NHÀ THƠ CHỬ VĂN LONG
“ĐỌC THƠ ĐẶNG XUÂN
XUYẾN”
*
BẠN QUAN
Bạn cũ lâu ngày gặp
lại
Chén rượu quê đưa
đẩy tẩy trần
Tao ruột ngựa hỏi
câu ngớ ngẩn
Mày làm quan chắc
kiếm bộn tiền
Chức ấy rẻ mà sinh
lắm lãi
Mày học ngu nhưng
thủ đoạn tài
Tao học giỏi nhưng
mù thủ đoạn
Mãi long đong chức phó dân quèn
Mày nhăn mặt chửi
tao thằng đểu
Quá nửa đời mãi
chửa hết ngu...
Rượu tới tầm
Mày ghé tai
tao
Nói thật nhỏ
Căng tai mới rõ
Làm người khó
Làm quan càng khó
Chốn quan trường
chó vịt giống nhau
Mày than đời chỉ
rặt những thau
Quan càng lớn chữ
nhân càng nhỏ
Ví miệng quan giống
trôn trẻ nhỏ
La liếm quen rồi
nào biết bẩn nhơ.
Tao gật gù giả bộ
ngớ ngơ
Khen các quan vì
dân vì nước
Nghe nửa câu mắt
mày trợn ngược
Chửi tao khùng hệt “lũ
dân ngu”
Mày chửi thề đặc
giọng quân khu
Đời đã chó
Quan trường càng
chó
Rồi nhăn nhó
Than đời mày nhọ
Mấy tháng trời bổng
lộc hụt xơi...
Rượu mày mời
Tao uống khó trôi
Thịt mày gắp
Tao nhai khó nuốt
Trời nhiều gió
Hay lòng tao nổi
gió
Rượu đầy vò
Tao ngất ngưởng vờ
say.
*.
Hà Nội, trưa 18 tháng 03.2016
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC BÀI THƠ “BẠN QUAN” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Tôi quen Đặng Xuân Xuyến đã lâu, từ thuở
anh mới dựng nghiệp, mở cửa hàng “phát hành sách”. Là một nhà thơ, làm bạn hàng
gửi sách nhờ anh bán hộ thường xuyên. So với những nơi khác bao giờ cửa hàng
của Xuyến cũng giúp tôi bán được số bản cao gấp bội. Nhìn dáng vẻ bên ngoài
tươi tắn, đẹp trai, hoạt bát và cái phong thái “dứt khoát” mỗi khi bàn việc…, ở
Xuyến tôi thầm nghĩ con đường lập nghiệp gắn với sách vở văn chương sẽ tiến xa
hơn! Bẵng đi một thời gian nền văn chương với những ước vọng thanh cao bị cuốn
vào vòng xoáy kinh tế thị trường không còn phân biệt được đục trong lẫn lộn.
Thơ thành sản phẩm của xã hội hóa cấp thấp, không còn biết viết để làm gì, viết
để vì ai. Tôi cũng nản, ngồi nhìn bút giấy và cũng đã lâu không gặp Xuyến.
Một hôm, bất ngờ tôi nhận được tin nhắn
của Đặng Xuân Xuyến mời cộng tác với trang mạng của anh… và tôi được đọc bài
thơ rất tâm sự “Bạn quan” anh
in trên trang mạng. Tôi thật ngưỡng mộ vì nội dung, giọng điệu, câu chữ già
dặn, từng trải, vừa tiếp thu cách nhìn đời, nhìn người của các lớp nhà thơ cha
anh mỗi khi bĩ cực, nhưng hơn hẳn lớp nhà thơ ăn theo xã hội bây giờ, khi vui
thì vỗ tay vào, hết lộc thì thở ra những lời ai oán vụn vặt làm người đời chán
đọc thơ vì vậy. Thơ Xuyến cũng mượn hơi men “giả tỉnh giả say” như để có cớ lôi
tuột những mưu mô giả trá của một xã hội đang thịnh hành, đang phân hóa, làm
đảo lộn hết đạo đức, nhân cách, làm người dù chỉ giới hạn bằng những lời bộc
bạch, tâm sự của hai người bạn lâu ngày gặp lại, có nhu cầu phơi trải lòng mình
thật đến nỗi chỉ thiếu cái tát bằng những ngón tay in lên mặt nhau, dù làm quan
có chức tước giàu sang hay là dân ngu ngơ, nghèo túng, khi nhìn lại đời mình đều
nhục, chưa thấy xứng kiếp người, tự mình thấy mình như súc vật, kiếp ngan, kiếp
chó....
Bài thơ như một bầu tâm sự dốc thẳng
sang nhau không cần niêm luật, kỹ thuật câu chữ. Đoạn đầu còn tỉnh, lời lẽ thăm
dò giao đãi:
Bạn cũ lâu ngày gặp lại
Chén rượu quê đưa đẩy tẩy trần
Tao ruột ngựa hỏi câu ngớ ngẩn
Mày làm quan chắc kiếm bộn tiền?
Tình bạn xa lâu gặp lại nhau, người ta
thường ôn lại kỷ niệm trong lành một thuở, rồi mới có nhu cầu hỏi han công việc
hiện tại gia cảnh của nhau. Đằng này có tình bạn ngày xưa của họ chỉ phụ họa
thêm cho nỗi ấm ức về những rối ren, bất công xã hội. Thằng học giỏi không sống
thủ đoạn thì làm dân quèn, thiếu cơm rách áo. Thằng học ngu, biết nịnh nọt cúi
luồn vẫn có thể mua được chức tước lên quan để kiếm bổng lộc bạc vàng, thành ra
cuộc gặp gỡ nơi chôn nhau cắt rốn lại là cái cớ để nổ ra cuộc vạch mặt chỉ tên
những bất công xã hội đang ấm ức nơi lòng mỗi kẻ. Những tưởng chỉ kẻ thua thiệt
mới buồn, mới đau, mượn rượu để nói ra lòng mình cho thỏa:
Mày làm quan chắc kiếm bộn tiền
Chức ấy rẻ mà sinh lắm lãi
Mày học ngu nhưng thủ đoạn tài
Tao học giỏi nhưng mù thủ đoạn
Mãi long đong chức phó dân quèn
Nào ngờ kẻ được mũ cao áo dài cũng lại
ngồi thở than phận kiếp:
Làm người khó
Làm quan càng khó
Chốn quan trường chó vịt giống nhau
Mày than đời chỉ rặt những thau
Quan càng lớn chữ nhân càng nhỏ
Ví miệng quan giống trôn trẻ nhỏ
La liếm quen rồi nào biết bẩn nhơ.
Những lời bộc trực, thật lòng này nghe
thật tội, thì ra kẻ làm quan đứng trước bàn dân thiên hạ, qua những cầu truyền
hình đi khắp thế gian, nhìn oai phong lẫm liệt, có ai ngờ nơi tận sâu con tim,
khối óc họ cũng bị dày vò, có khi lại gấp bội những buồn đau túng nghèo cơm áo,
cũng thấy được nhục vinh cuộc thế:
“Làm người khó
Làm quan càng khó
Chốn quan trường chó vịt giống nhau”
“Đời đã chó
Quan trường càng chó”
Thì ra đã là con người dù giả trá gian
manh đến đâu, dù có ngập sâu vào đống bùn nhơ tội lỗi thì thẳm sâu nơi nào đấy
trong linh hồn của họ vẫn nhận ra vị bùn nhơ nơi đầu lưỡi họ đã ngậm phải. Khác
nhau chăng kẻ ngày tháng quen dần với những gì nhơ bẩn, còn có kẻ còn biết cố
trườn ra khỏi những đám bùn nhơ để thở chút khí trời trong lành trước khi xuôi
tay, nhắm mắt. Bởi quyền tước bạc vàng có thể xây được nấm mộ cao chứ không để
lại trong không gian, thời gian được chút tiếng thơm. Huống chi lúc sống đã bị
người đời nguyền rủa.
Cái đau của thân phận dân đen cũng là
đau nhưng có thể mượn phút giây gặp gỡ, nói vung mạng, tung tán tàn cho hả hê.
Còn kẻ chức tước, giàu có, gian manh thì phải đợi lúc:
Rượu tới tầm
Mày ghé tai tao
Nói thật nhỏ
Căng tai mới rõ
Bởi đã khoác vào tấm áo quan trường phải
biết học phép mưu ma chước quỷ. Nhiều việc giả danh gian trá phải giấu kín cả
cha mẹ vợ con, đem xuống dưới mồ mới mong hoạn lộ, an toàn… chỉ giây phút ngồi
trước người bạn thuở trong sáng ngây thơ, sau biền biệt mỗi đứa một phương,
thắng thua nếm đủ quay về, men rượu ngấm vào ấm ức, nói ra cùng nhau cũng chẳng
phương hại nữa rồi mới dám “ghé tai”,
“nói nhỏ”…
Bài thơ thành bữa tiệc giữa hai người
bạn thết nhau vị ngọt bùi, cay đắng tình thân, vừa là của riêng, lại vừa dọn
mời người đọc nhâm nhi, cụng chén ở những năm tháng đời người thật ít điều vui,
ít tình thân thiện và gần như không còn thứ tình cảm tri kỉ mà ông cha ta đã
ngìn năm trồng cây cho gỗ nên trầm. Giờ rừng bỗng dưng bị đốn trụi. Tình người
rồi sẽ sao đây! Đặng Xuân Xuyến đã gửi tâm sự lòng mình vào thơ cho vơi ấm ức!
Có lẽ chỉ còn thơ có thể an ủi anh chăng!
Bài thơ “BẠN QUAN” đã ghi lại sống động
cuộc sống hôm nay, của người Việt Nam mình./.
*.
Hà Nội, 23 tháng
5-2016
CHỬ VĂN LONG
Địa chỉ:
Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh Trì, Hà Nội.
Email:
haicv08@gmail.com
Mời nghe nhạc phẩm QUÊ HƯƠNG
của Giáp Văn Thạch, qua tiếng
hát Tùng Dương:
QUÊ NGHÈO
Quê tôi nghèo lắm
Vẫn lác đác nhà
tranh
Vẫn tiếng thở dài
những chiều giáp hạt
Vẫn bát cơm chan mồ
hôi mặn chát
Cha cả đời lam lũ
Mẹ một đời chắt
chiu
Khoai sắn vẫn len
vào giấc ngủ
Tuổi thơ tôi đói
ngủ
Thương cánh cò bấu
bíu lời ru.
Quê tôi nghèo lắm
Phiên chợ còn èo ợt
nghèo hơn
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn, mẹt ngô
Í ới mời chào cao
hơn mời cỗ
Lèo tèo dăm người
bán
Lẻ tẻ mấy người mua
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ quê xác
xơ già cỗi.
Quê tôi nghèo lắm
Lũ trẻ gầy như con
cá mắm
Lũ trai mặt mũi mốc
meo
Gặm nhấm nỗi đau
nghèo khó
Nơm nớp âu lo đời
như chiếu bạc
Thương con cò con
vạc
Mỏi cổ chồn chân
trên đồng đất của mình.
Quê tôi nghèo lắm
Nước mắt rơi từ
thời chị Dậu
Tiếng oan khiên từ
thời Giáo Thứ
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc quánh
Chiếc cổng làng
dựng lên thật đẹp
Sừng sững bê tông
cốt thép
Ngạo nghễ tượng đài
Ngạo nghễ trần ai
Chiếc cổng làng
thành tai hại
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.
Quê tôi nghèo
Nghèo cả giấc mơ...
*.
Hưng Yên, chiều 29 tháng 12 năm 2014
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC BÀI THƠ QUÊ NGHÈO CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Là người Việt Nam không ai không biết
tới cảnh nghèo, cái đói đã đeo bám dân tộc ta từ những ngàn đời. Cảnh đói ăn,
thiếu mặc, bán vợ, đợ con đã in đậm vào những trang văn, những bài thơ từ thuở
ông cha ta biết dùng chữ viết ghi lại cùng con cháu hôm nay. Nhiều câu thơ,
trang văn đã làm rơi lệ người đọc, thương cho số phận người xưa, lại thương cho
phận số của chính mình. Cuộc cách mạng năm 1945 giành lấy chính quyền từ chế độ
vua quan phong kiến, thực dân cai trị, người nghèo làm chủ lấy vận mệnh của
mình với bao hy vọng đẹp tươi, xây dựng một xã hội ấm no, công bằng, người
không còn bóc lột người… nhưng con đường ấy chưa biết bao giờ tới đích. Sau
những bộ mặt đô thị, thành phố tập trung được xây dựng khang trang đẹp đẽ, vẫn
còn những làng quê chưa thoát khỏi cảnh nghèo:
Vẫn lác đác nhà tranh
Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp hạt
Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặt chát
Cha cả đời lam lũ
Mẹ một đời chắt chiu
Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ…
Bộ mặt đời sống mỗi vùng quê mỗi nơi tuy
có khác nhau nhưng nhìn chung vẫn chưa nhấc nổi bàn chân thoát khỏi cái vòng
nghèo khó. Bây giờ không còn đói dài đói rạc, không còn quần mảnh áo manh, sự
nghèo khó lại mang bộ mặt khác.
Nhìn từ bên ngoài:
Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp
Sừng sững bê tông cốt thép
Ngạo nghễ tượng đài…
Chiếc cổng làng thành:
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ!
Còn đời sống thật bên trong, văn hóa,
hiểu biết, kiến thức, khoa học, tục lệ, lễ nghi… vẫn chưa nâng con người thêm
lên là bao. Thật buồn cười, hàng ngày qua đài báo ta cứ nghe ra rả những lời
nói đẹp: “cán bộ là đầy tớ của nhân dân!” nhưng nhìn vào anh chị cán bộ nhỏ bé
nhất của làng ai cũng quần là áo lượt, còn nhân dân thì áo đẫm mồ hôi, quần
quật nắng sương lại được tiếng là ông chủ của đất nước. Trong khi mảnh đất hẹp
của chính mình vẫn cày cuốc, người tà có thể lấy đi để mua bán đầu từ cho những
tập đoàn tư sản nước ngoài năm, bảy chục năm, lấy tiền bỏ túi nhà nước thì ít,
còn túi những ông bà đầy tớ, chỉ một hai khóa nắm quyền, là có thể tậu nhà mặt
phố, thị trấn, thành người của lớp giàu sang. Còn dân đen thì phải rời nhà, rời
cả mồ mả tổ tiên và được cái tiếng là người có quyền làm chủ… Trong một bài thơ
Đặng Xuân Xuyến khó nói hết điều này nên sau những câu thơ khắc họa cái nghèo
rất thực:
Quê tôi nghèo lắm
Lũ trẻ gầy như con cá mắm
Lũ trai mặt mũi mốc meo
Gặm nhấm nỗi đau nghèo khó
Mà cuộc sống khổ nghèo trì trệ, tù đọng
ấy cũng đâu yên ổn:
Nơm nớp âu lo
Đời như chiếu bạc
Nay hãy biết nay, còn mai chưa biết thế
nào.
Hình ảnh trong bài thơ của Đặng Xuân
Xuyến viết là những làng quê của vùng khoai lúa cây trồng nơi những vùng đồng
bằng ít biến động bởi thiên tai bão tố. Nước ta với hơn ba nghìn cây số biển
dài còn bao làng quê sống nghề chài lưới. Mỗi gia đình ở đây còn nơm nớp bao
nhiêu khi đặt cược đời mình nơi những chiếc phao nổi nênh mặt nước. Dù không
giàu có nhưng sống nhờ con tôm, con cá …qua ngày. Bỗng nhiên người ta bán đất
đầu tư cho nước ngoài gần cả trăm năm. Công nghiệp đem được lợi ích gì cho
những người dân chài lưới chưa thấy đâu, đã gây nên vụ ngộ độc suốt dải biển
bắc miền Trung cá chết, đã hơn hai tháng nay chưa tìm được nguyên nhân. Tuy
được cho cơm gạo cầm hơi để sống, để nhìn ra biển. Nỗi đau dân chài, tự dựng
rơi lại vào cái bẫy khó nghèo, so với nỗi sợ, nỗi lo ở những làng quê đời sống
dân chài còn nơm nớp bấp bênh hơn. Đúng là “Đời
như chiếu bạc” mình không đánh bạc mà bị trắng tay… Nỗi buồn lo đến vậy cả
một dải đất miền biển, nhưng trên báo chí truyền thông ta chỉ được đọc một hai
bài thơ đồng cảm với biển, chứng tỏ còn một nỗi đáng sợ hơn là lòng người bây
giờ, tuy vẫn cười vẫn nói cùng nhau nhưng thứ tình nghĩa quê kiểng xóm làng
sống không còn ấm áp “Tắt lửa tối đèn”
như xưa.
Giữa không khí thơ như thế bài thơ của
Đặng Xuân Xuyến như đốm lửa tình người vẫn còn lửa hồng than đỏ, hàng ngày sống
giữa những cạnh tranh giành giật phố phường mà còn gửi được hồn mình ở nơi tình
người và cảnh vật lẻ loi là thật đáng quý:
Phiên chợ quê còn ẽo ợt nghèo hơn
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn mẹt ngô
Í ới mời chào…
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ quê xác xơ già cỗi
Bài thơ “Quê nghèo” của Đặng Xuân Xuyến cho ta cái tình, tình người muôn
thuở.
Làng thơ Việt Nam bây giờ có nhiều người
giàu có, quyền tước ngất trời muốn mượn thêm thơ để làm phật đạo, rằng mình
cũng hiền, cũng triết, cũng thanh cao, đã mượn cả danh của hội nhà văn Việt Nam
để in sách, mời những nhà thơ có tiếng để hội thảo, in song ngữ, tam ngữ, quảng
bá rùm beng như đám rước hội làng, nhưng thơ nhạt thếch, bởi lòng họ còn đâu
thứ tình người lửa khói. Tình người đã cạn kiệt còn lấy gì để rung ngân… Trái
tim không còn nhói đau khi chạm phải “cái nghèo” cái bất công hàng ngày vây bủa
thì còn đâu thơ phú...
*.
Hà Nội, 15 tháng
6-2016
CHỬ VĂN LONG
Địa chỉ:
Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh Trì, Hà Nội.
Email:
haicv08@gmail.com
Mời nghe nhạc phẩm LÀNG TÔI
của Văn Cao, qua tiếng
hát Lan Hương:
VIẾT CHO NGÀY VALENTINE
Có lẽ xưa đường tu
vụng dại
Vung vãi tình giờ
nghẹn đắng chữ yêu
Ta nhìn người mà
rậm rật bờ môi
Cứ da diết vòng tay
tình chồng vợ.
Đêm rũ xuống. Ngằn
ngặt niềm yêu đắng
Chăn gối đơn rệu
rạo đêm trường
Ta rụt rè ngóng gió
muôn phương
Mà ứa lệ. Mà bẽ
bàng cay đắng...
Tình yêu ơi sao xa
xỉ thế
Đến bao giờ thoát
khỏi bến mê
Đến bao giờ hết rầu
rĩ tái tê
Lại hối hả dệt mộng
lành ân ái...
Ừ, đừng nói đạo
người phải trái
Tình bán mua soi kỹ
làm gì
Chót nhỡ nhàng phận
hẩm duyên thiu
Thì cũng cố vê tròn
chữ nghĩa.
Thôi, ta mặc lời
người độc địa
Cố nín câm giữ biển
lặng sóng ngầm
Ta gồng mình giữ
chặt vẻ trầm ngâm
Chầm chậm bước giữ
nhịp đời thật chậm.
San niềm vui gom
vội niềm cay đắng
Ta cuộn mình sống
hết kiếp nhân sinh.
*.
Hà Nội, đêm, 14 tháng 02 năm 2016
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐÔI LỜI CẢM NHẬN KHI ĐỌC “VIẾT CHO NGÀY VALENTINE”
Đọc bài thơ “Viết cho ngày Valentin” của Đặng Xuân Xuyến lòng ai không khỏi
ngậm ngùi, không thấy nuối tiếc cho những cuộc đời một đời lỡ dở trong tình yêu
đôi lứa. Thứ tài sản quý nhất ở đời mà trời đất đã ban cho mỗi người sinh ra
trên mặt đất này, ta đã được cầm trong tay nhưng vô tình để tuột rơi tan vỡ,
giờ nghĩ lại chỉ còn biết đổ cho phận số:
Có lẽ xưa đường tu vụng dại
Vung vãi tình, giờ nghẹn đắng chữ yêu.
Ngày Valentin, ngoài đường nườm nượp
những lứa đôi chồng chồng, vợ vợ, nhìn những bó hoa tình yêu người ta trao tặng
cho nhau mới thèm khát biết bao những cử chỉ hạnh phúc, những vòng tay êm ái mà
ta không biết nâng niu gìn giữ khi tuổi trẻ còn phơi phới cùng bao mơ ước ngông
cuồng tiền bạc, lợi danh ta đã nhầm lẫn tưởng nó giúp ta dựng nên được những
lâu đài hạnh phúc vững bền, khi nhận ra điều này thì đã muộn:
Đêm rũ xuống. Ngằn ngặt niềm yêu đắng
Chăn gối đơn rệu rạo đêm trường
Ta dụt dè ngóng gió muôn phương
Mà ứa lệ. Mà bẽ bàng cay đắng…
Có lẽ, đến cả những anh hùng vĩ nhân
từng dọc ngang trời đất, từng chiến thắng hết thảy mọi gian nguy khi rơi vào
cảnh cô đơn này cũng trở nên bất lực.
Ta dụt dè ngóng gió muôn phương
Chỉ còn đợi giữa muôn điều may rủi nơi
số phận mình đem lại. Lúc này mới tỉnh thức về lẽ sống ở đời, có thể giành
giật, mua bán chiếm đoạt được mọi thứ có ở trên đời, riêng với tình yêu thì
không có thể mua bán chiếm đoạt. Nó chỉ đến cùng và ở mãi cùng ta bằng những
yêu thương giao cảm chân thành. Một ánh mắt gửi trao, một lời yêu an ủi có khi
nặng hơn vàng cân, bạc nén. Ta hãy nghe câu hát của những kẻ áo rách vá vai mà
vẫn hạnh phúc biết bao:
Chồng em áo rách em thương
Chồng người áo gấm sông hương mặc người
Nhất thời, cuộc sống nơi này, chỗ kia kẻ
nọ, đang bị cuốn vào vòng xoáy mua bán đổi trao hết thảy tính bằng bạc tiền
nhưng rồi cái giá để có được tình yêu sẽ làm họ tỉnh lại. Chẳng thế sao Đặng
Xuân Xuyến lại thốt nên lời:
Tình yêu ơi sao xa xỉ thế!
Nó đắt lắm không tính được bằng tiền,
không chinh phục được bằng tước quyền danh vọng, chỉ có thể đến được với nhau,
ở mãi trong nhau khi cùng một nhịp trái tim mãi đập chân thành. Tác giả vừa
thức ngộ cho mình vừa như nhắc nhủ người khác:
Đến bao giờ thoát khỏi bến mê
… Lại hối hả dệt mộng lành êm ái…
Thức ngộ được cuộc sống này, người tốt
kẻ xấu, tình thắm đượm, nghĩa phôi pha đang xảy ra ở khắp mọi nơi, đếm xỉa hết
thảy chẳng để làm gì:
Ừ, đừng nói đạo người phải trái
Tình bán mua soi kỹ làm gì
Chót nhỡ nhàng phận hẩm duyên thiu
Thì cũng cố vê tròn chữ nghĩa
Người tốt không phải bao giờ cũng gặp
được người tốt để thủy chung gắn bó. Đau đến vậy, nhưng là người cầm bút làm
thơ thường khác với người đời là không vì người phụ ta mà ta phụ lại người, tự
nhận lấy không may “phận hẩm duyên thiu” để sống giữa đời này và mỗi câu thơ
viết ra để mong con người sống tốt đẹp hơn, thương nhau, yêu nhau chân thật
không lọc lừa giả trá. Và Đặng Xuân Xuyến rút ruột trải lòng:
Thôi ta mặc lời người độc địa
Cố nín câm giữ biển lặng sóng ngầm
Chầm chậm bước giữ nhịp đời thật chậm
Tình yêu là hoa, là hương, là trời xanh
mây biếc. Có được tình yêu, có được hạnh phúc thật sự trên đời ta như chắp cánh
lượn bay tới cõi trăng sao. Nhưng yêu cũng lại là niềm bất hạnh không gì sánh
nổi.
Qua những dòng thơ “Viết cho ngày Valentin” của Đặng
Xuân Xuyến như nhắc cùng ta hãy biết trân trọng giữ gìn những gì có được trong
tay đã là hạnh phúc, không gì thay thế được.
*.
Hà Nội, tháng 07 năm
2016
CHỬ VĂN LONG
Địa chỉ:
Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh Trì, Hà Nội.
Email:
haicv08@gmail.com
Mời nghe nhạc phẩm NOI TÌNH YÊU BẮT ĐẦU
của Tiến Minh, qua tiếng
hát Lam Anh và Bằng Kiều:
TÔI NGHE
Tôi nghe...
Quan đầu tỉnh xứ
Thanh
Cung phụng bồ nhí
siêu xe bạc tỉ
Biệt thự rải khắp
nơi
Chiếm đất vàng phố
thị
Còn ủ mưu đầu cơ
chính trị
Bợ gót đưa “nàng”
vào cơ cấu
Quan thật giầu!
Quan tính kế thật sâu!
Quan lấy tiền từ
đâu?
Từ bòn rút dân đen?
Hay tận vét bằng
trò buôn quan bán chức?
Tôi nghe...
Quan đầu tỉnh xứ
Bái khử nhau
Hệt như phim hình
sự
Vì ân oán tư thù?
Vì ăn chia không
đủ?
Vì lật lọng bảo kê
ghế ngồi cơ cấu?
Tháng Tám mùa thu
Tám phát giang hồ
Khô khốc nổ
Niềm tin gục đổ
Náo loạn lòng người
Choáng váng tình
đồng chí.
Tôi nghe...
Quan đầu tỉnh Hà
Giang
Thiết lập vương
triều nhà Triệu
Này thì vợ
Này em trai
Này thêm chồng em
gái
Mật ngọt ruồi bu
Khoanh vùng chia
nhau cát cứ.
Tôi nghe...
Đứa trẻ Gia Lai
chết trong tức tưởi
Ba năm tới trường
bằng mượn áo rách của anh
Bà Lò Thị Phanh
Bệnh viện trả về
Không tiền thuê xe
Xác cuốn chiếu
Gập ghềnh xe thồ
hơn trăm cây số.
Tôi nghe...
Những mảnh đời khốn
khó
Những anh Vươn sắp
trơ lì hãi sợ
Có câu tức nước ắt
vỡ bờ
Khi niềm tin rạn
vỡ.
*.
Hà Nội, chiều 21 tháng 09 năm 2016
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC BÀI THƠ “TÔI NGHE” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Ở tuổi “Cổ lai hy” rồi, trái tim chẳng
dễ gì xúc động, vậy mà đọc bài thơ “Tôi
nghe” của Đặng Xuân Xuyến thật khó cầm lòng. Chỉ với năm khổ thơ ngắn
đưa lại những thông tin, sự kiện đã và đang xảy ra ngoài xã hội, gần như ai
cũng biết, nhưng khi nó được dồn nén bằng những câu chữ thành dòng dài ngắn,
thành một bài thơ, những sự kiện rời rạc kia bỗng gợi nên những tương phản buồn
vui của đất nước không của riêng ai những tháng năm này.
Chuyện vị quan đầu tỉnh xứ Thanh dùng bồ
nhí thao túng cơ cấu chính trị tỉnh đâu còn là chuyện riêng của xứ Thanh. Cái
chết một lúc ba nhân vật đứng đầu của tỉnh Yên Bái không được giải thích nguyên
nhân, đâu chỉ là sự báo động của riêng Yên Bái? Chuyện tưởng không có gì ở Hà
Giang:
Quan đầu tỉnh Hà Giang
Thiết lập vương triều nhà Triệu
Này thì vợ
Này em trai
Này thêm chồng em gái…
Đọc xong những câu thơ, liệu có ai nghĩ
chuyện này chỉ riêng ở Hà Giang!
Còn bao chuyện tha hóa biến chất của các
quan chức nhà nước cấp tỉnh, cấp trung ương, có việc đã lộ ra như nguyên thanh
tra chính phủ Trần Văn Truyền về hưu, mới biết ông đã can tội tham nhũng (chưa
có án xét xử). Rồi gần đây là vụ ông Trịnh Xuân Thanh lãnh đạo ngành xây lắp
dầu khí làm thất thoát hơn 3.000 tỷ, đơn vị vẫn được hai lần tặng thưởng huân
chương, phong tước anh hùng, để điều chuyển về làm phó chủ tịch tỉnh nọ, lại
đắc cử nghị viên quốc hội mới bị phát hiện. Đích danh tổng bí thư Nguyễn Phú
Trọng chỉ thị các cơ quan trách nhiệm phải làm rõ việc này đưa ra ánh sáng, xét
xử. Dù ông Thanh đã cao chạy xa bay thì vẫn còn đó cái lệnh truy nã toàn cầu…
Mừng cho ngòi bút tác giả bài thơ “Tôi nghe” nếu không vững tay nghề sẽ
đem kể hàng loạt những vụ tham nhũng biến chất như thế, bài thơ sẽ biến thành
một “bản trường ca bất hảo” trường thiên… đọc sẽ nhàm chán bởi bản chất của xã
hội, dù tha hóa đến đâu vẫn còn lại bao điều tốt đẹp, vị tha, cao cả.
Và đoạn thơ thứ tư bất ngờ xuất hiện:
Tôi nghe...
Đứa trẻ Gia Lai chết trong tức tưởi
Ba năm tới trường bằng mượn áo
rách của anh
Bà Lò Thị Phanh
Bệnh viện trả về
Không tiền thuê xe
Xác cuốn chiếu
Gập ghềnh xe thồ hơn trăm cây số.
Một em bé ba năm tới trường với chiếc ao
đi mượn, lại là chiếc áo rách và chiếc áo rách ấy theo em cả lúc xuống mồ. Hỏi
còn gì tủi cực hơn cho một tâm hồn ngây thơ trong sáng, và một kiếp người! Bàng
hoàng hơn, ở thế kỷ 21 này và ở Việt Nam mình mà có hình ảnh một người chết ở
bệnh viện, không có tiền thuê xe, cuốn trong chiếc chiếu, chở xe thồ hơn trăm
cây số!
Tám câu thơ gợi hình ảnh tương phản với
ba đoạn thơ trên về màu sắc sáng tối làm nên bức tranh toàn cảnh sinh động mà
lâu nay mỗi khi nghĩ đến thi ca người ta có cảm giác nó là thứ nghệ thuật đã
tách ra, đứng bên lề cuộc sống thì nay nó lại nhập cuộc vào vui buồn thao thức
lương tri.
Tám câu thơ ngắn liệm trọn số phận con
người nghèo khó ở bất cứ nơi nào khi mà cuộc sống chưa có công bằng bác ái, ở
bất cứ nơi nào mà bọn quan tham còn được che đậy bởi những lời nói ngoài môi
“vì Đảng, vì dân”!
Bài thơ không cần đoạn thứ năm:
Tôi nghe...
Những mảnh đời khốn khó
Những anh Vươn sắp trơ lì hãi sợ
Có câu tức nước ắt vỡ bờ
Khi niềm tin rạn vỡ.
Bởi chỉ bốn đoạn trên nó đã gây được
xung lực, nó đã gợi lên cho người đọc, dù vô tâm đến đâu cũng phải khơi dòng
không thể để “tức nước vỡ bờ”. Nhìn
lại những trận đại hồng thủy từng qua, cuối cùng vẫn lại dân đen chìm nổi cùng
với đau thương gánh chịu.
*
Hà Nội, ngày 06 tháng
10.2016
CHỬ VĂN LONG
Địa chỉ:
Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh Trì, Hà Nội.
Email:
haicv08@gmail.com
Mời nghe nhạc phẩm ĐẤT NƯỚC LỜI RU
của Văn Thành Nho, qua tiếng
hát Nghệ sĩ Nhân dân Thu Hiền:
LỠ
Tôi đắm hồn tôi nơi
bến vắng
Lướt khướt trăng
vàng rớt đáy sông
Thầm thĩ với người
từng vun mộng
Trăng kia bến cũ có
thay dòng?
Mỗi độ chiều tàn,
đêm rủ xuống
Môi kề môi ấy có lạ
không?
Và đã khi nào mỏi
mòn trông
Héo hắt than hoa
lạc cuối dòng?
Có còn đứng đợi chờ
trăng xuống
Mơ dạo cùng ai cõi
phiêu bồng...?
Tôi biết, nhưng
thôi, chỉ rầu lòng
Ái tình cố níu cũng
bằng không
Lòng người còn thẳm
hơn sông rộng
Chỉ lỡ nhịp chèo đã
qua sông.
*.
Hà Nội, chiều mưa 19.08.2016
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC BÀI THƠ “LỠ” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
May thay tác giả bài thơ “Lỡ” được sinh ra ở thời đại những
làng quê Việt Nam còn nhiều mơ mộng, còn có những bến đò gợi niềm cách trở cho
kẻ ở người đi. Phương tiện để nối lại đôi bờ chỉ là những con đò tay người chèo
lái… Cuộc sống chậm đến nỗi “Chỉ lỡ nhịp
chèo” mà nhiều khi tình duyên lỡ dở, biệt ly, để bây giờ làng quê, thành
thị nối liền nhau, qua sông đã có những cây cầu vững chãi vươn thẳng nhịp nối
đôi bờ cho những dòng người, dòng xe lăn bánh bon bon, chớp mắt đã được cầm
tay, đã được kề tựa bên nhau không còn phải phấp phỏng ngóng chờ mà tác giả vẫn
có được những câu thơ trở về trong mộng:
Tôi đắm hồn tôi nơi bến vắng
Thấy lại cả vầng trăng “say lướt khướt rớt đáy sông” vì hồn
người lúc ấy đắm say “thầm thĩ với người
từng vun mộng”. Bây giờ lấy vợ, cưới chồng tuy thủ tục rườm rà nhưng có lẽ
người ta đã mơ ước khác xưa, ước muốn khác xưa. Có đôi lứa nào đến với nhau: “Thầm thĩ với người từng vun mộng”. Cái
thực bây giờ đã thay cái mộng. Còn đôi lứa nào giờ yêu nhau như câu thơ Xuân
Diệu từng gợi lên vẻ đẹp tình yêu sống mãi muôn đời: “Chỉ biết yêu thôi chẳng biết gì”. Yêu mà không nói được vì sao tôi
yêu em. Vì sao em yêu tôi, thời nay chắc không còn nữa. Khi viết câu thơ “Trăng kia bến cũ có thay dòng” hẳn tác
giả là người có tình yêu bền chặt. Đời thật tất cả đã đổi thay. Sông, người ta
đắp đập, chặt khúc làm thủy điện. Bây giờ còn ai ngẩn ngơ “Cầm tay đi dạo dưới trăng vàng”. Chưa kể thứ tình yêu thác loạn nơi
đèn màu, nhạc Rốc nơi phố thị, vầng trăng quê đã bị bỏ rơi từ đã lâu rồi như
câu thơ một nhà thơ viết thời đương đại:
Trăng đã mất từ khi Hàn đi mất
Trăng còn đây chỉ là bản photo
Hàn là thi sĩ Hàn Mặc Tử, thi sĩ sống
cùng trăng, sống với trăng bây giờ không còn. Vầng trăng ta thấy đây chỉ là “vầng trăng photo” giống hệt vầng trăng
muôn xưa, nhưng không phải, bởi còn đâu thứ tình yêu thật sự trong lành để nuôi
sống mơ mộng cho trăng…
Nhưng nghĩ lại, giữa đời sống bẩy tỷ
người trên trái đất, chỉ có một vành trăng mơ mộng mà thôi, ai còn có nó, giữa
bao bậm trợn, ham hố, thèm muốn ở đời, tác giả là một con người hạnh phúc, vẫn
sống với vầng trăng đẹp để mơ chung thủy với người không chung thủy với mình.
Hơn hết để còn những câu thơ như “kẻ tâm
thần không chịu tỉnh” như thế này:
Mỗi độ chiều tàn, đêm rủ xuống
Môi kề môi ấy có lạ không?
Bài thơ “Lỡ” sẽ đem đến cho ai chịu thiệt thòi lỡ dở, thứ hạnh phúc suốt
đời vẫn có một tình yêu tươi đẹp, sáng trong.
*.
Hà Nội, 25 tháng
10-2016
CHỬ VĂN LONG
Địa chỉ:
Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh Trì, Hà Nội.
Email:
haicv08@gmail.com
Mời nghe nhạc phẩm TRỘM NHÌN NHAU
của Trầm Tử Thiêng, qua tiếng
hát Hoài Lâm:
HƯƠNG THU
Ô kìa chiều
Ai thả nắng vương
cây
Tóc rối ai bay
Mòn ai đuôi mắt
Điệu lý buông lơi
tính tang khoan nhặt
Da diết bổng trầm
xao xác sông xưa
Ta hỏi chiều
Thu đã về chưa
Mà lá vàng rơi khẽ
nghiêng thật nhẹ
Mà gió mơn man vuốt
ve thật khẽ
Biêng biếc trời
chiều
Man mát hương sen.
Ta hỏi chiều
Sao rất đỗi thân
quen
Tí tách bếp ai dẻo
thơm cốm mới
Câu lý giao duyên
ngập ngừng bối rối
Bồng bềnh người ơi
Mây tím lưng trời.
*.
Hà Nội, chiều 07 tháng 08 năm 2014
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC BÀI THƠ “HƯƠNG THU” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Giữa một đô thị như Hà Nội gần như đã
chật cứng xe cộ, nhà cửa, âm thanh… Trừ những người giàu có, quyền tước chiếm
giữ được những khoảng không gian riêng có cây che bóng mát cho những ô cửa sổ
mở ra để nhìn ngắm ánh trời… Còn cuộc sống của hầu hết mọi sinh linh chọn thành
phố làm nơi cư ngụ. Âm thanh chát chúa, khói bụi cay mù, xe cộ với tốc độ luồn
lách… Nhìn những dòng người, dòng xe với những chiếc mũ bảo hiểm dọc theo những
con đường nắng bốc hơi ngùn ngụt người đã thấy nôn nao như mình đã lạc sang một
“tiểu hành tinh” nào đấy mù xa… Không biết làm thế nào đấy mà người thơ vẫn có
một buổi chiều Hà Nội, vẫn dành riêng cho mình một cõi đắm say thanh thản. Ta
như nghe được tiếng reo của người đang chìa bàn tay chờ đón mùa thu bằng cảm
giác mùi hương.
Tạo hóa ban phát riêng cho những người
làm thơ thứ hạnh phúc không ai có thể tranh giành, không luật pháp khắc nghiệt
nào có thể ngăn trở tâm hồn người ta đến với cái đẹp; người thơ như được đứng
riêng một cõi:
Ô kìa chiều
Ai thả nắng vương cây
Tóc rối ai bay
Mòn ai đuôi mắt
Điệu lý buông lơi tính tang khoan nhặt
Da diết bổng trầm xao xác sông xưa
“Tóc rối” của ai bay? Ai nhìn ai “mòn đuôi mắt”? Cái gì “bổng trầm”? Cái gì “xao xác” và “sông xưa” là
con sông nào mà thả được dòng trôi vào cái mảnh đất nhà cửa chen chúc những
khối bê tông thô ráp mệt mỏi dâng đầy giữa Hà Nội ngày càng ngột ngạt, chật hẹp
để người thơ vẽ nên chiều thu thơ mộng, lãng mạn?
Đọc đoạn hai bài thơ Hương thu
Ta hỏi chiều
Thu đã về chưa
Mà lá vàng rơi khẽ nghiêng thật nhẹ
Mà gió mơn man vuốt ve thật khẽ
Biêng biếc trời chiều
Man mát hương sen.
Đọc đến đây ta có thể khẳng định sự mơ
hồ của “lá rơi” của ngọn “gió mơn man ve vuốt” của sắc trời chiều
“biêng biếc”, thêm vào chút “hương sen man mát” làm cho ngây ngất, mở
lòng, chứ anh cũng chưa gặp mùa thu - vì còn phải hỏi chiều “thu đã về chưa”? Nhưng nào say đắm có
mất gì, khi lòng ta bỗng dưng bổi hổi, xao xuyến nhớ về một mùa thu đẹp đã đi
qua để lại cho hồn ta những vẻ đẹp, những màu sắc âm thanh sáng trong, ngập
ngừng, bối rối:
Ta hỏi chiều
Sao rất đỗi thân quen
Tí tách bếp ai dẻo thơm cốm mới
Câu lý giao duyên ngập ngừng bối rối
Bồng bềnh người ơi
Mây tím lưng trời.
Thơ hay thường là những kỷ niệm đẹp
nhưng phải được cháy lên hoặc thắt quặn lòng mình.
Thêm vào một tay nghề … Hương thu có
nhiều nét đẹp nhưng mới chỉ dừng lại ở những “xốn xang”, còn “thiếu vị buồn”.
Bởi cái gì đẹp thăm thẳm thường pha thêm chút ánh buồn (Đẹp và buồn đi với
nhau), như thế bài thơ mới chiếm được hết lòng độc giả, mới làm mê mẩn người
xem./.
*.
Hà Nội, 26 tháng 10
năm 2016
CHỬ VĂN LONG
Địa chỉ:
Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh Trì, Hà Nội.
Email:
haicv08@gmail.com
Mời nghe nhạc phẩm THƯ TÌNH CUỐI MÙA THU
của Phan Huỳnh Điểu, qua tiếng
hát Bảo Yến:
VĂN THÙY “DỊ NHÂN”
Cuống quýt với thơ
Lử đử cùng thơ
Say thơ như điếu
đổ.
Cả đời
Đánh đổi
Được gì?
- Dăm ba bài thơ
dán tem "thơ bụi'. (1)
Thiếu vợ
Thiếu con
Đâu phải Kép Tư Bền
Sao cứ bắt miệng
cười tim héo.
Đời lắt léo
Phận eo sèo
Thây kệ thế gian úp
mở.
Giả ngố
Mượn chữ bày trò
Vác thơ
Tưng tửng.
................
(1): Chữ dùng của
nhà thơ Nguyễn Khôi
*.
