NGÀY BÉ HỌC VĂN
Tỉnh Quảng Ngãi được “giải phóng” tháng ba năm 1975. Đến tháng
chín bắt đầu khai giảng các lớp học phổ thông. Trước đó một tháng, nhà trường
đã thông báo ghi danh cho năm học mới. Xóm tôi lũ trẻ vui mừng nô nức ghi tên nhập
học. Tôi cũng hăng hái điền tên mình vào danh sách học sinh lớp bốn. Tôi đã
mười hai tuổi, tự mình biết đi làm lấy, không còn phải nhờ đến mẹ hay các chị.
Tên tôi trong giấy khai sinh cũ là Trần Đình Thư. Khi tôi mới về
quê có một bác nói với tôi:
- Cái họ Trần Đình của mày
nghe sao nó giống Bắc Kỳ!
Tôi hỏi lại:
- Chớ bác bảo người Trung
mình thì lót chữ gì?
- Văn. Trần Văn!
Thế là khi ghi danh đi học người ta hỏi tên gì, tôi không suy nghĩ
mà đáp:
- Trần Văn Thư.
Vậy là chữ lót Văn từ đó dính liền với tôi. Có phải vì vậy mà lớn
lên chút nữa tôi luôn mê thích văn chương và mộng làm “nhà thơ, nhà văn” chăng?
Tuy nhiên, tôi cũng tự biết để trở thành thi sĩ, văn sĩ đâu có dễ! Lập thân
bằng con đường văn chương chông gai trùng trùng nên khi trưởng thành tôi đã
chọn học ngành điện tử để cho dễ kiếm cơm. Dù vậy cái máu mê thơ văn cũng khó
mà bỏ được.
Năm đầu tiên dưới mái trường xã hội chủ nghĩa tôi vào học lớp bốn.
Lúc đó môn văn của tôi dở tệ. Bài văn nào cũng chỉ được điểm ba, điểm bốn. Các
chị tôi đã đi lấy chồng cả rồi. Mẹ tôi bận bịu với công việc đồng áng, nương
rẫy nên để mặc tôi tự học hành. Môn văn kém là vì cơ bản tôi thiếu vốn từ vựng,
và không biết kỹ thuật làm một bài văn. Trước năm 1975, tôi chỉ mới học xong
lớp hai, rồi nghỉ vì nhà không đủ tiền đóng học phí cho cả hai anh em. Lúc ghi
danh thấy mấy đứa bạn cùng trang lứa xin vào lớp bốn, tôi cũng nhảy cóc theo,
bỏ qua lớp ba. Về môn toán cộng trừ nhân chia nên không có vấn đề. Còn môn văn,
là đứa trẻ không giàu trí tưởng tượng, lại thiếu nguồn sách báo để đọc nên tôi
dốt đặc cán mai. Thầy giáo năm lớp bốn vốn là một thương binh bị cụt mất một
cánh tay, do thiếu thầy cô nên được nhà trường cho vào biên chế nhà giáo. Nghe
nói thầy chỉ mới học xong lớp năm bổ túc văn hóa, không có kiến thức sư phạm.
Bởi vậy sự truyền đạt bộ môn xã hội, văn chương cho học sinh của thầy còn khá
nhiều hạn chế. Thầy dở làm sao có trò hay?. Mỗi lần phát bài tập làm văn, tôi
luôn giấu nhẹm, không dám cho bạn bè coi, sợ bị chê cười.
Một ngày nọ, đến nhà thằng bạn Lê Thanh Hưng chơi, cái thằng ngày
đầu tiên đi học đã cùng tôi bị ông giáo già nhốt trong lớp lúc ở Sa Huỳnh. Thấy
nó đang cầm một cuốn sách đọc chăm chú, tôi rất lấy làm kỳ lạ. Thằng này lười
đọc sách số một. Chắc cuốn này có gì hấp dẫn lắm đây? Tôi chưa kịp hỏi, nhưng
thấy tôi, nó đã chìa quyển sách cho xem. Bìa sách màu cam đã bạc thếch, nhiều
chỗ trầy tróc nhưng hàng chữ nhan đề vẫn còn nhìn rõ. Tôi đọc lẩm nhẩm: “150
bài văn mẫu.” Ôi! Đúng là cuốn sách tôi đang cần! Mừng quá, tôi hỏi Hưng mượn
luôn! Thằng này từ thời còn ở Sa Huỳnh đã luôn thân thiết với tôi. Lúc nhà tôi
chuyển vào Nha Trang thì gia đình nó dời đi Đà Nẵng. Thời cha tôi còn sống mẹ
nó thường vay tiền của mẹ tôi. Khi vào Nha Trang mẹ tôi đã phải ra tận Đà Nẵng
để đòi nợ. Suốt cả những năm học tiểu học thằng Hưng và tôi luôn ngồi cạnh
nhau. Tôi vẫn thường cho nó cọp dê bài tập nên nó xem tôi gần như là anh em. Có
gì ăn hoặc chơi nó đều sẵn sàng chia sẻ với tôi. Có lần tôi và đứa cậu ruột của
nó đánh nhau, nó không bênh cậu mà lại bênh tôi. Đem sách về nhà, tôi say sưa
đọc ngốn ngấu. Gặp được bí kíp phen này tôi quyết chí luyện cho được công phu
tập làm văn. Vốn có trí nhớ khá tốt tôi học thuộc lòng dễ dàng nhiều câu văn,
đoạn văn hay trong sách. Đồng thời tôi ngộ ra được cách lập dàn bài, lập ý cũng
như trình tự thời gian, không gian khi làm một bài văn miêu tả hoặc tường
thuật.
Nhờ đọc cuốn sách đó mà sau này các bài tập làm văn của tôi đã đạt
từ sáu đến bảy điểm, đôi lần còn được tám điểm. Cuối lớp năm, tôi được nhà
trường cử đi thi học sinh giỏi văn của huyện nhà. Nhưng kết quả cuộc thi tôi đã
bị trượt dài. Dù sao cái đà học văn của tôi vẫn tiến bộ kể từ đó. Năm thi lên
lớp mười, làm bài luận về tác phẩm Cây Tre Việt Nam của nhà văn Thép Mới, tôi
đã hoàn thành khá xuất sắc. Cũng nhờ bài luận này mà suốt cả năm học lớp mười
được cô giáo dạy môn văn tỏ ra ưu ái nhiều hơn. Tuổi cô còn rất trẻ. Theo lời
cô thì vừa tốt nghiệp Đại học Sư Phạm Quy Nhơn là cô được phân công về trường
Phổ thông Cấp ba Đức Phổ. Cô là người Quảng Trị. Giọng nói trọ trẹ nhưng cũng
dẽ nghe. Tuy cô không xinh đẹp nhưng giảng bài rất hay nên được đông đảo học
trò yêu mến. Nhiều đứa bạn tôi bây giờ mỗi lần họp mặt bạn cũ vẫn thường hỏi
thăm và nhắc nhiều kỷ niệm về cô.
Tôi nhớ có một hôm cô giáo đang giảng bài về ‘câu văn có hình ảnh,’
cả lớp tập trung, chú ý lắng nghe. Tôi vừa nghe, vừa cúi mặt xuống gầm bàn.
Trong hộc bàn cuốn Sông Thami Trong Xanh, một quyển tiểu thuyết hiếm hoi của
văn học cách mạng Mông Cổ mở ra đang đọc dở dang. Đột nhiên tôi nghe tiếng cô
gọi:
- Thư!
Tôi giật nẩy mình ngẩng lên
nhìn cô, thưa:
- Dạ...
- Em hãy cho ví dụ về một câu văn có hình ảnh!
Tôi đứng dậy, lúng túng, dáo dát nhìn xung quanh nhờ đám bạn trợ
giúp. Không đứa nào nhắc hộ. Tôi quay nhìn ra cửa sổ. Một làn gió thổi qua làm
rung động nhánh phượng vỹ, một chiếc lá khô nhẹ nhàng lìa cành. Câu văn thoáng
qua trong đầu tôi trong tích tắc. Tôi đáp:
- Thưa cô... Mùa thu, lá
vàng rơi lả tả.
Cô giáo nghe xong mỉm cười, ra hiệu cho tôi ngồi xuống, rồi nói
với cả lớp:
- Đấy là một câu văn có hình ảnh và màu sắc. Các em hiểu chưa?
Lúc chia tay mùa hè, tôi đến thăm để từ biệt cô ở khu tập thể giáo
viên. Cô đã khiến tôi rất cảm động. Cô dẫn tôi về căn phòng nhỏ, lấy bài thi
văn cuối học kỳ hai đưa cho tôi xem. Bài văn có hai khoanh tròn ghi chữ số màu
đỏ. Một khoanh ghi số năm, khoanh kia ghi số bảy. Không chờ tôi hỏi, cô đã giải
thích:
- Bài văn của em lúc đầu cô H. chấm năm điểm. Nhưng khi cô đọc lại
đã cho bảy điểm. Tôi ngước mắt nhìn cô thay cho câu hỏi tại sao. Cô giải thích:
- Đọc thơ văn mỗi người đều có cảm nhận khác nhau. Giọng văn của
em cô thích nên mới cho thêm điểm, còn người khác không hẳn vừa ý, cho nên chấm
điểm thấp là chuyện cũng bình thường... Cô vừa là giáo viên dạy bộ môn văn, vừa
là chủ nhiệm lớp nên có quyền quyết định số điểm cuối cùng.
Tôi thầm cảm ơn cô và nghĩ rằng cô nói rất chí lý. Bất chợt nhớ
lại câu chuyện buồn cười về một bài ca dao tình cờ tôi đọc được ngày còn bé.
Lấy chồng từ thuở mười
lăm,
Chồng chê tôi bé không
nằm cùng tôi.
Đến khi mười tám đôi
mươi,
Tôi nằm dưới đất, chồng
lôi lên giường.
Một rằng thương, hai rằng
thương,
Có bốn chân giường gãy
một còn ba.
Ai về nhắn với mẹ cha,
Chồng tôi nay đã giao hoà
cùng tôi.
Đối diện với nhà tôi là nhà một người bà con trong họ xa. Một buổi
chiều, năm tôi học lớp năm, lớp cuối cùng của bậc tiểu học, tôi sang đó ngồi
chơi. Cả nhà đi vắng, chỉ có cô con gái út tên M. đang ngồi học bài nơi gian
giữa. Cô này lớn hơn tôi một tuổi đang học lớp sáu. Nhưng theo vai vế trong họ
tôi phải kêu bằng “bà cô”. Thấy trên tấm phảng có cuốn sách dày cộp ghi hàng
chữ dài ngoằn “ Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam,” tôi liền mở ra đọc. Cái bài
tôi đọc trúng bữa ấy chính là bài ca dao nói trên. Đọc xong tôi hỏi ‘bà cô’:
- Cô đọc bài này chưa?
- Bài nào?
Tôi đọc to cả bài một lần. Nghe xong, bà cô liền “xí” một tiếng và
phán:
- Đọc chi cái bài tào lao đó!
Cho dù chẳng hiểu hết nội dung ý nghĩa từ bài thơ, nhưng tôi hồi
nhỏ không thích mấy đứa con gái tỏ ra khôn hơn mình dẫu là bà cô cũng vậy, nên
cãi:
- Hay mà! ... Nhưng có chỗ tui không hiểu!
- Không hiểu chỗ nào?
Tôi đọc lại cái chỗ không hiểu cho bà cô trẻ nghe:
- Một rằng thương, hai rằng thương,
Có bốn chân giường gãy một còn ba.
Lạ quá! ... Sao nói thương mà lại gãy cả chân giường? ... Tui
không hiểu!
Bà cô đỏ cả mặt, giật cuốn sách trong tay tôi đang cầm và đuổi tôi
về:
- Thôi, về đi cho tao học bài!
Tôi ra về mà bụng còn thắc mắc mãi về cái câu thơ chết tiệt trên!
Tôi nghĩ chắc có lẽ là do cái giường ọp ẹp nên không đủ sức chứa trọng lượng
của hai người cùng nằm lên chứ gì? Hoặc giả cái chốt tre lâu ngày teo lại, còn
cái lỗ mộng rộng thêm ra nên bị lỏng cũng nên? Nghĩ như vậy tôi cho là đúng nên
không còn thắc mắc gì nữa.
Năm học lớp chín, mấy đứa bạn của tôi không biết cũng đã đọc được
ở đâu bài ca dao trên (vì sách Trích giảng văn học không có dạy) rồi đem ra bàn
tán. Lúc này, bọn tôi đều lớn tồng ngồng rồi, mười sáu mười bảy tuổi cả nên
cũng biết đôi chút về chuyện gái trai. Một đứa nói:
- Cái anh chồng này cũng vũ phu gớm!
- Sao lại nói thế?
- Cô vợ nằm dưới đất, chồng không bế lên giường lại “lôi” lên mà
không vũ phu à?
- Nhưng nhỡ cô vợ béo tốt còn anh chồng ốm yếu thì sao?
- Mày đần vừa thôi! ... Có bốn chân giường làm cho gãy một còn ba
mà ốm yếu à?
Cả bọn cười ồ tán thưởng!
Mời nhấp chuột đọc thêm:
- Thơ về rượu của
Đặng Xuân Xuyếnl
- Hỏi chuyện Meta
AI về nhà thơ Ái Nhân Bùi Cao Thếl
- Trò chuyện với
Meta AI về “Bài thơ áo trắng” của Trần Mạnh Hảol
- Phiếm đàm ngoài
lề về thơ ca cùng AIl
- “Ký ức đêm” của
Đặng Xuân Xuyến: những khoảnh khắc thơ hay hay những mảnh vụn ngôn từl
- Các bài viết của
(về) tác giả Trần Vấn Lệ0
- Các bài viết của
(về) tác giả Trần Đức Phổ0
- Các bài viết của
(về) tác giả Trần Hạ Vi0
Mời nghe Đặng Xuân Xuyến đọc bài thơ
VIẾT CHO CON, thơ Đặng Xuân Xuyến:
TRẦN ĐỨC PHỔ
Địa chỉ: 819 Kleinburg Dr,
London
tỉnh bang Ontario, Canada.
Email: ducphot946@gmail.com
,
.............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản từ email tác giả gửi ngày 27.02.2024.
- Ảnh dùng minh họa cho bài viết được sưu tầm từ nguồn: internet.
- Bài viết không thể hiện
quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét