ĐÀO NGŨ
Suốt đêm hôm qua tôi không thể nào chợp mắt. Đầu óc vẩn vơ những ý
nghĩ lung tung. Không phải tôi sợ bị đưa ra chiến trường mà là thắc mắc về cách
hành xử của cán bộ khung khu huấn luyện bộ đội biên phòng Gành Ráng. Quả thật,
tôi cảm thấy bị xúc phạm nghiêm trọng khi tư trang của mình bị lục tung mà mình
không có mặt ở đó. Tôi xâu chuỗi mọi chuyện lại với nhau và đinh ninh rằng mình
bị đưa sang chiến trường K là do bài thơ gửi đăng báo tường kia. Thằng T. có lý
lịch giống tôi, trình độ học vấn cũng như tôi nhưng không hề bị tống đi. Chỉ có
tôi và nhà thơ Thái Đức, hai kẻ học đòi văn chương ba trợn mới bị cho đi đày không
thương tiếc. Tôi nghĩ chắc có lẽ mười mấy đồng đội kia cũng đã vi phạm vào tội
gì đấy. Chợt nhớ lời cô giáo dạy văn năm lớp mười thường nói, văn chương là một
thứ hung khí nguy hiểm, nó có thể sát hại kẻ thù, nhưng cũng có khi làm thương
tổn chính mình. Nhưng biết làm sao vứt bỏ khi lòng đã trót đam mê? Vả lại đối
với tôi việc học văn làm thơ là một nỗ lực của bản thân mà có lúc tôi đã từng
tự hào vì đã không ngừng cố gắng.
Đoàn xe chở toán tân binh rời khỏi doanh trại vừa lên đến đỉnh đèo
An Khê thì dừng lại, nép vào một bên lề, nhường đường cho một đoàn xe nhà binh
khác đang chạy ngược chiều, về hướng Quy Nhơn. Chúng tôi thấy trên mỗi chiếc xe
ấy là những anh bộ đội mặt mày hốc hác, phờ phạc. Người nào cũng quấn bông băng
trên đầu hoặc ở tay chân. Họ nằm ngồi la liệt trên sàn xe. Đây chính là những
thương binh được chuyển về từ chiến trường K. Tuy mình mẩy đầy thương tích
nhưng họ may mắn còn sống sót để quay trở lại quê hương. Lúc xe chạy ngang qua,
chúng tôi đưa tay vẫy chào và họ cũng vẫy chào lại. Những gương mặt trẻ măng
buồn xo.
Đang là nửa buổi trưa, nhưng bầu trời miền núi thật âm u, ảm đạm. Từng
cơn gió bấc thổi se se lạnh. Tôi gài lại cổ áo kaki. Vùng đèo An Khê đồi núi
chập chùng, cây cối xanh rậm rì. Khi chiếc xe ngược chiều đầu tiên vừa đi qua,
thằng Minh nháy mắt ra hiệu, và giả vờ nói to:
- Thư, mày muốn đi tiểu không?
Tôi hiểu ý nó đang muốn rủ tôi bỏ trốn như đêm qua nó đã từng nói.
Tôi nhìn rừng núi điệp trùng, lòng hơi e ngại. Hơn nữa không biết đoàn xe dừng
lại nơi đây trong bao lâu? Chúng tôi có kịp thoát thân không? Nghĩ ngợi một
chốc, tôi lắc đầu. Thằng Minh tiu nghỉu.
Mười phút sau, đoàn xe thương binh qua hết, tôi nghe có tiếng
người tri hô ở phía sau, hình như ai đó đã bỏ trốn, và đã bị bắt lại. Sau một
hồi lộn xộn, chúng tôi lại tiếp tục lên đường. Từ đó đoàn xe không dừng lại ở
đâu nữa. Đến xế chiều thì về tới căn cứ của Trung đoàn Ba Gia (E1), thuộc Sư
đoàn 2 Bộ binh, đang đóng doanh trại chờ bổ sung quân số dưới chân đèo Mang
Giang, tỉnh Gia Lai-Kontum.
Khi tôi và thằng Minh được biên chế về một Trung đội pháo cối 82
ly trời đã chạng vạng. Đúng lúc đó một cơn mưa đổ xuống. Tiết trời cao nguyên
thượng tuần tháng Chạp lạnh buốt về ban đêm.
Ngày hôm sau, hai đứa được tham gia học tập cùng một tổ súng cối.
Biên chế vận hành súng cối 82 ly chỉ cần ba người, nhưng để tăng quân số, ở đơn
vị tôi, mỗi tổ lại có bốn người. Một đồng chí chỉ huy, một đồng chí khác nạp
đạn vào khẩu pháo, và thằng Minh phụ trách chuyển đạn. Tôi làm nhiện vụ quan
sát mục tiêu và theo dõi tọa độ nơi đầu đạn nổ để báo cho chỉ huy điều chỉnh
hướng bắn. Tiếng là làm “con mắt” cho tổ súng nhưng thật ra tôi chẳng làm gì
cả. Mỗi lần tập, tôi tìm một gò đất cao, hoặc trèo lên một cái cây nào đó, đưa
ống nhòm ngắm một mục tiêu, rồi báo cho chỉ huy tổ súng biết, để anh này day
nòng khẩu pháo theo hướng đó hoặc nâng lên hoặc hạ xuống theo tầm đạn xa gần.
Chỉ thế thôi là đã xong việc! Bởi có bắn đạn thật đâu mà biết đạn có trúng mục
tiêu hay không để điều chỉnh!. Phần thằng Minh cứ vác mấy cái đầu đạn hết chạy
xuôi lại chạy ngược. Khổ nhất là lúc thực tập hành quân. Mỗi lần diễn tập nó
vừa mang ba lô, vừa phải mang chân pháo ba càng, mệt bở cả hơi tai. Tôi ngoài
ba lô chỉ khoác khẩu AK47 trên vai, và đeo thêm cái ống nhòm toòng teng trước
ngực. Những lần báo động hành quân ban đêm, thằng Minh càng vất vả. Trời tối lờ
mờ, đường đi gập ghềnh mang nặng mà phải lội suối, băng rừng, leo dốc vài tiếng
đồng hồ khiến nó mệt ná thở. Trên đường về nó luôn nhờ tôi vác phụ càng chân
súng cối.
Tuy là ở nơi “đèo heo gió hút” nhưng cuối tuần bọn tôi cũng có
được thú vui nho nhỏ. Đó là đi ra thị tứ Hà Tam dạo phố. Chiều chủ nhật đầu
tiên, lúc mới đến, hai đứa theo các đồng chí lính cũ đi khám phá phố núi. Thị
tứ Hà Tam (ngày nay là thị xã) nằm ngay trên trục đường Quốc lộ 19, dưới chân
đèo Mang Giang là một khu thị tứ nhỏ, nghèo nàn như mọi thị tứ khác thời bấy
giờ. Chúng tôi ra đây để uống rượu đế, uống cà phê đen và ghẹo các cô gái miền
sơn cước. Nhưng rồi cái thú vui nhỏ nhoi tối thiểu ấy cũng không còn. Trung
tuần tháng Chạp, toàn Trung đoàn có lệnh cấm trại. Trong các đơn vị đã có lời
đồn râm ran rằng sau Tết, Sư 2 sẽ mở chiến dịch mùa khô tiêu diệt tàn quân Pol
Pot ở các cứ điểm dọc vùng biên giới Cambodia - Thailand. Một vài đại đội đã có
người đào ngũ. Tôi nghe loáng thoáng có A trưởng đã dẫn cả một tiểu đội đào
thoát. Hoang mang vô cùng!
Một buổi chiều thứ bảy, tôi và thằng Minh vừa tắm xong, từ con
suối gần lán trại trở về. Lúc ngang qua nơi làm việc của Trung đội trưởng, thấy
có mấy đồng chí đang đứng thập thò trước cửa lán đóng kín mít. Tò mò chúng tôi
đứng lại xem cho biết có chuyện gì xảy ra. Chợt nghe tiếng huỳnh huỵch... huỳnh
huỵch... như có người đang đấm đá vào bao cát. Rồi có tiếng rống to lên, sau đó
là tiếng khóc hụ hụ... Tôi hỏi khẽ một đồng chí đứng gần chuyện gì. Anh ta cho
biết, thằng Phong sáng nay đào ngũ. Chiều nay trung đội bắt về được nên bây giờ
bị ‘mần thịt’. Ai chứ thằng Phong thì tôi biết. Nó người Phú-Khánh, vừa mới đến
đơn vị cùng lúc với tôi và Minh. Dáng người béo núc, lầm lì và ít nói. Không
ngờ nó gan thế, một mình dám trốn trại băng rừng từ đây về Nha Trang. Tôi và
thằng Minh không hỏi gì thêm, lẳng lặng đi về lán của mình.
Chiều hôm sau, thằng Minh rủ tôi lên căng tin mua quà ăn vặt. Mỗi
đứa mua một miếng kẹo đậu phộng. Lúc về nửa đường, Minh bảo tôi dừng lại ngồi
nghỉ trên một phiến đá bên vệ đường. Ngó trước, ngó sau không thấy ai, nó nói
nhỏ chỉ vừa đủ cho tôi nghe:
- Tối nay tao bỏ trốn, mày có đi không?
Tôi suy nghĩ một chút rồi đáp:
- Tao hết tiền rồi!
Quả thật, túi tôi không còn một đồng teng, chứ không phải tôi viện
cớ để từ chối khéo. Lúc tôi đi tòng quân mẹ có cho tôi một ít tiền. Số tiền đó
ngày còn ở quân trường Phù Cát tôi dùng chỉnh sửa lại hai bộ quân phục mà mỗi
tân binh được lãnh, để mặc cho vừa vặn. Còn lại tôi tiêu từ đó đến nay đã hết
sạch. Thằng Minh vỗ vỗ vào túi áo bên ngực nói chắc nịch:
- Tao còn!
- Bao nhiêu?
- 75 đồng!
- Đủ để về tới Đức Phổ không?
- Mình về Đập Đá. Nhà chị Hai tao ở đó.
Tôi gật đầu đồng ý. Thằng Minh nói tiếp:
- Tối nay cuối phiên tao gác là 12 giờ khuya. Mày chuẩn bị mọi
thứ, ngủ sớm, chừng nào tao kêu thì dậy đi!
Đêm đó, sau khi họp tiểu đội xong, tôi mắc mùng đi ngủ sớm. Tôi
cởi đôi giày để bên mép phảng thay vì để ở cuối đuôi phảng như mọi hôm. Tôi
tính khi thức dậy dễ tìm hơn, vì để riêng biệt ra như vạy khỏi mang nhầm giày
đồng chí ngủ cạnh bên. Tôi nằm vắt tay lên trán suy nghĩ mông lung. Trong lòng
tôi nửa muốn đào ngũ, nửa muốn ở lại. Ba tiếng ‘lính đào ngũ’ mới nghĩ đến thôi
đã cảm thấy ê ẩm cả mặt. Tôi là người luôn luôn biết tự trọng, không muốn ai
khinh bỉ là kẻ hèn nhát trốn tránh trách nhiệm. Nhưng ở lại biết chắc rằng sẽ
bị đưa sang Cambodia đánh bọn Pol Pot cũng khiến tôi lo lắng, không an tâm.
Hình ảnh mấy anh thương binh tay chân mặt mũi băng bó trắng toát trên đoàn xe
ngược chiều ở đèo An Khê lại hiện ra trong đầu tôi. Nỗi sợ hãi bỏ xác nơi đất
khách quê người làm tôi muốn bỏ trốn cùng Minh. Tôi lại nghĩ, cán bộ trại huấn
luyện Gành Ráng đã quá bất công với mình khi đối xử với tôi lúc họ lục lạo tư
trang của tôi chỉ vì một bài thơ chẳng có gì là phản động. Đầu óc tôi quay
cuồng với muôn ngàn ý nghĩ. Tôi cũng không quyết định dứt khoát nên bỏ trốn với
Minh hay ở lại. Mệt quá, tôi nhắm mắt dưỡng thần, và ngủ thiếp đi.
Mở ngoặc. Bây giờ sau một khoảng thời gian khá dài quay nhìn lại
việc mình đã làm cách đây ba mươi chín năm, tôi không còn cảm thấy xấu hổ nữa.
Không phải là tôi thanh minh để chữa thẹn cho mình. Nhưng nhìn vào thực tế sau
đó, những gì bây giờ chúng ta đã thấy, hiển nhiên việc đưa quân sang Cambodia
của cộng sản Việt Nam là một việc làm sai lầm nghiêm trọng. Tôi không dám nói
là chúng tôi đào ngũ là đúng hoàn toàn, nhưng chuyện đó đã không còn khiến
chính tôi cảm thấy xấu hổ và áy náy như lúc ấy nữa. Chính quyền Cambodia do
cộng sản Việt Nam dựng lên là một chính quyền ăn cháo đá bát. Hàng vạn xương
máu của trai tráng Việt Nam đã đổ xuống oan uổng trên một đất nước xa lạ cũng
bởi cái tinh thần quốc tế vô sản chết tiệt. Nếu như ngày đó biên giới nước ta
bị giặc ngoại xâm tấn công mà chúng tôi lại bỏ chạy mới là việc làm đáng xấu
hổ. Còn như vì cái ảo tưởng bách chiến bách thắng của một đảng cai trị mà không
tiếc sinh mạng của hàng vạn thanh niên thì đó lại là chuyện khác. Chỉ nói riêng
trong chiến dịch mùa khô 1983-1984, Sư đoàn 2 đã bị hao tổn nguyên khí nghiêm
trọng. Đại tá Tư lệnh sư đoàn Trương Hồng Anh (người Bình Sơn, Quảng Ngãi) tử
trận trong một lần thị sát cao điểm 579. Trung đoàn Ba Gia thương vong nặng nề,
sau chiến dịch phải rút về Việt Nam để bổ sung quân số. Đóng ngoặc.
Tôi đang mơ mơ màng màng thì nghe có tiếng người gọi khe khẽ:
- Thư! ... Thư! ...
Tôi mở bừng mắt. Gương mặt thằng Minh ghé sát mặt tôi. Tay nó lay
lay vai tôi.
- Dậy! ... Dậy! ...
Tôi ngồi bật dậy. Tỉnh hẳn người, nhớ ngay ra là đêm nay hai đứa
định bỏ trốn. Tôi nhoài người về phía cuối chỗ nằm theo thói quen, nơi vẫn
thường để sẵn đôi giày. Không thấy giày đâu! Tôi quên khuấy trước khi đi ngủ đã
di chuyển chúng sang phía bên tấm phảng! Thằng Minh đang bước ra cửa lán. Vội
quá, tôi quyết định không tìm đôi giày mà lật đật nhảy xuống đất bước theo nó.
Đi qua cửa ra vào, dưới ánh trăng lờ mờ, tôi chợt nhìn thấy thằng Minh khoác
trên vai khẩu AK47. Hơi lạnh ngoài trời làm tôi tỉnh táo hẳn. Tôi liền bảo nó:
- Để súng lại!
Nó lưỡng lự. Tôi gắt khẽ:
- Mang theo súng sẽ bị truy đuổi vì tội ăn cắp vũ khí!
Thằng Minh nghe nói thế lập tức đem súng để ngay vào giá. Chúng
tôi đi qua lán của Trung đội trưởng về hướng bờ suối. Một ánh đèn pin từ dãy
lán đầu kia quét ngược lên. Hai đứa đứng lại. Có tiếng của Đại đội phó:
- Các đồng chí đang gác đấy à? Tỉnh táo nhé!
Chúng tôi đồng thanh đáp lại:
- Dạ vâng!... Thưa thủ trưởng!
Chờ cho C phó đi khuất, chúng tôi tiếp tục tiến ra bờ suối. Con
suối này bề ngang rộng khoảng mười mét. Chỗ lội, mức nước chỉ cao chừng nửa ống
quyển. Dưới đáy đầy đá cuội. Hai đầu trên và dưới con suối nước sâu hơn, trong
veo. Chiều chiều khi đi tập về chúng tôi thường ra đây để tắm giặt. Qua khỏi
suối là một khoảng đất có những bụi lùm thấp, rồi đến một khu rừng. Chúng tôi
chưa bao giờ đi qua khỏi khu rừng đó nên khong biết con đường mòn băng qua suối
dẫn đến đâu. Tôi và Minh vừa mới đến, vả lại mỗi lần hành quân diễn tập thường
xảy ra vào lúc đêm khuya nên không rành rẽ đường sá vùng này. Chỉ biết đó là
lối mòn duy nhất do có ngườithường đi qua lại.
Tiếng bước chân lội bì bõm trong nước của hai đứa khiến bọn tôi
đâm ra lo lắng. Càng bước nhanh tiếng kêu càng to. Chỉ có quãng đường mười mét
mà như dài cả cây số. Bụng dạ tôi phâp phồng. Lội vừa hết con suối hai đứa liền
cắm cổ chạy thục mạng về phía khu rừng. Lúc này tôi mới biết không mang giày là
một điều tai hại. Đôi vớ tôi mang khi đi ngủ vẫn còn ở trong chân, ướt sũng
nước, chảy xệ khiến bước đi khó khăn vô cùng. Tôi cởi ra, quăng phức vào bụi
cây bên đường. Đi dọc theo lối mòn một đoạn, tôi bảo thằng Minh rẽ phải vào khu
rừng. Vì lo sợ cứ đi trên lối mòn, có người đuổi theo sau ắt sẽ bắt gặp. Dường
như nó cũng toan tính như tôi, nên vừa nghe nói đã làm ngay. Hai đứa tôi mệt
thì đi, khỏe thì chạy trong khu rừng đêm suốt mấy tiếng đồng hồ. Lá khô củi mục
kêu lạo xạo dưới chân. Vầng trăng hạ tuần bị những đám mây che lúc tỏ lúc mờ.
Cây cối lùm bụi đen ngòm chập chờn, đầy vẻ ma quái, âm u. Bọn tôi lo đào tẩu nên
không còn tâm trí đâu để mà lo sợ yêu ma hay thú dữ rình rập. Ra khỏi khu rừng
một quãng chúng tôi phát hiện ngay con đường nhỏ bên bờ vực sâu. Đi theo lối
này hai đứa lần mò đến một cái bản của người thượng. Bản chỉ có năm bảy căn nhà
sàn cất cách xa nhau, dọc theo bờ vực. Nhà nào cũng cắm một hàng chông tre nhọn
hoắc ngăn cách con đường mòn với vườn rau trước nhà. Chúng tôi cố gắng bước đi
thật nhanh và không gây tiếng động để tránh làm thức giấc đồng bào trong bản.
Rất may là cả bản không nuôi chó.
Đi khỏi bản thượng lại đến một khu rừng cây, lá thưa thớt. Cuối
khoảng rừng hiện ra một vùng đất trống mênh mông, không nhìn thấy đường lớn,
cũng chẳng có lối mòn. Tôi hỏi thằng Minh:
- Đi hướng nào bây giờ?
Nó cũng chẳng biết trả lời sao. Bất chợt tôi cảm thấy đôi bàn chân
đau nhói. Thì ra lúc chạy qua cánh rừng, đôi chân tôi đã dẫm đạp lên nhiều cành
cây khô nên bị trầy xước chảy máu. Do hối hả bôn đào nên nãy giờ tôi không có
cảm giác đau đớn. Bây giờ bình tâm trở lại cái đau mới xuất hiện. Tôi cố nhịn đau
bước cho kịp thằng Minh. Dưới ánh trăng thấy bóng mình ngả dài về phía trước.
Một ý nghĩ lóe sáng trong đầu tôi, tôi nói với thằng Minh.
- Cứ đi theo hướng cái bóng của mình là sẽ về tới đồng bằng!
Thằng Minh dường như cũng vừa ngộ ra, nó gật đàu tán thành. Tôi
chỉ nói đại thôi chứ cũng không dám chắc, vì chẳng biết chị Hằng có lặn đúng về
hướng chánh tây hay không. Nhưng đó là hướng đi duy nhất để chọn lựa trong lúc
này. Tuy nghĩ vậy nhưng tôi không dám nói ra vì sợ làm thằng Minh nhụt chí.
Đi gần hết quãng đồng không mông quạnh thì trời cũng đã gần sáng.