Ân Thi, đêm 22 tháng 04.2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
ĐỌC “VĂN THÙY DỊ NHÂN” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Tôi đã được đọc thơ và một số bài viết
ca ngợi nhà thơ Văn Thùy in báo và đăng trên trang mạng rộng rãi, nhưng chưa
một lần gặp mặt. Tình cờ một ngày đầu xuân năm nay (tháng 3/2017) tôi sang Ân
Thi - Hưng Yên thăm nhà người bạn và gặp Văn Thùy cũng có mặt trong cuộc vui
không hẹn này. Thì ra anh là người cùng quê với anh bạn trẻ tôi quen. Còn Văn
Thùy không biết hàng ngày và ở những cuộc gặp gỡ khác anh ăn vận ra sao. Trước
mặt tôi lúc này với chiếc nón nan rộng vành và tấm áo dài thâm phai màu, chưa
thể nhìn được khuôn mặt, bộ râu cùng mái tóc muối tiêu tung tỏa … nom anh như
nhân vật dấu mặt trong những bộ phim kiếm hiệp của Kim Dung từ đâu xuất hiện.
Có lẽ hình ảnh nón nan với áo trùng than này đã tạo cho người đời nhìn nhà thơ
Văn Thùy thành “Dị nhân” đi kèm với tuổi tên chăng? Tôi quan sát anh khi xếp
thứ “áo nón phường tuồng” đi, là một ông lão tuy đã râu tóc phai màu nhưng còn
nhanh nhẹn, đôi mắt sáng, bộ comple tôn thêm vẻ ngoài đĩnh đạc của một thi nhân
khi hai tay đón lấy chén trà… Tan cuộc, anh tặng tôi hai tập sách dày dặn: Tập
thơ “Mảnh ghép của thơ Việt” và tập “Thư pháp” có nhiều bức vẽ chữ cho chính
những câu thơ anh tâm đắc đã gửi cùng đời. Và anh khoe đã bán được hơn “BẨY
CHỤC TRIỆU ĐỒNG” sau hàng tháng bán thơ, vẽ thơ ở Văn Miếu - Hà Nội…
Ngày tháng trôi đi… chiều qua tôi đọc
được bài thơ của Đặng Xuân Xuyến vẽ chân dung của người thơ Văn Thùy đã gợi lại
những câu thơ và nét thư pháp bâng khuâng của con người xương thịt “Văn Thùy”
khi tiễn tôi ở Ân Thi ra về thêm một đoạn đường, không nón để râu tóc được tự
do bay trong gió. Nhưng khi sống cùng thơ trong bức chân dung của Đặng Xuân
Xuyến vẽ anh thì say thơ, mê thơ đến “cuống
quýt”, “lử đử” như đã bị thơ lấy
mất đi hồn vía, lấy mất đi chính cả cuộc đời đã hơn bẩy mươi năm bút mực dốc
cạn mà không biết có phút nào nhận ra mình:
Cả đời
Đánh đổi
Được gì?
- Dăm ba bài thơ, dán tem “thơ bụi”
Câu thơ như thể nét cắt sắc lẻm, đau tận
xương tủy cho những ai đã đi cùng thơ sắp hết đời mình với bao mơ mộng chứa
chan khi cầm bút từng mong, không thi hào thi bá thì cũng để lại chút danh thơm
như Nguyễn Công Trứ từng ghi “Đã sinh ra
ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông”. Giờ nhìn lại, còn lại:
“Dăm ba bài thơ dán tem “thơ bụi”
Đau hơn, cuộc sống bình thường, đời
thường no đói, giàu nghèo, sang hèn gì ai cũng có một tổ ấm vợ, con xum họp mới
là đời người, mới là cuộc sống… Người thơ ở đây không biết còn lý do gì ngoài
sự mê đắm thi ca hay chỉ vì “Dăm ba bài
thơ dán tem thơ bụi” đã đổi cả hạnh phúc êm ấm gia đình:
Thiếu vợ
Thiếu con.
Viết đến đây, hình ảnh Văn Thùy để đầu
trần phóng xe tiễn tôi thêm một quãng qua thị trấn Ân Thi bỗng thoáng hiện về
trong trí nhớ: Một người hơn bẩy mươi tuổi còn tháo vát nhanh nhẹn như vậy, anh
như tự lý giải cho những câu thơ của Đặng Xuân Xuyến, lý giải cuộc đời này:
Đời lắt léo
Phận eo sèo
Thây kệ thế gian úp mở
Đã thế thì anh việc gì phải: Giả ngố/ Mượn chữ bày trò/ Vác thơ/ Tưng
tửng như Đặng Xuân Xuyến đã khắc họa? Bởi tất cả từng trải, mất mát và bao
nhiêu nỗi buồn đau của giấc mơ bệnh lý do nàng thơ ám ảnh suốt cả đời người đã
làm cho con tim khô héo, có thể phẩy tay “Thây
kệ thế gian…” thì con người Văn Thùy cũng đủ bản lĩnh nhìn thẳng vào đời
với cái nhìn khinh bạc thật sự, không cần “Giả
ngố”, không cần phải “Mượn chữ bày
trò” anh đã đem chính những câu thơ mình, dùng thêm “hoa tay thư pháp” vẽ
thành tranh trước Văn Miếu, Quốc Tử Giám bán cho bàn dân thiên hạ. Liệu có bao
người làm thơ dám đem ra bán giữa chợ đời như anh.
Qua bài thơ Văn Thùy “Dị nhân”, Đặng Xuân Xuyến đã thành công ở những nét
đặc tả một dạng thi sĩ số phận lận đận trong cuộc sống cơm áo con người.
*.
Hà Nội, 09 tháng 5
năm 2017
CHỬ VĂN LONG
Địa chỉ:
Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh Trì, Hà Nội.
Email: haicv08@gmail.com
Mời
nhấp chuột đọc thêm:
-
Các bài viết của
(về) tác giả Chử Văn Long0
-
Các bài viết của
(về) tác giả Văn Thùy0
- Bạn đọc cảm nhận
về thơ của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl
Mời nghe Khề Khà Truyện đọc truyện ngắn
CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ của Đặng Xuân Xuyến:
(Ảnh - Từ trái qua phải: Đỗ Hoàng, Chử
Văn Long, Nguyễn Khôi,
Đặng Xuân Xuyến, Nguyễn Đắc Cơ và Nguyễn Đăng Hành)
0 comments:
Đăng nhận xét