TỪ TRONG QUÁ KHỨ ĐÃ KHÔNG CÓ
“LỄ HỘI KHAI ẤN”
Ai cũng biết lễ hội có hai phần: Phần Lễ và phần Hội. Lễ là phần
tâm linh, phần này nhằm mục đích cố kết cộng đồng bằng tâm thức, hội tụ quanh
một hoặc nhiều vị thần nào đó mà cộng đồng tôn thờ làm phúc thần, để che chở
cho cả cộng đồng. Thần linh có thể là một vị nhân thần có công lớn với đất
nước, cũng có thể là một người dẫn dân đi khai hoang lập ấp, sau thành xóm
thành làng, dân cư đông đúc, đời sống khấm khá, cộng đồng đó tôn thờ người ấy
làm thành hoàng làng để tỏ lòng biết ơn. Cũng có thể là người đã đem một nghề
nào đó về cho cả làng sinh sống rồi trở thành làng nghề, chính người đó được
tôn vinh làm tổ nghề và đưa vào điện thần thờ làm Thành hoàng. Lại có vùng thời
tiết dữ dội, gió mưa bão lụt khôn lường, dân rước thiên thần vào thờ làm Thành
hoàng làng, như Long Hải đại vương. Hoặc cầu mưa thuận gió hòa mùa màng tốt
tươi, dân thờ Tứ Pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp điện tức là các thần
Mây - Mưa - Sấm - Sét.
Dù thờ thần nào cũng là sự biểu lộ lòng biết ơn của cộng đồng
đối với thần linh. Vì vậy phần lễ là linh hồn của mọi lễ hội.
Sau các nghi thức rước, tế và cúng kiếng của lễ, tiếp đó là phần
hội.
Khác với lễ, chỉ có một số ít đại biểu được cộng đồng lựa chọn
vào việc thờ cúng và tế rước thần linh. Trái lại, hội là phần của toàn thể cộng
đồng, ai cũng có thể tham gia tùy sở trường và năng khiếu, không phân biệt giầu
nghèo, đẳng cấp. Trong hội có nhiều trò vui, ví như vật, đánh đu, đánh cờ, chọi
gà, chọi chim, đánh pháo đất, đi kheo, hát chầu văn (lên đồng), hát chèo, hát
đúm, đánh bài tổ tôm điếm hoặc tam cúc điếm vv… Cho nên trong hội, có thể trò
này anh là người diễn, sang trò khác anh lại là người xem. Do tính cộng đồng
cao, nên lễ hội là một sinh hoạt luôn hấp dẫn và không thể thiếu của cư dân
nông nghiệp, qua đó lễ hội còn biểu thị khát vọng của người lao động.
Hội của nước ta thường tổ chức vào mùa xuân hoặc mùa thu là thời
điểm nông nhàn. Hội mùa thu chỉ lác đác mà tập trung hội vào mùa xuân.
Như các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, hội khai sớm nhất là hội Chùa
Hương Tích huyện Mỹ Đức, xưa thuộc tỉnh Hà Đông. Hội mở từ ngày 6 tháng giêng
và kéo dài suốt 3 tháng mùa xuân. Đây là hội dài ngày nhất.
Kết thúc mùa hội xuân là hội Gióng làng Phù Đổng, tổ chức vào
ngày 8 tháng tư (âm lịch) tức là đầu mùa hạ.
Tuyệt đại đa số các lễ hội ở nước ta là hội làng. Cũng có một số
hội vùng là do sức thu hút của hội đó chứ không có quy định nào của nhà nước,
kể cả thời có vua quan thống trị. Các hội vùng nổi tiếng như hội Chùa Hương (Hà
Tây), hội đền Kiếp Bạc (Hải Dương), hộ Phủ Giầy (Nam Định), hội núi Bà Đen (Tây
Ninh), hội Bà Chúa Xứ (An Giang), hội đền Nguyễn Trung Trực (Rạch Giá) vv…
Hội của cả nước là rất hiếm. Như hội Đền Hùng ngày nay có quy mô
cả nước cũng mới ra đời từ năm 2000, sau khi có quyết định của Quốc Hội, nâng
tầm vóc ngày giỗ các vua Hùng (10 tháng 3 âm lịch) làm ngày Quốc lễ.
Trong tất cả các danh mục lễ hội được tổ chức công khai trong
cộng đồng, từ hội làng đến hội vùng, hội tầm quốc gia, kể từ vài trăm năm nay
không thấy có loại lễ hội nào gọi là “Lễ hội khai ấn”.
Tuy nhiên, mỗi cuối năm, trước khi nghỉ tết, các chánh văn phòng
của các cơ quan nhà nước từ triều đình đến tỉnh, huyện đều thu dọn các đồ văn
phòng, đặc biệt là ấn triện, niêm phong cất đi, gọi là phong (gói) ấn. Sang
giêng, tới ngày các cơ quan làm việc, thì những người giữ ấn tại các cơ quan,
lại khai (mở) ấn ra. Đó là công việc thuần túy sự vụ hành chính, không hề có
nghi lễ gì trong việc này.
THỬ DÒ TÌM TRONG LỊCH SỬ XEM CÓ THẤY “LỄ HỘI KHAI ẤN”
Nước ta bị bọn thống trị Trung Hoa đô hộ cả ngàn năm, khi giành
được quyền độc lập tự chủ vẫn phải dùng chữ Hán. Do đó về lễ nghi, phong tục
ảnh hưởng khá nhiều từ văn hóa Trung Hoa.
Tuy ảnh hưởng, nhưng văn hóa phong tục của dân tộc Việt Nam hoàn
toàn khác với người Hán, như Nguyễn Trãi từng viết trong “Cáo bình Ngô”:
Duy ngã Đại Việt chi
quốc
Thực vi văn hiến chi
bang
Sơn xuyên chi phong vực
ký thù
Nam Bắc chi phong tục
diệc dị.
(Như nhà nước Đại Việt ta
Thực là một nước văn minh
Núi sông bờ cõi đã riêng
Phong tục Bắc – Nam cũng khác)
Để xác định được khách quan, ta thử khảo sát việc lễ của Trung
Hoa, và bắt đầu từ bộ “Lễ ký” tức là sách kinh điển về việc lễ của Trung Hoa
chép từ thời cổ đại, có cả sự nghị bình từ các đời Hán - Đường - Tống - Nguyên
- Minh - Thanh.
Đọc kỹ các việc lễ ở đây từ lễ thầy học đến lễ vua chúa về đủ
mọi phương diện từ trung hiếu đến quan, hôn, tang, tế(1) vv… tuyệt nhiên không
có một thứ lễ nào gọi là “Lễ khai ấn”. Ngoài ra còn tham khảo thêm cả Kinh Thi
và Kinh Xuân Thu của chính Khổng Tử san định và trứ tác.
(1).( Quan là lễ đội mũ cho con trai đến tuổi trưởng thành. Hôn
là việc cưới hỏi. Tang công việc đối với người chết. Tế là thờ cúng tế tự.)
Lại xét trong lịch sử nước nhà thì Đại Việt sử ký toàn thư là bộ
sử lớn nhất do Lê Văn Hưu biên soạn, hoàn tất năm 1272. Sách chép từ Triệu Vũ
đế đến Lý Chiêu Hoàng. Sau Phan Phu Tiên chép tiếp từ 1223 đến 1427 gọi là Đại
Việt sử ký toàn thư tục biên. Hai bộ sử này tuy bị giặc Minh cướp và đốt hết,
nhưng khi soạn Đại Việt sử ký toàn thư (bản đang lưu hành) Ngô Sỹ Liên có sưu
tập và tham khảo cốt yếu ở hai bộ sử trên.
Sách này chép kỷ nhà Trần rất kỹ, nhưng về lễ nghi, phong tục
không thấy đề cập đến cái gọi là “Lễ khai ấn”. Và trước đó từ kỷ nhà Triệu qua
Đinh - Lê - Lý cũng không thấy bóng dáng “Lễ khai ấn”.
Tiếp nhà Nguyễn là thời đại chăm chút đến việc biên tu quốc sử
vào bậc nhất, và họ cũng để lại cho hậu thế một khối lượng sách khổng lồ ghi
chép về đủ thứ. Đặc biệt là quốc sử. Thế nhưng khảo trong bộ “Khâm định Việt sử
thông giám cương mục”, và cả bộ “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ” đều không
thể tìm ra cái gọi là “Lễ khai ấn” hoặc “Lễ hội khai ấn”.
Và điều này mới quan trọng, tức là cả bộ “Lịch triều hiến chương
loại chí” của Phan Huy Chú biên soạn hết sức công phu. Tìm khắp trong phần “Lễ
nghi chí”, có đủ các thứ lễ cực kỳ phong phú, trừ “Lễ khai ấn”…
Lại khảo thêm “Việt Nam phong tục” của Phan Kế Bính; “Việt Nam
văn hóa sử cương” của Đào Duy Anh; “Hội hè đình đám” của Toan Ánh vv… đều bặt
vắng “Lễ khai ấn”.
Tới đây có thể tạm khẳng định trong các lễ nghi, lễ thức từ làng
xã đến triều đình, từ cổ điển đến cận hiện đại của Việt Nam đều không có cái
gọi là “Lễ khai ấn” hoặc “Lễ hội khai ấn”.
Vậy “Lễ khai ấn” hiện nay đang tồn tại như một thứ dịch bệnh mọc
ra từ đâu?
SỰ KIỆN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN CHIẾC ẤN GỖ THỜI TRẦN
Đó là vào năm Mậu ngọ (1258) khi quân xâm lược Mông Cổ sắp tràn
vào bờ cõi nước ta, nội các triều đình phải sơ tán, quan chưởng ấn cất giấu ấn
báu và chỉ đem theo ấn nội mật cho gọn nhẹ. Nửa đường lại rơi mất ấn này. Vua
Trần Thái tông cho phép sai thợ khắc ấn gỗ tạm dùng thay thế.
Nhân sự kiện này Đại Việt sử ký toàn thư tờ 471 tập I Nhà xuất bản
Văn hóa Thông tin in năm 2004 chép như sau: “Khi ấy vua đem sáu quân đi chống
giặc. Quan chưởng ấn vội vàng giấu ấn báu lên rường điện Đại Minh, chỉ đem ấn
nội mật đi theo, nửa đường ấn ấy lại bị mất. Giấy tờ trong việc quân không có
ấn, vua sai thợ khắc gỗ làm ấn. Đến khi trở về kinh sư, lại có người đem dâng
ấn bị mất ấy, ấn báu giấu đi vẫn còn nguyên chỗ cũ”.
Ngoài mấy dòng trên, toàn thư không nói việc xử lý ấn ấy như thế
nào. Ví dụ như cho lưu trữ, hoặc tiêu hủy, hoặc làm lễ tạ thần linh và tiên tổ
đã phù trợ vv… Cũng từ đây Toàn thư tuyệt nhiên không nhắc gì đến chuyện ấn
chương nữa.
Ngay An Nam chí lược của Lê Tắc cũng không đả động gì đến. Lê
Tắc là người làm công việc thư lại trong phủ Trần Kiện. Ông ta là người đương
thời, cũng vào hàng thông tuệ chắc có biết việc này, nhưng không thấy Lê Tắc đề
cập gì tới chuyện lễ tiết về ấn chương trong An Nam chí lược.
Đã nói ấn chương chỉ được dùng trong bộ máy hành chính ,nó không
phải vật thiêng, không có ai tôn vinh và thờ phụng ấn, nên nó không thể hóa
thần. Vì vậy không xếp được nó vào loại lễ lạt nào hết.
