(Nguồn ảnh: internet) |
14 CHÍNH TINH TRONG LÁ SỐ
& NHỮNG ĐIỀU BÍ ẨN
Các đặc tính của tinh diệu dưới đây bao gồm các tình chất cơ bản của tất cả
14 chính tinh. Chỉ nêu những nét chính yếu, cần cái gì, kỵ cái gì. Bên trong
cũng chỉ ra một ít cách cục đặc biệt như Nhật nguyệt phản bối, Mã đầu đới tiễn
v.v.. Mặc dù không nhiều lắm nhưng nếu cẩn thận hiểu được thì cũng biết được
đôi chút phép tắc cơ bản của Tử vi đẩu số.
TỬ VI
Quan điểm của Vương Đình Chi:
Tử vi thuộc Âm Thổ, là Chủ tinh Bắc đẩu, hóa là Đế Quân, thường là chủ tinh
ắt sẽ cần “Quần thần củng chiếu”. Chính vì thế mà Tử vi nhất định phải được
Quần thần củng chiếu mới là thượng cách, nếu không thế, chỉ là cách cục bình
thường.
Quần thần ở đây là: Phủ Tướng, Phụ Bật, Xương Khúc, Khôi Việt. Nếu như hội
hợp được Phủ Tướng ắt sẽ mạnh mẽ, có tài, có thế. Là tượng của Đề Hoàng nên cần
sự trợ sức của Phụ Bật, nêu có trợ lực, lòng dạ cũng rộng rãi.
Nếu có Xương Khúc cùng hội hợp, thì có học thức, có trí tài, cũng có khả
năng làm giảm nhẹ cái tính cao ngạo, chủ quan của Tử Vi. Khôi việt hội hợp thì
cá nhân gặp nhiều cơ hôi, có khả năng gia tăng địa vị.
Nếu như Quần Thần xa lánh, trở thành Cô Quân, chủ quan quá sâu, tâm cao khí
ngạo mà mừng giận thất thường, không khéo đối xử với người.
Nếu gặp Không vong, Hoa cái thường có tư tưởng độc tài. Gia Tứ Sát là vua
vô đạo, thuộc hạ cách, nếu thêm Phúc cung không tốt thì là người hèn mọn dung
tục.
Phụ Bật, Xương Khúc, Khôi Việt là bộ sao Lục cát, đối với Chủ tinh có sự
trợ giúp rất lớn.
Chủ tinh ở đây là Tử Vi, Thiên Phủ, còn người sinh ban đêm là Thái Âm nhập
miếu, sinh ban ngày là Thái Dương nhập miếu, nhưng phải được đối diện nhau, nếu
chỉ thấy một thì không mạnh mẽ.
Nhất là Tả Hữu Khôi Việt, nếu như chỉ gặp một sao thì giống như không gặp.
Lời bàn: Vương tiên sinh cho rằng Tử vi tuy thân là
Đế tinh, nhưng cái LỰC của Tử vốn là do Quần Thần mang lại, cho nên nếu được
Quần thần củng chiếu thì mới là thượng cách, bằng không thì chỉ bình thường.
Ngoài ra, Vương tiên sinh còn cho rằng một trong những tính xấu cảu Tử vi chính
là Tâm tính cao ngạo, chủ quan. Nếu không có sự trợ giúp của Văn tinh, quý tinh
mà lại gặp hung sát tinh ắt là sẽ thành kẻ thô lậu. Quan điểm của Vương tiên
sinh về các sao đi từng cặp như Tả Hữu, Khôi Việt cho rằng phải đủ cả cặp mới
có tác dụng, nếu đơn lẻ một mình thì tác dụng giảm sút, coi như không có.
Về phần phân định Âm Dương, Vương tiên sinh cũng có quan điểm hơi khác, vì
như Tử vi, các sách đều cho là Dương Thổ, nhưng Vương tiên sinh lại cho rằng Tử
vi thuộc Âm Thổ, ấy cũng là điều bất cập.
Bàn thêm về sao Tử Vi:
Tử Vi nhập cung Mệnh, mặt dài vuông vắn hay tròn trịa, sắc tím hay trắng
xanh, vùng eo có nhiều thịt, béo vừa phải. Vẻ ngoài trung hậu, ổn trọng dày
dạn, khiêm cung chính trực, có khí chất tôn quý, có năng lực lãnh đạo tốt, quan
hệ giao tiếp rộng rãi nhưng sau khi thành công lại có sự bảo thủ nhất định.
Người có Tử Vi nhập Mệnh đều học rộng, lời lẽ nghiêm nghị, có lễ tiết, cho
người khác cảm giác có thể tin tưởng. Rất coi trọng danh lợi, khi mưu cầu theo
đuổi thì thái độ tích cực nhiệt tình, nhưng một khi đạt được mục đích rồi thì
bỏ qua không để ý nữa. Cao ngạo tự đại, hay làm ra vẻ, một mặt tình cách cố
chấp, một mặt khác lại dễ bị lay động bởi lời nói của người khác, đây cũng là
một trong số những đặc trưng vốn có của Tử Vi. Nữ mệnh Tử Vi, da trắng mịn, hơi
béo, vẻ ngoài đoan trang, nhìn vào là tướng quý phu nhân.
THIÊN CƠ
Quan điểm của Vương Đình Chi:
Thiên Cơ thuộc Âm Mộc, là sao thứ nhất của chòm Nam Đẩu, giống như Mưu
thần, thích việc cơ biến, khi thiện, khi ác. Nếu được Xương Khúc, Long Trì
Phượng Các, cùng Hóa Khoa thì thông minh tuyệt đỉnh, có khả năng dụng thành
chính đạo. Nếu chẳng gặp được cát diệu, mà lại gặp Hóa Kỵ, Sát tinh cùng với
các sao bất lương thì tính chất của Thiên Cơ trở thành Bất lương, gian trá. Có
thể thấy rằng Thiên Cơ đối với các phụ tinh là sát tinh thì đặc biệt nhạy cảm.
Hóa Quyền có khả năng tăng cường tình ổn định của Thiên Cơ, cũng gia tăng
khả năng đối kháng với sát tinh là Hóa đẹp nhất vậy. Hóa Khoa gia tăng khả năng
thông minh tài trí của Thiên Cơ, cũng là sao Hóa rất tốt đối với Thiên Cơ. Hóa
Lộc thì làm cho cái trí mưu của Thiên Cơ chỉ thích sử dụng trong kinh doanh, là
kẻ chỉ thích kiếm tiền.
Hóa Kỵ làm cho Thiên Cơ trở thành mưu lợi, chỉ thích đi ngang về tắt.
Thiên cơ lâm Phúc đức cung mà gặp Sát tinh thì cũng không nặng lắm. Tâm chẳng
được nhàn, nhiều dự định, toan tính. Nếu gia Hóa Kỵ thì tâm phiền mà thường
nông cạn.
Thiên Cơ vốn được gọi là sao “Thiện Biến” cho nên tình cảm thường thay đổi
mạnh, hoặc tư tưởng thay đổi mạnh. Thường là sao biến đổi mạnh thì ắt sẽ rất
nhạy cảm với sát tinh, cho nên rất cần Hóa Quyền để tăng độ ổn định. Mà Thiên
Cơ lại vốn có bản chất của mưu thần, bởi vậy khá thích hợp với vai trò phụ tá.
Lời bàn: Vương tiên sinh rất coi trọng Tứ Hóa, bởi
vậy nên cho rằng Tứ Hóa có thể cải biến được tinh chất của các tinh diệu, cụ
thể là Thiên Cơ. Quan điểm của Vương tiên sinh đánh giá Thiên Cơ là sao rất cơ
biến, có khả năng thích nghi cao, có khi thiện, có khi ác, phụ thuộc vào hệ
thống các sao phụ tinh hội hợp. Đặc biệt ông cho rằng nếu Thiên Cơ cư Phúc
cung, có khẳ năng chế sát, hóa giải tác dụng xấu của một số sát tinh khi hội
hợp vào Phúc Cung.
Bàn thêm về sao Thiên Cơ
Thiên Cơ nhập Mệnh, thân hình vừa phải, trung bình, nhập miếu thì béo, lạc
hãm thì tương đối gầy, thông thường ở trạng thái béo vừa phải. Hội cát tinh,
tâm tính hiền lành, hiếu nghĩa với lục thân, vẻ ngoài đoan chính ổn trọng, hành
sự có phương pháp. Tính cách của Thiên Cơ tương đối gấp, có ý chí ứng biến cơ
động linh hoạt, phản ứng đàu óc mẫn thiệp, tốc độ nói nhanh, cuộc sống lao tâm.
Ham học hỏi tìm kiếm tri thức, đa học đa năng, nhưng chỉ chuyên tâm vào một thứ
thì tốt. Có hứng thú và sự yêu thích với triết học, tôn giáo, các sự vật thần
bí. Thiên Cơ tại Mệnh, chỉ cần không hội các hung tinh đồng cung, thì trọng
tình cảm, vui vẻ giúp đỡ người khác, tâm tính thẳng thắn bộc trực. Người có
Thiên Cơ tọa Mệnh tướng đối giỏi xã giao, lên kế hoạch, phân tích, túc trí đa
mưu, hành sự có lí lẽ, có năng lực thiết kế sáng sạo.
THÁI DƯƠNG
Quan điểm của Vương Đình Chi:
Thái Dương thuộc Dương Hỏa, là sao chủ tại trung thiên, là sao của quan
lộc, chủ quý. Là chủ tinh của người sinh ban ngày, rất tốt nếu cư cung Quan
Lộc.
Phán đoán sự cát hung của Thái Dương, trước hết phải xem các vị trí miếu
vượng, cư các cung Dần Mão Thị Tỵ Ngọ Mùi là cung miếu vượng.
Thích hợp với người sinh ban ngày, người sinh ban ngày gặp Thái Dương miếu
vượng thì rất đẹp, nếu lạc hãm thì giảm nhiều sự tốt đẹp. Người sinh ban đêm
nếu có gặp Thái Dương miếu vượng cũng bình thường, mà nếu lạc hãm thì hung. Lại
phải xem kỹ các Phụ tinh là Sát tinh hội hợp để luận đoán cát hung của Thái
Dương.
Thái Dương chủ quý, Hóa Quyền, Hóa Khoa càng tăng thêm tính chất quý hiển
của Thái Dương, nhưng cần lưu ý là tại xã hội hiện đại thì chuyện Tài Phú rất
quan trọng, cho nên cái sự thanh quý của Thái Dương chưa hẳn đã toàn mỹ. Bởi
thế Thái Dương rất cần Hóa Lộc, nếu có Hóa Lộc, Lộc Tồn hội hợp là chân mệnh
của Phú Quý vậy.
Thái Dương chiếu khắp vạn vật, cho mà không nhận, cư tại Ngọ cung là cách
Nhật Lệ Trung thiên, rực rỡ mà rất thịnh, có khả năng danh lớn hơn lợi, cũng
chưa hẳn là kết cấu đẹp. Trong cái ánh sáng ấm áp của Thái Dương, người ta rất
thoải mái. Cho nên cần xem xét kỹ tất cả các đặc tính của tinh diệu, được ở
trong cái ánh sáng ấm áp của Thái Dương thì là đại phúc hậu vậy.
Thái dương ở trên trời vận hành không ngừng, chiếu sáng mặt đất, cho nên
Thái Dương chủ về ĐỘNG, cho mà không nhận. Cho nên các lời bàn về Thái Dương
xưa này đều giống nhau ở chỗ cho rằng Thái Dương quan trọng ở chỗ “Quý”, trước
phải có “Quý” (danh tiếng) rồi sau mới giầu có. Chẳng qua, nếu không luận như
thế thì Thái Dương cũng có một điểm là có bản chất cái Danh lớn hơn cái Lợi.
Nhất là Thái Dương càng sáng thì càng rõ bản chất này.
Lời bàn: Đối với Thái Dương, Vương tiên sinh cho rằng
chỉ thực sự Quý đối với người sinh ban ngày, ngoài việc xem xét các phụ tinh
hội hợp thì việc đặt ra vấn đề đồi với người sinh ban ngày hay ban đêm cũng
được Vương tiên sinh rất coi trọng. Bàn về chữ Quý của Thái Dương, Vương tiên
sinh đã có ý kiến rất thực tế khi gắn với xã hội hiện đại, cổ nhân thì cho rằng
Quan Quý là đứng đầu, nhưng Vương tiên sinh không đánh giá cao cái Quan Quý mà
lại xa rời Thực Lộc của Thái Dương, cho rằng đó là điều không toàn mỹ lắm. Khác
với cổ nhân, Vương tiên sinh cho rằng Thái Dương là người có tinh thần quảng
bác “cho mà không nhận”, trong khi đó cổ nhân thì lại cho rắng Thái Dương có
tính chuyên quyền. Riêng điểm này thì không mấy đồng tình với Vương tiên sinh,
bởi lẽ Thái Dương vốn là Thuần Dương, dương cương đến cùng cực, thì cái việc
lấn át, chuyên quyền không phải là không có.
Bàn thêm về sao Thái Dương
Thái Dương nhập Mệnh, chủ người sắc mặc đỏ hồng hay tím hồng, khuôn mặt
vuông vắn tròn trịa, thân hình khôi ngô, tướng mạo đường hoàng, trung thành
chính trực, không tính toán chuyện thị phi, tấm lòng nhân từ, thích giúp đỡ, từ
thiện, hào phóng, chí khí cao ngạo, thường bị người khác hiểu nhầm. Thái Dương
được cát tinh thủ chiếu, nếu được Thái Âm đồng cung thủ chiếu thì phú quý song
toàn. Nếu hội nhiều cát diệu thì có thể làm khách hay lui đến những nơi quyền
quý, không có cát tinh thủ chiếu, thì thuộc tầng lớp nhân viên nhà nước bình
thường.Thái Dương lạc hãm, lao tâm phí lực, tuy Hóa Quyền Hóa Lộc cũng chủ vất
vả khác thường, Thái Dương lạc hãm nếu như vào cung Quan Lộc, địa vị không hiển
đạt, là người trước chăm chỉ sau biếng nhác.Nữ mệnh Thái Dương, có chí hướng
trượng phu, có cương có nhu, rất giỏi giang. Cá tính háo thắng, duyên với người
khác phái tốt, nhiệt tình hướng ngoại, giao tiếp rộng, thường hay giao du với
nam giới. Miếu vượng, vượng phu ích tử, hội Quyền Lộc được phong tặng (đất đai,
chức hiệu), cung Phúc Đức có cát tinh chủ lấy được người chồng thông minh sáng
suốt.
VŨ KHÚC
Quan điểm của Vương Đình Chi:
Vũ Khúc thuộc Âm Kim, là sao thứ 6 của chòm Bắc đẩu, lấy hành động kiếm
tiền làm chính, tính cách thì cương liệt, quyết đoán.Rất tốt nếu cư Quan lộc,
Tài bạch cung, nếu lâm vào cung Mệnh và các cung Lục thân thì không tốt, ngại
vì tính cương khắc thái quá.Người Vũ khúc tính cứng rắn, cho nên rất ngại Dương
Đà cũng như Thiên Hình vì tính cô khắc càng tăng.
Sao Vũ Khúc đối với Tứ Hóa cũng đặc biệt nhạy cảm, gặp Hóa lộc thì rất tốt
vì Vũ khúc là tài tinh, Hóa lộc cùng một tính, nên tài khí càng vượng, cũng có
thể giảm nhẹ tính cương khắc của Vũ Khúc. Hóa quyền, Hóa kỵ gia tăng tính chất
cương liệt của Vũ khúc cho nên đồi với Vũ khúc không được tốt lắm. Nếu gặp Hóa
kỵ, cứng quá ắt gãy, vì thế Vũ Khúc – Hóa kỵ thường thường là Bại cục ở chỗ đó.
Người Vũ khúc tính cô khắc, cho nên cần Văn Xương, Văn Khúc cùng hội hợp để
trung hòa, cũng giống thế – rất cần Thiên Phủ đồng cung. Thiên Phủ là tài khố
(kho tiền), hai tài tinh gặp nhau là một sự kết hợp rất tốt, nếu lại có Hóa
Lộc, Lộc Tồn thì càng đẹp.Tương đối mà nói, Vũ Phá với Vũ Tướng là hai tổ hợp
khó hoàn mỹ, chủ yếu là do Phá Quân gia tăng tình ĐỘNG, lúc này việc gặp Lộc
tinh mới tỏ ra rất quan trọng. Trong Tứ Sát, Vũ khúc sợ nhất Hỏa Linh, bất luận
là tính chất nào của Vũ Khúc cũng đều không tốt khi gặp hai sao Hỏa Linh. Vũ
khúc ngoại trừ sợ Hỏa Linh ra, đôi khi cũng không tốt nếu gặp Xương Khúc, nhất
là gặp một mình Văn Khúc (đương nhiên Văn Khúc – Hóa kỵ thì càng tệ) “song khúc
hội” nhất định sẽ có khuyết điểm. Cần lưu ý trong Đẩu số có một cách là Linh
Xương Đà Vũ là bại cục.Vũ khúc là tài tinh, nhưng có khá nhiều khuyết hãm, vì
thế không nên cừa nhìn thấy Tài đã cho là tốt.Nhưng Vũ khúc lại có hành động
tương đối cao thượng, cho nên rất tốt nếu gặp được Khôi Việt cùng với Thiên Cơ
hội hợp.
Lời bàn: Vương tiên sinh thật chí lý khi luận rằng
“Vũ khúc tuy là tài tinh nhưng có quá nhiều khuyết điểm, vì thế chớ thấy TÀI mà
cho là tốt”, chẳng thế mà cái cách Linh Xương Đà Vũ vốn dĩ xưa này là Bại cách,
tối hung. Vương tiên sinh cho rằng Vũ Khúc có một đặc tính cố hữu là Cô Khắc,
nhưng bản chất của cái việc Cô Khắc này là do tính cương cường mà ra, từ đó có
thể suy ra rằng nếu Vũ Khúc được các phụ tinh là văn tinh, quý tinh trợ giúp
thì có thể chế ngự được cái tính cô khắc cương cường của Vũ Khúc. Luận Tử vi
như thế, xưa nay quả là hiếm có. Qua lời luận của Vương tiên sinh, cũng có thể
thấy rằng cái sự phối hợp với nhau mới là quan trọng, một tinh tú đơn lẽ không
làm nên được điều gì, mà cái sự cát hung phần nhiều làm nên ở các phụ tinh, tá
tinh vậy.
Bàn thêm về sao Vũ Khúc
Vũ Khúc thủ Mệnh, đa phần cương cường quả quyết, tâm tính thẳng thắn không
dụng tâm, dáng nhỏ giọng nói cao mà to, thích thể thao vận động. Trọng nghĩa
khí, có ý chí kiên cường bất khuất, coi trọng chữ tín, lời lẽ hào sảng nhanh
gọn, mặt hình vuông. Nữ mệnh Vũ Khúc nhập Mệnh, một đời vất vả nhiều, đoạt
quyền chồng, thích ra lệnh trong nhà, thường coi thường chống. Sau hôn nhân khó
mà ở yên trong nhà, hay ra ngoài làm việc. Vũ Khúc nhập Miếu chỉ quyền quý, là
quý phu nhân, hội cát tinh thì quả quyết cương nghị, dễ trở nên người phụ nữ
cứng rắn. Hãm địa có sát tinh thì cô đơn, hình phu khắc tử, thậm chí trở thành
quả phụ. Nếu lại hội thêm Xương Khúc Thiên Diêu Đào Hoa hay Liêm Trinh thủ
Thân, không những hình khắc mà còn dâm loạn.
