NHỮNG
HIỂU LẦM
VỀ
NHO GIÁO THƯỜNG GẶP
*
Nho giáo trong quá trình truyền bá về sau đã
bị thêm thắt và sửa đổi không ít, khiến cho nhiều người hiểu lầm về Nho giáo mà
phản đối.
Nói đến văn hóa rực rỡ của phương Đông không
thể không nói đến Nho giáo, không nhắc đến Đức Khổng Tử, người đóng góp vào nền
văn hóa truyền thống tư tưởng Nhân- Nghĩa- Lễ- Trí- Tín; thời thịnh thế chiểu
theo đó mà trị quốc tu thân; thời loạn thế có thể giữ mình và giữ nước.
Nhưng bên cạnh những giá trị đạo đức cốt lõi
kinh điển được thừa nhận đó thì suốt chiều dài lịch sử những điều tiêu cực được
bồi đắp thêm vào cũng không ít; từ đó gây nên nhiều điều hậu thế hiểu sai về
Khổng Tử và về Nho giáo.
Ngày nay người học tập đạo Thánh hiền không
còn nhiều nữa nhưng lõm bõm một vài câu thì dường như ai ai cũng biết. Và trong
số đó có một số câu thường được nhắc đến với ý chỉ trích Nho giáo:
1. “Quân xử thần tử thần bất tử bất trung, phụ xử tử vong tử bất vong
bất hiếu”
Một người quen của tôi, anh học tiến sĩ ở
châu Âu về, anh cũng bài xích kịch liệt Nho giáo. Anh nói xã hội Trung Quốc và
Việt Nam không phát triển nổi cũng tại Nho giáo. Vì anh cho rằng Nho giáo chỉ
có lợi cho giai cấp thống trị hay nhà cầm quyền. Cho nên các triều đại xưa kia
và ngày nay đều lợi dụng Nho giáo, khiến cho người ta chỉ biết “ngu trung”: “Quân
xử thần tử thần bất tử bất trung, phụ xử tử vong tử bất vong bất hiếu.” lấy
câu này ra để chê Nho giáo là phản nhân tính nhưng lại không hề biết rằng đây
là câu nói không phải xuất phát từ Nho giáo.
(“Ngu trung” mang hàm nghĩa xấu. Ý chỉ sự
trung thực đến ngu muội, không kể hậu quả, không nghĩ đến nguyên nhân, không
cân nhắc lợi hại, chỉ biết dựa theo mệnh lệnh mà đi làm, không có cách nghĩ của
bản thân).
Khi thái tử Phù Tô cầm quân ở bên ngoài, thừa
tướng Triệu Cao đã làm giả di chiếu của Tần Thủy Hoàng bắt thái tử phải chết.
Nhận được chiếu, Thái tử mới thở dài nói: “Quân xử thần tử thần bất tử bất
trung, phụ xử tử vong tử bất vong bất hiếu”. Vì tưởng lầm đó là ý cha, mà trong
trường hợp của Thái tử thì cha cũng là vua.
Nho giáo không giảng “ngu trung”
Có lẽ cũng nên minh bạch một điều, nhà Tần
lúc đó dùng Pháp trị chứ không dùng Đức trị. Tức là theo chủ trương của Pháp
gia chứ không phải Nho gia. Quản Tử chủ trương “Tôn quân ti thần, dĩ thế
thắng dã” (Tôn vua lên, hạ quân xuống, lấy cái uy thế mà thắng lướt), là
đặt vua trên luật pháp. Sống trong bối cảnh đất nước lúc ấy nên Phù Tô rất tự
nhiên mà nói ra câu ấy.
Cả câu “Trung thần bất sự nhị quân”(tôi trung
không thờ hai vua ) cũng là của Pháp gia; chính vì điểm này có lợi cho Vua nên
các vua sau này đã cài tư tưởng của Pháp gia vào Nho gia. Bởi đa số đều dùng
Nho giáo để trị quốc, vì chỉ có Nho giáo mới ổn định được lòng dân.
Nho giáo chủ trương vua phải ra vua, tôi phải
ra tôi, “Từ thiên tử cho tới thứ dân đều phải lấy sự tu thân làm gốc”. Vậy Vua
cũng phải có tư cách, thương dân thì mới mong trung thần không rời bỏ. “Làm vua
lấy lễ mà đãi bề tôi, làm bề tôi phải lấy chữ trung mà thờ vua”; vua không ra
gì thì bỏ đi tìm vua khác anh minh mà thờ. Bản thân Khổng Tử cũng rời bỏ vua Lỗ
mà đi qua nước khác. Nên làm sao có thể nói Nho giáo dạy người ta ngu trung
được.
2. “Nam tôn nữ ti”
Khi nói đến Nho giáo người ta liền lập tức
nhớ câu “Trọng nam khinh nữ”. Trọng nam khinh nữ là dịch từ câu “nam tôn nữ ti”
mà ra. Mà “Nam tôn nữ ti” là bắt nguồn từ Chu Dịch, cụ thể hơn là từ việc hậu
nhân chắp vá lời nói của Khổng Tử khi viết phần Dịch Truyện chú thích cho Kinh
Dịch.
Tiết thứ nhất của hệ từ thượng trong Dịch
Truyện viết: “Thiên tôn địa ti. Kiền Khôn định hĩ. Ti cao dĩ trần. Quý
tiện vị hĩ. Động tĩnh hữu thường. Cương nhu đoán hĩ. Phương dĩ loại tụ. Vật dĩ
quần phân. Cát hung sinh hĩ. Tại thiên thành tượng. Tại địa thành hình. Biến
hoá kiến hĩ”.
Có thể tạm dịch là: Trời ở trên cao đất ở
dưới thấp. Càn khôn đã được định rõ là như thế. Sự vật lấy tôn ti cao thấp để
trình bày rõ; cao thấp ra sao đã sẵn ở vị trí đó rồi. Sự vật từ đó mà phân sang
hèn khác biệt; có động có tĩnh, có cương có nhu, có quần tụ cũng có phân chia,
có may mắn cũng có tai họa. Trên trời có thiên tượng, dưới đất sẽ hiện thực
hóa. Biến hóa của vũ trụ là như thế.
Tiết thứ tư của hệ từ thượng trong Dịch
Truyện viết: “Kiền đạo thành nam. Khôn đạo thành nữ”.
Tạm dịch: Người nam là ứng với Càn, người nữ
là ứng với Khôn. Đạo của Trời, đạo của Càn tạo thành người nam; đạo của Đất,
đạo của Khôn tạo thành người nữ.
Bị khoác lên nghĩa “Trọng nam khinh nữ”
Người đời sau lấy ý của tiết thứ Tư, hợp với
ý của tiết thứ Nhất, thành ra câu “nam tôn nữ ti”; sau này bị khoác lên nghĩa
“trọng nam khinh nữ”.
Tư tưởng cốt lõi của Kinh Dịch chính là nhấn
mạnh sự cân bằng, hài hòa của âm dương. Phàm là những gì không cân đối, không
hài hòa thì cuối cùng sẽ bị lệch khỏi quỹ đạo. Mà vạn sự vạn vật trong vũ trụ
cuối cùng đều phải quy về hài hòa và cân bằng. Sự cân bằng trong trời đất thể
hiện ở nhiều phương diện khác nhau; tựu chung lại là “có trật tự”, như tiết thứ
Nhất mô tả.
Trật tự nói trên có thể là càn khôn, có thể
là trời đất, có thể là cao thấp, cũng có thể là sang hèn. Nhưng không nhất
thiết cứ cao thì là sang, cứ thấp thì là hèn. Chu Dịch viết: “Địa thế khôn,
quân tử dĩ hậu đức tải vật”, đất ứng với Khôn (trong Càn Khôn), người quân tử
lấy đức dày để nâng đỡ vạn vật. Ở đây ví cách hành xử của người quân tử như mặt
đất; trong khi người quân tử là người nam, ứng với Càn, mà trời cũng ứng với
Càn. Do vậy, không thể vì nam ứng với Càn mà gán nam là sang quý; không thể vì
nữ ứng với Khôn mà gán nữ là hèn kém.
Người phụ nữ vẫn luôn được tôn trọng
Trong xã hội thời xưa, con cái mà dám xem mẹ
mình là hèn thì chính là bất hiếu, bất lễ. Tương tự như vậy, quan lại không có
ai dám xem thường Hoàng hậu cả. Hoàng đế lại cũng không thể đặt mình cao hơn
Hoàng thái hậu.
Sách“Thiên Tự Văn” ghi chép về các giáo lý
chính thống của Nho giáo có câu: “Ngoại thụ phó huấn, nhập phụng mẫu nghi” (Ra
ngoài nghe lời thầy, về nhà nhớ lời mẹ). Vậy lời mẹ dạy rất quan trọng, không
thua gì cha, có hạ thấp chút nào đâu.
3. “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”
Hầu hết chúng ta đều lý giải “Tam tòng” dựa
vào câu: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Cho rằng đó
nghĩa là người phụ nữ ở nhà thì theo (phục tùng) cha; lấy chồng thì theo (phục
tùng) chồng; chồng mất thì theo (phục tùng) con trai. Thực tế cách hiểu này chỉ
mới xuất hiện khoảng 100 năm trở lại đây mà thôi.
Thuật ngữ “Tam tòng” xuất hiện sớm nhất trong
“Nghi lễ” – cuốn kinh điển Nho gia có từ thời đầu nhà Hán (khoảng năm 200 TCN),
ghi chép lại những lễ nghi thời nhà Chu. Sách “Nghi lễ”, phần “Tang phục – Tử
Hạ truyện” viết rằng:
“Phụ nữ không mặc tang phục ‘trảm thôi’ hai
lần. Điều này nghĩa là gì? Phụ nữ có cái nghĩa tam tòng, không có đạo dùng
riêng. Do đó chưa lấy chồng thì theo cha; đã lấy chồng thì theo chồng; chồng
chết thì theo con (con trai).”
(Nguyên văn: Phụ nhân bất nhị trảm giả, hà
dã? Phụ nhân hữu tam tòng chi nghĩa, vô chuyên dụng chi đạo, cố vị giá tòng
phụ, ký giá tòng phu, phu tử tòng tử.)
Phụ nữ khi chưa lấy chồng, nếu cha mất thì
mặc tang phục trảm thôi (‘trảm thôi’ là loại trang phục nặng nhất và được dệt
bằng sợi đay thô nhất) trong 3 năm. Đối với người thân khác mất thì cũng mặc
tang phục giống theo người cha; tức lễ quy định người cha chịu tang người thân
kia thế nào thì phụ nữ chưa lấy chồng cũng theo như thế ấy. Đó chính là nghĩa
gốc của câu “Vị giá tòng phụ” (ở nhà thì theo cha).
“Tam tòng” là quy định về cách thức chịu tang
của người phụ nữ
Phụ nữ đã lấy chồng, khi chồng mất thì mặc
tang phục trảm thôi trong 3 năm. Đối với người thân khác mất thì cũng mặc tang
phục giống theo người chồng; tức là lễ quy định người chồng chịu tang đối với
người thân đó như thế nào thì phụ nữ đã lấy chồng cũng theo như thế ấy. Đó
chính là ý nghĩa gốc của câu “Ký giá tòng phu” (lấy chồng thì theo
chồng).
Sau khi chồng chết thì phụ nữ chịu tang đối
với những người thân khác giống theo con trai; tức là lễ quy định con trai chịu
tang đối với người thân đó như thế nào thì người phụ nữ cũng chịu tang như thế
ấy. Đó chính là ý nghĩa gốc của câu “Phu tử tòng tử” (chồng mất thì
theo con trai).
Như vậy, “tam tòng” là quy định về cách thức
chịu tang đối với người phụ nữ: Khi họ chưa lấy chồng thì theo cách thức của
cha; đã lấy chồng thì theo cách thức của chồng; còn sau khi chồng mất thì theo
cách thức của con trai. Vì thế cả cuộc đời người phụ nữ chỉ chịu tang với nghi
thức cao nhất một lần; tức mặc trảm thôi trong 3 năm chỉ một lần trong đời.
Một lần bị biến đổi nghĩa
Đến cuối thời Tây Hán, tức khoảng 200 năm sau
khi kinh sách “Nghi lễ” ra đời, thì những nghi lễ ấy đã được Đới Đức đem giản
hóa từ 130 chương chỉ còn 85 chương, đặt tên là “Đại Đới lễ ký”. Trong chương
“Bản mệnh thứ 18” sách “Đại Đới lễ ký” có viết rằng:
“Phụ nữ là người theo, đàn ông là chủ động.
Phụ nữ nghe theo lời dạy bảo của đàn ông, từ đó tăng trưởng hiểu biết về nghĩa
lý; do đó gọi là phụ nữ. Phụ nữ là người cúi đầu trước người khác, là do cái
nghĩa không được tự ý chuyên chế, có cái đạo tam tòng. Ở nhà thì theo cha; về
nhà chồng thì theo chồng; chồng chết thì theo con trai; không được tự ý theo sở
thích”.
(Nguyên văn: “Nữ giả, như dã, tử giả, tư dã.
Nữ tử giả, ngôn như nam tử chi giáo nhi trưởng kỳ nghĩa lý giả dã, cố vị chi
phụ nữ. Phụ nữ, phục ư nhân dã, thị cố vô chuyên chế chi nghĩa, hữu tam tòng
chi đạo: tại gia tòng phụ, thích nhân tòng phu, phu tử tòng tử, vô sở cảm tự
toại dã.”)
Xét theo ngữ cảnh đương thời thì cũng hợp lý
Như vậy, nếu như từ thời nhà Chu đến thời Tần
“tam tòng” là chỉ chế độ tang phục cho phụ nữ, thì đến thời Tây Hán đã phát
sinh biến đổi. Thời Tây Hán, một phần là do các lễ nghi có từ thời Chu nay đã
bị giản lược; một phần là do hầu hết phụ nữ đều không được đi học. Do đó họ không
được tự tiện tùy ý làm theo ý thích mà phải nghe theo lời dạy bảo và chỉ dẫn
của những người được học hành về đạo lý, lễ nghĩa, và nghi thức – đó là cha,
chồng và con trai.
Có lẽ đây là ý nghĩa được sử dụng lâu dài
nhất suốt gần 2000 năm. Đại đa số người hiện đại khi nghiên cứu về tam tòng thì
đều căn cứ từ tài liệu và ý nghĩa này. Có thể thấy, nếu ghép vào ngữ cảnh đương
thời thì thấy quy định ấy cũng hoàn toàn hợp lý; không có ý nghĩa cưỡng chế ép
buộc phụ nữ phải phục tùng nam giới vô điều kiện suốt cuộc đời.
Lần thứ 2 bị biến đổi nghĩa
Vậy thì, bắt đầu từ khi nào tam tòng có cách
hiểu như chúng ta thấy phổ biến hiện nay?
Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, các
nước thắng trận đã ký kết bản Hiệp ước Versailles. Trong đó có điều khoản
chuyển giao chủ quyền tỉnh Sơn Đông từ tay Đức sang cho Nhật Bản. Vào ngày 4
tháng 5 năm 1919 đã xảy ra Phong trào Ngũ Tứ, tức phong trào của sinh viên và
trí thức Trung Quốc đứng lên kêu gọi chống lại quyết định này. Sau đó phong
trào chuyển sang chống lại chính phủ Trung Hoa Dân Quốc và lan rộng khắp 22
tỉnh và 150 thành phố ở Trung Quốc.
Từ Phong trào Ngũ Tứ trở đi, một số người cầm
quyền đã bắt đầu bóp méo nghĩa ban đầu; giải nghĩa thành người phụ nữ cả đời
phải phục tùng và nghe theo đàn ông, không có bất cứ quyền lợi hay tự do gì. Họ
đã bịa đặt và giải thích lệch lạc ý nghĩa đích thực để kích động nữ giới đấu
tranh ‘giành quyền lợi’, ‘bình quyền’; mà thực chất là lợi dụng để che đậy mưu
đồ chính trị phía sau.
4. “Tử bất ngữ quái lực loạn Thần”
Nhiều người thích Nho giáo vì cho rằng Nho
giáo rất cận nhân tình, không xa rời thực tế, không viển vông thần bí. Có người
dựa vào câu nói “Tử bất ngữ quái lực loạn Thần” (theo cách giải nghĩa thông
thường là: Khổng Tử không nói chuyện quái lạ, bạo lực, phản loạn, Thần linh) mà
cho rằng Khổng Tử vô thần.
Tuy nhiên, cũng trong Luận Ngữ, có câu: “Kính
quỷ Thần nhi viễn chi”. (Kính trọng quỷ Thần nhưng tránh xa”). Vậy đối với Qủy
Thần Khổng Tử vẫn có lòng Kính trọng. Và hiển nhiên phải “tin” là có thì mới có
đối tượng để mà “kính trọng”; chỉ là người và quỷ thần không cùng một hệ nên
ông mới giảng “tránh xa”.
Và “tránh xa” ở đây không có nghĩa là ông
tránh xa quỷ thần. Chính ông cũng nói “quỷ thần có ở khắp nơi không đâu là
không có”, vậy thì biết tránh đi đâu? Ý của ông “tránh xa” ở đây là không bàn
luận đến vì theo ông “Chuyện sống còn chưa rõ nói gì tới chuyện chết”.
Trong “Luận ngữ – Thái Bá”: ” Khổng Tử viết:
“Vũ, ngô vô gián nhiên hĩ. Phỉ ẩm thực, nhi chí hiếu hồ quỷ Thần” (Đối với vua
Vũ thì ta không thấy có khuyết điểm nào. Ông ăn uống đơn giản, nhưng dốc sức hiếu
kính quỷ Thần). Vậy ăn uống đơn giản và dốc sức hiếu kính quỷ thần đối với
Khổng Tử là ưu điểm. Như vậy sao có thể nói bừa rằng Khổng Tử vô thần.
Nhiều hiểu lầm về Nho giáo do bị thêm thắt
vào
Có nhiều thứ không phải là của Nho gia nhưng
trong dòng lịch sử nhiều gia nhiều phái của Trung Hoa cổ đại thì Nho giáo rạng
rỡ và phổ biến hơn cả nên những điều thuộc về cổ xưa một chút người ta đều cho
là của Nho giáo rồi từ đó có cái nhìn sai lệch. Vả lại khi tìm hiểu về Khổng Tử
thì cũng nên đặt Ông vào bối cảnh xã hội thời Ông mà xét, như vậy mới công
bằng.
Những quốc gia ở Á Đông còn giữ được giá trị
văn hóa truyền thống và coi trọng những giá trị đạo đức của Nho giáo đều là
những nước rất phát triển như Nhật Bản, Đài Loan,… vậy thì xã hội không phát
triển cũng đâu phải tại Nho giáo; mà biết đâu là vì Nho giáo bị hiểu lầm, bị
bôi nhọ, bị lụi tàn nên mới ra nông nỗi như vậy.
Mời
nhấp chuột đọc thêm:
-
Các bài viết của
(về) tác giả Nguyễn Xuân Diện0
- Các bài viết của
(về) tác giả Đặng Văn Sinh0
- Các bài viết của
(về) tác giả Kiều Mai Sơn0
- Các bài viết của
(về) tác giả Đông La0
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ CHẤP CHỚI:
Trần Chí Cường giới thiệu
Tác giả: Yên
Bổ Nguồn: nguyenuoc
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
0 comments:
Đăng nhận xét