ĐỌC - HIỂU BÀI THƠ BÓNG CHỮ CỦA LÊ ĐẠT - Tác giả: Lê Như Bình ; Nguyễn Toàn Thắng giới thiệu

Leave a Comment

 


ĐỌC - HIỂU BÀI THƠ

BÓNG CHỮ CỦA LÊ ĐẠT

*

BÓNG CHỮ

 

Chia xa rồi anh mới thấy em

Như một thời thơ thiếu nhỏ

Em về trắng đầy cong khung nhớ

Mưa mấy mùa

mây mấy độ thu

 Vườn thức một mùi hoa đi vắng

Em vẫn đây mà em ở đâu

Chiều Âu Lâu

bóng chữ động chân cầu

 

1- Bóng chữ    

Thật khó vận dụng cách đọc thơ truyền thống, để giải nghĩa tên của bài thơ. Lâu nay, phần lớn tên thơ thường chứa những thông điệp tương đối dễ nhận biết. Nhiều trường hợp, chỉ cần đọc lên, cũng có thể nói trúng nội dung của bài. Qua cầu Hàm Rồng cảm tác (Tản Đà): những cảm xúc, rung động, suy tư… khi đi qua cầu Hàm Rồng. Đây mùa thu tới (Xuân Diệu): cảm giác, tâm trạng háo hức, trong thời khắc đất trời chuyển thu. Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa (Nguyễn Duy): nỗi nhớ thương, biết ơn, sự thành kính của người con đối với người mẹ đã khuất… Còn ở đây rất khó tìm nghĩa theo cách ấy. Nếu đặt bóng trong trường nghĩa “vùng không được ánh sáng chiếu tới bị một vật bị che khuất”(1) thì chỉ thấy các cấu trúc: bóng đêm, bóng mây, bóng tối, bóng cây, bóng mát… Hoặc trong trường “hình của vật trên nền hoặc do phản chiếu” (2) cũng chỉ có: bóng người, bóng hoa… (trên vách, dưới nước, trong gương…). Nói chung, bóng chữ rất mới rất lạ. Khó tìm ra “cái được biểu đạt” cho “cái biểu đạt” ấy.

Cũng theo truyền thống: tìm ý nghĩa của tên bằng cách khảo sát văn bản bài thơ. Dễ thấy dung lượng Bóng chữ rất ngắn, chỉ 7 câu với 51 chữ, tính cả tên. Không bằng một bài thơ thất ngôn bát cú. Nhưng dù đọc kĩ cũng chỉ thấy bóng chữ được nhắc lại hai lần (ở cái tên và ở câu cuối), khó chỉ ra mối liên hệ về nghĩa với tên bài. Hầu như nghĩa luôn trong tình trạng bị che giấu. Theo cách lấy “tiểu sử tác giả” và “hoàn cảnh lịch sử xã hội” để giải thích, cũng không hiệu quả. Rõ ràng ở đây có tình trạng “li thân” giữa chữ và nghĩa.

Theo hướng khác, đặt trong quan hệ khác nghĩa, đối lập: hình / bóng. Hình được hiểu là hình hài, thể xác, vật thể – cái được phản chiếu thành bóng (Có thành ngữ như hình với bóng). Cho phép suy luận: cái bóng, chỉ là phần nổi, được nhìn thấy của “tảng băng trôi”. Còn yếu tố trung tâm là hình, phần chính của tảng băng, với cái khối lượng đồ sộ, đang chìm trong đại dương mênh mông. Đó cũng chính là lời thách đố dành cho độc giả. Như vậy, nếu chỉ bó hẹp trong cấu trúc của 51 chữ ấy, thì khéo lắm chỉ chộp được cái bóng, một kết quả ảo mà thôi. Phải chăng chìa khóa để đọc Bóng chữ là: đuổi theo bóng để bắt hình. Và đọc Bóng chữ là việc truy tìm cái phần hồn, phần xác bí ẩn, nhưng hết sức quý giá của bài thơ. Trong khi người thám hiểm, lên đường chỉ có trong tay cái bóng làm bằng vật liệu gồm 51 chữ.

Ta thử dùng chìa khóa ấy vượt qua cửa ải chính – tên bài thơ, để tham dự vào một cuộc chinh phục bảy cánh cửa – bảy câu còn lại. Hi vọng người đọc sẽ có một cuộc chơi, với những cảm giác phiêu lưu, chiến thắng đầy hứng thú.

 

2- Chia xa rồi anh mới thấy em 

Câu thơ được cấu tạo hai phần: Chia xa rồi / anh mới thấy  em. Về ngữ pháp, rất chỉnh. Có chủ (anh), có vị (mới thấy em), có trạng ngữ (Chia xa rồi). Dễ nhận thấy cấu trúc kiểu câu: Nguyên nhân / điều kiện – kết quả. Thoạt nhìn, không có gì là đánh đố, nội dung khá rõ: (Vì / do ) chia tay, (cho nên) anh mới thấy em. Câu thơ được diễn đạt như lời nói thường, có vẻ “ít” chất thơ.

Trong phần sau: anh mới thấy em, sự khó hiểu ở chữ thấy. Thấy là kết quả của hành động nhìn. “Nhận biết được bằng mắt nhìn”(3). Mà mắt người chỉ có thể nhìn thấy đối tượng trong một giới hạn nào đấy, còn khi đã xa rồi, nghĩa là khuất tầm mắt thì làm sao mà thấy được. Trường hợp này chỉ chấp nhận thể phủ định: anh chẳng thấy em. Còn khẳng định, thì có vẻ vô lí.

Tuy nhiên, ngẫm ra, chuyện thấy khi chia xa chỉ vô lí khi tỉnh thức. Còn trong giấc mơ, con người không chỉ nhìn thấy mà có thể cùng ăn uống, nói chuyện… trực tiếp với người khác. Hơn nữa còn được mục sở thị nhiều cử chỉ, hành động rất mới của những người đang cách khá xa, thậm chí đã chết. Chắc hẳn đây là câu thơ nửa tỉnh, nửa mê. Hay nói cách khác, người tỉnh nói về giấc mơ của mình.

Còn có cách hiểu dễ chấp nhận hơn: thấy là kết quả nhận thức cảm nhận đối tượng nào đấy bằng tâm hồn và ý thức. Có nhiều từ cùng trường nghĩa ấy: biết, hiểu, nhớ, tỏ tường… Và có thể gặp thấy với nghĩa này trong rất nhiều  trường hợp. Như câu thơ: Gần nhau tình cảm bình thường / Xa nhau mới thấy tình thương dạt dào (chưa rõ tác giả). Hay cảm giác thấy luyến tiếc của người con trai trong thơ Lê Thị Hàn: Sao xa rồi mới nhớ / Sao lúc gần không hay / Sao em không ở lại / Để mình mãi bên nhau, (Xa em rồi anh nhớ); trong bài thơ Xa ( Đoàn Phan Tòng): Em xa rồi…/… Lại tiêng tiếc / Những lời chưa kịp nói!…; cũng vậy trong ca dao: Em có chồng rồi anh tiếc lắm thay…

Thứ hai là phần đầu Chia xa rồi. Trong cấu trúc, yếu tố này được đặt lên đầu. Mặt khác xét trong tương quan: Chia xa rồi (a)/ anh mới thấy em (b), thì vai trò chi phối lại thuộc về phần (a). Hóa ra, điều thú vị mà câu thơ gợi cho ta biết là vai trò của sự chia xa trong tình yêu.  Đó là chất thử. Tình yêu giả dối: xa mặt cách lòng, có mới nới cũ… Còn tình yêu đích thực: Chia xa rồi anh mới thấy em. Và khi ấy sự chia xa không thể là trở ngại mà còn xúc tác, làm cho tình yêu thêm mới mẻ và nhiều đam mê. Vì vậy, nhà thơ Trần Đình Chính đã coi  chia xa không phải là sự lìa tan mà chỉ là lúc hai người Ở hai đầu nỗi nhớ. Giữa họ, nỗi nhớ, một sợi dây bền chặt, một bảo bối gắn kết tình yêu: Ở đầu này nỗi nhớ / Anh mơ về bên em / …/ Ở hai đầu nỗi nhớ / Yêu và thương sâu hơn / Ở hai đầu nỗi nhớ / Nghĩa tình đằm thắm hơn.

Như vậy, không phải là khởi đầu, cũng không phải là chuyện tình quá khứ hay ở hiện tại, mà câu thơ làm ta tỏ hơn về một thời khắc, một thử thách có thể làm cho tình yêu thêm đẹp thêm mới, để câu chuyện tình được tiếp tục ở cường độ, cao độ và tần số mãnh liệt hơn.

 

3- Như một thời thơ thiếu nhỏ

Rất dễ nhận ra sự nối mạch với câu thơ đầu qua chữ Như. Chia xa rồi anh mới thấy em / Như một thời thơ thiếu nhỏ. Nhưng như thế vẫn chưa đủ dễ hiểu. Thời thơ / thiếu / nhỏ, chỉ là những “mảnh vỡ” có phần rời rạc. Câu thơ đã cố tình cản trở việc giải nghĩa. Ai như? Anh hay em? Rồi thơ thiếu nhỏ là gì? Thời ấy như thế nào? Nhìn vào cái bóng chữ thật khó trả lời.

Ta hãy lần theo cái bóng, cái dấu vết đó để tìm hình. Một thời chỉ có thể là quãng thời gian quá khứ, là cái đã qua. Thơ, nói là thơ ca (4), cũng chưa mấy thuyết phục. Thiếu: là thiếu thốn, là khó khăn, gian nan, cũng có thể coi là được. Nhưng thiếu trong thời thơ thiếu nhỏ thì phần lớn là hàm nghĩa thiếu niên, thiếu nữ. Nhỏ: có thể chỉ lúc còn bé ít tuổi, nhỏ dại, hoặc  sự khởi đầu. Câu thơ là sự hồi tưởng những kỉ niệm của riêng anh và em. Cái thủa ban đầu lưu luyến ấy / Ngàn năm không dễ đã ai quên (Thế Lữ).

Quả là những cặp tình khi xa nhau họ luôn sống bằng quá khứ. Kỉ niệm là nguồn dinh dưỡng cho tình yêu. Càng nhiều kỉ niệm, tình yêu càng đậm đà bền chặt. Ngược lại, những chuyện tình sớm nở tối tàn, chỉ vì không đủ thời gian tích lũy thứ quý báu nhất ấy. Chỉ năm chữ một thời thơ thiếu nhỏ, vài đường nét thấp thoáng kiểu kí họa nhưng đã phản chiếu một thế giới ăm ắp kỉ niệm của anh và em. Thế giới ấy được xây đắp từ thủa thiếu thời, thủa ăn chưa no, lo chưa tới, tâm hồn trắng tinh như trang giấy, và tình yêu trong sáng tựa ban mai. Có lẽ trong đời ai cũng có một thời không dễ quên như vậy. Và đã có biết bao kẻ đang yêu, biết bao thi sĩ hồi tưởng tiếc nuối về một thời thiếu nhỏ ấy: Yêu em từ thủa trong nôi / Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru (ca dao). Thuở còn thơ /… / Những ngày trốn học / Đuổi bướm cầu ao/ Mẹ bắt được…/ Chưa đánh roi nào đã khóc! / Có cô bé nhà bên / Nhìn tôi cười khúc khích… (Quê hương – Giang Nam). Bảy năm về trước em mười bảy / Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng / Xuân Dục, Đoài Đông hai cánh lúa / Bữa thì em tới bữa anh sang (Núi đôi – Vũ Cao). … Anh nhớ em !!!/ Như con nít nhớ cà rem vậy mà / Như con dế trống đi xa / Một hôm chợt nhớ quê nhà, gáy chơi / Con dế nó gáy một hơi / Còn anh gáy hết một thời con trai (Thiếu nữ – Bùi Chí Vinh),… Chính  Lê Đạt có lần đã phải ngược thời gian lần tìm cái thời ấy qua một bóng chữ khác: Anh tìm về địa chỉ tuổi thơ / Nhà số lẻ / Phố trò chơi bỏ dở / Mộng anh hường / Tim môi em bói đỏ / Giàn trầu già / Khua  / Những át cơ rơi… (Át cơ).

Hóa ra, những kỉ niệm thủa thiếu thời luôn là những dấu ấn, những năng lượng dễ phát sáng và đủ nuôi dưỡng vĩnh hằng cho tình yêu đôi lứa.

 

4- Em về trắng đầy cong khung nhớ

Cấu tạo câu thơ gồm ba “mảnh ghép” chính: Em về / trắng đầy cong / khung nhớ, trong đó có hai chữ rất lạ: khung nhớ. Có thể nói, câu thơ giữ người đọc ở lại cuộc chơi ngôn từ bằng một “chiêu” rất tài tình. Khung nhớ là gì?  Khung nhớ là thuộc về anh hay của em? Rồi trắng đầy cong là thế nào? Câu thơ có màu “bí hiểm”, tạo lực cản, làm khó cho hoạt động tri giác, nhưng lại kích thích mạnh mẽ sự tò mò và hứng thú “hóa giải” của người đọc.

Trước hết cần “hóa giải” khung nhớ.  Đặt trong quan hệ đối lập:  khung nhớ / không phải khung nhớ, khó xác định được nghĩa. Còn trong hệ thống cùng trường nghĩa: “vật có hình dạng nhất định dùng làm cái bao quanh các phía để lắp đặt lên đó một vật khác”(5), sẽ cho các chữ: khung cửa, khung cửi, khung ảnh, khung gương… cũng không thấy khung nhớ. Đúng thôi, nhớ không phải là một vật, mà là tâm trạng, là cảm xúc. Quả thực, đóng khung cho nỗi nhớ, Lê Đạt tỏ ra một “phu chữ” siêu hạng.

Tuy nhiên, dù siêu đến đâu, Lê Đạt cũng không thể không lấy nguyên liệu từ các chữ có sẵn để tạo chữ mới – cách ông thợ chữ nào cũng rất thạo. Có thể nhận ra, trong loạt từ cùng trường nghĩa, khung nhớ ít nhiều có họ hàng với khung cửa, khung cửi. Phải chăng, ngược về nơi chôn rau cắt rốn của khung nhớ có thể lần ra cái hồn vía của nó?

Trước hết ta “thử ADN” giữa khung nhớ và khung cửa. Khung cửa, là vật để lắp cửa, lắp cánh, khi mở con người có thể ra vào, và còn có thể hứng ánh sáng vào trong nhà,… Có lẽ, là chứng nhân mọi buồn vui của con người, nên khung cửa luôn có mặt trong văn chương. Trong Hương thầm, cửa sổ là nơi khởi đầu của tình yêu, là con đường để hương bưởi làm sứ giả nối kết tình cảm của hai cô cậu học trò. Cửa sổ hai nhà cuối phố / không hiểu  vì sao không khép bao giờ / Đôi bạn ngày xưa học cùng một lớp/ Cây bưởi sau nhà ngan ngát hương đưa (Hương thầm – Phan Thị Thanh Nhàn). Khung cửa sổ của Xuân Diệu đẹp lên biết bao vì gắn liền với dáng hình của người thương: Ôi cái khung cửa sổ / Em thường đứng nhìn ra / Em là sao của cửa / Em là hồn của nhà. Cho nên mỗi khi chia xa, người ở lại chín ngóng mười trông ở nơi khung cửa. Người chinh phụ tựa cửa  (nương song) đợi chồng nơi chiến địa: Sớm lại chiều, dòi dõi nương song/ Nương song luống ngẩn ngơ lòng (Chinh phụ ngâm)… Và trong Bóng chữ, nhớ em, anh nhìn ra khung cửa. Nhưng em chẳng trở lại. Nỗi nhớ trào dâng vô tận, càng nhìn càng vắng, càng vắng càng thêm thổn thức. Đêm ngày, trong cảnh cô đơn chỉ có khung cửa với anh đồng hành cũng nỗi nhớ. Khung cửa trở thành khung cửa nhớ. Và cuối cùng chỉ còn là khung nhớ, chất chứa cả một vũ trụ nhớ thương mênh mông vô tận, nỗi lòng luôn hướng về em của anh.

Nhưng mặt khác lại có thể nhận thấy “huyết thống” giữa khung nhớ với khung cửi khi hiểu ý câu thơ theo một hướng khác: anh thương nhớ em, anh hình dung thấy ở nơi xa, em cũng đang sụt sùi hướng về người ở lại. Và ngồi bên khung cửi dệt vải mà em tưởng mình đang dệt bao nỗi nhớ thương, ngày lại ngày làm đầy thêm khung nhớ. Quả thật cái khung nhớ của Lê Đạt như một nốt nhấn, làm bừng sáng lên những biểu tượng về người phụ nữ miệt mài, cần mẫn, thướt tha và cũng thật cô đơn bên khung cửi tự ngàn xưa. Rồi một khi phải chia xa, trong con tim những chàng trai, cái khung cửi luôn hiện lên cùng với hình ảnh của những người phụ nữ thân thương ấy. Cho nên, nhìn thấy khung cửi, người con nhớ về mẹ, về tuổi thơ: Đêm mùa đông nghe một tiếng ru êm / Ta thấy nhớ những tháng ngày thơ bé / Bên khung cửi tiếng mẹ đưa nhè nhẹ / Chở đời con qua gian khó gập ghềnh (Vũ Ngọc Thiện). Và đây là chàng trai nhớ đôi tay tiên của cô gái Thái: Đụng vào khung cửi vải thành hoa / Tung nắm tấm thành ra đàn gà (dân ca Thái). Hay nhớ người em gái dệt vải nơi bản làng xa xôi thượng nguồn Tây Bắc: Đêm bản nhỏ trăng nhòm cửa liếp / Em ngồi trên khung cửi đưa thoi /…/ Vẫn nhớ về sông Mã quê em (Canh bon – Nguyễn Khôi); Nhặt mảnh hoàng hôn, chiều nghe thông réo / Bên khung cửi già, ai dệt mối tình chung (Nhớ Hà Giang– Hà My). Và người em gái đang dệt trắng khung nhớ trong Bóng chữ, dường như cũng đang ngồi đưa thoi trong tiết Mưa xuân của Nguyễn Bính: Em là con gái trong khung cửi / Dệt lụa quanh năm với mẹ già / Lòng trẻ còn như cây lụa trắng / Mẹ già chưa bán chợ làng xa. Chỉ có điều trong thơ Nguyễn Bính, khung cửi là khung cửi, lụa trắng vẫn là lụa trắng. Còn trong thơ Lê Đạt em đang ngồi bên khung nhớ và không dệt lụa trắng mà đang dệt những tấm nhớ tấm thương. Dệt mãi, dệt mãi, em đã làm cho trắng đầy cong khung nhớ. Có thể nói khung nhớ của Lê Đạt chỉ là một giấc mơ về em, cũng giống như có lần Phú Quang đã từng Mơ về nơi xa lắm. Ta mơ thấy em ở nơi kia xa lắm /…/ Một mình em, một mình ta. / Tiếng lá rơi vô tình bên khung cửi. / Em bơ vơ, ta thẫn thờ mong nhớ. /… / Em cô đơn, căn phòng trống cô đơn. 

Mai-a-cốp-xki coi làm thơ là luyện quặng, phải nung hàng tấn quặng từ mới có một từ trong thơ. Còn Lê Đạt coi đó nghề “phu chữ”, quả là đúng. Trường hợp khung nhớ này là minh chứng cho ý của hai ông. Trong thơ ca, có lẽ, nhớ là một trong những trạng thái cảm xúc được con người biểu hiện, khai thác nhiều không thể kể xiết. Nhớ có bề rộng, có độ sâu (biển nhớ đày vơi); có màu tím (Sớm trông mặt đất thương xanh núi / Chiều vọng chân mây nhớ tím trời – Xuân Diệu); có độ nóng cao (Nhớ ai bổi hổi bồi hồi / Như đứng đống lửa, như ngồi đống than – ca dao); có thể châm như lửa (Chờ anh / Châm nỗi nhớ / Em thắp vàng suốt cả năm canh – Đoàn Thị Lam Luyến); nhớ rất khó cắt nghĩa (Gió sao gió mát sau lưng / Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này – ca dao); cũng rất cụ thể bình dị như một vật dụng (Như là nỗi nhớ / Suốt đời mang theo- Nguyễn Nhật Ánh); nhớ có bờ (Con sông lớn chia đôi bờ nỗi nhớ – Diệp Minh Tuyền); có thể nở hoa (Tháng năm ơi, nỗi nhớ đơm phượng đỏ – Duyên Hồng)… Điều này cho thấy, để làm mới lạ nỗi nhớ trong văn chương là không hề dễ.

Cái nhớ được nén trong khung của Lê Đạt vừa quen vừa rất lạ: có màu sắc (trắng), có thể chất chứa, đong đếm được (đầy), có sức ép nặng làm biến dạng (cong) khung. Và đặc biệt có năng lực kích hoạt cả một vũ trụ khôn cùng trong kí ức của nhân gian. Chỉ riêng một chữ, một màu trắng, đã muôn vàn sắc thái, vừa là màu của lụa trong thơ Nguyễn Bính, như ta đã nói ở trên, vừa có cái tuyết trắng cô đơn trong thơ Đỗ Phủ (Tây Sơn tuyết trắng ba thành lính / Nam Phố sông trong một nhịp cầu / Góc bể xa em mờ mịt bụi / Chân trời lẻ bóng tả tơi châu – Lê Nguyễn Lưu dịch (6)); vừa gợi lại cái giá băng buốt nhói trong Lời kĩ nữ thơ Xuân Diệu (giá băng tràn mọi nẻo / Trời đầy trăng, buốt lạnh suốt xương da); cái tuyết trắng lạnh giá cô đơn trong thơ Hữu Thỉnh (Núi rét đêm qua chừng mất ngủ / Sáng ra thêm bạc một nhành lau. / Ở đây tuyết trắng bên chăn mỏng/…/ Ước gì có chút hương bồ kết. –Thư mùa đông); vừa có cái trắng lạnh rợn ngợp trong thơ Phùng Quán, (Ngoài trời trăng như tuyết / Trắng lạnh đến thấu xương – Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe); vừa có tuyết buồn chia li của Thiên Nhất Phương (Đỉnh núi quanh nhà tuyết trắng phau / Như là vừa mới nhớ thương nhau / Sông Tương nước chảy đôi dòng cạn – Buồn)…

Chế Lan Viên đã từng đề xuất cách làm thơ: Bài thơ anh, anh làm một nửa mà thôi / Còn một nửa cho mùa thu làm lấy  – Sổ tay thơ). Lê Đạt còn tiết kiệm hơn, “khiêm tốn” hơn. Chỉ phác cái bóng, còn cái hình hài thơ, cả bài thơ, ông nhường cho người đọc tự sáng tạo. Nhưng cũng chỉ cần có thế, một khung nhớ thôi, cũng đủ mở ra cả biển trời nhớ thương rất giàu chất thơ trong kí ức muôn người.

 

5- Mưa mấy mùa/ mây mấy độ thu

Bài thơ có nhiều âm thanh lập cập như là nói nhịu: Thời thơ thiếu / thức một mùi / mưa mấy mùa / mưa mấy. Chắc nó phản chiếu nỗi lòng đang quá xúc động. Ở câu thơ này, những chữ có phụ âm đầu là m, được lặp lại tới năm lần, chiếm tới 5/7 chữ trên cả câu. Giống như âm thanh của những người đang mong nhớ, mong mỏi, mơ mộng, mong muốn; rồi rơi vào trạng thái mộng mị, mơ màng, mê mệt, mê mẩn, mê mê man man; trong một tình cảnh bị mất mát, mai một, mỏi mắt, mỏi mòn, mỏi mệt, mong manh, muộn màng; với một cảm giác vô định tăm tối: mênh mênh, mang mang, mù mịt, mây mù, mờ ảo, một mình,…

Lấy chủ đạo là màu đen xám, với ba đường nét đơn sơ (mây, mưa, thu), nếu cố chắp nối cũng chỉ được bốn “sự” (mưa thu, mùa mưa, mây thu, mây mưa) – câu thơ đúng là hình trạng của một cái bóng. Nhưng đó là hình phản chiếu của một không gian mênh mênh mang mang, mù mù mịt mịt, mây che tăm tối, mưa gió nặng nề. Và không chỉ thoáng chốc mà dằng dặc trong thời gian thu bất tận. Mấy mùa, mấy độ là chỉ số lượng  dài nhiều lắm, không thể đo đếm được. Độ thường là đơn vị đo chiều dài. Chiều dài của đường (Đi mấy độ đường). Độ còn để chỉ những điểm thời gian nào đấy (Hoa vàng mấy độ. Em đi từ độ ấy…). Nói chung là số lượng không xác định, khó xác định. Ở đây, từ khi chia xa rồi, nỗi nhớ mong của anh triền miên, bất tận.

Độ thu chứ không phải là ngày thu, tháng thu, mùa thu. Chữ độ có sức gợi rất lớn. Có hai chữ chỉ quãng thời gian, thời điểm là dạo và độ. Nhưng dường như, khi cần đơn vị đo chiều dài, đo thời điểm của tình cảm, của tình yêu, thị độ được dùng nhiều hơn. Khi tình yêu bắt đầu: Và chúng mình yêu nhau, bắt đầu từ độ ấy (Trần Hoàn); và lúc li biệt: Từ độ em đi lập mộng đời / Nước dòng sông cũ chảy đầy vơi (?); Chim quyên từ độ bỏ thôn Đoài / Quyên chẳng buồn thảm thiết gọi ai (Phạm Thiên Thư); Vầng trăng từ độ lên ngôi, / Năm năm bến cũ em ngồi quay tơ (Lưu Trọng Lư). Còn đâu một thoáng hương xưa cũ / Từ độ em đi vắng tiếng cười (Chánh Minh)… Có vẻ chữ độ chứa chất được nhiều nỗi niềm, nhiều tâm sự. Cộng với vết gãy ở giữa: Mưa mấy mùa/ mây mấy độ thu, đọc câu thơ nghe như có tiếng nấc.

Trong thơ ca phương Đông, Thu đã trở thành một biểu tượng về cảnh chia li với bao hoài vọng nhớ thương sầu muộn: Nỗi sầu thiên thu, sùi sụt mưa thu, thu sầu rụng… Trong Truyện Kiều (Nguyễn Du), Kim Trọng nhớ Kiều: Ba thu dồn lại một ngày dài ghê, Kiều nhớ Kim Trọng: Thấy trăng mà thẹn những lời non sông/ Rừng thu từng biếc chen hồng. Người chinh phụ nhớ chồng: Trải mấy thu tin đi tin lại (Chinh phụ ngâm). Trong văn chương, những người yêu nhau đặc biệt nhạy cảm với thời điểm sang thu. Hình như độ thu là độ yêu, độ nhớ. Tiếng thu, như là âm thanh của biết bao vương vấn: Em không nghe mùa thu / Dưới trăng mờ thổn thức? (Tiếng thu – Lưu Trọng Lư). Là giây phút thấy chạnh lòng: Người đi từ độ tuyết giăng đầy./ Vàng Thu thuở trước còn vương vấn / Em có chạnh lòng trong phút giây?! (Mùa đã sang rồi em có hay – Hoàng Ngọc Ẩn). Thu làm người bật khóc vì cô đơn: Thu đã sang rồi em có hay /Chén buồn để cả một trời say / Tương tư giậu vắng hoa vàng nở / Giọt lệ dầm sương cánh cánh đầy (?). Đêm thu không phải để ngủ mà để những cặp tình chờ đợi: Ðêm thu nầy cũng như đêm trước / Tôi vẫn chờ mong bóng một người / Gối chiếc chăn đơn chừng nửa giấc / Giật mình khe khẽ gọi thu ơi. (Đêm thu – Viễn Phương). Mùa thu tới là mùa tang thương: Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang / Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng (Đây mùa thu tới – Xuân Diệu). Có cả một dòng nhạc thu trong âm nhạc Việt Nam, với những ca khúc nổi tiếng. Buồn tàn thu của Văn Cao vò xé lòng ai những lời buồn da diết: Đêm mùa thu chết, / Nghe mùa đang rớt rơi theo lá vàng. / Em ngồi đan áo lòng buồn vương vấn. Rồi bài Thu quyến rũ của Đoàn Chuẩn – Từ Linh làm nhói con tim nỗi đau chia lìa: Mây bay về đây cuối trời / Mưa rơi làm rụng lá vàng / Duyên ta từ đây lỡ làng. Hay trong Tiếc thu – Hoàng Dương: Chiều tàn mây thu, lơ lửng về đâu? / Dừng chèo thuyền ơi, ta nhắn vài câu / Có biết lòng ai ưu sầu, / theo bóng người đi bên cầu / mịt mờ xa khuất về đâu? Rồi Nhìn những mùa thu đi – Trịnh Công Sơn), với những câu nghe sao cô đơn giá buốt: Nhìn những lần thu đi / Tay trơn buồn ôm nuối tiếc / Nghe gió lạnh về đêm / Hai mươi sầu dâng mắt biếc / Thương cho người rồi lạnh lùng riêng.

Chữ đầu và chữ cuối: mưa… thu.  Mưa thu còn có thể gọi là mưa ngâu – gợi về một chuyện tình Chàng Ngâu ả Chức đầy bi kịch. Hai vợ chồng chỉ được gặp nhau một lần vào mùa thu. Biết bao nước mắt của họ đã tuôn mãi thành những cơn mưa thu sầu thảm. Chinh phụ ngâm (bản dịch) có những câu:  Khác gì ả Chức, chị Hằng / Bến Ngân sùi sụt, cung trăng chốc mòng / …/ . Có một bài hát nổi tiếng của nhạc sĩ Đặng Thế Phong mang tên: Giọt mưa thu, đã đã làm bao người phải khóc: Ngoài hiên giọt mưa thu thánh thót rơi / Trời lắng u buồn mây hắt hiu ngừng trôi/ Nghe gió thoảng mơ hồ trong mưa thu/Ai khóc ai than hờ! /…/ Gió xa xôi vẫn về / Mưa giăng mù lê thê/ Đến bao năm nữa trời …/… Vợ chồng Ngâu thôi khóc vì thu. Nói đến mưa thu, có người còn nghĩ đến chuyện chết chóc: Trời mưa thu, mới hôm qua/ Ai đã thấy cái buồn nghĩa địa (Chabbi Chabbi – Quang Dũng).

Với những ai đang trong cảnh chim lẻ bạn, bến xa thuyền, câu thơ của Lê Đạt lại như đổ thêm mưa thu sụt sùi thổn thức, lớp lớp mây thu vần vũ cõi lòng.

 

6- Vườn thức một mùi hoa đi vắng

Về câu này và câu sau Em ở đây rồi em ở đâu, có lẽ ai cũng đồng cảm với một bạn trên mạng có nick là doanhdoanh:“nghe như mang mang sầu mang mang nhớ mà không biết tại sao?”(6) . Dễ thấy bút pháp ẩn dụ trong câu thơ này, nhưng thật khó dò tìm cái vế ngầm bí ẩn.

Xét về cấu trúc, câu thơ có hai vế Vườn thức/ một mùi hoa đi vắng.

Ta hãy thử đặt ngược: Vườn ngủ một mùi hoa ở lại. Sẽ bật ra một sự đối lập: bình thường (vườn ngủ) / mất bình thường (vườn thức). Như vậy, câu thơ kể về một chuyện bất thường.

Hơn cả bất thường, đây còn là một sự cố, một sự kiện: Có bao nhiêu là hoa, mà cả vườn vẫn nhận ra một mùi hoa đi vắng. Có bao nhiêu hương hoa mà vắng một mùi hoa, tất cả đều mất ngủ. Rõ ràng, cái sự vắng ấy đã gây ra một sự xáo trộn lớn, một tổn thương, một mất mát không thể đắp bù. Chắc rằng, vườn thức vì lo lắng, vì cố đợi loài hoa ấy trở về.

Câu thơ của Lê Đạt rõ là hình ảnh ẩn dụ về tình cảnh chia li, lòng tràn ngập cảm giác trống vắng cô đơn. Như người con trai thức đợi trong câu thơ của Vi Thùy Linh: Đêm rơi qua dải khăn mây / Gió đợi chở nhau thơ thác /…/ Mùa về thức đợi riêng em (Giấc mơ đi qua). Như người vợ thức đợi chồng trong thơ Đoàn Thị Lam Luyến: Em thắp vàng suốt cả năm canh. Như chiếc khăn trăn trở, như ngọn đèn không ngủ trong ca dao: Khăn thương nhớ ai / Khăn rơi xuống đất /…/ Đèn thương nhớ ai mà đèn không tắt. Âu cái chuyện tình là vậy, sự trống vắng người thương làm cho cả vũ trụ cũng thành vô nghĩa, vô lí, vô hồn, nhạt nhẽo, tang thương. Chẳng còn ai thiết gió mát, hoa tươi, xuân mới: Từ ấy anh ra đi / Ngoài song không gió thoảng/ Hoa đào vắng mùi hương / Lòng em xuân hờ hững (Nhớ nhung – Hàn Mặc Tử). Người ta bỏ bê công việc thường ngày, bỏ mặc thể xác hao gầy:Từ ngày anh bước chân đi,/ Cái khung dệt cửi chưa hề dúng tay./ Nhớ chàng như mảnh trăng đầy,/ Đêm đêm vầng sáng hao gầy đêm đêm (Tự quân chi xuất hĩ – Trương Cửu Linh, bản dịch của Ngô Tất Tố).

 

7- Em ở đây mà em ở đâu

Câu thơ là một câu hỏi, cũng là một lời than của người vừa tỉnh vừa mê. Nửa đầu Em ở đây là lời  của vô thức. Là nỗi vui mừng vô hạn vì được gặp em trong giấc mơ. Nửa sau tỉnh táo, lời của ý thức. Cho thấy tâm thần của anh trong tình trạng bị dày vò dữ dội. Câu thơ thẳng thốt bất ngờ giữa một bên là mong muốn hy vọng tươi đẹp, với bên kia là hiện thực cắt chia xa xót. Nỗi mừng vui được gặp em trào dâng trong mộng bao nhiêu thì cảm giác cô đơn nuối tiếc hoảng hốt khi thức giấc lại mênh mông bấy nhiêu.

Chuyện đời, người trong mộng bao giờ cũng đẹp cũng lí tưởng nhất. Cho nên giấc mơ gặp người trong mộng là những phút giây thăng hoa vô cùng hạnh phúc: Vừa chợp mắt đã thấy người trong mộng. Em dịu hiền ghé lại viếng thăm anh./…/. Đôi môi mọng nở nụ cười tươi thắm (Nhớ thương hờn giận – Nguyễn Đỗ); Dáng em lay động ánh trăng ngà / Sao say sóng tiếc người trong mộng / Lồng lộng hồ thu hồn ngân nga (Tình thu – Thanh Tùng); Hợp tan tri kỷ người trong mộng. Rộng hẹp danh thân đất với trời! (Năm nét hữu cảm – Tản Đà).

Nhưng đồng thời biết bao tiếc nuối, khổ đau khi người ta yêu thương vụt biến đi cùng với giấc mộng: Đêm qua ba bốn lần mơ / Chiêm bao thì thấy dậy sờ thì không (Ca dao); Anh xa em mới hơn một tháng / Đêm mơ thấy em ba bốn lần / (…) Ôi những giấc mơ buồn vui lẫn lộn (Giấc mơ Ngư Thủy – Phùng Quán); Đêm qua mơ thấy bóng em /…/ Giật mình thức dậy mấy thu qua rồi (Mơ – http://poem.tkaraoke.com/10099/Bao_Cuong/ Bảo Cường); Bỗng thấy chiêm bao thấy những người / Thấy người nói nói lại cười cười. Tỉnh ra lại tiếc người trong mộng (Chiêm bao – Trần Tế Xương);  Đêm mơ gặp gỡ người trong mộng / Sáng ước được nghe giọng tâm tình (Chữ tình – Huyền Băng). Khi tỉnh, không chịu nỗi những cảm giác cô đơn, buồn tủi, có người nẩy ý điên khùng: Làm sao giết được người trong mộng? (Lang thang – Hàn Mạc Tử). Để rồi khi không mộng gặp người mình yêu thương lại đau đáu vạn lần: Có một lần anh không mơ thấy em / Là khi đó cả đêm anh thức trắng / Trong tiềm thức điểm nào bừng sáng nhất / Là nơi em ngự trị – cánh thiên thần (Thiên thần – Thanh Thanh Ngọc). Bởi vậy, người vợ trong Xuân oán bực mình muốn đánh đuổi cái oanh vàng xinh đẹp chỉ vì tiếng nó kêu làm thức giấc, không còn được gặp chồng trong giấc mơ: Đánh đuổi cái oanh vàng đi /…/ Nó kêu thiếp ngủ giật mình / Chẳng yên giấc mộng tới thành Liêu Tây. (Kim Xương Tự, Hải Vân dịch).

 

8- Chiều Âu Lâu/ bóng chữ động chân cầu

Có thể nói đây là câu thơ khó “nhằn” nhất trong bài. Có lẽ, chưa có ai rành rẽ xem nó là cái gì. Với bốn “mảnh vỡ” (Chiều / Âu Lâu / bóng chữ động / chân cầu), dường như chúng được tung ra và nằm cạnh nhau một cách ngẫu nhiên, trông rất “đầu Ngô mình Sở”. Quả là khó mà đoán ra chuyện gì đã in thành những Bóng chữ ấy.

Trước hết, xét cấu trúc nội tại của câu thơ, có thể lần ra một số nghĩa. Chiều: thời gian vào cuối ngày; Âu Lâu: không gian bến sông (bến Âu Lâu ở Yên Bái); bóng chữ động: sự việc diễn ra; chân cầu: địa điểm, nơi chốn xảy ra sự việc. Tạm suy luận: có ai đó làm gì đó, có chuyện gì đó, sự cố gì đó đã xảy ra vào buổi chiều tại chân cầu, ở bến sông Âu Lâu. Nhưng đó là chuyện gì, ai làm, thì chưa thể xác định.

Đặt câu trơ trong cấu trúc của cả bài: Ở phần trên, Anh rơi vào tình cảnh cô đơn: Chia xa/ Em về/ mùi hoa đi vắng; đang trong trạng thái bị dày vò: nhớ/ thức / buồn; có lúc không kìm được thảng thốt than thở: em ở đâu. Suy luận theo logic nhân – quả: Nếu ở trên là nguyên nhân (anh cô đơn, buồn nhớ em), thì câu cuối là kết quả (anh đã/đang làm một việc gì đấy (….) dưới chân cầu, bên bến Âu Lâu vào một buổi chiều). Đoán thêm: chuyện dưới chân cầu là chuyện của anh.Trả lời được chủ thể của hành động (Ai?) Nhưng bóng chữ động là chuyện gì, sự việc gì, vẫn chưa cho lời giải.

Theo lí thuyết liên văn bản: không có văn bản nào mà mọi yếu tố của nó lại chưa hề có mặt trong các văn bản khác(7). Vậy có thể theo hướng “ngoại biên” là hướng ra bên ngoài để tìm ý nghĩa câu thơ. Trên cơ sở cái bóng với các dấu hiệu: chiều, bến sông (bến Âu Lâu), chân cầu, hãy cùng khảo sát trong những văn bản khác.

Trong văn chương, buổi chiều thường là tác nhân làm trào lên nỗi nhớ thương, li biệt. Kim Trọng tìm không thấy Kiều: Gió chiều như giục cơn sầu, / Vi lô hiu hắt như màu khẩy trêu (Kiều – Nguyễn Du). Nghe hát vào lúc chiều buồn, người giã bạn như thấy đứt ruột: Chính vào lúc chiều buồn rã rượi / Ai hát bài đứt ruột “Ly ca” / Không còn lòng dạ nghe qua! (Bá Lăng hành tống biệt – Lí Bạch, bản dịch của Nguyễn Phước Hậu). Và ai là người đưa tiễn mà không tan nát lòng trong cái buổi chiều đầy hoàng hôn trong thơ Thâm Tâm: Đưa người ta không đưa qua sông / Sao có tiếng sóng ở trong lòng / Bóng chiều không thắm không vàng vọt / Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong (Tống biệt hành). Trong âm nhạc, có thật nhiều những buổi chiều đầy nhung nhớ: Chiều buồn nghe vọng Kim Lang / … / Em đi sao chẳng quay về / Để cho tiếng nhạc não nề bi ai (Chiều buồn nghe vọng Kim Lang – Ngọc Thành). Chiều hoàng hôn buồn, lang thang trên phố / Nghe lá thu rơi, chân bước chơi vơi, thấy lòng bồi hồi. /…/ Cảnh vẫn còn đây, tình đã lìa xa / Còn giấc mơ hoa nơi cuối trời (Lời bài hát Chiều buồn, Nguyễn Trọng Tạo – phỏng thơ Trần Kim Lan)…

Âu Lâu vốn là tên của một bến sông rất nổi tiếng trong kháng chiến chống Pháp ở Yên Bái. Ta đã từng biết, nhờ gắn với những chuyện chia li,dang dở,nhiều cái tên bến sông từ cuộc đời đã được các nghệ sĩ đưa vào văn chương và trở thành những biểu tượng thẩm mĩ đầy xúc động: Đó là trường hợp bến Tầm Dương (sông Trường Giang, Trung Quốc) được Bạch Cư Dị đưa vào Tì bà hành: Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách / Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu (Phan Huy Vịnh dịch). Bến Mi Lăng (sông Côn (?), Bình Định) vào thơ Yến Lan: Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách / Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng / Bến My Lăng còn lạnh bến My Lăng / Ông lái buồn đợi khách suốt bao trăng. Cái tên bến Giang Đình (sông Lam, Nghệ An) vang vọng biết bao ân tình trong bài hát Trên bến Giang Đình của An Thuyên: Mênh mông bến Giang Đình / Chiều bến nước gọi bạn tình / Tiếng đàn tích tịch tình tang. Bến Ninh Kiều (sông Hậu, Cần Thơ) cũng vậy. Qua bài hát của Nguyễn Văn Hiên, Bến Ninh Kiều, sẽ mãi là một cái tên nghe xao xuyến biết bao khi nhớ về một miền sông nước của đất phương nam: Đêm nay qua bến Ninh Kiều / Nhớ về bóng dáng em yêu / Lòng nghe xao xuyến bồi hồi /…/ Con nước ròng con nước lớn / Ai đành quên nhau!. Ở đây, từ một địa danh lịch sử, nhờ Bóng chữ, bến Âu Lâu chắc chắn trở thành một biểu tượng về tình yêu, và được cố định trong kí ước văn hóa nhân loại một cách vĩnh viễn.

Chữ Lâu là từ Hán Việt có nghĩa là lầu. Trong ngữ cảnh câu thơ: bóng / chân cầu, Âu Lâu gợi nhớ đến hình ảnh giang lâu – lầu Âu bên sông, nơi thường diễn ra những cuộc tiễn đưa, chuyện nhớ thương li biệt đầy nước mắt. Giang lâu, nơi nhà thơ Triệu Hỗ, đời Đường bâng khuâng nhớ bạn: Thơ thẩn giang lâu đứng ngậm ngùi / Trăng in đáy nước, nước in trời / Người xưa cùng ngắm trăng đâu tá ? / Phảng phất đêm này tựa cảnh xưa (Giang lâu thư hoài –  Tương Như dịch). Hoàng Hạc lâu là chỗ Thôi Hiệu nhớ tiếc người tiên. Ai cỡi hạc vàng đi đâu mất / Trơ lầu Hoàng Hạc chốn này thôi (Hoàng Hạc Lâu, Khương Hữu Dụng dịch). Cũng là nơi Lí Bạch, cảm nhận một nỗi mất mát vô tận khi tiễn bạn đi xa. Bạn từ lầu Hạc lên đường/…/ Bóng buồm đã khuất bầu không / Trông theo chỉ thấy dòng sông trên trời (Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Ngô Tất Tố dịch). Trong Truyện Kiều (Nguyễn Du), lầu Ngưng Bích là nơi nàng Kiều bị nhấn chìm trong những đợt sống cô đơn: Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân /…/  Ầm ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi.

Đặc biệt, các yếu tố chiều rồi bến sông / cầu thường gắn với những câu chuyện tình, chuyện đợi chờ hết sức cảm động. Như chuyện Anh đứng trên cầu đợi em trong thơ Vũ Quần Phương: Dưới chân cầu nước chảy ngày đêm /…/ Đợi em. Em đến? Em không đến?/  Nắng tắt, còn anh đứng mãi đây!/…/ Nước chảy… Kìa em, anh đợi em (Đợi). Chuyện “ấp cây đợi bạn” của người Trung Quốc: Vĩ Sinh hẹn gặp một người con gái dưới chân cầu, nhưng cô ta không đến. Chàng vì giữ lời hẹn nên cả buổi tối cứ ôm chặt chân cầu mà đợi, nước dâng lên vẫn không chịu rời. Cuối cùng bị ngập chết. Trong Truyện Kiều, Kim Trọng muốn thể hiện lòng thủy chung với nàng Kiều có câu nhắc đến điển tích này: Tháng tròn như gởi cung mây/ Trần trần một phận ấp cây đã liều. (Nguyễn Du)

Chuyện cây cầu Ô Thước: Nàng tiên Chức Nữ đi tắm dưới trần, vì bị mất quần áo nên phải lấy Ngưu Lang. Họ có con với nhau, nhưng trời bắt Chức Nữ về tiên giới. Ngưu Lang nhớ vợ, cùng hai con lên trời. Nhưng Chức Nữ không được phép sống cùng chồng. Trời lấy dòng Ngân Hà mênh mông sâu thẳm để ngăn cách hai người. Duy nhất ngày 7 tháng 7 âm lịch (có nơi nói ngày 15), những con quạ được phép bắc cây cầu Ô Thước, để chàng và nàng có một lần sum họp. Còn cả năm Ngưu Lang đau đáu đợi chờ. Tương truyền, hai người gặp nhau khóc lóc nhiều quá nên mưa thu thường sùi sụt lê thê. Chinh phụ ngâm (bản dịch) có những câu: Nọ thì ả Chức chàng Ngâu / Tới trăng thu lại bắc cầu sang sông.  

Trên mạng cũng đang lan truyền một câu chuyện thật xúc động, được nhiều người đọc: Ta sẽ đợi nàng bên cầu Nại Hà (8) (không rõ tác giả), đại ý: Có đôi trai tài gái sắc, yêu nhau rồi kết duyên vợ chồng. Họ hẹn nhau nếu già, ai chết trước sẽ đợi người kia ở cầu Nại Hà (nơi người chết được ăn cháo lú để quên hết chuyện trần gian). Không may, nàng bệnh và chết trước, chàng đau buồn rồi cũng chết theo. Y hẹn, xuống âm phủ, chàng đứng đợi nàng ở cầu Nại Hà. Đã trôi qua 500 năm làm ma, nhưng chàng vẫn không chịu ăn cháo, để được đầu thai kiếp mới. Vì chàng không muốn bị mất trí nhớ, quyết đợi để có thể được gặp lại người vợ yêu. Trong khi cô nàng đã đi qua cầu từ lâu rồi (9) .

Có thể nói câu thơ cuối của bài Bóng chữ có sức gợi mãnh liệt. Và từ những ký ức đầy xúc động trong văn chương đã nêu trên, ta có thể đoán bóng chữ động chân cầu là khúc xạ hình dáng của một người con trai đang đợi, anh  đợi em. Đặt trong ngữ cảnh toàn bài, càng thấy hình người con trai hiện lên rõ nét: Lúc chia xa, em về, đi vắng / anh mới thực sự hiểu rõ về em. Anh mang nỗi nhớ em trĩu nặng, qua bao năm tháng. Anh không ngủ vì vắng em. Anh vui như thế nào khi gặp em trong mộng, và buồn biết bao khi tỉnh giấc chẳng thấy em ở đâu. Và giờ đây, ở chân cầu bến Âu Lâu, anh nguyện đợi em mãi mãi.

Điều đáng nói là dường như trong dáng hình anh, người đợi em trong bài thơ này, chứa chất mọi nỗi nhớ thương u sầu cũng như mọi sắc thái thủy chung son sắt của biết bao người con trai trong đời, trong văn chương. Không chỉ đợi một buổi tối như Vũ Sinh, cũng không chỉ một ngày, một đời như trong thơ Vũ Quần Phương; không phải chỉ một kiếp như chàng Ngâu ở cầu Ô Thước; cũng không phải chỉ xuống cõi âm mới đứng đợi ở cầu Nại Hà; anh trong thơ Lê Đạt đợi em ở bất chấp thời gian: Mưa mấy độ / mây mấy mùa; và không gian: trước cửa, trong vườn, bến sông, chân cầu, trong mơ, lúc tỉnh…; cho đến nay và mãi mãi sau này, người đời đi qua bến Âu Lâu, vẫn còn thấy hình bóng một con người đợi chờ trong sóng nước… Nước vốn có tiếng là vô tình, luôn quét sạch mọi thứ. Ở đây, dường như có sự xúc động mà phá lệ. Tuy vùi lấp cái hình, cái xác, nhưng nước vẫn lưu giữ muôn đời bóng dáng của một người son sắt chờ đợi dưới chân cầu nơi bến Âu Lâu.

Có một điều thật thú vị: Vọng phu, hình tượng về người phụ nữ thương nhớ chồng thường được đặt trên núi cao. Còn về người con trai lại luôn được đặt nơi bến nước, chân cầu. Hay người ta muốn lấy độ cao và độ sâu/rộng, cái dễ thấy và cái khó nhìn để phân biệt nhỉ? Có điều chắc chắn rằng cả núi và sông nước đều là những gì thuộc về vĩnh cửu.

Phải chăng, với Bóng chữ, Lê Đạt đã dựng một biểu tượng thật đơn giản, tiết kiệm về đường nét, nhưng lại có sức chứa đến vô cùng lòng thủy chung son sắt của cánh mày râu?   

-------------------

1, 2, 3 – Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội – Trung tâm Từ điển học, Hà Nội, 1994. tr.72 , tr.896.

4- Mai Thảo Yên, Phân tích bài thơ Bóng chữ của Lê Đạt, nguồn:  lethithanhtam.wordpress.com/…/phan-tich-bai-thơ-bong-chữ

5- Hoàng Phê (chủ biên), Sđd, tr.496.

6- Nguồn: dasucoc.blogspot.com/2012/08/bong-chu.htm

7- Nguyễn Hưng Quốc, Văn bản và liên văn bản – nguồn: www.tienve.org

8- Nguồn: forum.matngu12chomsao.com

9- Xem mục từ “Cầu Nại Hà” trong Điển cố văn học (Đinh Gia Khánh – chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, tr. 69.

 

Mời nhấp chuột đọc thêm:

- Các bài viết về Chuyện làng văn0

- Đặng Xuân Xuyến - Cảm nhận thơ văn 1l

- Đặng Xuân Xuyến - Cảm nhận thơ văn 2l

- Bạn đọc cảm nhận về thơ của Đặng Xuân Xuyếnl

- Bạn đọc cảm nhận về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl

 

Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ PHÍA KHÔNG EM:


Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ CẠN LÒNG:

Nguyễn Toàn Thắng giới thiệu

Tác giả: Lê Như Bình - nguồn: vanvn

Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet

Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.

0 comments:

Đăng nhận xét