THIÊN ĐỒNG
Quan điểm của Vương Đình Chi:
Thiên Đồng thuộc Dương Thủy, là sao thứ tư trong chòm Nam Đẩu, ví như Phúc
tinh, chủ hưởng thụ và ý chí.
Nếu có Hóa Lộc cũng với cát tinh hội hợp thì tốt, nhưng cũng ngại vì tham
hưởng thụ mà thành mềm yếu. Nguyên do lúc này gặp được hoàn cảnh tốt một số ít
sát tinh cũng đủ kích động, gặp sự kích động này Thiên Đồng dễ thành tựu lớn nên
người ta cũng thêm khó khăn vất vả. Chỉ thấy sát mà không thấy lộc, thì là
không tốt đối với Thiên Đồng. Thiên Đồng cũng rất ưa Hóa Quyền, vì có thể tăng
cường ý chí, bằng như hội đủ Lộc Quyền Khoa Kỵ, mà sát diệu không nặng nề thì
cũng chủ phú quý song toàn. Ngại nhất là Thiên Đồng Hóa Kỵ là cách cục
xấu.Thiên Đồng tuy là Phúc tinh, nhưng cái Phúc ấy cũng có khuyết điểm, hơn thế
nữa phải đắc Lộc mới thực sự là Phúc. Tuy nhiên, khi đắc Lộc trừ phi có cách
cục đặc biệt tốt, không thì vẫn phải trải qua một đoạn gian khổ, có lúc rất vất
vả, cũng không phải là tốt. Nếu không phải như đã luận thì trừ phi có cách cục
rất khác lạ. Thông thường Thiên Đồng đều có một điểm là “vãn vận” (vận muộn),
cho dù Thiên Đồng được đánh giá là Phúc, cũng có lúc nhầm lẫn.
Lời bàn: Xem ra quan điểm của Vương tiên sinh chú
trọng nhiều vào vấn đề tài lộc, chính vì thế mà rất đề cao các Lộc tinh, tuy
nhiên đối với Thiên Đồng thì ngoài cái đặc tính cố hữu, còn cần phải xem xét
thêm cái vị trí miếu vượng của nó. Ở đây, một đặc tính quan trọng của Thiên
Đồng mà Vương tiên sinh chỉ nhắc đến một cách mơ hồ, đó là tính canh cải thất
thường. Vương tiên sinh cho rằng Hóa Quyền có thể giải trừ được cái tính canh
cái hay thay đổi của Thiên Đồng. Phần phân tích về việc Thiên ĐỒng hội Lộc tinh,
lập luận của Vương tiên sinh rất sắc bén, cho rằng không phải là điều tốt, hé
lộ quan điểm về việc kích động hoàn cảnh của sát tinh. Tuy nhiên, so với quan
điểm của cổ nhân thì có lẽ tình chất cảu Thiên Đồng chưa được Vương tiên sinh
nêu rõ ràng lắm.
Bàn thêm về sao Thiên Đồng
Thiên Đồng ở Mệnh, mặt hình vuông tròn, hai má đầy đặn, tính tình ôn hòa,
khiêm tốn lễ độ, nhân từ cương trực, tinh thông văn họa, có chí lạ, không hung
ác. Nhập miếu thì thân hình béo, lạc hãm thì thân hình trung bình hay lùn. Cái
phúc của Thiên Đồng, biểu hiện ở việc người đó có chút lười biếng, đặc biệt là
biểu hiện trong cuộc sống thường ngày, chuyện gì cũng lười vận động, có thể kéo
dài thì kéo dài, nên mới gọi những người lười là có cái phúc lười, có mang ý
nghĩa ngồi hưởng thành quả ở sâu bên trong. Lí tưởng rất cao, suy nghĩ rất kĩ
về chuyện tương lai, nhưng hành vi thực hiện thì lại rất ít, thậm chí trở thành
kẻ nói suông. Vì vậy nên Thiên Đồng hỉ có sát tinh kích thích, như vậy sẽ khơi
dậy được năng lượng của Thiên Đồng để làm nên chuyện.Đặc điểm của sao Thiên
Đồng là tính tình lạc quan, không câu nệ tiểu tiết, ở bên ngoài hay được mọi
người yêu quý. Có hứng thú với nhiều thứ, biết cách bằng lòng mà sống vui vẻ,
ít khi tức giận, không nhớ những chuyện hận thù, không gây thù chuốc oán, là
người hài hước, tự mình cảm thấy vui vẻ. Khuyết điểm là thích tránh những công
việc nặng nhọc, làm việc hay băn khoăn, nên khiến cơ hội nhiều khi đến sát bên
mình rồi lại biến mất. Nam
mệnh Thiên Đồng đơn thủ Mệnh cung thì có chút yếu đuối dễ bắt nạt. Thiên Đồng
thủ Mệnh dù ở cung nào, tính tình cũng đều ngây thơ, có lúc giống như một đứa
trẻ con. Thiên Đồng nhập Mệnh, bất luận nam hay nữ, đa phần đều trông béo tốt,
mũm mĩm, khả năng tự hạn chế bản thân khá kém, dễ bị thế giới bên ngoài cám dỗ.
Nữ mệnh Thiên Đồng, khuôn mặt xinh xắn, hơi béo, da trắng, đối xử thân thiết
với mọi người, sau trung niên thì béo.
LIÊM TRINH
Quan điểm của Vương Đình Chi:
Liêm trinh thuộc Âm Hỏa, là sao thứ 5 của chòm Bắc Đẩu, hóa khí là Tù tinh,
chủ về tình cảm và lý trí, lại có tên là Thứ Đào Hoa. Liêm trinh gặp thiện thì
thành thiện, gặp ác sẽ thành ác.Liêm trinh là một sao có sự biến hóa tốt xấu
khá lớn, nhất định phải chú ý cẩn thận.
Nếu gặp Hóa Lộc thì tốt, chủ về tình cảm hòa hợp, ngại gặp Hóa Kỵ, chủ về
tình cảm tan vỡ, hoặc gặp tai ương về máu huyết. Cùng với Sát Phá Tham hội hợp,
tất sẽ rất cần Lộc tinh cùng hội mà sát tinh không được cường mạnh, thì cũng có
thể gọi là tốt. Nếu không gặp cát tinh mà lại gặp hung tinh thì hình thương khó
tránh. Được Thiên phủ cùng hội hợp, lại thêm Xương Khúc (văn xương, văn khúc)
và Lộc tinh, có khả năng phát huy cái mặt tốt lành của Liêm trinh, đó là cách
cục đẹp nhất của Liêm trinh. Cùng với Thiên tướng hội hợp, mà Thiên tướng vốn
tốt lành, cũng là cách đẹp. Hội hợp với Tử Vi, Thiên Phủ không gặp ác tinh thì
rất đẹp. Các tổ hợp trên đây gọi là “Gặp thiện thì theo thiện”. Liêm trinh chủ
về tâm tư tình cảm, nếu tốt thì tình cảm phong phú, là người cao nhã vui tính,
Xấu thì tự tư tự lợi, thậm chí không thể khống chế được tình cảm của chính
mình, Liêm Trinh là sự phản ảnh sâu sắc tinh thần, khi suy đoán cần phải hết
sức cân nhắc, đặc biệt là khi Liêm Trinh mang nặng tính đào hoa và tình cảm.
Lời bàn: Đoạn này không thấy Vương tiên sinh nhắc đến
sự tương tác của Liêm trinh với Hóa Quyền, Hóa Kỵ, bởi một trong những đặc tính
quan trọng của Liêm trinh là Tù tinh, vì thế mà khi gặp Quyền Kỵ tính chất sẽ
thay đổi rất mạnh mẽ. Vương tiên sinh có lẽ đã quá chú trọng vào đặc tính Đào
Hoa của Liêm, cho rằng đấy là sự ảnh hưởng mạnh mẽ, quan điểm này cũng cần phải
suy ngẫm thêm.
Bàn thêm về sao Liêm Trinh
Người có Liêm Trinh nhập Mệnh, Thân hình trung bình, trí nhớ rất tốt, khỏe
mạnh cường tráng, mắt lộ, gò má cao. Lông mày rậm mắt to, mồm lớn, mặt vuông
hay chữ nhật. Tính cách cao ngạo sơ cuồng, tính tình cứng rắn thẳng thắn, là
người cố chấp, đa phần tự cho mình là đúng, không nghe lời khuyên của người
khác. Chăm chỉ chịu làm lụng, tình cảm mãnh liệt, thích tự do, thích nói đôi
câu công bằng đạo lý ở chỗ công cộng. Tính tình thích phân tranh, khi bất đồng
quan điểm với người khác thì sẽ ngay lập tức phản kháng. Quan hệ xã giao có lúc
không tốt.Trên đây chỉ là những đặc tính bình thường của Liêm Trinh, cần phải
phối hợp thêm với các sao khác để có kết luận cuối cùng, vì Liêm Trinh có thể
âm nhu cũng có thể dương cương. Đồng cung với Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang
hoặc đồng cung với Dương Đà Hỏa Linh Tứ Sát, hoặc đồng cung với Hóa Kỵ thì biểu
hiện rất rõ các tính chất trên, tính tình ngang ngạnh, lòng báo thù lớn, gấp
gáp nông nổi, dễ tranh chấp với người khác, thể hiện rất rõ sự dương cương. Nếu
như Liêm Trinh đồng cung với Thiên Tướng, Thiên Phủ, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên
Khôi, Thiên Việt hay Liêm Trinh Hóa Lộc thì lại biểu hiện đặc tính âm nhu, là
người chăm chỉ ổn trọng, dám làm dám chịu, tích cực cầu tiến, đối xử với mọi
người ôn hòa Thân thiết, tuy cũng có phần cao ngạo nhưng không nhất thiết thể
hiện ra bên ngoài. Nếu như hung cát tinh hỗn tạp thì nửa âm nửa dương, vừa
chính vừa tà, yêu ghét khó định.Nữ mệnh Liêm Trinh tọa Mệnh cung, khí chất tốt,
cho người khác cảm thấy rất ẩn chứa và thu hút, cơ thể đẹp, ngũ quan đoan chính
thanh tú, chính trực, làm việc già dặn, tính tình khá cương nghị.
THIÊN PHỦ
Quan điểm của Vương Đình Chi:
Thiên Phủ thuộc Dương Thổ, là chủ tinh của chòm Nam Đẩu, giống như kho
tiền. Nguyên nhân là do quan hệ của Chủ tinh, cho nên cũng cần “quần thần đồng
hội”, so sanh với tử vi thì tính cách bảo thủ hơn, sức khai sáng không bằng,
cũng không có cái mạnh mẽ quyết liệt chủ quan của Tử vi. Dễ đối xử với người
hơn Tử vi. Nếu được quần thần đồng hội, lại thêm gặp được Lộc tinh, chủ về khả
năng vừa công vừa thủ, quyết đoán lớn lao. Nếu chẳng gặp được Hóa lộc hoặc Lộc
tồn, thì là người hành sự cẩn trọng, lợi cho việc giữ gìn cơ nghiệp. Nếu không
có Lộc tinh mà lại gặp được các cát tinh khác, giống như rời xa quần thần, mà
biểu hiện của Thiên phủ là tiến thoái khó khăn, nếu gặp sát tinh thì chỉ nên
nấn ná đợi thời cầu tài. Đóng ở Tài Bach, Quan lộc cung thì hoàn hảo, bởi vì xã
hội ngày nay người người cầu tài theo mệnh, miễn là Mệnh cung, Phúc Đức cung
không kém, chỉ là mánh khóe cầu tài quá khích mà thôi. Nhưng nếu đóng ở Mệnh
cung thì dễ phát triển thành gian trá, phù thịnh.Thiên Phủ là Nam Đẩu, Tử vi là
Bắc đẩu. Tử vi chủ lãnh dạo, chủ phát tán, chủ quý. Thiên Phủ chủ cất giấu, chủ
phú, chủ giữ gìn cơ nghiệp, nói một cách tương đối là đầy đặn. Trừ phi là Thiên
phủ gặp cách xấu đặc biệt (gặp sát tinh chẳng gặp Lục Cát, lại chẳng gặp Khoa
Lộc, gặp toàn sao tạp bất lương) còn không dù có gặp “gian” cũng chẳng lộ ra là
“gian”.
Lời bàn: Tính của Phủ vốn ôn lương hòa hoãn, tuy sức
khai sáng không bằng Tử vi, nhưng cũng là chủ tinh. Cho nên lập luận rằng rất
cần Quần thần hội hợp là rất sắc bén. Qua quan điểm của Vương tiên sinh thì
thấy rằng vai trò của Phụ tinh vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, trong đoạn này,
cái lập luận về tính “gian” của Phủ là hoàn toàn mới mẻ. Bởi cổ nhân xưa nay
vẫn cho rằng Thiên Phủ ôn lương, do vậy nếu nói rằng “nhược cư vu mệnh cung,
tắc khả năng phát triển vi gian trá, xu viêm phụ thế” thì có vẻ như hơi khiên
cưỡng. Đành rằng Thiên Phủ “phù thịnh bất phù suy” nhưng chưa hẳn đã đến nỗi
phát triển thành gian trá. Điều này nên xem xét cẩn trọng.
Bàn thêm về sao Thiên Phủ
Người có Thiên Phủ nhập Mệnh tướng mạo thanh kỳ, Thân hình trung bình, mặt
hình vuông, dáng người béo tốt đầy đặn. Tính tình ôn hòa, ổn trọng, đứng đắn,
tinh thần viên mãn, không câu nệ tiểu tiết, có tình nghĩa và sự cảm thông,
nhiều bạn bè tri kỉ, có thể gây dựng được sự tin tưởng, cuộc sống hay được quý
nhân tương trợ. Thiên Phủ có tâm thái bằng lòng yên vị với hiện trạng, thiếu sự
khai sáng và xung kích lực, phấn đấu đến một mức độ nào đó rồi lười biếng từ
bỏ. Có dục vọng về quyền lực, yêu thích tiền bạc, thích sự sung túc, hội lục
cát tinh, trung hậu lương thiện trọng tình cảm, có thể đảm nhận các công việc
quan trọng về tài chính kinh tế hay làm quản lý. Nữ mệnh Thiên Phủ, có khí chất
của quý phu nhân, thân thể hơi béo, sau trung niên đa phần mập mạp. Dịu dàng có
sự cảm thông, là người ổn trọng, không xử trí theo cảm tính, hành sự lý trí,
giỏi xử lý các quan hệ ngoại giao.
THÁI ÂM
Quan điểm của Vương Đình Chi:
Thái Âm thuộc Âm Thủy, là sao ở trung thiên, chủ tinh của người sinh ban
đêm. Miếu vượng tại Dậu Tuất Hợi Tý Sửu, hợp với người sinh ban đêm, nếu người
sinh ban ngày mà lại có Thái âm lạc hãm, thì tức là không hợp.
Thái dương chủ phát tán, chủ quý, còn Thái âm thì chủ thu giấu, chủ phú,
cho nên Thái Âm cũng bao gồm ý tứ của Tài tinh, nhưng cái Tài tinh này so với
Vũ Khúc có điểm khác nhau. Vũ khúc lá hành động cầu tài, mà Thái âm thì thuộc
kế hoạch, mang tính chất phụ tá. Có lúc lại có khả năng nắm giữ quyền lực tiền
tài, giống như Thái Dương, cần sự trung hòa.Cho nên khi Thái âm cư ở cung hãm,
mà được Tả Hữu Khúc Xương Lộc Quyền tương hội thì vẫn là đẹp, Thái Âm miếu
vượng mà hội được cát tinh thì Hóa Kỵ không hại được.Nhưng tổ hợp của Thái Âm
không ổn định, nếu lại gặp Xương Khúc thì trại lại, lại bị tình cảm lãnh đạo.
Nếu lại gặp Sát tinh thì có thể trở thành trò đùa của quyền lực.So với Thái
Dương, Thái Dương chủ Động, chủ phát xạ, chủ truyền bá, chủ quý. Còn Thái Âm
chủ Tĩnh, chủ thu nhận, chủ Phú. Nhưng nếu như thu nhận quá thịnh, thì sẽ là
người nhiều tâm kế, lòng dạ thâm sâu, rất khác biệt so với Thái Dương. Chính là
do Thái Dương tự mình tỏa sáng, tỏa nhiệt, Nhưng Thái Âm thì ngược lại, được diếu
sáng bởi Thái Dương, nếu không có Thái Dương chiếu đến, thì Thái âm tối đen như
mực.Dùng cách ví von mà nói, thì có một sự khác biệt giữa Thiên phủ “thâm
trầm”, khác với Thái Âm là “Âm Sâm” (Âm Sâm có nghĩa là ảm đạm).
Lời bàn: Trong đoạn này Vương tiên sinh đã căn cứ vào
tính chất Âm-Dương của 2 sao Thái Âm – Thái Dương để lập luận. Thái Âm vốn dĩ
xưa nay vẫn được coi là Tài tinh, theo Vương tiên sinh thì tính Tài của Thái Âm
chính là do đặc tính “Thu liễm” mà ra, bởi vậy về mặt tư tưởng, Thái Âm tham lam
hơn, không quảng bác như Thái Dương. Đặc biệt, trong đoạn này Vương tiên sinh
đã thể hiện hai quan điểm. Thứ nhất, Vương cho rằng Thái Âm cần phải có ảnh
sáng của Thái Dương mới huy hoàng được, bởi vậy nếu được đắc cách Nhật Nguyệt
thì mới thự sự hoàn mỹ. Thứ hai, Vương cho rằng “Thái Âm miếu vượng thì Hóa Kỵ
không làm gì được”, đây chính là điểm khác biệt của Trung Châu Phái khi an Hóa
Kỵ cùng với Thái Âm cho tuổi Canh. Điều này xưa nay vẫn tranh cãi, tuy nhiên ta
có thể rút ra một điều rằng, cho dù An Hóa Kỵ với Thái Âm, hay Hóa Khoa với
Thái Âm, thì tuổi canh gặp cách này vẫn là đẹp.
Bàn thêm về sao Thái Âm
Thái Âm nhập Mệnh cung, mặt vuông tròn, thân hình trung bình, hơi béo, da
trắng sáng. Tính tình dịu dàng, thanh tú cương trực, thông minh tuấn tú, khí
chất bên ngoài tốt, đoan chính, khiêm tốn lễ độ, suy nghĩ tinh tế, biết cách cư
xử thỏa đáng trong giáo tiếp, tránh được xung đột chính diện, xử lý tốt đẹp các
mối quan hệ. Bất luận miếu hãm, đều có sự tu dưỡng về phương diện văn học nghệ
thuật, văn hay chữ tốt, học nhiều đa năng. Ưa sạch sẽ, chú ý đến sự thú vị của
cuộc sống, là người theo chủ nghĩa duy mỹ. Tính tình thích tĩnh, có hứng thú
với triết học, tâm lý học, mỹ học, thần bí học, thích trầm tư, suy nghĩ kĩ
càng, giàu trí tưởng tượng, tư duy siêu thực, thậm chí nhiều lúc có xu hướng đa
sầu đa cảm. Đa phần tưởng tượng rất lãng mạn về cuộc sống, nhưng có lại không
đồng ý thay đổi. Nam nữ đều có duyên sắc sắc với người khác giới, dễ phạm đào
hoa. Nam nữ phong lưu hào phóng, nho nhã, trực tính gấp gáp, dễ thân thiết với
nữ giới, cử chí có lúc bị nữ tính hóa, ẻo lả, đồng cung với sát tinh thì không
nhất thiết như vậy. Nữ mệnh mắt ngọc mày ngà, dung mạo đẹp đẽ, mềm mại như
thương, khiến nam giới phải đắm say.
THAM LANG
Quan điểm của Vương Đình Chi:
Tham lang thuộc Dương Mộc, khí thuộc thủy, ví như Tình Dục và Vật Dục, còn
gọi là Chính Đào Hoa, nếu được chế hóa thì vẫn có thể tốt. Nếu được chế hóa,
tình dục vật dục đặt được cân bằng, mà lại được cát tinh hội hợp thì là cao
cách vậy. Nếu không được chế hóa mà lại gặp sát tinh hội hợp, không cần biết là
thiên về tình dục hay vật dục, nhưng đều có khuyết điểm.
Hóa Lộc gia tăng vật dục còn Hóa kỵ thì giảm bớt dục vọng. Tử Tham mà được
Tả Hữu Xương Khúc là được chế hóa, Vũ Tham mà được Hỏa Linh là được chế hóa,
nếu lại hội được Cát Tinh, Cát Hóa, có thể làm đại tướng, uy chấn biên
cương.Liêm Tham ngộ Không, Thiên hình, Hóa kỵ là được chế hóa, có khả năng tình
dục mạnh, thơ rượu phong lưu mà biến thành văn nghệ, nghệ thuật.Nếu không được
chế hóa mà lại gặp Kình Dương, Đà La thì vì sắc mà rước họa.
Tham lang cũng là chủ biến, nhưng cái biến của nó là “đổi thang mà không
đổi thuốc” (chỉ thay đổi cái vỏ bề ngoài mà bản chất thì không đổi), mượn màu
son phấn để che giấu toan tính.Tham Lang cũng là một tay giao tiếp đối đáp
thiện nghệ, nhưng cái ứng đối của nó phần nhiều là ở tửu sắc phong lưu. Cũng
đôi khi thích các sự vật thần bí, thuộc loại quỷ quỷ quái quái, nhưng cái sở
thích của nó là loại đông tây thần bí, mà tịnh không phải là nghiên cứu chuyên
sâu.Cũng dựa trên tính chất tương đối của Tham Lang, nếu gặp được Xương Khúc,
ngộ Không, cũng với Thiên Hình có thể phát huy tiềm năng nghệ thuật của Tham
Lang.
Lời bàn: Vương tiên sinh có đưa ra quan điểm về các
cách chế hóa đối với sao Tham Lang trong từng trường hợp. Tuy nhiên dường như
Vương tiên sinh không coi trọng các tính chất về tài khí của Tham Lang, ngay cả
khi gặp Hỏa linh, điều này có khác so với các quan điểm xưa nay. Có một điều
mới ở đây là Vương tiên sinh cho rằng Thiên Hình có thể chế giải được tính dâm
của Tham Lang, cũng cần phải xem xét.
Bàn thêm về sao Tham Lang
Nhập miếu là người béo đứng thẳng, xương mày khá cao, lạc hãm thì thấp nhỏ,
tiếng cao âm lượng lớn. Người có Tham Lang nhập Mệnh, vô cùng tình cảm hóa, tính
cách đều tương đối phức tạp, không ổn định, hiếu động, giỏi xa giao tiệc nhậu,
một đời hay kết giao bạn bè, bản tính lạc quan, đam mê dục vọng vật chất, thích
ăn uống hưởng lạc, rượu chè cờ bạc trai gái không gì là không thể. Là người
không câu nệ tiểu tiết, tình cảm thăng trầm nhiều biến động lớn, có lúc thích
khôn vặt, cho người khác những ân huệ nhỏ. Khẩu tài lưu loát, khoe khoang,
thích thổi phồng, chủ đề bàn luận phong phú, có khuynh hướng hào nhoáng mà
không thực. Tâm lý hên xui rất lớn, tính hích đầu cơ, mạo hiểm, hi vọng có thể
một sớm một chiều có kì tích hoạch phát xảy ra, làm việc không đủ kiên nhẫn.
Đối với tiền bạc khá rộng rãi, lãng phí, một đời tài vật cũng nhiều hư hao.
Trong cuộc sống thích được kích thích, thứ gì mới lạ, hợp ý, không chịu cảnh
bình thường, không vừa lòng với hiện trạng, luôn hi vọng có sự đột phá trong
công việc, vì vậy mới tồn tại cái tật xấu làm không đến nơi đến chốn. Tham Lang
thủ Mệnh thích thuật thần tiên, thích nghiên cứu và tìm hiểu thảo luận về văn
hóa thần bí khí công tăng đạo. Tính tính khá gấp, hay tính toán, không chịu
tĩnh lặng, ham cờ bạc hoa tửu, háo sắc. Người có Tham Lang nhập Mệnh, bất luận
nam hay nữ, trừ một số ngoại lệ cực kì cá biệt, tuyệt đại đa số đều có đào hoa
hay có ngoại ngộ.Nữ mệnh, gợi cảm, sớm trưởng thành, thân thể phổng phao có sức
thu hút, tính dục cao, chí cao tính cương, xã giao rộng.
CỰ MÔN
Quan điểm của Vương Đình Chi:
Thuộc Âm Thổ, khí thuộc Âm Kim, là sao thứ hai trong chòm Bắc Đẩu.
Trong đẩu số, Cự môn là ám tinh, nhất định phải có Thái Dương miếu vượng
hội chiếu, hoặc Lộc Quyền hội hợp mới có thể giải được tính ám của Cự Môn. Nếu
không có Thái Dương hội chiếu hoặc Lộc Quyền cứu giải, Cự Môn sẽ đem lại thị
phi, nghi kỵ.
Cự môn còn được ví như tài ăn nói, nếu cát thì nói hay, giỏi biện, nếu hung
thì ăn nói giảo hoạt. Nếu hội Thái Dương hãm, Hình Kỵ thì dễ rước cái họa khẩu
thiệt, thậm chí kiện cáo. Năng lực đối kháng sát tinh của Cự môn rất yếu, cho
nên tuyệt không nên gặp sát tinh, rất cần cát tinh cùng với Hóa Lộc, Hóa Quyền,
cải hóa được Cự Môn, không chỉ ăn nói tuyệt vời mà thậm chí còn có thể trở
thành nghề nghiệp, có thể làm luật sư, diễn thuyết gia, thuộc hàng có đẳng cấp,
lại có khả năng truyền bá, tiếp thị tài ba. Nếu được cách cục thích hợp phối
hợp thì phú quý không thiếu.
Cự môn còn biểu trưng của chướng ngại lớn, che lấp tất cả mọi thứ. Trong
đời người có thể có một giai đoạn gian khổ đối với lịch trình, hoặc một giai
đoạn thương tâm đối với chuyện cũ. Hoặc biểu trưng cho người thích nói, dùng
ngôn từ che giấu người khác, biểu hiện là người thao thao bất tuyệt, thích
tranh luận. Nếu như cách cục tốt (Như đắc Hóa Quyền lại gặp Xương Khúc), có học
thức lại có sức biểu đạt tốt, như vậy đương nhiên tuyệt không phải là phường
nói hão.Kỳ thực, tại hiện đại, Cự môn được đánh giá cao hơn so với cổ đại nhiều
lắm, bởi vì hiện thời là cần phải bao quát, tiếp thị xã hội. Từ việc cạnh tranh
tổng thống của nước Mỹ đến một nhân viên tiếp thị, đều cần đến việc ăn nói linh
hoạt (bất kể là nói thật hay không thật). Tóm lại là những người ăn nói rất
tốt, tuyệt không thể thiếu Cự môn.
Lời bàn: Vương tiên sinh đánh giá rất cao khả năng ăn
nói của Cự Môn vì nó hợp với xã hội hiện đại, tuy nhiên cần phải nhớ rằng chỉ
thực sự tốt khi Cự Môn đắc cách hội Quyền Lộc, Xương Khúc. Đoạn Vương tiên sinh
luận rằng “Trong đời người có thể có một giai đoạn gian khổ đối với lịch trình,
hoặc một giai đoạn thương tâm đối với chuyện cũ” thật là sắc bén. Duy chỉ có
điều, chưa thấy Vương tiên sinh phân tích về tính Tài khí của Cự Môn.
Bàn thêm về sao Cự Môn
Ánh mắt sắc bén, miệng nổi bật, mặt hình vuông tròn, nhập miếu thân hình to
béo, đôn hậu thanh tú, lạc hãm thì ngũ đoạn (tay chân cổ…) gầy nhỏ, giọng cao
mà tốc độ nhanh. Cử chỉ tùy tiện, không chú ý đến lễ nghi. Cự Môn nhập Mệnh,
không tách rời được “khẩu”, chủ người ăn nói tốt, hội cát tinh, thường thích
hợp làm những công việc nói là chủ yếu, giỏi xử lý các mối quan hệ công cộng,
lời lẽ có phần giả dối, giỏi thổi phồng, là nhân tài trong việc ngoại giao.
Cuộc sống vất vả, sau khi vất vả phấn đấu có thể có thành tựu. Không hòa thuận
với người khác, nhìn chung một đời thường hay rước thị phi khẩu thiệt, quan hệ
giao tế không tốt, dễ làm tổn thương người khác. Có khả năng phân tích và liên
tưởng rất xuất sắc, có tài biện luận, không bằng lòng với hiện trạng, tính tình
khá ngoan cố, tự tin, tâm lý nghi ngờ lớn, không quá tin tưởng người khác, việc
gì cũng phải tra hỏi rõ ràng đến cùng, thích có được những thông tin đích thực
rút ra từ thực tiễn.Không coi trọng những tình tiết trong cuộc sống, cuộc sống
vật chất chỉ cần sống được là sống, thích nghiên cứu học vấn kĩ thuật, học
nhiều mà tinh thông ít, có những kiến giải đặc biệt với những gì quan sát được,
kĩ tính, lòng dạ sắt đá, tự tư tự lợi, khả năng cảm thông kém, suy nghĩ quá
nhiều vì vậy làm việc luôn do dự không dứt khoát. Bụng dạ hẹp hòi, thích làm
lớn những vấn đề nhỏ, khi nói chuyện thường vô tình đắc tội với người khác,
cũng thích bắm chặt không tha những khuyết điểm sai lầm của người khác, thiếu
sự khoan dung, khi lợi ích của bản thân bị xâm phạm thì bất luận chuyện lớn hay
bé đều nổi trận lôi đình, hơn nữa cũng dễ gây hiểu lầm cho người khác, một đời
thị phi không dứt, tranh chấp trong tối ngoài sáng liên miên, rất nhiều kẻ tiểu
nhân, khó mà có thể sống những ngày tháng yên bình. Nữ mệnh Cự Môn, lòng tự tôn
cao, mẫn cảm đa nghi hẹp hòi, bụng dạ nhỏ hẹp, ngang ngạnh, tự cho mình là
đúng, làm việc có trách nhiệm, yêu thích tiền bạc, tính cách đa phần không tốt.
THIÊN TƯỚNG
Quan điểm của Vương Đình Chi:
Thuộc dương thủy, là ngôi thứ hai trong chòm Nam đẩu, hóa khí lá Ấn tinh,
được ví như cái ấn đeo của Hoàng Đế, cho nên nếu ở trong tay Hoàng đế anh minh
thì là cứu tinh của nê dân, mà trong tay Hôn quân bạo chúa thì tàn hại bách
tính – giúp cho phường hung bạo. Bởi vậy, bản chất của Thiên tướng là gặp Cát
thì Thiện, gặp Hung thì Ác. Thiên tướng hoàn toàn chịu hoàn cảnh của bên ngoài
mà biến hóa, khi luận đoán phải hết sức cẩn thận.
Trong Tứ Sát, Thiên tướng sợ nhất Hỏa Linh, cho nên có thuyết nói rằng
“Thiên tướng Hỏa linh trùng Phá, tàn chướng” – (Thiên tướng Hỏa linh mà gặp
Phá, tàn tật), có khả năng có cố tật, hoặc thân thể yếu đuối nhiều bệnh tật.
Đoán sự cát hung của Thiên tướng tất phải xem xét Lân cung (hai cung bên
cạnh bản cung), như Cự Môn Hóa Kỵ giáp bên sẽ thành cách “Hình Kỵ giáp Ấn” (do
Thiên Lương là Hình) – không tốt. Như Cự Môn Hóa Lộc, là cách “Tài Ấm giáp
Tướng” (Thiên Lương là Ấm), là một kết cấu đẹp của Thiên Tướng. Đương nhiên vẫn
chủ yếu là xem sự phân bố của Lục Cát , Lục sát mà đoán định.
Một đặc trưng lớn nhất của Thiên Tướng là “không có tính cách” (đây là một
thuật ngữ dùng trong luận đoán, không có nghĩa là người có Thiên tướng thủ mệnh
không có tính cách).
Cho nên trong mưới bốn chính tinh chỉ có Thiên tướng là rất coi trọng Lân
cung, bị ảnh hưởng rất mạnh từ hai cung bên cạnh bất luận là Hình Kỵ giáp, Tài
Ấm giáp, hay Dương Đà giáp.
Giáp Hỏa Linh, giáp Khoa Quyền, cũng như giáp Khôi Việt … đều có ảnh hưởng
mạnh đến Thiên Tướng. Tại lá số mà Thiên tướng gặp cách giáp cung, đôi khi lại
biểu hiện tính cách không thể làm chủ bản thân, như vẫn nói là “hình thể giống
người mạnh” (thành ngữ – ý nói về cái hình thì trông giống người mạnh, mà không
phải là mạnh).
Thiên Tướng cũng có tính chất tương tự như Thiên Cơ. Đều dựa phần nhiều vào
phụ tá.
Lời bàn: đoạn luận về Thiên tướng này của Vương tiên
sinh chưa thật sắc xảo lắm. Có lẽ Vương tiên sinh quá coi trọng cái sự ảnh
hưởng của Lân cung đến Thiên Tướng. Gần như các quan điểm của Vương tiên sinh
đều trái ngược với những nhận xét của cổ nhân về Thiên tướng. Theo “đẩu số toàn
thư” thì bản chất của Thiên Tướng vốn là Ấn tinh (ấn là con dấu, con triện),
biểu thị cho uy quyền, tài lộc hơn thế nữa với nhận xét về tính tình của Thiên
Tướng “kiến nhân nan hữu trắc ẩn chi tâm, kiến nhân ác hữu bất bình chi khí”
(gặp người khó thì động lòng trắc ẩn, gặp kẻ ác thì nổi sự bất bình), thì càng
không thể nhận xét rằng “thiên tướng là sao không có tính cách”. Tính cách “gặp
thiện theo thiện, gặp ác theo ác” của Thiên tướng không thể hiện rõ ràng lắm.
Với các nhận xét về cách cục của Thiên tướng như ở trên chưa được thuyết phục
lắm, ví như cách Hình Kỵ giáp Ấn mà bảo rằng Thiên Lương là Hình thì thật là
chưa chính xác vậy, hơn thế nữa, bản chất của Hình Kỵ khi giáp Ấn không phải do
Ấn tinh tạo nên, mà bất cứ sao nào khi gặp các cách GIÁP như Giáp hình kỵ, Giáp
Dương Đà, Giáp Không Kiếp cũng đều xấu vậy, không hẳn chỉ có Thiên tướng. Dịch
đoạn này cảm thấy nghi ngờ, không chắc có phải là quan điểm của Vương tiên sinh
hay chỉ là do người sau thêm thắt vào? Người đọc cũng cần tham khảo và chắt lọc
thêm vậy. Ngoài ra, một đặc tính về Tài của Thiên tướng chưa thấy được nhắc
đến, vì Tướng và Phủ luôn trong tam hợp cho nên mới có câu “Phủ Tướng triều
viên, nãi vi y lộc chi thần”, là thần của y lộc. Có lẽ đây cũng là một thiếu
sót chăng?
Bàn thêm về sao Thiên Tướng
Thiên Tướng nhập Mệnh, chủ tướng mạo đôn hậu, chín chắn, sắc mặt trắng xanh
hoặc vàng nhạt, khuôn mặt vuông tròn, Thân hình trung bình, nhập miếu đầy đặn
béo tốt, thích ăn nhậu, vật chất đầy đủ. Ăn nói chân thực, không giả dối, thấy
người khác khó khăn thì động lòng xót xa, thấy kẻ ác thì bất bình. Lời lẽ cẩn
thận, suy nghĩ chu đáo, có lòng chính nghĩa. Quan hệ xã giao tốt đẹp, đối xử
với mọi người chân thành, khiêm tốn lễ độ, giúp đỡ mọi người thường xuất phát
từ tấm lòng chứ không tính toán chuyện báp đáp. Lòng dạ lương thiện, ôn hòa,
khoan dung, làm việc chăm chỉ, có năng lực quản lý và xử lý nghiệp vụ tốt, có
thể hi sinh lợi ích bản thân để phục vụ đại cục. An phận thủ thường, một đời
nhẫn nhịn chịu khó, một lòng trung thành, thích hợp làm các công việc phò trợ
người khác. Sao Thiên Tướng có những đặc tính tốt đẹp như trên, vì vậy được mọi
người yêu quý. Người có Thiên Tướng nhập Mệnh có khuyết điểm là việc gì cũng
quá cẩn thận, suy nghĩ quá nhiều, thiếu sự thực tế và sự khai thác, bằng lòng
với hiện tại, vì vậy thích hợp làm các công việc thư ký hay phía hậu trường.
Không quá giỏi kinh doanh là một trong số đặc tính của Thiên Tướng. Nếu kinh
doanh tất là thương gia lương thiện. Người Thiên Tướng thật thà, không giỏi
dùng mưu dùng kế, có lúc quá tin tưởng người khác, cơ hội đến nhưng không nắm
bắt ngay nên thường lọt vào tay người khác. Nữ mệnh Thiên Tướng, dịu dàng hướng
nội, nội tâm tốt đẹp, dung mạo đoan trang ổn trọng, da dẻ nhẵn nhụi, lễ phép
nhã nhặn, không tính toán với người khác, không quá coi trọng sự nghiệp, không
thích khoe khoang và bàn chuyện không đâu, thích ở lì trong nhà. Thích hợp cùng
chồng dạy con, là vợ hiền mẹ tốt, vật chất như ý.
THIÊN LƯƠNG
Quan điểm của Vương Đình Chi:
Thuộc Dương Thổ, là ngôi thứ 3 trong chòm Nam đẩu, hóa khí là ẤM TINH,
nhưng cũng lại hóa vì HÌNH TINH. Nguyên nhân Thiên Lương hóa khí là Hình tinh
là do nó lại có tính chất “cương khắc cô kỵ”, nếu như lúc này mà lại gặp Thiên
Hình cung Kình Dương thì tình cương khắc sẽ mạnh lên, cho nên cách này là không
tốt.
Nhưng Thiên Lương cũng có tính chất của cái bóng che chở, tức là ẤM (hán
việt : Ấm tức là cái bóng che chở của cha mẹ, bề trên, bởi Lương là biểu trưng
của Phụ Mẫu). Ấm (tính chất) tức là tiêu tai đặc trưng lớn nhất là “tiên phá
hậu lập” (trước phá đi rồi sau mới lập thành), trước đắng mà sau mới có vị
ngọt. Nhưng mà trước phải có tai vạ thì sau mới phát huy được tính chất của
Thiên Lương. Tuy nhiên, cuối cùng thì cái Hung cũng sẽ tiêu tán hết, nhưng độ
biến hóa họa phúc của đời người quá lớn, cũng không phải là điều tốt.
Thiên Lương rất tốt nếu gặp Hóa Lộc, nhưng cũng tốt nếu là Hóa Khoa, lúc ấy
sẽ cái mặt tốt đẹp lương thiện của Thiên Lương sẽ biểu hiện mạnh mẽ nhất. Nếu
được Phụ Bật Xương Khúc cùng hội hợp thì lại càng có khả năng phát huy cái tình
chất “ẤM” của Thiên Lương, càng về sau càng mạnh. Thiên Lương có khả năng tiêu
tai giải khó, sở dĩ Thiên Lương cũng hay làm nên cái sự “tiêu tai” là bởi Thiên
Lương chủ quý, nên có thể hóa khí thành khoa tinh.
Trong cách cục Thiên Lương – Hình Kỵ : Cái ánh sáng màu sắc của Thiên Lương
Hình Kỵ thì ít, mà cái sự âm u của Thiên Lương Hình KỴ thì nhiều. Tại sao lại
chiếu sáng ?
Đại khái là nếu được Thái Dương miếu vượng chiếu rọi thì tỏa sáng, hoặc đắc
khoa quyền hội lợp mà tỏa sáng (đương nhiên nếu lại được thêm Thái dương miếu
vượng hòa cùng Khoa Quyền chiếu sáng nữa thì cực tốt). Thứ nhì là nếu gặp được
Thái Âm thì cũng tốt nhưng trường hợp này Thiên Lương trở nên thâm trầm, nội
liễm (thâu nhận vào bên trong). Nếu như những điều ở trên hoàn toàn không có,
Thiên Lương trở nên lén lén lút lút, soi mói bắt bẻ, không hợp với người khác.
Lúc này sẽ phát huy đầy đủ cái tính Hình của Thiên Lương.
Lời bàn: Dịch đến đây, mới thấy được Vương tiên sinh
giải thích vì sao Thiên Lương lại hóa khí là Hình Tinh. Cũng là một ý kiến mới,
khi ông cho rằng Thiên Lương có thêm tính chất Cương-Khắc-Cô-Kỵ. Nhưng trên
thực tế, và theo các tài liệu, quan điểm khác thì dường như tính chất này không
rõ ràng lắm, có phần mờ nhạt. Nhưng ở đây, Vương tiên sinh rất coi trọng cái
cách Thiên Lương gặp Hình Kỵ, có lẽ đây là quan điểm riêng của ông, cũng là một
điều cần chiêm nghiệm. Tất nhiên, là tính chất của Thiên Lương cũng như bất kể
một sao nào, đều phụ thuộc vào cái sự miếu hãm của nó, chứ không hẳn chỉ có đắc
cách như Vương tiên sinh nhận xét. Cái điều Vương tiên sinh luận rằng “tiên phá
hậu lập” rất xuất sắc, bởi vì Lương là Ấm tinh, vốn là thừa hưởng của tiền nhân
để lại, ở đời mấy ai giữ được, nếu không phải là nội lực tự cường. Việc Lương
gây nên sự biến đổi họa phúc lớn của đời người, chưa hắn chỉ có thế, có lẽ cần
xem xét thêm các điều kiện khác nữa chăng.
Bàn thêm về sao Thiên Lương
Thiên Lương tọa Mệnh, chủ người có vẻ ngoài ổn trọng khiêm nhường, từng
trải, từ bi, gương mặt dài vuông, xương gò má cao, lưng hơi gù, hơi béo. Thanh
tú, thông minh chính trực, là người chính trực không tư lợi. Hay lo chuyện
thiên hạ, lấy việc giúp đỡ người làm vui, hay giúp đỡ những người kinh tế khó
khăn. Quang minh lỗi lạc, gặp chuyện thì quyết đoán, xử lý việc luôn đứng trên
lập trường công bằng, không thiên vị, thận trọng, có phong thái của người lớn
tuổi, thường nhận được sự kính trọng của mọi người, thích khoe khoang, thường
giúp người khác giải quyết tranh chấp, nhưng cũng gặp hiểu lầm, làm ơn mắc oán.
Người có sao Thiên Lương nhập Mệnh thì tâm tính nhân nghĩa từ bi, có sự nghiên
cứu và hứng thú với y học thuốc thang, đặc biệt có duyên bẩm sinh với trung y,
đông dược, thuật số tôn giáo. Tính tình thanh cao, coi thường chuyện tiền bạc,
đối với chuyện tiền bạc không quá tính toán chuyện được mất. Có tài cán, lòng
dạ rộng rãi, có điều tính háo thắng, có dục vọng về quyền lực và dục vọng lãnh
đạo, đa phần thường có vài phần ngạo mạn, vẻ mặt người ở trên cao, phẩm hạnh
của người già. Tư tưởng chính thống, kiên trì với nguyên tắc, không chịu dễ
dàng chấp nhận sai sót khuyết điểm của bản thân. Nữ mệnh Thiên Lương, dung mạo
đoan trang, mắt dài mũi thẳng, ôn hòa chính trực, sống trọng tình nghĩa, trong
nhu có cương, nhiệt tình, thích giúp đỡ người khác. Nhập miếu hội cát tinh,
nhiều tài nghệ, phú quý song toàn. Hội Xương Khúc, có tài hoa văn nghệ. Hội Tả
Hữu, chính trực khoan dung trung hậu, giúp người làm vui, cùng chồng dạy dỗ con
cái. Hội Dương Đà Hỏa Linh, cô khắc, rước thị phi, không thuần khiết.
THẤT SÁT
Quan điểm của Vương Đình Chi:
Thuộc âm kim, là ngôi thứ 5 của chòm Nam đẩu, là chiến tướng trên trời.Là
kẻ xung phong hãm trận, giết giặc trên chiến trường, vì thế Thất sát mang theo
tính chất cương khắc.
Thất sát không nên gặp Hình Kỵ vì sợ rằng quá cô khắc, nếu mà lại hội thêm
sát tinh nữa, thì đời người càng thêm gian khổ.
Chế được cái tính cương khắc của Thất Sát, chỉ có Lộc tinh ở Tỵ (1), hội
Hóa Lộc hay Lộc tồn đều tốt, có thể làm cho cái tính cương khắc của Thất sát
hóa thành chuyên nghiệp, hoặc công nghệ, trong cái sự phân công rất tinh tế của
xã hội hiện đại, người chuyên nghiệp cũng tương đương với khái niệm giầu có.
Ngoại trừ Lộc tinh ra, để chế hóa cái tính ác của Thất sát là Tử vi, gọi là
“hóa sát vi quyền” (biết SÁT thành QUYỀN). Khi Thất sát và Tử vi cùng gặp nhau
hoặc đối cung với nhau mà được quần thần cùng hội vào, lại tránh được sát tinh
phá phách thì mới là hợp cách. Giống như Đại tướng nhận lệnh của Để tọa, khí
khái phi phàm, nếu lại hội thêm được Lộc tinh thì phú quý khỏi phải bàn. Nếu có
sát tinh trùng phá, thì khả năng là sẽ trở thành mệnh của một nhà công nghiệp.
Thất sát là tướng quân, trực tiếp nhận mệnh của hoàng đế xuất ngoại đánh
trận, nhưng phía sau có quân quyền, hoàn toàn phụ thuộc vào chuyện quân lương
mà thành sự, vì thế mà Thất sát rất cần gặp Lộc (rất tốt nếu gặp cả song Lộc).
Mà Thất sát vốn là đại tướng nên ưa độc đoán độc hành, vì thế mà Tả Hữu Xương
Khúc đối với Thất Sát cũng không quan trọng lắm. Cũng giống như Vũ Khúc, Khôi
Việt tương đối quan trọng đối với Thất sát.
Thất sát cũng giống như Tham Lang, đều là chủ BIẾN, nhưng phúc độ của Sát
lớn hơn Tham Lang vậy.
(1) Câu này hơi tối nghĩa, nguyên văn viết là “ Hóa Thất Sát đích cương
khắc, duy Lộc tinh tỵ” – Chữ TỴ trong văn bản này là Chi Tỵ trong 12 địa chi,
nhưng như thế không có nghĩa, ngờ rằng là nhầm với chứ TỴ nghĩa là TRÁNH ĐƯỢC.
Lời bàn: Đối với Thất Sát, điểm quan trọng là cái
tính CƯƠNG KHẮC, Vương tiên sinh đã phân tích rằng “không nên gặp Hình Kỵ vì sợ
quá cô khắc, nếu gặp thêm sát tinh thì đời người là càng thêm gian khổ”, lý
luận của Vương tiên sinh rất sắc bén, cổ nhân đã có câu “Thất Sát – Thiên Hình,
cương táo nhi cô”, trở nên cứng rắn, khô khan mà lại cô độc. Đương nhiên là
cuộc đời sẽ vì thế mà kinh lịch gian tân. Tuy nhiên, cái sự lập luận ấy cần
phải dựa trên tính lý của Sát mà luận, chứ chỉ căn cứ vào cái chuyện ví von Sát
là chiến tướng mà phân tích, thì e rằng sẽ rơi vào chuyện suy diễn thường tình.
Và cũng cần phải xem xét thêm luận điểm cho rằng Lộc tinh có thể giải trừ được cái
tính cương khắc của Sát, điều này chưa hẳn đúng lắm, bởi Lộc tinh tuy có thể
biến cái sự sát phạt của Thất sát thành tài phú, nhưng cái tính cương cường thì
khó lòng vì thế mà mất đi được. Có thể trong xã hội hiện đại tiền bạc có thể
đánh bóng con người, nhưng cái tính cương khắc của tinh diệu thì khó lòng cải
biến được, cũng là điều cần suy ngẫm.
Bàn thêm về sao Thất Sát
Người có Thất Sát nhập Mệnh, mắt to, xương mày nổi bật, mắt có vẻ uy
nghiêm, khuôn mặt vuông dài hoặc gầy dài, có nếp nhăn, trên mặt có nhiều vết
đốm hoặc rỗ. Thân thể có thương tích, nhập miếu béo, lạc hãm thì gầy nhỏ, vẻ
ngoài tháo vát pha lẫn sức khỏe. Hành vi phóng khoáng ngang tàng, không câu nệ
tiểu tiết, tốc độ đi nhanh. Cá tính vô cùng hiếu thắng, quật cường cứng rắn, có
sự tự chủ độc lập, có khí khái bất khuất, tính tình dữ dội, dễ nổi cáu, hỉ nộ
ái ố thể hiện trên khuôn mặt. Không thích bị người khác can thiệp ràng buộc, sự
độc lập lớn, dũng cảm, có dũng khí và sự thực hành, đối mặt với khó khăn sẽ
dũng cảm tiến về phía trước, tuyệt đối không sợ hãi. Là người thích đầu cơ mạo
hiểm, không sợ không làm được, chỉ sợ không nghĩ ra, trong cuộc sống là kiểu
người khai sáng tiến công. Có mưu lược, có năng lực lãnh đạo thống lĩnh tốt,
chỉ có điều tính tình quá gấp gáp, thường bực tức, dễ coi cấp trên là vô dụng,
nên có tâm lý phạm thượng, đối với cấp dưới, bạn bè thì tương đối khoan dung.
Thành bại một đời thường đến rất đột ngột, bất luận nam hay nữ, đều phải trải
qua khó khăn mới có thành tựu. Nữ mệnh Thất Sát, tính tình hướng ngoại, hoạt
bát hào phóng, có khí chất, tính cương, làm việc già dặn, có tinh thần trượng
nghĩa, thích giúp người, thuộc loại hình của công việc, không có hứng thú gì
với chuyện làm vợ hiền mẹ tốt, sau khi kết hôn tất đoạt quyền chồng, chồng phải
nghe lời vợ.
PHÁ QUÂN
Quan điểm của Vương Đình Chi:
Phá quân thuộc dương Thủy, là sao thứ 7 trong chòm Bắc đầu. Tính chất
“chiến tướng” tương tự như Thất sát nhưng khác làở chỗ: Thất sát là tướng mà
Phá quân là tiên phong, do vậy Phá quân hóa khí là Hao.
Bởi Phá quân “năng công bất năng thủ”– hợp với thế tiến công hơn phòng thủ,
nên Phá quân tọa mệnh so với Thất sát có tính “động” nhiều hơi. Dù cho hội được
tử vi thì cũng không thể vì thế mà “hóa phá vi quyền”– Tử vi dụng Phá quân
thành quyền tinh được, ngược lại tính động của Phá quân còn làm ảnh hưởng đến
tính ổn định của Tử vi.
Phá quân gặp sát tinh mà không có cát tinh phù trợ, có thể bị hình thương
trên thân thể.
Phá quân tốt nhất bản thân Hóa lộc, tốt nhì là hội được Lộc. Khi đó sẽ cải
thiện bản tính động. Với Hóa quyền cũng có thể tương tự như trên nhưng không
tốt bằng Hóa lộc.
Nếu được phụ tá tinh và cát tinh hội chiếu, tránh được sát tinh thì là tổ
hợp tốt nhất cho Phá quân, khi đó Phá Quân có thể vừa “công”, vừa “thủ”, gặp
vận đích thực là chiến tướng, cách cục này không phải nhỏ.
Phá Quân cũng là chiến tướng, nhưng so với Thất Sát thì kém một bậc, sở dĩ
Thất Sát có thể thụ mệnh Hoàng Đế một cách đường đường chính chính, nhưng Phá
Quân mà trực tiếp thụ mệnh Hoàng Đế liền có điểm không hợp, vì thế tổ hợp Tử Vi
Phá Quân tốt đẹp khi tính chất ổn định của Tử Vi được duy trì.
Không có Lộc thì Phá quân như chiến tướng bị hao tổn, không có hậu phương,
chung cuộc cũng bại hoặc bị hạ thấp. Chính thế nên muốn phòng trừ cái việc
“chiến tướng bị hao tổn” thì quan trọng phải tậm trung tâm lực vào chỉ một
việc. Phá Quân thủ mệnh không thể là người nhàn nhã, lắm ý niệm.
Lời bàn: Về Phá Quân thì cũng có nhiều quan điểm trái
chiều nhau. Ở đây, có lẽ Vương tiên sinh quá coi trọng hình ảnh “chiến tướng”
khi đem so sáng với Thất sát, nhưng có lẽ về bản chất thì Phá Quân khổng hẳn
thê. Sở dĩ Tử vi không làm cho Phá hóa Quyền được là chính vì cái tính phản
nghịch của nó. Khác với Thất Sát chỉ là “thừa hành chính lệnh”. Trong quan điểm
của Vương tiên sinh thì cho rằng Phá Quân cần hội nhiều cát tinh mới quý, tuy
nhiên cần phải xem xét trong trường hợp Văn tinh, vì Phú nói “Phá quân hội văn
tinh nhất sinh bần sĩ”. Phá quân vốn là “nghi loạn bất nghi trị” hợp với thời
loạn hơn là lúc yên ổn, có lẽ vì thế mà một số quan điểm cho rằng phải được sát
tinh đắc cách phò trợ mới tốt, như Phá đắc Không Kiếp vậy. Tuy nhiên, theo quan
điểm của một số nghiên cức thì thấy rằng, Phá đắc sát tinh, tuy có thể phấn
phát nhất thời nhưng chắc chắn sẽ phải trả giá, cũng không phải là điều tốt.
Như thế, có nghĩa là Phá thể hiện tính cô độc cực cao, chẳng hợp với nhóm nào.
Cũng nên chiêm nghiệm.
Bàn thêm về sao Phá Quân
Phá Quân nhập Mệnh, lưng dày, mày khoan, eo nghiêng, tiếng nói sắc bén,
động tác nhanh, không coi trọng lễ nghĩa, thích ăn vặt, thái độ thiếu ổn trọng.
Nhập miếu thân hình ngũ đoản, hơi béo, hãm địa cao gầy, phá tướng hay mặt có
lốm đốm. Cá tính đặc biệt, kiêu ngạo, không khuất phục hay chịu sự quản thúc
của ai, hỉ nộ vô thường, thích ham muốn hưởng thụ vật chất, thích săn bắt thú,
tính tình cương cường, thích tranh đấu, quan hệ xã giao không tốt, đặc biệt
thích góp vui. Phá Quân chủ người hành động độc đoán, tự cho mình đúng. Cư miếu
vượng, bản tính nghiêm khắc có tài thao túng, là người cương cường có chủ kiến.
Nhập hãm địa thì tính tình dữ dội dễ dẫn đến cực đoan. Yêu ghét phân minh, là
người thiên tính cố chấp, ý thức chủ quan mạnh, là điển hình cho chủ nghĩa cá
nhân, đa phần thuộc kiểu người tự tư tự lợi, lòng dạ hẹp hòi, gian trá xảo
quyệt. Sự hiếu kì lớn, làm việc gì cũng dựa vào hứng thú nhất thời, khó có sự
bền chí đến cùng, thiếu kiên nhẫn, thường bỏ dở giữa chừng. Lời nói và việc làm
tùy hứng bất chấp mọi thứ, cử chỉ khoa trương, cuồng ngạo đa nghi, tính khí
cứng rắn, tự ý tổn thương người khác, có tính phá hoại, thích dùng vũ lực giải
quyết vấn đề, coi cái xấu là tốt, việc giúp người là xấu, lấy ân báo oán, đối
nhân xử thế thường mang ý thù địch, với người thân thì vô nhân nghĩa, khó có
thể hòa nhập chung sống, thậm chí lục thân như nước với lửa, thường trở mặt với
bạn bè, một đời dễ kết oán với người khác. Không chịu cảnh nhàn rỗi, có tinh
thần khai sáng và tâm lý hên xui mạnh mẽ, thích đầu cơ mạo hiểm, mơ ước chỉ qua
một đêm trở nên giàu có. Nữ mệnh Phá Quân, một đời vất vả, tuy lầm lì nhưng
hiếu động, lòng tự tôn lớn, khó có thể vui vẻ dài lâu, thích ăn vặt, có khuynh
hướng thần kinh, dễ làm ngược lại, tính tình chanh chua.
*.
ĐÀO ANH DŨNG
(Tổng hợp và giới thiệu)
Địa chỉ: Thị tứ Phùng Hưng,
xã Phùng Hưng,
huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
Email: anhdungdao131@yahoo.com.vn
...................................................................................................................
-
© Tác giả giữ bản quyền.
-
Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 19.05.2016
-
Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
0 comments:
Đăng nhận xét