Năm cụ khi không rớt cái ình,
Đất bằng sấm dậy giữa thần kinh.”
Xin
ghi lại những điều tôi đã hồi đáp cho bạn ấy.
Năm
1933, vua Bảo Đại muốn cải cách triều đình bèn ban cho về hưu một lúc 5 Thượng
thư các Bộ: Lại, Hình, Binh, Lễ, Công vốn chỉ thông nho học, nhường chỗ cho
những người thông thạo học vấn phương Tây. 5 vị thượng thư đó gồm:
1/
Nguyễn Hữu Bài - Thượng thư Bộ Lại
2/
Tôn Thất Đàn - Thượng thư Bộ Hình
3/
Phạm Liệu - Thượng thư Bộ Binh
4/
Võ Liêm - Thượng thư Bộ Lễ
5/
Vương Tứ Đại - Thượng thư Bộ Công
Sự
kiện này được ghi lại bằng bài thơ Đường luật, có chơi chữ tên 5 vị quan các bộ
bị bãi chức ở từng câu tương ứng do nhà thơ Hoài Nam Nguyễn Trọng Cẩn
(1900-1946) sáng tác:
Năm cụ khi không rớt cái ình,
Đất bằng sấm dậy giữa thần kinh.
Bài không đeo nữa xin
dâng lại,
Đàn chẳng ai nghe
khéo dở hình.
Liệu thế không
xong binh chẳng được,
Liêm đành chịu đói lễ đừng
rinh.
Công danh như thế
là hưu hỉ,
Đại sự xin nhường
lớp hậu sinh.
Xin điểm qua danh sách 5 vị thượng thư triều Nguyễn bị vua Bảo
Đại cho nghỉ hưu:
1/ Thượng thư Bộ Lại Nguyễn Hữu Bài
Bộ
Lại hay Lại bộ (chữ Hán:吏部) là tên gọi của một cơ quan hành chính thời phong
kiến tại các nước Đông Á, tương đương với cấp bộ ngày nay.
Ở
các nước Á Đông thời phong kiến, Bộ Lại hoặc Lại bộ là bộ giữ việc quan tước,
phong tước, ân ban thuyên chuyển, lựa chọn, xét công, bãi truất và thăng
thưởng, bổ sung quan lại, cung cấp người cho các nha môn; tương đương với Bộ
Nội vụ ngày nay. Đứng đầu Bộ Lại là Thượng thư Bộ Lại (Lại bộ Thượng thư).
*
Nguyễn
Hữu Bài (chữ Hán: 阮有排; 28 tháng 9 năm 1863 - 28 tháng 7 năm 1935), Phước
Môn Quận công, là một đại thần nhà Nguyễn và là một nhà cách mạng ôn hòa trong
lịch sử cận đại Việt Nam.
Năm
1908 ông Nguyễn Hữu Bài lãnh chức Thượng thư Bộ Lại. Ông từng giữ các chức
vụ: Thái phó, Võ hiển điện Đại học sĩ, Cơ Mật Viện trưởng đại thần. Năm 1932,
ông được vua Bảo Đại phong tước Phước Môn Quận công.
Ông
Nguyễn Hữu Bài nổi tiếng không phải vì chức trọng quyền cao, mà nổi tiếng vì
trong lúc đương thời khi vận nước suy đồi vì ách đô hộ ngoại quốc, lắm kẻ trong
giới quan lại chỉ biết xu nịnh chính quyền Bảo hộ, riêng một mình Quận Công
Nguyễn Hữu Bài, đã tỏ ra vững vàng với tinh thần quốc gia, dám đương đầu với
người Pháp và giữ vững được những đức tính liêm sỉ phong nhã của một vị quan
chức thấm nhuần Nho học.
Trong
buổi họp Hội Đồng Thượng Thơ cuối năm 1912, Khâm Sứ Mahé cho biết ý định đào
lăng vua Tự Đức lấy vàng bạc châu báu, viện lý do có thêm phương tiện tài chánh
cho ngân sách Nam triều. Cả triều đình nín lặng, không ai nói năng gì. Duy chỉ
có ông Nguyễn Hữu Bài dõng dạc đứng lên phản đối, viện lẽ theo truyền thống
phong tục Việt Nam, kính trọng người chết là một nghĩa vụ và bổn phận của người
sống. Đào mả tức là xâm phạm đến vong linh người chết sẽ gây náo động nhân tâm,
thương tổn đến lễ nghi và thể thống triều đình. Cử chỉ hào hùng, lời lẽ khiêm
tốn nhưng vững vàng cương trực của Thượng Thơ Nguyễn Hữu Bài đã làm Khâm Sứ
Mahé bực mình. Tuy kết cục vẫn không ngăn cản được hành động tham tàn của đối
phương, nhưng tư cách, thái độ ấy đã để lại tiếng thơm muôn đời.
Dân
chúng vốn sẵn cảm tình với cụ “Thượng Bài”, từ đó càng thêm ngưỡng mộ kính
mến. Càng lâu họ càng thấy rõ vị trung thần lương đống ấy, lên đến tột đỉnh
danh vọng không phải vì a dua nịnh bợ tầm thường như một số quan lại đương thời
mà chính vì tài đức, năng lực tinh thần thật sự.
Dân
chúng đương thời đặt ra câu tục ngạn:
"Đày
vua không Khả, đào mả không Bài"
Ghi
chú về câu tục ngạn trên:
*
Đày vua không Khả:
Nói đến quan Thị vệ đại thần Ngô Đình Khả đã
phản kháng Pháp, không chịu ký giấy phế vua Thành Thái.
Năm 1907, lúc ông Ngô Đình Khả đương kim phụ
chánh tại triều, vua Thành Thái có hành vi chống Pháp nên bị chính quyền Bảo hộ
dưới sự vận động của khâm sứ Ferdinand Lévecque đòi truất vua Thành Thái và đày
vua Thành Thái sang châu Phi, lấy cớ nhà vua bị bệnh tâm thần. Lúc đó tại triều
hầu hết các đại thần đều ký vào thỉnh nguyện đó. Chỉ riêng có quan phụ đạo đại
thần Ngô Đình Khả nhất quyết không chịu ký tên.
Ngày 2-9-1907 khi vua Thành Thái bắt buộc phải
thoái vị!
Cả triều đình im lặng tuân theo quyết định của
Toàn Quyền Paul Beau và Khâm Sứ Ferdinand Lévecque. Duy nhất và độc nhất một
người, với sĩ khí nho phong hiếm hoi của thời đại còn lại, Thị Vệ đại thần Ngô
Đình Khả đứng lên phản đối. Kết thúc sau cùng là nhận lãnh hậu quả
phải xảy đến: cụ Ngô Đình Khả bị người Pháp quy tội đủ điều, kể cả tội “không
xứng đáng với chức vụ”. Vị triều thần trọng nghĩa khí, coi thường công danh là
Ngô Đình Khả bị giáng cấp xuống hàng Án Sát, cho về hưu trí tại nguyên quán
Quảng Bình mà không được cấp hưu bổng.
Ông Ngô Đình Khả là thân sinh các ông Ngô Đình
Thục, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn...
* Đào mả không Bài:
Khi Khâm sứ Pháp Mahé đề nghị đào vàng bạc
chôn ở lăng vua Tự Đức, thượng thư bộ lại Nguyễn Hữu Bài nhất quyết phản đối.
2/ Thượng thư Bộ Hình Tôn Thất Đàn
Bộ
Hình hay Hình bộ (chữ Hán:刑部) là tên gọi của một cơ quan hành chính nhà nước
thời phong kiến tại một số quốc gia Đông Á, như Trung Quốc, Việt Nam v.v. Bộ
Hình có thể coi là tương đương với Bộ Tư pháp và Tòa án Tối cao ngày nay. Quan
đứng đầu bộ Hình là Hình bộ thượng thư (thượng thư bộ Hình), tương đương với Bộ
trưởng Bộ Tư pháp hoặc Chánh án Tối cao ngày nay.
*
Tôn
Thất Đàn (1871 - 1936) (Hán Nôm: 尊室檀), tự Hinh Nhi (馨兒), hiệu Lạc Viên Thị
(樂園氏), là danh thần triều Nguyễn Việt Nam, Hình bộ Thượng thư thời Bảo Đại.
Ông
Tôn Thất Đàn được bổ nhiệm làm Thượng thư Hình bộ, sung Cơ mật viện Đại thần
năm 1927 (Bảo Đại thứ 2). Tháng 1 năm 1925, kiêm nhiếp Tôn nhân phủ vụ đại
thần. Năm 1929, thăng làm Hiệp Tá Đại học sĩ, lĩnh Thượng thư Hình bộ, sung Cơ
mật viện Đại thần, miễn kiêm chức kiêm nhiếp Tôn nhân phủ vụ đại thần. Năm
1930, phong Hiệp tá Đại học sĩ. Năm 1933, ông làm đại biểu Thuận Hóa, xuất sứ
sang Pháp.
Ngày
2 tháng 5 năm 1933, Bảo Đại cải tổ nội các, ông nghỉ hưu mang chức Hiệp tá Đại
học sĩ. Ngày 1 tháng 8 năm 1933, ông được phong tước Phò Nhơn nam (扶仁男).
Ông qua đời vào năm 1936 qua đời, thọ 66 tuổi, được truy tặng tước vị Đông Các
Đại học sĩ.
Ông
viết tác phẩm Lạc Viên tiểu sử (樂園小史), quyển tiểu sử về ông
3/ Thượng thư Bộ Binh
Phạm Liệu
Bộ
Binh hay Binh bộ (chữ Hán:兵部) là một cơ quan hành chính thời phong kiến tại một
số quốc gia Đông Á như Trung Quốc, Việt Nam v.v, một trong sáu bộ của lục bộ,
tương đương với bộ Quốc phòng ngày nay. Quan đứng đầu Binh bộ là Binh bộ thượng
thư (thượng thư bộ Binh), tương đương với bộ trưởng Bộ Quốc phòng ngày nay.
*
Phạm
Liệu (1873-1937), tự là Sư Giám, hiệu là Tang Phố, là một danh sĩ Việt Nam. Ông
được xem là người đứng đầu nhóm Ngũ Phụng Tề Phi, từng làm quan trải đến chức
Thượng thư Bộ binh dưới các triều vua Thành Thái, Duy Tân, Khải Định và Bảo
Đại.
Sau
khi hồi hưu, ông về an dưỡng tại quê nhà và mất ngày 21 tháng 11 năm 1937 (có
tài liệu ghi năm 1936), hưởng thọ 66 tuổi. Triều đình truy phong tước Trừng
Giang Nam, giao việc tế lễ và mai táng cho quan chức đầu tỉnh Quảng Nam tổ
chức.
Khi
ông qua đời, danh sĩ đồng hương Huỳnh Thúc Kháng đã phúng điếu một câu đối, mà
nay còn được lưu truyền:
Văn
tự quả hữu túc duyên đa, ấu nhi tĩnh tường nghệ chiến, lão nhi kinh đệ minh
đàm, trừ trung gian quốc sự dịch kỳ trần lộ sâm thương dư nẫm tái.
Hà
sơn do thụy giai khí giả, cựu tắc Hán học thành tinh, tân tắc Âu khoa nhược
trí, thứng vãn tấn châu bình nguyệt đán khẩu bi danh tánh mỗi song đề.
Diễn
ý:
Văn chương chữ nghĩa có đầy duyên tứ trước
vậy. Lúc nhỏ học trường tỉnh, ganh đua nghiệp văn. Khi già ở nhà khách tại kinh
đô đàm luận. Ngoài việc biến đổi quốc sự, thì đường trần ai (tôi và ông) xa
cách nhau hơn 20 năm.
Sông núi do tú khí tạo nên, Hán học tinh
thông, Tây học còn non yếu. Mỗi tháng cùng bạn văn chương bình thời sự. Danh
tánh đều được bia đá bia miệng lưu truyền.
Phần
mộ của ông ở xã Điện Trung về sau được gia đình cho xây lại năm 1997, cạnh một
nghĩa địa nhỏ. Bia mộ ghi rất sơ sài: Phạm Liệu, tự Sư Giám, hiệu Tang Phố,
Tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1898). Điều đặc biệt có hai chữ “ngũ phụng” ở phía dưới,
nhưng không rõ vì sao bị bỏ mất hai chữ “tề phi”?
4/ Thượng thư Bộ Lễ Võ Liêm
Bộ
Lễ hay Lễ bộ (chữ Hán:禮部) là tên gọi của một cơ quan hành chính thời phong kiến
tại các nước Đông Á như Trung Quốc, Việt Nam, tương đương với bộ thông tin -
truyền thông, bộ văn hoá - thể thao - du lịch, bộ giáo dục - đào tạo và bộ
ngoại giao ngày nay. Quan đứng đầu bộ Lễ là Lễ bộ thượng thư (hay thượng thư bộ
Lễ), tương đương với bộ trưởng các bộ trên ngày nay.
Công
việc của bộ Lễ là kiểm tra cát lễ, gia lễ, quân lễ, tân lễ, hung lễ (ngũ lễ),
kiêm cai quản học giáo, khoa cử, khảo thí cùng các công việc tiếp tân khách
khứa ngoại quốc.
*
Võ
Liêm (1873-1936), cựu thượng thư bộ Lễ, hàm Đông các điện Đại học sĩ, tước Xuân
Hòa tử, con trai của Võ Khoa (Tổng đốc, sung chức Tuần vũ tỉnh Hà Tĩnh). Quê
quán ở làng Thần Phù, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.
Năm
1923 lại được triệu về kinh sung làm Thượng thư bộ Công, năm 1928 làm Thự
thượng thư bộ Binh, năm 1930 làm Thượng thư bộ Lễ.
Đông
các điện Đại học sĩ, Xuân Hòa tử, Võ Liêm từng được tặng nhiều huân chương như
Huân chương Giáo dục Cộng hòa, Long bội tinh An Nam, Bắc đẩu bội tinh.
Một
người con gái của ông là Tứ giai Du tần Võ Thị Dung, là một trong 12 người vợ
của vua Khải Định.
Con
trai của ông là Võ Chuẩn (1895-1956), cựu Tổng đốc tỉnh Quảng Nam.
Hai
con gái ông Võ Chuẩn là Linh Bảo và Minh Đức Hoài
Trinh (cháu nội ông Võ Liêm) đều là nhà văn.
5/ Thượng thư Bộ
Công Vương Tứ Đại
Bộ
Công hay Công bộ (chữ Hán: 工部) là tên gọi của một cơ quan hành chính thời
phong kiến tại các nước Đông Á, như Trung Quốc, Việt Nam, tương đương với cấp
Bộ ngày nay. Đứng đầu Công bộ là Thượng thư (尚書, tương đương Bộ trưởng ngày
nay); giúp việc có Tả Thị lang 左侍郎, Hữu Thị lang 右侍郎 (thời Lý -
Trần - Lê) hoặc Tham tri (thời Nguyễn) (tương đương cấp Thứ trưởng ngày nay);
Lang trung, Viên ngoại lang, Tư vụ... (tương đương Tổng cục trưởng, Cục trưởng,
Vụ trưởng, Giám đốc các sở hoặc Chánh Văn phòng ngày nay).
Ngày
nay, Công bộ có thể coi là tương đương với Bộ Xây dựng và Bộ Giao thông Vận
tải. Quan đứng đầu bộ Công là Công bộ Thượng thư (Thượng thư bộ Công). Do xếp
thứ sáu trong Lục bộ nên Thượng thư Bộ này có thể bị bãi, giáng hoặc thăng tiếp
sang Thượng thư Bộ khác.
*
Chúng
tôi không tìm được tư liệu nào viết về ông Vương Tứ Đại - Thượng thư Bộ
Công về hưu dưới triều Bảo Đại, quý bạn nào biết xin cung cấp giùm để bổ
sung. Cám ơn nhiều.
* *
Trong
lục bộ có Thượng thư Bộ Hộ, Đại thần Thái Văn Toản là vị quan duy nhất
được Hoàng đế Bảo Đại giữ lại chức vị để tham gia vào Tân Chính phủ cải tổ đã
được công bố theo Chỉ của Triều đình ngày 10 tháng 9 năm 1932 và được thừa nhận
theo Dụ ngày 2 tháng 5 năm 1932.
Năm
1932, vua Bảo Đại sau khi du học ở Pháp về đã trực tiếp tham chính và thay nội
các mới. Võ Liêm, Thượng thư bộ Lễ cùng với 4 vị Thượng thư khác là Nguyễn Hữu
Bài (bộ Lại), Tôn Thất Đàn (bộ Hình), Phạm Liệu (bộ Binh) và Vương Tứ Đại (bộ
Công) bị cho nghỉ hưu, nhường chỗ cho những nhân vật trẻ Tây học như Thái Văn Toản,
Hồ Đắc Khải, Phạm Quỳnh, Ngô Đình Diệm, Bùi Bằng Đoàn.
(5 vị Thượng thư từ trái qua phải Hồ Đắc Khải,
Phạm Quỳnh, Thái Văn Toản, Ngô Đình
Diệm, Bùi Bằng Đoàn.)
Trong
đó Ngô Đình Diệm thay thế Nguyễn Hữu Bài làm Thượng thư Bộ Lại, Bùi
Bằng Đoàn thay thế Tôn Thất Đàn làm Thượng thư Bộ Hình, Thái Văn Toản
thay thế Vương Tứ Đại làm Thượng thư Bộ Công, Hồ Đắc Khải bổ làm
Thượng thư Bộ Hộ, Phạm Quỳnh làm Thượng thư Bộ Giáo dục kiêm Tổng lý Ngự tiền
văn phòng.
Cùng
với việc thay đổi về nhân sự, bộ máy hành chính cũng được cải tổ rõ rệt. Năm
1932 vua Bảo Đại cho xây dựng mới một tòa nhà theo kiến trúc kiểu Pháp hiện đại
với 2 tầng đổ mái bằng nằm ở phía Bắc Tử Cấm thành làm trụ sở mới cho bộ máy
văn phòng giúp việc của nhà vua. Đồng thời năm 1933 đổi tên Nội các, cơ
quan do vua Minh Mệnh thành lập từ năm 1829 thành Ngự tiền văn phòng. Mặc
dù đổi tên nhưng chức năng của Ngự tiền văn phòng gần như không thay đổi so với
Nội các trước đây, vẫn là cơ quan giúp việc trực tiếp của nhà vua, luân chuyển,
tàng trữ các văn thư quan trọng của triều đình, người đứng đầu đặt cho chức
danh mới là Tổng lý Ngự tiền văn phòng.
Năm
1935 để phù hợp với xu thế mới, vua Bảo Đại cho đổi tên và thành lập mới một
loạt các bộ trong hệ thống chính quyền An Nam như:
+
Bộ Học đổi tên thành Bộ Quốc gia Giáo dục (năm 1943 lại đổi thành Bộ Quốc dân
Giáo dục, năm 1945 là Bộ Giáo dục Mỹ thuật);
+
Bộ Hộ bị xóa bỏ để thành lập mới các Bộ Kinh tế (năm 1943 đổi tên thành Bộ Kinh
tế – Nông nghiệp) và Bộ Tài chính;
+
Bộ Công được đổi tên thành Bộ Công chánh giao thông;
+
Bộ Lễ bị xóa bỏ để thành lập mới Bộ Lễ – Công (năm 1943 đổi thành Bộ Lễ
nghi Công tác);
+
Bộ Hình đổi tên thành Bộ Tư pháp;
+
Bộ Lại đổi tên thành Bộ Nội vụ.
Ngoài
ra sau đó vua Bảo Đại còn thành lập thêm một số bộ mới như Bộ Thanh niên,
Bộ Y tế cứu tế… trên cơ sở tách ra từ những bộ đã thành lập. Người đứng đầu các
bộ theo cách gọi Nam triều là Thượng thư nhưng trong các văn bản
tiếng Việt và tiếng Pháp được gọi là Bộ trưởng hoặc Ministe.
Mời
nhấp chuột đọc thêm:
Mời nghe Khề Khà Truyện đọc truyện ngắn
"CÔ" SƯỚNG CƯỚI VỢ của Đặng Xuân Xuyến:
*.
LA
THỤY (tên thật: Đoàn Minh Phú)
Địa chỉ: 79-1/8 Hoàng Hoa Thám, Phước Hội,
thị
xã Lagi, tỉnh Bình Thuận
Email: phudoan56@gmail.com
…………………………………………………………………………
-
Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 14.10.2022.
-
Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
-
Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét