THƠ THÁI
HẠO BƯỚC ĐI
TRONG NHỮNG
CHẬP CHỜN TỈNH THỨC
Đọc thơ Thái Hạo chúng tôi
thấy bóng dáng “nghệ thuật vị nghệ thuật” tới lui lấp ló. Những năm 30 - 40 của
thế kỷ XX, chúng ta đã có sừng sững những tượng đài “nghệ thuật vị nghệ thuật”,
cho dù sau này tiếng nói xã hội do lực đẩy của cách mạng đương thời lên cao mà
có khi những người trong phong trào “nghệ thuật vị nghệ thuật” đã phải tự lừa
dối mình để quay ra phủ nhận những thành tựu ấy, nhưng rồi cuối cùng thì nó vẫn
cứ là nó, cho dù nó đã từng nhiều lần bị từ chối và vùi dập. Đến nay, nói gì
thì nói, đỉnh cao nghệ thuật của Hoài Thanh & Hoài Chân vẫn chỉ là một “Thi
nhân Việt Nam” mê say đắm đuối; chót vót tiếng thơ Xuân Diệu vẫn chỉ
quẩn quanh “Gửi hương cho gió”, “Thơ thơ”; đỉnh cao nghệ thuật viết
văn ám ảnh độc giả của nhà văn Nguyễn Tuân vẫn chỉ là “Chữ người tử tù”, “Tóc
chị Hoài”… Cho nên, tương tự như vậy, chúng tôi thiết nghĩ cho dù chúng
ta có thích hay không thì thơ tự do văn xuôi Thái Hạo cứ vẫn tồn tại, nó xuất
hiện như một sự lạ hóa khiến cho chúng ta có cảm giác bực bội và chính cái sự
lạ ấy nó mới là chính nó thì chẳng lẽ chúng ta lại không cảm thấy nó đáng trân
trọng hay sao? Và đấy là một sự thật hiển nhiên mà cho dù chúng ta có thể giễu
cợt mỉa mai thì nó vẫn là nó, không khác.
Nói cho công bằng thì tiếng
thơ Thái Hạo không hẳn chỉ là lời thơ “nghệ thuật vị nghệ thuật” thuần túy, mà
tiếng thơ anh khi vi vút đó đây còn thảng hoặc có cắp theo những lát cắt “nghệ
thuật vị nhân sinh” nên câu chữ anh cứ oằn cong vị đời mà khó vút bay vượt
thoát cho hẳn vào khung trời “nghệ thuật vị nghệ thuật” được. Nó cứ phải là là
bay theo chân cuộc đời mà kể mà nhắc mà khắc khoải. Căn cốt biểu tượng và khí
vị đồng thoại ôm lấy nhau trong thơ Thái Hạo đã tạo ra một kiểu suy tư ám ảnh.
Những suy tư ám ảnh ấy lại được chắp thêm đôi cánh của điệp ngữ và điệp chi
tiết nên sự ám ảnh đó càng như được tô đậm hơn. Bài thơ “Trường ca về những con chuột”
là một ví dụ tiêu biểu cho lối thơ ấy của tác giả. Hình ảnh con quạ và lũ chuột
nhiều lần được tác giả nhắc lại trong những cung bậc cảm xúc và sự phát triển ý
tưởng ở những tầng bậc cảm thức khác nhau.
Nói như thế để thấy rằng
Thái Hạo luôn luôn cho thơ anh bay theo trí tưởng tượng của riêng mình, anh
phóng câu chữ thơ mình lướt theo cái lối mờ ảo để tìm cho được một sự trú ngụ
tâm tình trong thế giới tồn tại đầy rẫy những âu lo này. Âu đó cũng là tiếng
nói tự do thôi thúc khát cháy mà ở tất thảy chúng ta, trong mỗi người viết lại
chẳng ước mơ? Bởi vậy, câu chữ của Thái Hạo cứ thế ngọ nguậy mà bay lên, mà
vượt thoát, mà tung hê đến vô tận. Không gian để thi ảnh Thái Hạo cọ xát là vô
cùng, đôi khi cắt rời chắp vá đấy nhưng lại mang sức gợi tả lớn về thời cuộc.
Chính vì điều này, đọc thơ Thái Hạo có khi người ta bị rơi vào cảm giác mệt mỏi
bởi như đang bị nghe những kể lể miên man cũng là điều dễ hiểu. Hơn nữa, thói
quen đọc thơ theo cảm tính và buộc phải dồn ý cho đến chật căng trong câu chữ
kiểu truyền thống đã làm khổ cho độc giả khi đọc thơ Thái Hạo. Khi không rũ bỏ
được tâm thế cũ để sẵn sàng bước qua lằn ranh đỏ của sự giới hạn trong khi đọc
thì chúng ta khó lòng chấp nhận được cái mới, lúc đó thì chao ôi, cái mới chỉ
là những “quái thai, dị hợm” không
thể chấp nhận sẽ tất yếu kéo theo ước mơ hợp khẩu vị từ cái mới thì chỉ là
chuyện không tưởng.
Những mảng vỉa hiện sinh
hiện ra trong thơ Thái Hạo đã được tác giả kể lại bằng một vỏ ngôn ngữ sần sùi
nhám lạnh, bởi thế thơ anh không có chất mượt mà êm ái du dương dẫn dụ. Sự sần
sùi ấy lại khoác thêm cho dày lên bền bệt dai dẳng một tấm áo quê mùa làng thôn
nên dễ làm người ta ngứa ngáy nhột nhạt. Nhưng kì thật, những hiện sinh kia cũ
mà không cũ, hình ảnh thâu tóm liệt kê hàng hà sa ấy không có cái giọng ướt át
dễ mủi lòng, nó cứ lững thững đi ra từ kí ức buộc phải thế, ắt phải thế nên khó
tránh khỏi những va chạm, có lẽ tác giả chấp nhận sự đụng chạm kia để thu về
cho mình rất nhiều những kí ức đôi khi người ta rất muốn quên chăng? Chúng tôi
thiết nghĩ, đấy cũng là một sự độc đáo của người viết dám dấn thân.
Thơ Thái Hạo là tiếng thơ
khát khao tự do dũng mãnh và rát bỏng. Tiếng nói ấy khác với kiểu phát ngôn
trong thơ xưa nay, nó đặc quánh lại rồi vùn vụt bay lên như ngọn lửa cứ tỏa mãi
và tỏa mãi hơi nóng, nó không khỏi làm người ta ngứa ngáy giật mình: “Mùa hè đi qua lu nước/ đám mây rớt lại/ mặt
trời rớt lại/ những dòng sông rớt lại/ những dòng người mùa đông năm cũ/ ùn ùn
kéo về/ trong hình dáng của loài ễnh ương, của loài ve sầu/ của loài đom đóm/
trong hình dáng của những chiến binh trần truồng/ áo vải/ cháy tan da thịt/
những chiến binh kiêu hùng cụt đầu/ vịn vào đuôi đom đóm/ đi tìm những bàn tay,
bàn chân/ đi tìm con mắt rớt trong một bụi cỏ lau/ Những chiến binh mù lòa gặp
tôi/ họ khóc/ đồng bãi và những dòng sông đã cạn/ cổ họng bốc cháy/ họ thèm
nước trong chiếc lu của tôi/ chiếc lu đựng xác mùa hè/ họ uống cạn cả những con
loăng quăng/ uống cả bầu trời/ 50 năm họ chưa thấy bầu trời/ 50 năm tôi/ chưa
thấy bầu trời/ chưa thấy cánh buồm lồng lộng dưới trăng/ 50 tôi chưa thấy mặt
trời/ chỉ có lửa đổ từ quả cầu đốt cháy/ chỉ thấy lưng mẹ cong như bầu trời
dưới nắng/ mắt bố mù rồi/ trên đồng thuốc sâu/ những em bé còi cọc/ những cô gái
và/ những chàng trai chết cóng/ trong thùng xe lạnh/ xứ người/ hoang vu/ Những
cánh đồng nhiễm mặn/ cỏ năn và cói lác mọc đầy/ con cáy băng qua cánh đồng nứt
toác/ rụng đôi càng trên những vực đồng khô/ Con cáy đi tìm một dòng sông”
(Trường ca mùa hè).
Khi chúng tôi đọc thơ Thái
Hạo thì còn thấy ở anh có những ám ảnh tách rời. Hiện hữu hiện ra chỉ chớp
nhoáng còn phần nhiều ở phía sau là giành cho những trải dài liên tưởng bởi sự
ám gợi của thi ảnh: “Em đến thăm anh sen
nở trong hồ cũ/ Xanh lại tháng ba/ Một vùng mất ngủ” (Rong hồ);
Thơ Thái Hạo có lúc là những
chắp nối đứt gãy của hư ảo và kí ức đan cài. Đôi lúc làm người ta hụt hẫng
ngoái đầu trong miên man những cảm thức mơ hồ dẫn dụ: “Ta đun trà cho duỗi những búp nâu/ Xanh lại lòng chén/ Rạn men” (Mưa).
Nhiều khi thơ Thái Hạo là
những cảm xúc đầm đẫm chất thế sự nhưng vẫn thấy như hao khuyết một ánh nhìn
hiện sinh. Điều mâu thuẫn ấy ngồn ngộn trong thơ anh. Tác giả đào xới lại những
kí ức khô cằn rát bỏng, ở đó tuy giọng kể có phần lạnh lùng nhưng đọc lên không
khỏi nhức mình bởi sự liên tưởng và ám ảnh.
Thơ Thái Hạo đôi lúc làm cho
người ta phải ngoái đầu và kiễng chân bởi sự động đậy của con chữ. Câu chữ Thái
Hạo có bóng dáng sự buồn miên viễn trong cái thế thập thững nhấp nhô. Thơ Thái
Hạo lôi quá khứ ngoằn nghoèo theo, và kéo tương lai bập bõm về. Nên giọng thơ
anh vừa đau đáu vừa rón rén mơ hồ quay quắt. Anh rứt một chút chớp nhá hiện
sinh, cầm hú họa theo những vạt kí ức và đầm đẫm bước đi trong mịt mù quánh
đặc. Cho nên nhân vật trữ tình trong thơ anh là sự kết tụ của rất nhiều những
cảm thức đan cài, đa sắc đa thanh: “Tôi
ngồi trong tiếng kèn đêm/ thổi linh hồn một thiếu niên/ vừa đi qua cuộc đời/
trên đất nước tôi/ Tiếng kèn buốt vào đêm/ đông/ sừng sững/ tội ác/ và nhục
hình/ đòn roi/ quất vào tuổi thơ/ Tôi muốn viết một bài thơ thật đẹp về con
người/ nhưng con người đã chết”
Một điểm có thể gọi là đặc
trưng nổi bật ở thơ Thái Hạo là kiểu nói thơ từa tựa hiện tượng Đen Vâu - ca
nhạc sỹ đang nổi đình nổi đám trong vấn đề hát nhạc ráp trên mạng. Sự ghép vần
kiểu nói nhạc và ngồn ngộn chất đời thực được ghép lại nằm kề nhau đã được Đen
Vâu đẩy lên thành đại chúng. Trước đó, hình như chưa có ai làm được điều này.
Và chúng tôi thấy thấp thoáng dáng dấp ấy trong thơ Thái Hạo. Có điều, kiểu nói
thơ của Thái Hạo chưa thể đẩy lên mức độ đậm đặc đại chúng được bởi bóng dáng
nói thơ quá đậm chất tự do văn xuôi nên vô tình đưa độc giả đến chỗ lạ lẫm khó
gần, vốn dĩ đã xa lạ thì nay lại càng như xa lạ hơn. Thành thử thơ Thái Hạo bị
xem như lạc lõng cũng là điều dễ hiểu. Kiểu nói thơ ấy đôi khi rất gợi và đầy
những ám gợi: “Ông đã ném chiếc máy quay
ở một cái hố/ cho những mảnh phim văng ra/ Hai con mắt tôi ướt sũng/ Cánh đồng
hoa cúc vàng/ Đốt cháy mắt tôi” (Chuyến đi của hoa cúc). Bài thơ là hành
trình ám thị về tự do. Hai chữ tự do được viết hoa là một điểm nhấn của ước mơ.
Ước mơ ấy bay lên trong nhấp nhô những hình ảnh. “Hai con mắt tôi bùng lên/ thành đám lửa/ đốt cháy những đám ghẻ trên
thân thể tôi/ đốt cháy những cái móc sắt/ đốt cháy lời nguyền/ Đám lửa bốc cao/
thiêu rụi những bức tường xi măng/ những ngai vàng chảy ra thành chất lỏng/ rồi
tan thành tro bụi/ Những con cò và/ những con sếu bay về/ đậu trên những cây
tràm hoa vàng/ tiếng kêu lồng vào lòng đất/ dâng nước ngập đồng bãi/ cá tôm bay
tung trên sóng/ ánh bạc lóa mắt/ Những người dân da thịt cháy đen đứng múa trên
đồng/ những hàm răng trắng lóa/ cười như những mảnh thủy tinh dưới mặt trời/
Nước dâng lên cuồn cuộn/ cuốn phăng những vị ác thần mình người đầu hổ/ cuốn
phăng những những lời nguyền/ và những tên bạo chúa/ Hoa nở khắp bờ bãi/ những
trái bần nhảy múa trên mặt nước/ Cánh đồng hoa cúc từ lòng đất vụt dậy/ Vàng
ươm xứ sở/ Tiếng hát rền trên mặt đất/ trên mặt sông/ rền trên mặt biển/ thổi
hoa TỰ DO bay dưới mặt trời” (Hành trình của hoa cúc).
Thơ Thái Hạo đa phần là thơ
tự do văn xuôi nên giọng thơ nghiêng nhiều về tự sự. Kiểu kể lể có phần dài
dòng ấy dễ khiến độc giả khó giữ được sự kiên nhẫn khi đọc thơ anh. Song, nếu
thiếu giọng kể lể miên man ấy thì sẽ không thể là tiếng thơ Thái Hạo. Chính vì
thế thơ anh kén độc giả.
Nói tóm lại, đọc thơ Thái
Hạo mà theo kiểu tư duy thơ truyền thống thì không nhảy dựng lên la làng mới là
chuyện lạ. Thơ Thái Hạo không hướng đến số đông cũng không nhằm khai thác triệt
để cái tôi như ta thường thấy mà thơ Thái Hạo muốn hướng tới là một cuộc sống
thoát li với đôi cánh vút bay qua của “nghệ thuật vị nghệ thuật” trong hình
thức diễn ngôn là thơ tự do văn xuôi rất rõ. Cho nên, thơ anh rất nhiều những
lát cắt của giấc mơ, của kí ức, của một hiện sinh vùng thoát cố bay ra ngoài
bên kia hiện thực, song lại vẫn bị đôi chỗ hiện thực nó hút lấy, có khi bị hấp
lực hiện thực ghị níu và đày đọa. Bởi thế, giọng thơ anh là giọng thơ mỏng về
độ mượt mà con chữ đầy đặn về những diễn ngôn cắt rời, chắp nối. Tiếng thơ ấy
lặng lẽ như một dòng chảy ngầm nhưng lại đẫm đầy những nét trữ tình trở trăn
của một cuộc sống thoắt bay, thoắt đậu, thoắt đau, thoắt ước…
Mời nhấp chuột đọc thêm:
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ
QUÊ NGHÈO, thơ của Đặng Xuân Xuyến:
*.
Sài Gòn ngày 15/5/2022
KHANG QUỐC NGỌC (tên thật
Nguyễn Ngọc tân)
Địa chỉ: Chung cư 1050, đường Phan
Chu Trinh,
phường 12, quận Bình Thạnh,
thành phố Sài Gòn.
Email: nntantvt@gmail.com
Điện thoại: 090.742.54.76
.............................................................................................................
- Cập nhật
theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 01.02.2023.
- Ảnh minh
họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết
không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
Không tiêu hóa nổi cái gọi là "thơ" của Thái Hạo
Trả lờiXóa"Thơ" này mà ông Khang Quốc Ngọc cũng đẩy lên tận mây xanh thì bái phục ông quá giỏi
Trả lờiXóa