ĐÀO NGŨ - Truyện ký Trần Đức Phổ (Canada)

Leave a Comment


ĐÀO NGŨ

 

(Tác giả Trần Đức Phổ)

Suốt đêm hôm qua tôi không thể nào chợp mắt. Đầu óc vẩn vơ những ý nghĩ lung tung. Không phải tôi sợ bị đưa ra chiến trường mà là thắc mắc về cách hành xử của cán bộ khung khu huấn luyện bộ đội biên phòng Gành Ráng. Quả thật, tôi cảm thấy bị xúc phạm nghiêm trọng khi tư trang của mình bị lục tung mà mình không có mặt ở đó. Tôi xâu chuỗi mọi chuyện lại với nhau và đinh ninh rằng mình bị đưa sang chiến trường K là do bài thơ gửi đăng báo tường kia. Thằng T. có lý lịch giống tôi, trình độ học vấn cũng như tôi nhưng không hề bị tống đi. Chỉ có tôi và nhà thơ Thái Đức, hai kẻ học đòi văn chương ba trợn mới bị cho đi đày không thương tiếc. Tôi nghĩ chắc có lẽ mười mấy đồng đội kia cũng đã vi phạm vào tội gì đấy. Chợt nhớ lời cô giáo dạy văn năm lớp mười thường nói, văn chương là một thứ hung khí nguy hiểm, nó có thể sát hại kẻ thù, nhưng cũng có khi làm thương tổn chính mình. Nhưng biết làm sao vứt bỏ khi lòng đã trót đam mê? Vả lại đối với tôi việc học văn làm thơ là một nỗ lực của bản thân mà có lúc tôi đã từng tự hào vì đã không ngừng cố gắng.

Đoàn xe chở toán tân binh rời khỏi doanh trại vừa lên đến đỉnh đèo An Khê thì dừng lại, nép vào một bên lề, nhường đường cho một đoàn xe nhà binh khác đang chạy ngược chiều, về hướng Quy Nhơn. Chúng tôi thấy trên mỗi chiếc xe ấy là những anh bộ đội mặt mày hốc hác, phờ phạc. Người nào cũng quấn bông băng trên đầu hoặc ở tay chân. Họ nằm ngồi la liệt trên sàn xe. Đây chính là những thương binh được chuyển về từ chiến trường K. Tuy mình mẩy đầy thương tích nhưng họ may mắn còn sống sót để quay trở lại quê hương. Lúc xe chạy ngang qua, chúng tôi đưa tay vẫy chào và họ cũng vẫy chào lại. Những gương mặt trẻ măng buồn xo.

Đang là nửa buổi trưa, nhưng bầu trời miền núi thật âm u, ảm đạm. Từng cơn gió bấc thổi se se lạnh. Tôi gài lại cổ áo kaki. Vùng đèo An Khê đồi núi chập chùng, cây cối xanh rậm rì. Khi chiếc xe ngược chiều đầu tiên vừa đi qua, thằng Minh nháy mắt ra hiệu, và giả vờ nói to:

- Thư, mày muốn đi tiểu không?

Tôi hiểu ý nó đang muốn rủ tôi bỏ trốn như đêm qua nó đã từng nói. Tôi nhìn rừng núi điệp trùng, lòng hơi e ngại. Hơn nữa không biết đoàn xe dừng lại nơi đây trong bao lâu? Chúng tôi có kịp thoát thân không? Nghĩ ngợi một chốc, tôi lắc đầu. Thằng Minh tiu nghỉu.

Mười phút sau, đoàn xe thương binh qua hết, tôi nghe có tiếng người tri hô ở phía sau, hình như ai đó đã bỏ trốn, và đã bị bắt lại. Sau một hồi lộn xộn, chúng tôi lại tiếp tục lên đường. Từ đó đoàn xe không dừng lại ở đâu nữa. Đến xế chiều thì về tới căn cứ của Trung đoàn Ba Gia (E1), thuộc Sư đoàn 2 Bộ binh, đang đóng doanh trại chờ bổ sung quân số dưới chân đèo Mang Giang, tỉnh Gia Lai-Kontum.

Khi tôi và thằng Minh được biên chế về một Trung đội pháo cối 82 ly trời đã chạng vạng. Đúng lúc đó một cơn mưa đổ xuống. Tiết trời cao nguyên thượng tuần tháng Chạp lạnh buốt về ban đêm.

Ngày hôm sau, hai đứa được tham gia học tập cùng một tổ súng cối. Biên chế vận hành súng cối 82 ly chỉ cần ba người, nhưng để tăng quân số, ở đơn vị tôi, mỗi tổ lại có bốn người. Một đồng chí chỉ huy, một đồng chí khác nạp đạn vào khẩu pháo, và thằng Minh phụ trách chuyển đạn. Tôi làm nhiện vụ quan sát mục tiêu và theo dõi tọa độ nơi đầu đạn nổ để báo cho chỉ huy điều chỉnh hướng bắn. Tiếng là làm “con mắt” cho tổ súng nhưng thật ra tôi chẳng làm gì cả. Mỗi lần tập, tôi tìm một gò đất cao, hoặc trèo lên một cái cây nào đó, đưa ống nhòm ngắm một mục tiêu, rồi báo cho chỉ huy tổ súng biết, để anh này day nòng khẩu pháo theo hướng đó hoặc nâng lên hoặc hạ xuống theo tầm đạn xa gần. Chỉ thế thôi là đã xong việc! Bởi có bắn đạn thật đâu mà biết đạn có trúng mục tiêu hay không để điều chỉnh!. Phần thằng Minh cứ vác mấy cái đầu đạn hết chạy xuôi lại chạy ngược. Khổ nhất là lúc thực tập hành quân. Mỗi lần diễn tập nó vừa mang ba lô, vừa phải mang chân pháo ba càng, mệt bở cả hơi tai. Tôi ngoài ba lô chỉ khoác khẩu AK47 trên vai, và đeo thêm cái ống nhòm toòng teng trước ngực. Những lần báo động hành quân ban đêm, thằng Minh càng vất vả. Trời tối lờ mờ, đường đi gập ghềnh mang nặng mà phải lội suối, băng rừng, leo dốc vài tiếng đồng hồ khiến nó mệt ná thở. Trên đường về nó luôn nhờ tôi vác phụ càng chân súng cối.

Tuy là ở nơi “đèo heo gió hút” nhưng cuối tuần bọn tôi cũng có được thú vui nho nhỏ. Đó là đi ra thị tứ Hà Tam dạo phố. Chiều chủ nhật đầu tiên, lúc mới đến, hai đứa theo các đồng chí lính cũ đi khám phá phố núi. Thị tứ Hà Tam (ngày nay là thị xã) nằm ngay trên trục đường Quốc lộ 19, dưới chân đèo Mang Giang là một khu thị tứ nhỏ, nghèo nàn như mọi thị tứ khác thời bấy giờ. Chúng tôi ra đây để uống rượu đế, uống cà phê đen và ghẹo các cô gái miền sơn cước. Nhưng rồi cái thú vui nhỏ nhoi tối thiểu ấy cũng không còn. Trung tuần tháng Chạp, toàn Trung đoàn có lệnh cấm trại. Trong các đơn vị đã có lời đồn râm ran rằng sau Tết, Sư 2 sẽ mở chiến dịch mùa khô tiêu diệt tàn quân Pol Pot ở các cứ điểm dọc vùng biên giới Cambodia - Thailand. Một vài đại đội đã có người đào ngũ. Tôi nghe loáng thoáng có A trưởng đã dẫn cả một tiểu đội đào thoát. Hoang mang vô cùng!

Một buổi chiều thứ bảy, tôi và thằng Minh vừa tắm xong, từ con suối gần lán trại trở về. Lúc ngang qua nơi làm việc của Trung đội trưởng, thấy có mấy đồng chí đang đứng thập thò trước cửa lán đóng kín mít. Tò mò chúng tôi đứng lại xem cho biết có chuyện gì xảy ra. Chợt nghe tiếng huỳnh huỵch... huỳnh huỵch... như có người đang đấm đá vào bao cát. Rồi có tiếng rống to lên, sau đó là tiếng khóc hụ hụ... Tôi hỏi khẽ một đồng chí đứng gần chuyện gì. Anh ta cho biết, thằng Phong sáng nay đào ngũ. Chiều nay trung đội bắt về được nên bây giờ bị ‘mần thịt’. Ai chứ thằng Phong thì tôi biết. Nó người Phú-Khánh, vừa mới đến đơn vị cùng lúc với tôi và Minh. Dáng người béo núc, lầm lì và ít nói. Không ngờ nó gan thế, một mình dám trốn trại băng rừng từ đây về Nha Trang. Tôi và thằng Minh không hỏi gì thêm, lẳng lặng đi về lán của mình.

Chiều hôm sau, thằng Minh rủ tôi lên căng tin mua quà ăn vặt. Mỗi đứa mua một miếng kẹo đậu phộng. Lúc về nửa đường, Minh bảo tôi dừng lại ngồi nghỉ trên một phiến đá bên vệ đường. Ngó trước, ngó sau không thấy ai, nó nói nhỏ chỉ vừa đủ cho tôi nghe:

- Tối nay tao bỏ trốn, mày có đi không?

Tôi suy nghĩ một chút rồi đáp:

- Tao hết tiền rồi!

Quả thật, túi tôi không còn một đồng teng, chứ không phải tôi viện cớ để từ chối khéo. Lúc tôi đi tòng quân mẹ có cho tôi một ít tiền. Số tiền đó ngày còn ở quân trường Phù Cát tôi dùng chỉnh sửa lại hai bộ quân phục mà mỗi tân binh được lãnh, để mặc cho vừa vặn. Còn lại tôi tiêu từ đó đến nay đã hết sạch. Thằng Minh vỗ vỗ vào túi áo bên ngực nói chắc nịch:

- Tao còn!

- Bao nhiêu?

- 75 đồng!

- Đủ để về tới Đức Phổ không?

- Mình về Đập Đá. Nhà chị Hai tao ở đó.

Tôi gật đầu đồng ý. Thằng Minh nói tiếp:

- Tối nay cuối phiên tao gác là 12 giờ khuya. Mày chuẩn bị mọi thứ, ngủ sớm, chừng nào tao kêu thì dậy đi!

Đêm đó, sau khi họp tiểu đội xong, tôi mắc mùng đi ngủ sớm. Tôi cởi đôi giày để bên mép phảng thay vì để ở cuối đuôi phảng như mọi hôm. Tôi tính khi thức dậy dễ tìm hơn, vì để riêng biệt ra như vạy khỏi mang nhầm giày đồng chí ngủ cạnh bên. Tôi nằm vắt tay lên trán suy nghĩ mông lung. Trong lòng tôi nửa muốn đào ngũ, nửa muốn ở lại. Ba tiếng ‘lính đào ngũ’ mới nghĩ đến thôi đã cảm thấy ê ẩm cả mặt. Tôi là người luôn luôn biết tự trọng, không muốn ai khinh bỉ là kẻ hèn nhát trốn tránh trách nhiệm. Nhưng ở lại biết chắc rằng sẽ bị đưa sang Cambodia đánh bọn Pol Pot cũng khiến tôi lo lắng, không an tâm. Hình ảnh mấy anh thương binh tay chân mặt mũi băng bó trắng toát trên đoàn xe ngược chiều ở đèo An Khê lại hiện ra trong đầu tôi. Nỗi sợ hãi bỏ xác nơi đất khách quê người làm tôi muốn bỏ trốn cùng Minh. Tôi lại nghĩ, cán bộ trại huấn luyện Gành Ráng đã quá bất công với mình khi đối xử với tôi lúc họ lục lạo tư trang của tôi chỉ vì một bài thơ chẳng có gì là phản động. Đầu óc tôi quay cuồng với muôn ngàn ý nghĩ. Tôi cũng không quyết định dứt khoát nên bỏ trốn với Minh hay ở lại. Mệt quá, tôi nhắm mắt dưỡng thần, và ngủ thiếp đi.

Mở ngoặc. Bây giờ sau một khoảng thời gian khá dài quay nhìn lại việc mình đã làm cách đây ba mươi chín năm, tôi không còn cảm thấy xấu hổ nữa. Không phải là tôi thanh minh để chữa thẹn cho mình. Nhưng nhìn vào thực tế sau đó, những gì bây giờ chúng ta đã thấy, hiển nhiên việc đưa quân sang Cambodia của cộng sản Việt Nam là một việc làm sai lầm nghiêm trọng. Tôi không dám nói là chúng tôi đào ngũ là đúng hoàn toàn, nhưng chuyện đó đã không còn khiến chính tôi cảm thấy xấu hổ và áy náy như lúc ấy nữa. Chính quyền Cambodia do cộng sản Việt Nam dựng lên là một chính quyền ăn cháo đá bát. Hàng vạn xương máu của trai tráng Việt Nam đã đổ xuống oan uổng trên một đất nước xa lạ cũng bởi cái tinh thần quốc tế vô sản chết tiệt. Nếu như ngày đó biên giới nước ta bị giặc ngoại xâm tấn công mà chúng tôi lại bỏ chạy mới là việc làm đáng xấu hổ. Còn như vì cái ảo tưởng bách chiến bách thắng của một đảng cai trị mà không tiếc sinh mạng của hàng vạn thanh niên thì đó lại là chuyện khác. Chỉ nói riêng trong chiến dịch mùa khô 1983-1984, Sư đoàn 2 đã bị hao tổn nguyên khí nghiêm trọng. Đại tá Tư lệnh sư đoàn Trương Hồng Anh (người Bình Sơn, Quảng Ngãi) tử trận trong một lần thị sát cao điểm 579. Trung đoàn Ba Gia thương vong nặng nề, sau chiến dịch phải rút về Việt Nam để bổ sung quân số. Đóng ngoặc.

Tôi đang mơ mơ màng màng thì nghe có tiếng người gọi khe khẽ:

- Thư! ... Thư! ...

Tôi mở bừng mắt. Gương mặt thằng Minh ghé sát mặt tôi. Tay nó lay lay vai tôi.

- Dậy! ... Dậy! ...

Tôi ngồi bật dậy. Tỉnh hẳn người, nhớ ngay ra là đêm nay hai đứa định bỏ trốn. Tôi nhoài người về phía cuối chỗ nằm theo thói quen, nơi vẫn thường để sẵn đôi giày. Không thấy giày đâu! Tôi quên khuấy trước khi đi ngủ đã di chuyển chúng sang phía bên tấm phảng! Thằng Minh đang bước ra cửa lán. Vội quá, tôi quyết định không tìm đôi giày mà lật đật nhảy xuống đất bước theo nó. Đi qua cửa ra vào, dưới ánh trăng lờ mờ, tôi chợt nhìn thấy thằng Minh khoác trên vai khẩu AK47. Hơi lạnh ngoài trời làm tôi tỉnh táo hẳn. Tôi liền bảo nó:

- Để súng lại!

Nó lưỡng lự. Tôi gắt khẽ:

- Mang theo súng sẽ bị truy đuổi vì tội ăn cắp vũ khí!

Thằng Minh nghe nói thế lập tức đem súng để ngay vào giá. Chúng tôi đi qua lán của Trung đội trưởng về hướng bờ suối. Một ánh đèn pin từ dãy lán đầu kia quét ngược lên. Hai đứa đứng lại. Có tiếng của Đại đội phó:

- Các đồng chí đang gác đấy à? Tỉnh táo nhé!

Chúng tôi đồng thanh đáp lại:

- Dạ vâng!... Thưa thủ trưởng!

Chờ cho C phó đi khuất, chúng tôi tiếp tục tiến ra bờ suối. Con suối này bề ngang rộng khoảng mười mét. Chỗ lội, mức nước chỉ cao chừng nửa ống quyển. Dưới đáy đầy đá cuội. Hai đầu trên và dưới con suối nước sâu hơn, trong veo. Chiều chiều khi đi tập về chúng tôi thường ra đây để tắm giặt. Qua khỏi suối là một khoảng đất có những bụi lùm thấp, rồi đến một khu rừng. Chúng tôi chưa bao giờ đi qua khỏi khu rừng đó nên khong biết con đường mòn băng qua suối dẫn đến đâu. Tôi và Minh vừa mới đến, vả lại mỗi lần hành quân diễn tập thường xảy ra vào lúc đêm khuya nên không rành rẽ đường sá vùng này. Chỉ biết đó là lối mòn duy nhất do có ngườithường đi qua lại.

Tiếng bước chân lội bì bõm trong nước của hai đứa khiến bọn tôi đâm ra lo lắng. Càng bước nhanh tiếng kêu càng to. Chỉ có quãng đường mười mét mà như dài cả cây số. Bụng dạ tôi phâp phồng. Lội vừa hết con suối hai đứa liền cắm cổ chạy thục mạng về phía khu rừng. Lúc này tôi mới biết không mang giày là một điều tai hại. Đôi vớ tôi mang khi đi ngủ vẫn còn ở trong chân, ướt sũng nước, chảy xệ khiến bước đi khó khăn vô cùng. Tôi cởi ra, quăng phức vào bụi cây bên đường. Đi dọc theo lối mòn một đoạn, tôi bảo thằng Minh rẽ phải vào khu rừng. Vì lo sợ cứ đi trên lối mòn, có người đuổi theo sau ắt sẽ bắt gặp. Dường như nó cũng toan tính như tôi, nên vừa nghe nói đã làm ngay. Hai đứa tôi mệt thì đi, khỏe thì chạy trong khu rừng đêm suốt mấy tiếng đồng hồ. Lá khô củi mục kêu lạo xạo dưới chân. Vầng trăng hạ tuần bị những đám mây che lúc tỏ lúc mờ. Cây cối lùm bụi đen ngòm chập chờn, đầy vẻ ma quái, âm u. Bọn tôi lo đào tẩu nên không còn tâm trí đâu để mà lo sợ yêu ma hay thú dữ rình rập. Ra khỏi khu rừng một quãng chúng tôi phát hiện ngay con đường nhỏ bên bờ vực sâu. Đi theo lối này hai đứa lần mò đến một cái bản của người thượng. Bản chỉ có năm bảy căn nhà sàn cất cách xa nhau, dọc theo bờ vực. Nhà nào cũng cắm một hàng chông tre nhọn hoắc ngăn cách con đường mòn với vườn rau trước nhà. Chúng tôi cố gắng bước đi thật nhanh và không gây tiếng động để tránh làm thức giấc đồng bào trong bản. Rất may là cả bản không nuôi chó.

Đi khỏi bản thượng lại đến một khu rừng cây, lá thưa thớt. Cuối khoảng rừng hiện ra một vùng đất trống mênh mông, không nhìn thấy đường lớn, cũng chẳng có lối mòn. Tôi hỏi thằng Minh:

- Đi hướng nào bây giờ?

Nó cũng chẳng biết trả lời sao. Bất chợt tôi cảm thấy đôi bàn chân đau nhói. Thì ra lúc chạy qua cánh rừng, đôi chân tôi đã dẫm đạp lên nhiều cành cây khô nên bị trầy xước chảy máu. Do hối hả bôn đào nên nãy giờ tôi không có cảm giác đau đớn. Bây giờ bình tâm trở lại cái đau mới xuất hiện. Tôi cố nhịn đau bước cho kịp thằng Minh. Dưới ánh trăng thấy bóng mình ngả dài về phía trước. Một ý nghĩ lóe sáng trong đầu tôi, tôi nói với thằng Minh.

- Cứ đi theo hướng cái bóng của mình là sẽ về tới đồng bằng!

Thằng Minh dường như cũng vừa ngộ ra, nó gật đàu tán thành. Tôi chỉ nói đại thôi chứ cũng không dám chắc, vì chẳng biết chị Hằng có lặn đúng về hướng chánh tây hay không. Nhưng đó là hướng đi duy nhất để chọn lựa trong lúc này. Tuy nghĩ vậy nhưng tôi không dám nói ra vì sợ làm thằng  Minh nhụt chí.

Đi gần hết quãng đồng không mông quạnh thì trời cũng đã gần sáng. Nhìn xa xa, dường như có một xóm nhà. Đi một lát nữa, chúng tôi thấy có ánh đèn hay bếp lửa gì đó lập lòe ở một ngôi nhà đầu xóm. Lúc này, cả hai đều mặc quân phục, nếu vào xóm chẳng khác gì để cho người ta biết mình là lính đào ngũ. Chúng tôi bàn nhau tìm đến cái nhà có ánh đèn kia để đổi quần áo.

Vừa bước đến cái cổng làm bằng tre của ngôi nhà, người đàn ông đang đứng trong sân tập thể dục đã bước ra mở ngay cho chúng tôi vào. Hình như ông ta đã quá quen thuộc với cảnh bộ đội cụ Hồ xuất hiện đột ngột như thế này. Không đợi chúng tôi mở miệng ông ta đã cất lời hỏi:

- Các anh muốn đổi quần áo?

Chúng tôi gật đầu. Ông trở vào nhà. Lát sau mang ra hai bộ quần áo cũ đưa cho Minh và tôi. Hai đứa đi lại cái đống rơm cạnh chuồng bò để thay. Thằng Minh được một bộ đồ còn khá tốt. Chiếc áo ca-rô màu đỏ sẫm dài tay. Cái quần tây màu xanh đen. Chiếc áo của tôi thì cộc tay, màu trắng nhưng đã ố vàng. Cái quần màu tiết đông cũ rích. Khi chúng tôi đưa hai bộ đồ ka-ki gần như còn mới toanh, ông chủ nhà cầm lấy nhìn thằng Minh và hỏi nó có muốn đổi đôi giày không. Thằng Minh đồng ý. Ông ta lại đi vào nhà đem ra một đôi dép râu. Thằng Minh cởi giày đưa cho ông ấy, còn đôi vớ thì đưa cho tôi mang. Tôi hỏi ông kia xin một đôi dép cũ, nhưng ông ta lắc đầu. Tôi chỉ cái nón cối màu xanh có ngôi sao vàng trong vòng tròn đỏ trên đầu thằng Minh. Nó hiểu ý cởi nón đưa cho ông ta. Ông cầm lấy đem vào nhà, rồi đem ra một cái nón cời đưa cho thằng Minh. Chúng tôi cảm thấy khát nước nên xin một ca nước lạnh để uống. Thằng Minh đội cái nón cời lên đầu. Hai đứa bước ra khỏi sân nhà. Lúc đi qua cánh cổng, không biết nghĩ sao thằng Minh cởi cái nón quăng lên hàng rào.

Đã đổi hình thay dạng, hai đứa thản nhiên theo con đường chính đi ra khỏi xóm nhà. Lúc đi đến giữa xóm thì trời đã sáng rõ. Bên đường bắt gặp một nhà đang có hỉ sự. Cái cổng được uốn cong bằng một tàu lá dừa chẻ đôi. Trên cổng có hàng chữ “Vu quy” được cắt bằng giấy màu đỏ. Tôi nói với nhà thơ Thái Đức:

- Mày làm bài thơ chúc phúc, rồi tao với mày vào đây chúc mừng cô dâu để xin ăn chực một bữa đi!

Thằng Minh bật cười khà khà.

 

Mời nhấp chuột đọc thêm:

- Chuyện làng văn0

- Kho sách0

- Các bài viết của (về) tác giả Trần Vấn Lệ0

- Các bài viết của (về) tác giả Trần Đức Phổ0

- Các bài viết của (về) tác giả Nguyễn Bàng0

- Các bài viết của (về) tác giả Dương Ninh Ninh0

- Bạn đọc cảm nhận về thơ của Đặng Xuân Xuyếnl

- Bạn đọc cảm nhận bài thơ “Quê Nghèo” của Đặng Xuân Xuyếnl

- Bạn đọc cảm nhận về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl

- Đặng Xuân Xuyến - Cảm nhận thơ văn 1l

- Đặng Xuân Xuyến - Cảm nhận thơ văn 2l

 

Mời nghe Khề Khà Truyện đọc truyện ngắn

CHUYỆN CU TỐ LÀNG TÔI của Đặng Xuân Xuyến:

*.

TRẦN ĐỨC PHỔ

Địa chỉ: 819 Kleinburg Dr, London

tỉnh bang Ontario, Canada.

Email: ducphot946@gmail.com

 

 

 

 

.............................................................................................................

- Cập nhật theo nguyên bản từ email tác giả gửi ngày 27.02.2024.

- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.

- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.

- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại. 

0 comments:

Đăng nhận xét