Về chất liệu làm ấn nhà vua, nếu làm bằng ngọc gọi là ngọc tỉ,
nếu đúc bằng vàng gọi là kim bảo tỉ và dùng làm vật báu truyền ngôi. Tức là mỗi
khi có lễ truyền ngôi (cha truyền con nối) thì vua cũ trao ấn báu và kiếm báu
cho vua mới. Hai vật báu đó tượng trưng cho quyền uy tối thượng của nhà vua, đó
là lễ duy nhất ta thấy ấn vua xuất hiện. Ngoài ra nó được giữ trong nội mật vụ
và dùng đóng vào chiếu, chỉ của nhà vua trước khi ban hành.
Còn như “Lễ khai ấn” đền Trần năm 2000 là ấn gỗ hình vuông được
khắc vào thời Nguyễn cuối thế kỷ 19, mặt ấn có bốn chữ “ Trần miếu tự điển” tức
là điển lệ cho việc thờ tự tại đền miếu nhà Trần khu vực Tức Mạc. Hai mặt đông
tây của viền ấn khắc hai con rồng. Hai mặt viền nam bắc khắc chìm bốn chữ “Tích
phúc vô cương”. Ấn này không có giá trị, không liên quan đến ấn của các vua nhà
Trần.
Tới đây có thể khẳng định, trong lịch sử dân tộc Việt Nam từ khi
có nhà nước phong kiến đến kết thúc chế độ vương quyền (1945), không hề có “Lễ
khai ấn” hoặc “Lễ hội khai ấn” đầu năm.
VẬY LỄ HỘI KHAI ẤN ĐỀN TRẦN PHÁT SINH TỪ ĐÂU
Thật ra không nhất thiết cái gì đời trước có thì đời nay mới có,
còn cái gì đời trước không có thì đời nay không được phép có. Vì rằng từ lễ
nghi phong tục đến lễ hội, ngay cả pháp luật và tôn giáo cũng đều xuất phát từ
con người, do nhu cầu của con người mà có. Thậm chí nó còn bị xã hội điều
chỉnh, uốn nắn một cách mềm mại bằng phương pháp di phong dịch tục để cải hóa
cái lạc hậu, đón nhận cái nhân văn tiến bộ.
Khoảng vài chục năm lại đây, giới trẻ Việt Nam tiếp nhận một thứ
phong tục lạ hoắc từ phương Tây, đó là ngày “Lễ của tình yêu - ngày Valentine”.
Valentine là tên của một vị thánh - một trong những vị thánh được tôn vinh cho
tình yêu đôi lứa. Valentine rơi vào ngày 14 tháng 2 hàng năm. Đó là ngày các
đôi trai gái biểu lộ tình cảm với nhau, hẹn hò nhau hoặc cầu hôn thông qua các
món quà như thiếp chúc mừng, hoa hồng, sô - cô - la vv…
Hiện nay ngày đó tưng bừng như ngày hội của các thanh niên nam
nữ, từ thành thị tới nông thôn trên toàn cõi Việt Nam.
Rõ ràng trong lịch sử Bốn ngàn năm của Việt Nam chưa hề có “Lễ
hội tình yêu”. Nhưng ngày nay nó có, bởi nó hợp lòng người, nó là nhu cầu xuất
phát từ trái tim của phân nửa dân số Việt Nam, nên nó được hào hứng tiếp nhận,
đương nhiên nó tồn tại hợp pháp.
Thế thì “Lễ khai ấn” hoặc “Lễ hội khai ấn” đền Trần nếu xuất
phát từ nhu cầu của cộng đồng mà nó xuất hiện, tưởng cũng là chuyện bình
thường.
Tuy nhiên, nếu là chuyện bình thường, tại sao các nhà văn hóa,
báo chí và dư luận công chúng cứ công kích liền năm và ngày càng gay gắt. Hình
như trong cái gọi là “Lễ khai ấn” đền Trần đang hàm chứa nhiều điều không ổn,
không bình thường. Nếu là nhu cầu của xã hội nó phải được công chúng rộng rãi hồ
hởi đón nhận, tựa như ngày “Lễ tình yêu” chẳng hạn.
“Lễ khai ấn” đã và đang làm méo mó phong tục của nước nhà. Bởi
nó không xuất phát từ nhu cầu văn hóa hoặc nhu cầu tâm linh của cộng đồng.Nó
không hề bắt nguồn từ một truyền thống văn hóa hoặc lễ nghi phong tục nào .Vì
rằng ấn chương là việc hành chính nghiêm túc, đâu phải trò góp vui cho ngày
hội.
Nhưng liệu nó có thể bổ túc cho phần lễ có được không? Không
được! Vì rằng lễ là phần thăng hoa của tâm linh cộng đồng, còn khai ấn lại là
công việc thường hằng của thế tục.
Điều gì nảy sinh đều có nguyên nhân của nó. Vậy “Lễ khai ấn” đền
Trần nảy sinh vì nguyên nhân gì? Đó là nguyên nhân vụ lợi của nhóm lợi ích. Sau
này nhờ quảng cáo rùm beng mà “Lễ khai ấn” thu hút hàng chục vạn người, đem về
một nguồn thu ngân sách đáng kể cho tỉnh Nam Định. Như thế cũng có nghĩa nó đã
nảy sinh chuyện buôn thần bán thánh một cách hợp pháp, được chính quyền nâng
đỡ.
Lễ khai ấn đền Trần ở Tức Mạc mới xuất hiện từ năm 2000. Việc lễ
chỉ có nhà đền và vài quan chức ngành văn hóa Nam Định chủ trì. Lễ ấy không tế
rước, không huyên náo trống chiêng, nhưng diễn ra trang nghiêm, lặng lẽ.
Sau lễ, ban tổ chức có đóng dấu vào những tờ ấn đã in sẵn xếp
trên bàn cho khách xem hoặc tự lấy, coi như quà của nhà đền. Tuyệt nhiên không
có chuyện bán mua. Có người biết chữ Nho cầm đọc rồi đặt trả lại, có người
không biết chữ Nho, nhưng tò mò lấy đi một vài tờ làm kỷ niệm.
Nhớ có lần tôi và kiến trúc sư Trần Thanh Vân về Nam Định và có
ghé thăm ông Trần Văn Tuấn, bí thư tỉnh ủy, tôi có nói vài nơi xuống cấp quá
ông cần chỉ đạo việc tu bổ, nhân đó tôi đề nghị ông bàn bạc trong lãnh đạo để
Nam Định có đường phố mang tên Trần Thủ Độ. Ông bí thư tỉnh ủy nheo mắt lắc
đầu: - Khó lắm bác ạ, cả tôi và đồng chí Chủ tịch tỉnh đều họ Trần, đem tiền
ngân sách ra tu bổ nơi thờ tự nhà Trần, tránh sao khỏi dị nghị, mà kinh phí
Trung ương cấp chỉ nhỏ giọt, sửa chỗ nọ hỏng chỗ kia. Việc đặt tên Trần Thủ Độ
cho một đường phố chúng tôi chưa nghĩ đến, nhưng cũng khó đấy.
Không hiểu tại sao lúc ấy tôi không ngăn được phản ứng, liền
nói: - Sao các anh lại ngộ nhận kỳ lạ vậy, các di tích này là của cả nước, đâu
phải của riêng dòng họ nhà các anh. Trần Thủ Độ là Thái sư thống quốc của Đại
Việt có công lớn với đất nước thì nhân dân cả nước tri ân, việc ấy liên quan gì
đến mấy người họ Trần các anh. Tưởng cũng nên nhớ, nhà Trần - tức thời đại nhà
Trần của Đại Việt thế kỷ 13, chứ không phải của riêng họ Trần ngày nay đâu. Vì
vậy anh có thể kêu trước Quốc hội rằng, Nam Định phải quản lý di tích quốc gia
quá lớn, xuống cấp lắm rồi, địa phương không đủ sức, xin cả nước chung tay.
Không biết ông Trần Văn Tuấn có giận tôi không, nhưng một vài
năm sau gặp lại, ông bảo: “Chúng tôi bây giờ chỉ lo tu bổ sao cho tốt, chứ
không lo kinh phí nữa anh ạ”.
Cùng với đà di tích được tu bổ khang trang, có phần hoành tráng
nữa, khá bắt mắt với du khách, lại thêm việc tuyên truyền, cũng không loại trừ
khả năng rỉ tai về sự linh nghiệm của tờ ấn. Thêm vào đó, quan chức đầu tỉnh
đều có mặt trong lễ khai ấn, rồi lần lượt thỉnh mời được các vị cấp cao từ Nhà
nước về dự lễ khai ấn. Thế là sự linh thiêng vụt hiện, khách về dự lễ đông
không tài nào giữ được trật tự. Tỉnh phải điều động hàng rào sắt lưu động để
ngăn lối và phân luồng. Có năm huy động tới cả ngàn cảnh sát cơ động về giữ
trật tự trong ngày hội.
Nhưng trật tự vẫn không thể vãn hồi. Ta thấy khách hội trèo lên
đầu lên cổ nhau, nhảy bổ vào mâm lễ để cướp lộc.
Có thể nói “Lễ hội khai ấn” đền Trần, phần lễ là dâng hương,
phần hội là chen lấn, xô đẩy và cướp lễ làm lộc. Nhìn cảnh đó diễn đi diễn lại
trên màn hình ti vi suốt mấy năm gần đây mà thấy buồn, thấy tủi cho nền văn hóa
dân tộc đang đi chệch hướng một cách vững chắc trên nhiều bình diện.
Nhìn quang cảnh lễ hội có hàng rào sắt, có cảnh sát cơ động,
nhiều người thốt lên: “Đây là lễ hội có vũ trang, chưa từng thấy trong lịch sử
cổ kim”.
Ấn đền Trần nhờ tác động của con người, đã trở thành thứ hàng
hóa đặc biệt, nó không chỉ tràn ngập trên địa bàn Nam Định mà nó có mặt ở nhiều
tỉnh. Và lễ hội khai ấn cũng trở thành một nguồn thu ngân sách không nhỏ của
tỉnh.
Thật ra không chỉ có đền Trần Tức Mạc bán ấn như một thứ hàng
hóa, mà đền Bảo Lộc thuộc thôn Mỹ Lộc Xã Mỹ Phúc huyện Mỹ Lộc Nam Định, chỉ thờ
riêng Trần Hưng Đạo và gia thần gia tướng, cũng có lễ khai ấn. Lại còn gọi là
“Quốc ấn” nữa kia. Tại đây ấn được bán thoải mái không chỉ trong đền mà các
hàng quán quanh đền đều có bán, ai muốn mua ấn bên đền Thiên Trường cũng có
luôn. Đặc biệt khách nào muốn chuộng sự linh thiêng, tự mình đóng lấy ấn ở phía
sau hậu cung, nhà đền sẽ cho người dẫn vào, nhưng phải chui cúi qua một khuôn
của hẹp, nghĩa là phải lách nghiêng người và cúi thấp. Một bộ ấn đóng trong hậu
cung gồm: Một lá ấn, một lá bùa hộ mệnh, một tờ trấn trạch, giá 100.000đ, mua
nhiều được chiết khấu. Đọc nội dung bùa hộ mệnh thấy cả một sự nhảm nhí. Họ dám
đem cả danh tướng Trần Hưng Đạo vào việc vụ lợi.
Nối gót Nam Định, đền Trần tại xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà tỉnh
Thái Bình, mua được chiếc ấn đồng nát, cũng mở “Lễ khai ấn”. Dịch này còn
truyền tới tận Quảng Ninh. Hội tao đàn Quảng Ninh đã khai ấn qua vài năm, bị
nhiều người chê trách về phần chữ nghĩa.
Chưa hết, đền thờ Lý Thường Kiệt ở Hà Trung Thanh Hóa và đền thờ
Quang Trung trên núi Phượng Hoàng thành phố Vinh cũng đã có lễ khai ấn. Nhiều
nơi khác cũng đang tấp tểnh định vào cuộc.
Bỗng nhiên lại có tin đồn khảo cổ tìm thấy ấn gỗ, nghi là ấn gỗ
thời Trần khắc tạm trên đường lánh giặc. Báo chí rùm beng, tin đưa giật gân hết
cỡ. Ban tổ chức họp báo trong Hoàng thành Thăng Long công bố mập mờ. Nếu xuôi
lọt thì lại khai ấn trong Hoàng thành. Tuy nhiên, việc này nghe khó nuốt, bởi
các nhà báo, nhà khoa học dồn hỏi những điều cần và đủ cho một vật khai quật,
ban tổ chức nói quanh nói quẩn. Tới nay th́ sự việc dường như đã rơi vào quên
lãng.
KẾT LUẬN
1.Ấn cổ nhất hiện còn ở nước ta và xác định được niên đại là ấn
“Môn hạ sảnh” tạo tác năm Long Khánh thứ 5 (1377) đời vua Trần Duệ tông. Đây là
ấn quan chứ không phải ấn nhà vua.
Môn hạ sảnh là một trong ba cơ quan cao nhất của triều đình lập
ra để giúp việc nhà vua. Vì vậy các loại ấn tại các đền miếu nhà Trần mạo xưng
là ấn vua, đều là ấn dổm.
2. Ấn chương là công cụ biểu trưng cho quyền uy của hành chính,
pháp luật, nó không thuộc phạm trù tâm linh, tôn giáo.
Từ cổ xưa, tức là thời loài người biết tổ chức bộ máy nhà nước,
ấn chương hành chính đều thuộc phần thế tục không nằm trong khu hệ tâm linh
siêu thực. Vì vậy nó không bị điều chỉnh bởi “Lễ”.
3. Vào mùa lễ hội đền Trần, người ta đăng đi đăng lại bài báo mà
nguồn của nó có từ khóa “Hình ảnh” gọi là sưu tầm nhưng không có tên người sưu
tầm và nguồn tư liệu sưu tầm. Mở đầu nó viết: “ Lễ khai ấn” đền Trần là một tập
tục có từ thế kỷ XIII, chính xác là vào năm 1239 của triều đại nhà Trần. tại
phủ Thiên Trường, vua Trần mở tiệc chiêu đãi và phong chức tước cho những quan quân
có công. Những năm kháng chiến chống Nguyên Mông sau đó lễ khai ấn lại bị gián
đoạn cho tới năm 1262 thì được Thượng hoàng Trần Thánh tông cho mở lại…”.
Người viết bài này tỏ ra rất không am hiểu lịch sử, ngay cả điều
sơ đẳng.
Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược lần thứ nhất của quân dân
nhà Trần vào cuối năm 1257 đầu năm 1258. Và từ 1258 đến 1285, tức là 27 năm sau
mới có cuộc xâm lược lần thứ hai, lúc này gọi là nhà Nguyên, thế mà tác giả
viết: “Những năm kháng chiến chống Nguyên Mông sau đó lễ khai ấn bị gián đoạn
cho tới năm 1262 thì được Thượng hoàng Trần Thánh tông cho mở lại…”.
Trong 4 năm từ 1258 đến 1262 nước ta không hề có quân xâm lược
nào vào cõi. Vả lại lúc ấy chỉ có vua Trần Thái tông là Thượng hoàng. Trần
Thánh tông mới được cha nhường ngôi vua bốn năm. Hoàng tử Trần Khâm sau này là
vua Trần Nhân tông cũng mới bốn tuổi, sao dám gọi Trần Thánh tông là Thượng
hoàng, và nữa tên phủ Thiên Trường mới xuất hiện vào tháng 8 năm 1262, thế mà
tác giả này lại dùng nó từ năm 1239.
Những kiến văn này, học sinh cấp 2,3 đều đã được học. Liệu tác
giả này có dám chắc đã học qua phổ thông trung học? Người viết bài kiểu này quả
là kể táo tợn, dám khẳng định những điều thực ra anh ta chẳng có hiểu biết gì.
4. Năm 2012 khảo cổ học Việt Nam khai đào trong khu vực vườn
hồng, nay là nhà Quốc hội, được một chiếc ấn gỗ không có núm và đã rời thành 2
mảnh. Một mặt ấn có khắc bốn chữ “Sắc mệnh chi bảo”. Phải nói đây là một vật
quý, rất quý hiếm. Nhưng chưa xác định được niên đại, chưa công bố hồ sơ hiện
vật mà khẳng định thuộc lớp văn hóa thời Trần là vội vàng. Bởi trong lòng Thăng
Long có ít nhất bốn, năm tầng văn hóa. Lại còn có ý như đây là chiếc ấn gỗ được
khắc dùng tạm trên đường di tản trong cuộc kháng chiến 1258. Nên nhớ ấn gỗ năm
ấy Trần Thái tông cho khắc để dùng vào việc quân, không thể có chữ “sắc mệnh
chi bảo” được.
Và rồi ban quản lý Hoàng thành Thăng Long lập tức cho người ra
phố Hàng Quạt thuê thợ khắc ấn có bốn chữ “Sắc mệnh chi bảo”, và sử dụng nó một
cách lập lờ trong cái gọi là “Lễ khai ấn” trong Hoàng thành.
Ngành khảo cổ và ban quản lý di tích Hoàng thành Thăng Long là
một nhánh của các cơ quan văn hóa đầu não của cả nước, mà lại hồ đồ đến như vậy
sao?
Nếu thật sự là những nhà khoa học và quản lý văn hóa có văn hóa
của ngành văn hóa, tưởng nên có lời xin lỗi công chúng bằng văn bản, công bố
rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng.
5. Việc tạo ra một thứ lễ hội đầy chất dung tục và vụ lợi, làm
mê hoặc lòng người, bại hoại phong tục. Phải chăng đây là thứ văn hóa mụ mị độc
hại cần phải loại bỏ ngay. Liệu đây có phải là một dạng tội phạm văn hóa cần
phải truy cứu trách nhiệm hình sự không? Bởi nó làm u mê lòng người và sự lan
tỏa trong cộng đồng lại rất nhanh, rất tai hại.
Một đứa trẻ vị thành niên chỉ “chộp” một chiếc bánh mì khi nó
quá đói còn bị truy tố như loại tội phạm hình sự. Trên tinh thần nhân văn mà
nói, để cho một trẻ vị thành niên đi trộm cắp miếng ăn vì đói, lỗi ấy thuộc về
người lớn, thuộc về xã hội, chủ yếu thuộc về chính quyền, nếu chính quyền thực
sự vì dân.
Để giữ nghiêm pháp luật, bảo tồn nền văn hóa dân tộc. Tôi đề
nghị Bộ Văn hóa nên cứu xét việc này, xử lý một cách nghiêm túc và công bố công
khai cho toàn dân được biết.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Bạn đọc cảm nhận
về thơ của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
bài thơ “Quê Nghèo” của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 2l
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ
CON MUỐN VỀ QUÊ NỘI, NỘI ƠI...:
Đinh Như Quang giới thiệu
Tác giả: Hoàng Quốc Hải - nguồn: facebook
Ảnh minh họa sưu tầm từ nguồn: internet
Bài viết là quan điểm riêng của các tác giả.
0 comments:
Đăng nhận xét