CÓ “SÓNG CUỒNG”
TRONG THƠ TRẦN MẠNH
HẢO?
*
Lời Nói Đầu: (Tác giả Phạm Đức Nhì)
Bạn bè chuyển cho bài viết của nhà thơ Chu Mộng Long nói về thơ
Trần Mạnh Hảo. Chỉ riêng cái tựa của bài viết cũng dễ làm những người yêu thơ
giật mình: Trần Mạnh Hảo: Sóng Cuồng Xô Dạt Đền Thơ. Ghê gớm quá! “Ấn
Tượng” quá!
Muốn viết mấy dòng bình luận nhưng gặp lúc “vợ đẻ con đau nhà
nước ngập” nên cứ nấn ná hoài. Mấy bữa nay con cái lấy “vacation” (phép) đưa
các cháu đi chơi xa nên được ở nhà thảnh thơi, chợt nổi hứng, lấy máy ra gõ lóc
cóc mấy đoạn góp vui với bạn bè yêu thơ.
Phải công nhận bài viết của nhà thơ Chu Mộng Long vóc dáng bề
thế (2552 chữ), được viết trong lúc hứng khởi nên tuy là văn, mà lại khá nhiều
cảm xúc, đọc cũng đỡ ngán. Đáng tiếc, có một chút hiểu lầm “nho nhỏ”.
Hiểu Lầm Chữ “Sóng” Trong Thơ
“Sóng” trong thơ có ý nói đến sức rung động, độ dạt dào
của cảm xúc, hồn thơ mà bài thơ khơi gợi được trong lòng độc giả, chứ không
phải - và không đến từ - sức nặng, độ sâu sắc của câu chữ, ý tứ.
Tác Giả Hình Như Không Biết “Sóng” Phát Sinh Từ Đâu
Đúng ra, phải đọc cả bài mới biết tứ thơ có dòng chảy hay không?
Có dòng cảm xúc hay không? Có “sóng sau dồn sóng trước” hay không? Có
tạo được cao trào hay không? Cảm xúc và hồn thơ trong bài thơ có mạnh hay
không?
Muốn biết sông có sóng hay không, tốt nhất nên quan sát mặt
sông, xem nó có dòng chảy hay lững lờ, phẳng lặng? Nếu có dòng chảy thì dòng
chảy yếu, trung bình hay mạnh? Nếu thấy dòng chảy mạnh mới để ý xem có sóng
không? Cường độ của sóng đến mức nào?
Không phải cứ múc vài thùng, vài phi nước từ dòng sông lên nhìn
ngắm, xem xét rồi có thể phán “Con sông này sóng mạnh lắm, có thể làm lật cả
thuyền câu”.
Hậu Quả Của Sự “Không Biết”
Bài viết của ông Chu Mộng Long mang phong cách giống như bình
thơ không bàn thi pháp
Bình thơ không bàn thi pháp là chỉ bình tán ý tứ và lờ tít phần
kỹ thuật thơ (thi pháp). Bình thơ như thế thì dưới mắt người bình bài thơ chỉ
là một bản văn – không hơn không kém. Nhà bình thơ đã cầm dao đâm chết bài thơ
trước khi cầm bút viết lời bình. Dù vậy, bài thơ cũng được phân tích lớp lang,
hết đoạn này đến đoạn kia, để cuối cùng độc giả có thể nhận biết tứ thơ, thế
trận của bài thơ hợp lý, nhất quán hay “đoạn trước kể chuyện gà, đoạn sau
bàn chuyện vịt”.
Ông Chu Mộng Long không những không bàn thi pháp mà còn châm
biếm việc áp dụng những “phương tiện thẩm mỹ” của thi pháp khi bình thơ.
Ông nói “Nếu thơ ông (Trần Mạnh Hảo) vào sách giáo
khoa hay đề thi với những câu hỏi đọc hiểu lạnh lùng theo cách tra vấn phạm
nhân: ‘Bài thơ thuộc thể thơ gì? Đoạn thơ sau nói gì? Chỉ ra các biện pháp tu
từ’…, chẳng khác gì giết hại thơ ông”.
Theo tôi, nếu đầy đủ thì sau 3 dấu chấm (…) nên viết thêm ‘Cách
gieo vần ra sao? Số chữ trong câu cố định hay thay đổi? Với biên độ rộng hay
hẹp? Tứ thơ phân mảnh đứt đoạn hay nhất khí, liền mạch? Có mô gò cản đường? Có
vờn bóng giữa sân? Tâm thế của thi sĩ trong lúc làm thơ ra sao?’
Nếu không trả lời những câu “tra vấn” đó thì làm sao ông Chu
Mộng Long biết bài thơ có dòng chảy hay không? Có “sóng sau dồn sóng trước”
hay không? Cường độ của “sóng” mạnh đến mức nào? Có thể trở thành
“Sóng Cuồng Xô Dạt Đền Thơ”?
Phương Cách Chứng Minh Không Đúng
Chính vì không biết “sóng (trong thơ) phát sinh từ đâu”
nên ông Chu Mộng Long đã chọn phương cách chứng minh rất kỳ quặc.
Mỗi bài ông chỉ “móc” ra một hai câu, nhiều lắm là vài ba câu.
Tập thơ hơn 500 bài mà ông chỉ chọn trích dẫn 101 câu – 687 chữ (1) mà cũng
chẳng cho biết là câu nào trích dẫn từ những bài thơ nào. Cũng phải công nhận
là ông có con mắt tinh đời. Hầu hết những câu thơ ông chọn đều mang đậm nét đẹp
văn chương, câu cú chắc gọn, ngôn ngữ cao sang, ý nghĩa sâu sắc và mạnh bạo.
Nhưng vì bị tách ra khỏi bài thơ nên khô cứng, lạc lõng, có thể khiến cái “phần
lý trí” của độc giả vỗ tay khoái chí chứ không hề khơi gợi được nơi họ một chút
“sóng tình” nào.
Vì thế nhóm chữ “Sóng Cuồng Xô Dạt Đền Thơ” từ cái tựa
của bài viết không phải chỉ là sự phóng đại quá lố mà có thể nói đó là kết quả
của việc “nhắm mắt nói liều” để “nâng” Trần Mạnh Hảo cho tới bờ, tới
bến.
Với Nhà Thơ Trần Mạnh Hảo
Tôi có cảm tình với lối viết (cả văn lẫn thơ) của Trần Mạnh Hảo.
Ông khen ra khen, chê ra chê chứ không vừa “ấy” vừa run như nhiều người khác.
Ông cũng không chịu gò bó trong “gia quy, lệ làng, phép nước” mà rất
mạnh bạo trong những bước chân khai phá vào vùng đất mới, kể cả những vùng đất
cấm mà nhiều người né tránh.
Tuy nhiên, với văn thì tôi không dám nói, nhưng với thơ thì tôi
với ông có khá nhiều điều khác biệt trong việc thẩm định giá trị nghệ thuật –
và đặc biệt là hướng đi - của thi ca.
Theo tôi, thơ Trần Mạnh Hảo còn khuyết điểm, quá đậm chất trí
tuệ, nhẹ chữ tình, giá trị nghệ thuật chưa và không thể xứng đáng với
những lời tâng bốc vô căn cứ, thiếu cơ sở lý luận văn học của ông Chu Mộng
Long.
Mời mọi người đọc bài viết sau đây để thông cảm hơn.
VÀI NHẬN XÉT VỀ BÀI THƠ “SÔNG LAM” CỦA TRẦN MẠNH HẢO
http://tranmygiong.blogspot.com/2023/07/vai-nhan-xet-ve-bai-tho-song-lam-cua.html
Kết Luận
Như đã nói ở trên, do ông Chu Mộng Long phạm hai lỗi “nho nhỏ”
là: 1/ Hiểu Lầm Chữ “Sóng” và 2/ Không Biết “Sóng” Phát Sinh Từ Đâu nên
đã dẫn đến việc sử dụng hai chữ “Sóng Cuồng” sai lầm và nguy hiểm.
Tôi vì thơ nên bước vào góp mấy lời nhận xét. Mong nhận được chỉ
điểm của các bậc cao nhân trưởng thượng và cả những bạn trẻ yêu thơ. Bởi với
thơ thì “gừng càng già càng cay”, nhưng cũng nhiều khi “tài không đợi
tuổi”.
---------------
CHÚ THÍCH:
1/ Những Câu Thơ Được
Trích Dẫn Trong Bài Viết Của Ông Chu Mộng Long
Tóc bạc cả nồi cơm/ Ta
biết làm gì với chòm râu rơm rác/ Với vòm trời úp xuống như nơm
Khi con vừa rời lòng
mẹ/ Con đỏ hoe như một cục bùn non”,
“Sông Hồng lụt cả
ca dao/ Con cò bị bão dạt vào lời ru
Con mới hiểu vì sao hạt
thóc/ Lại mang hình con mắt mỏi mòn trông
Con bò thông minh hơn
nhà bác học/ Thơ phú nào cũng rặt bọn ăn theo
như thể Hai Bà Trưng/ Nhảy
từ đê tuẫn tiết/ Đến nay còn chưa rơi xuống lòng sông”!
Thơ hay có thể bị vua
bắt/ Trăng nhé nghìn đêm bạc tiếng gà
Ta thương triều đình
trong tay nghịch đảng/ Thuyền độc mộc quốc gia bơi một mái chèo/ mái chèo mang
hình lưỡi kẻ nịnh hót/ Chó kiêu ngạo nhảy chồm lên bàn độc/ Muốn yên thân phải
sống thật đói nghèo
Đến ngôi thiên tử còn
rơm rác/ Đầu rớt mà thơ vẫn tự trào
Cái xứ sở toàn đeo mặt
nạ/ Con cáo ngồi thương đứt ruột con gà
Ôi xã tắc/ Con đường
nào cũng dẫn đến pháp trường/ Bàn tay chỉ đường nào cũng bàn tay đao phủ”...
Có phải mẹ Âu Cơ đã đi
vòng trái đất/ Để làm chỗ khai sinh con Lạc cháu Hồng/ Mẹ đã tìm ra dải đất
hình tia chớp/ Chọn vùng tâm bão để sinh con
Khi con vừa rời lòng
mẹ/ Con đỏ hoe như một cục bùn non/ Có phải mẹ nhặt con lên từ đáy sông Hồng/
Mà hạt phù sa bật khóc
(Sông) vắt kiệt lòng
mình nuôi đất cát
Con cò mặc áo tơi đi
học/ Cá sông Lam còi cọc đổ mồ hôi/ Gió hào kiệt thổi xơ Nghệ Tĩnh/ Cá gỗ nuôi
lớn những thiên tài/ Trời hào phóng mây trắng/ Đất tằn tiện ngô khoai/ Đến cỏ
dại cũng mọc thành chữ nghĩa/ Đồ Nghệ sông Lam dạy biển cả học bài.
Sông Mã/ Chảy như chạy
trốn núi rừng/ Sông mải miết một đời Thanh Hóa/Để Nguyễn Hoàng đi mở đất phương
Nam
Cái dải đất sông hoá
rồng chín khúc/ Hai đầu xoè những mũi đất - mũi lao/ Núi mang dáng ngựa phi voi
phục/ Báo ngủ rừng sâu đợi giặc vào
Ghen tị mãi với chim và
chuột/ Sao chúng mày không phải thờ vua?
Đội ơn vua ban cho tã
lót/ Để cháu khỏi bị chém trần truồng trên thớt/ Ôi con đường ba họ ta đến nơi
thọ hình/ Sao dài hơn đường mười năm Lam Sơn phò Thái Tổ
Sóng Nam Đài trằn trọc
cát Thanh Hiên/ Ngàn Hống thở hồng trần bay lục bát/ Thúy Kiều ơi bầm nát gió
Tiên Điền
trả thanh bình điệu cho
Đường Minh Hoàng/ Gió cũng bị đày đi Dạ Lang
Cổ ta vừa với gông vua
lắm/ Đố vua gông nổi mùa thu vàng
vỗ nát tì bà máu chảy/ Cưới
tiếng đàn làm vợ góa hồn ma
nghe hàng triệu lá phổi
đang hắt ra cơn gió cuối cùng/ Gom thành bão trên đất này than khóc
Cỏn con một sợi lông
mày/ Mà đem cột trái đất này vào anh
Liều mình lao xuống yêu
thương/ Ai hay dưới đáy đoạn trường vầng trăng
Mắt ta đêm nay khác nào
hai giếng nước/ Nước Việt ơi/ Nước Việt mãi hai hàng
Gió kinh thành có về
Tức Mặc/ Bẻ giùm ta ít hương cau/ Nhặt giùm ta vài tiếng ếch/ Ta nghe khi tới
xứ người
Bút đào huyệt giấy mà
chôn mình dần
Thương anh sống đời vô
sản/ Chết xuống vẫn làm ma vô sản
chết rồi còn giơ tay
cầu cứu/ chết rồi còn quờ tay tìm lối thoát", "biển không nhận/ bờ
không nhận/ những trang sách không nhận/không ai nhận những con người
Ta đã chết ở hai đầu
trận tuyến/ Bảy mươi ơi số phận biến đâu rồi?/ Từ trong mộng hồi quang xin tận hiến/
Bắt đền em ngấu nghiến tuổi hai mươi”, "Ôi đất nước/ Anh đã yêu đến băng
hoại cả đời”
Trái tim đập không một
ai nhìn thấy/ Ở ven trời Tây Bắc có Lai Châu/ Hoa ban nở thành người con gái
Thái/ Đám mây bay trong thau nước gội đầu
Tập thơ hơn 500 bài, 500
trang
Cả bài viết: 2552 chữ
Thơ được trích dẫn: 101
câu, 687 chữ
Mấy lời nói thêm:
Nếu ông Chu Mộng Long,
hoặc bất cứ ai đọc bài viết này, tìm được một bài thơ nào đó của Trần Mạnh Hảo
có “Sóng Cuồng Xô Dạt Đền Thơ” cứ đưa vào phần bình luận.
Tôi tin rằng chúng ta
sẽ có một cuộc đối thoại văn chương lý thú.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết về
Chuyện làng văn0
- Các bài viết của
(về) tác giả Phạm Đức Nhì0
- Các bài viết của
(về) tác giả Trần Mạnh Hảo0
- Các bài viết của
(về) tác giả Chu Mộng Long0
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 2l
Mời nghe Khề Khà Truyện đọc truyện ngắn
CHUYỆN CỦA GÃ KHỜ của Đặng Xuân Xuyến:
*.
PHẠM ĐỨC NHÌ
Địa chỉ:
Email: nhidpham@gmail.com
.............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên
bản tác giả gửi qua email ngày 24.07.2023.
- Ảnh minh họa cho bài
viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể
hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
bài viết phân tích rất sâu sắc
Trả lờiXóa