Nhìn xa xa, dường như có một xóm nhà. Đi một lát nữa, chúng tôi thấy có ánh đèn
hay bếp lửa gì đó lập lòe ở một ngôi nhà đầu xóm. Lúc này, cả hai đều mặc quân
phục, nếu vào xóm chẳng khác gì để cho người ta biết mình là lính đào ngũ.
Chúng tôi bàn nhau tìm đến cái nhà có ánh đèn kia để đổi quần áo.
Vừa bước đến cái cổng làm bằng tre của ngôi nhà, người đàn ông
đang đứng trong sân tập thể dục đã bước ra mở ngay cho chúng tôi vào. Hình như
ông ta đã quá quen thuộc với cảnh bộ đội cụ Hồ xuất hiện đột ngột như thế này.
Không đợi chúng tôi mở miệng ông ta đã cất lời hỏi:
- Các anh muốn đổi quần áo?
Chúng tôi gật đầu. Ông trở vào nhà. Lát sau mang ra hai bộ quần áo
cũ đưa cho Minh và tôi. Hai đứa đi lại cái đống rơm cạnh chuồng bò để thay.
Thằng Minh được một bộ đồ còn khá tốt. Chiếc áo ca-rô màu đỏ sẫm dài tay. Cái
quần tây màu xanh đen. Chiếc áo của tôi thì cộc tay, màu trắng nhưng đã ố vàng.
Cái quần màu tiết đông cũ rích. Khi chúng tôi đưa hai bộ đồ ka-ki gần như còn
mới toanh, ông chủ nhà cầm lấy nhìn thằng Minh và hỏi nó có muốn đổi đôi giày
không. Thằng Minh đồng ý. Ông ta lại đi vào nhà đem ra một đôi dép râu. Thằng
Minh cởi giày đưa cho ông ấy, còn đôi vớ thì đưa cho tôi mang. Tôi hỏi ông kia
xin một đôi dép cũ, nhưng ông ta lắc đầu. Tôi chỉ cái nón cối màu xanh có ngôi
sao vàng trong vòng tròn đỏ trên đầu thằng Minh. Nó hiểu ý cởi nón đưa cho ông
ta. Ông cầm lấy đem vào nhà, rồi đem ra một cái nón cời đưa cho thằng Minh.
Chúng tôi cảm thấy khát nước nên xin một ca nước lạnh để uống. Thằng Minh đội
cái nón cời lên đầu. Hai đứa bước ra khỏi sân nhà. Lúc đi qua cánh cổng, không
biết nghĩ sao thằng Minh cởi cái nón quăng lên hàng rào.
Đã đổi hình thay dạng, hai đứa thản nhiên theo con đường chính đi
ra khỏi xóm nhà. Lúc đi đến giữa xóm thì trời đã sáng rõ. Bên đường bắt gặp một
nhà đang có hỉ sự. Cái cổng được uốn cong bằng một tàu lá dừa chẻ đôi. Trên
cổng có hàng chữ “Vu quy” được cắt bằng giấy màu đỏ. Tôi nói với nhà thơ Thái
Đức:
- Mày làm bài thơ chúc phúc, rồi tao với mày vào đây chúc mừng cô
dâu để xin ăn chực một bữa đi!
Thằng Minh bật cười khà khà.
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Các bài viết của
(về) tác giả Trần Vấn Lệ0
- Các bài viết của
(về) tác giả Trần Đức Phổ0
- Các bài viết của
(về) tác giả Nguyễn Bàng0
- Các bài viết của
(về) tác giả Dương Ninh Ninh0
- Bạn đọc cảm nhận
về thơ của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
bài thơ “Quê Nghèo” của Đặng Xuân Xuyếnl
- Bạn đọc cảm nhận
về một số tác phẩm của Đặng Xuân Xuyếnl
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 1l
- Đặng Xuân Xuyến
- Cảm nhận thơ văn 2l
Mời nghe Khề Khà Truyện đọc truyện
ngắn
CHUYỆN CU TỐ LÀNG TÔI của Đặng
Xuân Xuyến:
*.
TRẦN ĐỨC PHỔ
Địa chỉ: 819 Kleinburg Dr,
London
tỉnh bang Ontario, Canada.
Email: ducphot946@gmail.com
.............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản từ email tác giả gửi ngày 27.02.2024.
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện
quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét