(Nguồn ảnh: Internet) |
CHỮ HIẾU TRONG
KINH ĐIỂN PHẬT GIÁO
Có một sự thật khi nghiên cứu Phật giáo, người ta phải
thừa nhận rằng đức Phật đặc biệt nhấn mạnh đến hiếu hạnh, lợi ích của hiếu hạnh
và làm thế nào để báo đáp hiếu hạnh có hiệu quả cao và công đức lớn. Các kinh
điển Phật giáo dạy về hiếu hạnh có thể liệt kê sơ bộ sau đây:
* Kinh Vu-lan-bồn nêu gương hiếu hạnh của đức Mục-kiền-liên, cứu thoát mẹ ra khỏi cảnh
giới u minh, nhờ vào đạo đức tập thể của các bậc cao Tăng và A-la-hán.
* Kinh Báo ân Cha Mẹ nói rõ công lao sinh thành, nuôi dưỡng khó khăn của
cha mẹ, và theo đó dạy cách báo đáp công ơn trời biển đó.
* Kinh Thai Cốt và Kinh
Huyết Bồn cũng có nội dung tương tự như hai kinh trên nhưng đặc biệt nhấn mạnh
công đức của cha mẹ.
* Kinh Hiếu Tử dạy về các phương thức báo hiếu.
* Kinh Tâm Địa Quán với phẩm thứ hai là phẩm báo ân, dạy cách đền ơn
cha mẹ của người xuất gia và người tại gia.
* Kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân có đến 2 phẩm nói về hiếu hạnh của Phật
và Bồ-tát trong các đời sống quá khứ.
* Kinh Địa Tạng kể về hiếu hạnh của Bồ-tát Địa Tạng và thông qua đó hướng dẫn cách
đền ơn cha mẹ ở hiện đời cũng như các đời sống quá khứ.
* Sám Pháp Mục-kiền-liên dạy về cách sám hối và hướng dẫn cha mẹ về chính
pháp của đức Phật.
* Kinh Thiện Sinh hay Giáo
thọ Thi-ca-la-việt (thuộc kinh điển Pali) dạy về đời sống và các mối quan hệ đạo đức của
xã hội loài người, trong đó có đề cập đến 5 nguyên tắc đạo đức của các bậc cha
mẹ đối với con cái và 5 nguyên tắc đạo đức của con cái đối với cha mẹ.
(Thượng tọa Thích Nhật Từ) |
Biết ơn và đền ơn cha mẹ
là hạnh hiếu đáng khen
Trước nhất kinh điển Phật giáo khẳng định rằng người
biết ơn và đền ơn cha mẹ là một bậc chân nhân, là người sống gương mẫu ở đời.
Một người con được gọi là con hiếu thảo phải là một con người như vậy: “Đối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính này sẽ
được biết đến, đó là biết ơn và đền ơn đúng pháp.”
Làm con mà không biết ơn cha mẹ hoặc biết ơn mà không lo
đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ là người con bất hiếu. Người
như vậy sẽ bị xã hội lên án, đời sống đạo đức sẽ bị suy giảm, và đời sống về
sau sẽ bị thối đọa: “Ai thành tựu thân làm ác với cha mẹ, lời nói ác đối với cha mẹ, ý nghĩ ác
đối với cha mẹ; không biết ơn, không trả ơn, sẽ tương xứng rơi vào địa ngục và
hiện đời sẽ bị đau khổ.”
Kinh còn mô tả hạnh tri ân và đền đáp công ơn sinh thành
của cha mẹ là những gì cao quý nhất trên đời. Sự cao quý đó có thể sánh với sự
xuất hiện của đức Phật cũng như sự xuất hiện của chính pháp. Người tri ân và
báo ân như vậy là người cao quý và hiếm có trên đời: “Sự xuất hiện của Như Lai bậc chính đẳng giác khó tìm được
ở đời. Người hoằng truyền chính pháp của Như Lai là khó tìm được ở đời. Người
tri ân và báo ân là khó tìm được ở đời.”
Trong kinh Tương Ưng, đức Phật cũng nói đến vị trí của người con
hiếu thảo là vô song và hơn hết các loài động vật khác. Sự vô song này được đức
Phật ví với sự vô song của Phật so với các loài hai chân:
Giữa các
loài hai chân
Chính
giác là tối thắng
Trong
các loài con cái
Hiếu
thuận là tối thắng.
(Kinh Tương Ưng I. 8)
Kinh Pháp Cú khi đề cập đến các phạm trù hạnh phúc cũng có nói
đến sự hiếu kính cha mẹ là hạnh phúc tối thượng ở đời:
Phúc
thay, hiếu kính Mẹ
Phúc
thay, hiếu kính Cha!
(Kinh Pháp Cú, kệ 332)
Kinh Tăng Chi còn cho biết sự hiếu dưỡng bồi công tích đức cho
cha mẹ là một trong những yếu tố chính yếu để được tái sinh về các cõi trời. Chư thiên cõi trời 33 luôn khen tặng những người con có
hiếu bằng những lời chúc lành. Chính các vị thiên này cũng nhờ vào hạnh hiếu
thảo mà được sanh về thiên giới, làm giảm thiểu cảnh giới A-tu-la: “Phúc thay những người con hiếu kính cha mẹ, làm nhiều
công đức để hiếu kính cha mẹ, vì như vậy thiên chúng sẽ được sung mãn và các
A-tu-la sẽ bị giảm thiểu”.
Đối với kinh Hạnh Phúc, việc hiếu kính cha mẹ không chỉ là một loại
hạnh phúc mà còn là một thứ hạnh phúc tốt lành nhất trong các hạnh phúc của con
người:
Sự phụng
dưỡng mẹ cha
Là hạnh
phúc lớn nhất.
Về sự liên hệ giữa hạnh hiếu và quả báo cõi trời, đức
Phật còn cho biết thiên chủ Sakka khi còn là con người do thọ trì bảy giới
trong đó hiếu kính cha mẹ đúng pháp là giới thứ nhất mà được quả báo sinh làm
Thiên vương Đế Thích.
Ai hiếu
dưỡng mẹ cha
Kính
trọng bậc gia trưởng
Nói
những lời nhu hòa
Từ bỏ
lời hai lưỡi
Chế ngự
lòng xan tham
Là người
con chân thật
Nhiếp
phục được phẫn nộ
Với con
người như vậy
Gọi là
bậc chân nhân.
Hình ảnh hiếu dưỡng mẹ và cha đúng pháp không chỉ được
gọi là bậc chân nhân, bậc thiện nhân, bậc cao quý, mà còn được so sánh ngang
hàng với phạm thiên, với các bậc tiên sư. Những gia đình có được những người
con hiếu thảo như vậy được gọi là gia đình xứng đáng được cúng dường và tán
thán: “Này các
Tỳ-kheo, những gia đình nào mà con cái kính lễ cha mẹ, những gia đình ấy được
xem là ngang hàng với Phạm thiên, với các bậc tiên sư và đáng được cúng dường.”
Để giải thích thỏa đáng lý do có sự so sánh ngang hàng
này, đức Phật dạy: “Này
các Tỳ-kheo, danh từ Phạm thiên, tiên sư, bậc đáng được cúng dường là đồng
nghĩa với cha mẹ. Vì cha mẹ đã đầu tư hầu hết cuộc đời của mình vào công trình
nuôi dưỡng, giáo dục và dẫn dắt con cái vào đời.”
Trong kinh Tương Ưng, đức Phật lại cho biết lợi ích hai đời của
hiếu hạnh: hiện đời thì được các bậc hiền thánh khen ngợi và sau khi qua đời
thì được sinh vào cảnh giới chư thiên:
Người tu theo thường pháp
Nuôi dưỡng mẹ và cha
Chính do công hạnh này
Mà các bậc hiền thánh
Trong đời thường tán thán
Khi chết được sanh thiên
Hưởng an lạc thù thắng
(Kinh Tương Ưng IB. 203)
Về quả phước mà người con hiếu thảo sẽ gặt hái, kinh Hạnh Phúc còn mô tả kỹ hơn, chi tiết hơn, như
đoạn trích dưới đây:
“Người con chí hiếu dù gặp tai nạn như nạn nước hồng thủy, địa chấn (động
đất) sẽ được thoát hiểm một cách an toàn. Nếu giàu thì trọn hưởng gia tài,
không bị nghịch cảnh, chướng duyên và nội nghịch ngoại thù. Nếu nghèo thì đời
sống trong sạch, thanh nhàn, trời người yêu mến, danh thơm xông khắp, không bị
nợ nần, khổ sở, ít bệnh tật, được tăng trưởng tuổi thọ. Trong hiện tại thường
được các bậc hiền trí ngợi khen, kết giao thân thiện. Sau khi chết được sinh
thiên.”
Tại sao chúng ta phải hiếu
kính cha mẹ?
Để trả lời câu hỏi thông thường nhưng quan trọng này,
kinh điển Phật giáo đưa ra ba lý do. Thứ nhất về phương diện thai dựng, cha mẹ
đã khổ cực cho chúng ta trong suốt chín tháng cưu mang và ba năm bồng ẵm. Thứ
hai về phương diện giáo dục, cha mẹ đã nuôi nấng chúng ta trở thành người tốt
trong xã hội. Thứ ba là phương diện đạo đức, cha mẹ đã hướng dẫn con cái đến
con đường chính pháp của đức Phật.
Về phương diện cực khổ trong thời gian
thai dựng
Chín tháng thai dựng là thời gian người mẹ phải chịu
nhiều đau khổ và bất tiện nhất. Kinh Phật có nhiều đoạn mô tả rất là thống
thiết, chân tình về việc này. Ba năm bú mớm là thời gian mà mẹ và cha bận rộn
và hy sinh cho con nhiều nhất. Sau đây là vài đoạn trích cho thấy điều đó: “Này A-nan, Như Lai xem chúng sinh dầu được làm người
nhưng lòng còn ngu muội, chẳng nghĩ nhớ đến công đức của cha mẹ như non bể,
không cung kính, không hiếu thảo. Mẹ mang thai con trong vòng mười tháng, ngồi
đứng không yên như mang gánh nặng, ăn uống phải kiêng cử, chẳng còn ngon miệng.
Ngày tháng thoi đưa, đến kỳ sinh nở, mẹ chịu đau đớn mọi bề. Khi sinh được thân
này, mẹ phải ăn đắng nuốt cay, nhả bùi mớm ngọt, nâng nui, dưỡng dục, giặt giũ
dơ dáy, không nề gian khổ. Những lúc cơ hàn, tâm khổ, mẹ nằm chỗ ướt, dành chỗ
ráo cho con. Sau ba năm bú mớm là nâng niu, dạy bảo đủ điều, cho con ăn học.”
Sám Pháp Mục-Liên thì chép: “Cha mẹ sinh ta, mang thai mười tháng, khổ sở rất nhiều,
công ơn chan chứa, nặng như núi Thái, đi lại khó nhọc, ngồi đứng không yên,
tánh mạng bấp bênh, như đèn trước gió, ăn uống không ngon, như người đau nặng,
thân hình gầy yếu, tinh thần bải hoải. Đến ngày mãn nguyệt, khổ không thể nói,
chẳng kể đến mình, mệt nhọc bao nhiêu, chỉ mong cho con sinh được vuông tròn.
Bởi thế cho nên, ngày nay chúng ta phải nghĩ đến công đức sâu dày của cha mẹ mà
lo báo ân.”
Ở một đoạn khác, Sám pháp này còn diễn tả: “Ơn mẹ khó báo thế mà người đời chỉ ham vui chơi, không
nghĩ công mẹ, chẳng thiết báo đền. Không nhớ lúc sinh, mẹ như người ốm. Khi mới
mang thai, tinh thần mỏi mệt, ăn uống không ngon, sợ đau thai con, suốt ngày lo
lắng, chịu bao khổ não, không thể nói hết.”
Trong kinh Tương Ưng, đức Phật đưa ra hình ảnh so sánh rất ví von
nhưng vô cùng có ý nghĩa: “Này các Tỳ-kheo, sữa mẹ mà các thầy đã uống trong suốt quá trình luân hồi
nhiều hơn nước trong bốn biển.”
Vì cha mẹ mà chúng ta được sinh ra, có được tất cả. Do
đó, làm con phải thờ kính cha mẹ: “Này bà-la-môn, thế nào là lửa đáng cung kính? Cha mẹ là
lửa đáng cung kính, vì từ cha mẹ, chúng ta được tạo nên. Do đó cha mẹ là lửa
đáng cung kính, tôn trọng và cúng dường.”
Về phương diện giáo dục con cái
Cha mẹ phải vất vả nuôi nấng, dưỡng dục con, lo bạn bè,
cho ăn học, lập gia thất, chạy thầy lo thuốc khi con đau ốm, chẳng quản tấm
thân lao khổ. Những đoạn kinh dưới đây cho thấy công lao dưỡng dục của cha mẹ
đối với con cái: “Cha
mẹ dạy điều lễ nghĩa, cho con ăn học, giới thiệu nghề nghiệp, đưa đón đi về,
cần lao chăm chút, chẳng hề kể công. Trái trời lỡ nắng, tuần trăng cuối gió,
bệnh nọ chứng kia, chạy thầy lo thuốc, một mình lo lắng, chạy ngược chạy xuôi,
năm canh vò võ, khi bệnh con khỏi, lòng mẹ mới yên, mong con khôn lớn, con thảo
con hiền.”
Ở một đoạn khác theo thể kệ thơ, công ơn giáo dưỡng của
cha mẹ được mô tả đầy đủ như sau:
Mẹ trải bao gian khổ
Công lao tựa núi trời
Bồng bế cùng nuôi dưỡng
Mong sao con lớn khôn
Nhường cơm cùng xẻ áo
Mẹ đói rách cũng vui
Khôn lớn tìm đôi lứa
Gây dựng cho nên người
Công cha cùng đức mẹ
Cao siêu tựa vực trời
Mẹ già hơn trăm tuổi
Vẫn thương con tám mươi
Bao giờ ân oán hết
Tắt nghỉ vẫn chẳng thôi.
(Kinh Báo Trọng Ân
Cha Mẹ, 19-20)
Trong kinh Tăng Chi, có đoạn sau đây cũng mô tả cùng một nội
dung: “Cha mẹ
là đấng đáng được cúng dường. Vì cha mẹ đã giúp đỡ con cái rất nhiều: nuôi
chúng lớn, dưỡng dục nên người và giới thiệu chúng vào đời.”
Một đoạn khác trong kinh điển Pali đó là kinh Thiện Sinh hay còn gọi là kinh Thọ Giáo Thi-ca-la-việt còn đề cập đến năm công ơn khác của cha
mẹ: “Cha mẹ
thương tưởng con cái theo năm cách: ngăn chặn con làm việc ác, khích lệ con làm
điều thiện, dạy cho con nghề nghiệp, lập hôn nhân xứng đáng cho con và trao của
thừa tự đúng thời.”
Về phương diện hướng dẫn con vào chính
pháp
Đây là phương diện quan trọng và quyết định đời sống đạo
đức và trí tuệ của con cái. Chính từ phương diện này, hiếu hạnh trong Phật giáo
đã vượt trội hơn hiếu hạnh theo quan niệm thông thường. Tương tự, ở đây, chúng
ta thấy vai trò của cha mẹ là vô song trong việc hướng dẫn con cái theo con
đường chính pháp của Phật. Về điều này, kinh Phân Biệt và Đại Phương Tiện Phật Báo Ân ghi: “Ta trải qua nhiều kiếp tinh tấn đến nay mới thành Phật
toàn là công ơn của cha mẹ ta. Vậy nên người học đạo không thể không tinh tấn
hiếu thảo cha mẹ.”
Kinh Tăng Chi còn nêu rõ bốn cẩm nang đạo đức đắc nhân tâm là các
tiêu chí mà các bậc cha mẹ nên giáo dục cho con của mình:
Bố thí và ái ngữ
Lợi hành và đồng sự
Đối với bốn pháp này
Cha mẹ dạy cho con
Khéo xử sự ở đời
Chỗ này và chỗ kia
Như vậy thật tương xứng
Đạt được an lạc lớn
(Kinh Tăng Chi I. 387)
Mục Liên Sám Pháp cũng nêu ra tiêu chí giáo dục chính pháp cho con như
sau: “Khi con
lớn khôn, hiểu biết việc đời, hướng đạo cho con, hoặc cho xuất gia, tu học đạo
pháp, trở thành giải thoát. Ân đức như thế thật khó đáp đền”.
Đền ơn cha mẹ bằng cách nào?
Về phương thức báo hiếu, một lần nữa những lời dạy của Phật tỏ ra chu đáo
và toàn diện hơn các tôn giáo và triết thuyết khác. Theo tinh thần lời Phật
dạy, người Phật tử sẽ đền ơn cha mẹ trên hai phương diện vật chất và tinh thần,
tương thích với chính pháp.
Báo hiếu về phương diện vật chất
Trước nhất những người con nên báo đáp công ơn sinh
thành của cha mẹ bằng của cải vật chất, tiền bạc, sự chăm sóc, thăm viếng và
lòng thương kính. Nuôi dưỡng cha mẹ bằng tất cả khả năng của mình. Dĩ nhiên
trong khi đền đáp công ơn của cha mẹ, người con hiếu thảo không nên hiếu dưỡng
với ý niệm kể công “tính tháng tính ngày” hay “kể lể từng ngày” mà phải nuôi
dưỡng cha mẹ với bầu nhiệt huyết của sự kính thương và lòng hãnh diện, vì người
Phật tử sẽ nhận thức được rằng “không có thứ hạnh phúc nào to lớn và quý báu
cho bằng thứ hạnh phúc khi cha mẹ còn sống với ta.” Cha mẹ là niềm phúc đức và
niềm an lạc cho con cái. Cha mẹ là một nửa hồn và máu huyết của con cái. Cha mẹ
đã đóng góp đời mình cho sự trưởng thành của con cái. Cha mẹ là tất cả, là của
con và vì con. Do đó, làm con hiếu thảo phải phụng dưỡng và kính thờ cha mẹ
đúng pháp.
Một điểm đặc biệt mà chúng ta cần lưu ý là phương thức
đền đáp công ơn cha mẹ về phương diện vật chất rất được xem trọng trong Phật
giáo. Chính từ phương thức này chúng ta mới có thể đánh giá một cách thực tế
thế nào là một người con hiếu thảo đúng nghĩa. Trong kinh Phật dạy, mọi tài sản
vật chất mà con cái đền đáp cho cha mẹ phải là những thứ tài sản hợp pháp, chân
chính, phát sinh từ đời sống chính mạng và chính nghiệp. Người con nuôi dưỡng
cha mẹ bằng các nghề bất chính, vi phạm pháp luật, tổn thương hạnh phúc của
người khác hẳn không phải là cách báo hiếu có ý nghĩa và nhất là có thể vô tình
gián tiếp đưa cha mẹ vào vòng ảnh hưởng của một cộng nghiệp bất thiện và tội
lỗi. Cách hiếu dưỡng cha mẹ như vậy thực chất là hại cha mẹ, chứ không phải là
hiếu dưỡng theo lời Phật dạy.
Trong kinh Dhananjani, tôn giả Xá-lợi-phất thay lời đức Phật giải
thích cho bà-la-môn về cái sai và cái đúng, cái nên làm và cái không nên làm
trong vấn đề phụng dưỡng cha mẹ: “Này Dhananjani, người con hiếu thảo không nên vì cha mẹ
mà làm các điều phi pháp, bất chính. Vì người làm như vậy sẽ bị quỷ sứ kéo vào
địa ngục. Trước sự phán xét của nhân quả, người ấy không thể viện lý vì muốn
cho cha mẹ sung sướng, vui lòng, để bào chữa cho mình là vô tội. Hành động như
vậy sẽ bị thác đọa địa ngục dù nó có khóc than hay cha mẹ nó có van xin hay kể
lể”.
Chính vì thế chúng ta thấy hành động hiếu thuận, hiếu
dưỡng của người con chí hiếu phải được thiết lập trên đạo đức nhân quả. Người
con hiếu chỉ làm những gì thật sự có lợi cho cha mẹ và có lợi cho mình mà không
gây bất cứ tổn hại nào cho tha nhân. Hành vi hiếu thảo mà không hội đủ tiêu chí
này không thể gọi là Hiếu đúng nghĩa. Hiếu hạnh trong đạo Phật được đặt trên
định hướng đạo đức và nhân quả. Do đó, quả báo của Hiếu hạnh sẽ là sự an lạc từ
hành vi báo hiếu chân chính, làm cho cha mẹ hoan hỷ, và hạnh phúc thật sự. Tiêu
chí báo hiếu đó được đoạn kinh dưới đây mô tả thật cô đọng và đủ nghĩa: “Này Mahanam, người con hiếu với những tài sản mà mình đã
nỗ lực thâu hoạch được, do sức mạnh của đôi tay, bằng những giọt mồ hôi đổ ra
một cách hợp pháp, cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường cha mẹ với thiện ý
thì sẽ được cha mẹ hoan hỷ, thương tưởng và hằng cầu mong cho con được sống
lâu, mạnh giỏi. Này Mahanam, người con hiếu được cha mẹ hoan hỷ, thương tưởng
và mong cầu như vậy thì gia đình ấy chắc chắn sẽ thịnh vượng, không bao giờ bị
suy giảm.”
Trong rất nhiều kinh, đức Phật luôn luôn cảnh tỉnh mọi
người không nên chỉ vì lý do phụng dưỡng cha mẹ mà tạo tác các nghiệp phi pháp,
bất chính, tổn hại mình và người. Đức Phật cũng thường nhắc đi nhắc lại rằng sự
hiếu kính đúng nghĩa có giá trị, có an lạc phải là sự hiếu kính trên cơ sở của
các hành vi và nghề nghiệp chân chính, phù hợp với luật pháp xã hội. Với cách
báo ân bằng đời sống chính mạng và chính nghiệp như vậy, đức Phật mới tán thán,
khuyến khích:
Người nào theo thường pháp
Nuôi dưỡng mẹ và cha
Chính do công hạnh này
Đối với cha và mẹ
Nhờ vậy bậc hiền thánh
Trong đời này tán thán
Sau khi chết được sinh
Hưởng an lạc chư thiên
(Kinh Tương Ưng I. 225)
Ở một đoạn kinh khác, đức Phật cũng huấn thị tương tự.
Người con hiếu thảo đúng pháp phải tinh thấn, dốc lòng hiếu kính cha mẹ và nhờ
nhân hiếu dưỡng này khi qua đời sẽ được thác sinh về trời Tự Tại Quang:
Thờ cha mẹ đúng pháp
Buôn bán đúng, thật thà
Gia chủ không phóng dật
Được sanh Tự Quang thiên
(Sutanipana, kệ 401)
Trong kinh Thọ giáo Thi-ca-la-việt, đức Phật đã nêu ra năm tiêu chí đạo đức phù
hợp với chính pháp mà một người con hiếu thảo cần phải thực hiện để đền đáp
công ơn sinh thành và dưỡng dục của cha mẹ. Năm tiêu chí đó như sau: “Hiếu dưỡng cha mẹ đúng pháp, làm tròn bổn phận con cái,
giữ gìn gia phong và truyền thống, bảo vệ tốt các tài sản thừa tự và chu đáo
tang lễ khi cha mẹ qua đời.”
Nói một cách khác, theo đức Phật, người con hiếu thảo
đền ơn cha mẹ bằng đời sống đạo đức của mình. Sự báo hiếu đó phải bao gồm vật
chất lẫn tinh thần. Bởi lẽ mục đích của cuộc sống nhân sinh không chỉ phải là
có được chén cơm manh áo mà thôi. Người ta phải cần đến chân lý, đạo đức và đời
sống tinh thần như cây cỏ cần ánh sáng, con người cần không khí để sống vậy. Do
đó báo hiếu chỉ đơn thuần về phương diện vật chất sẽ có giá trị hạn chế hơn so
với báo hiếu về phương diện tinh thần: “Hiện tiền đại chúng hãy nên biết rằng, ân đức cha mẹ
không bến không bờ, thực khó đáp đền. Dù trăm nghìn đời nghiền thân làm vị đề
hồ dâng cúng cho cha mẹ cũng không báo đáp hết công ơn cha mẹ. Nếu lại có người
dâng các thức ăn, trăm vị ngon ngọt, dâng các áo mặc, thuốc thang đầy đủ, suốt
ngày lễ lạy, cúng dường cha mẹ cũng không báo đáp được công ơn dưỡng dục.”
Kinh Hiếu Tử dạy hiếu về vật chất mà thôi chưa phải là hiếu theo
tinh thần Phật dạy: “Con nuôi cha mẹ, dâng thức ăn quý, ngon miệng cha mẹ, hòa nhạc du dương,
vui tai cha mẹ, sắm áo lụa là, mát thân cha mẹ, vai cõng cha mẹ đi khắp thiên
hạ, tuy làm như thế chưa phải là hiếu.”
Tương tự, kinh Tăng Chi thuộc kinh tạng Pali cũng nêu rõ giới
hạn của việc báo đáp cha mẹ bằng đời sống vật chất: “Có hai hạng người, này các tỳ-kheo, ta nói không thể trả
ơn được đó là mẹ và cha. Nếu một bên vai cõng cha, một bên vai cõng mẹ, làm như
vậy suốt đời vừa đấm bóp hầu hạ, và dù tại đó, cha mẹ có khạc nhổ tiểu tiện đại
tiện, cũng chưa đủ đền ơn cha mẹ.”
Trong kinh Báo Trọng Ân Phụ Mẫu, đức Phật đưa ra nhiều so sánh để nhằm khẳng
định sự việc báo ơn cha mẹ bằng vật chất, dù là đúng pháp, vẫn chưa trọn nghĩa
hiếu tình. Dưới đây là vài đoạn trích tiêu biểu:
“Ví có kẻ nào hai vai kiệu cõng cha mẹ đi chơi suốt cả mọi nơi trên rừng
dưới biển, hai vai nặng trễ mòn cả đến xương, máu chảy cùng đường, không hề ân
hận. Cho dù như vậy cũng chưa báo đáp được công đức cha mẹ kể trong muôn một.”
“Ví lại có người khi gặp đói kém, cắt hết thịt mình, dưỡng nuôi cha mẹ, khỏi
lúc nguy nan, riêng mình cam chịu trăm ngàn muôn kiếp để báo thâm ân, chẳng
được một phần kể trong muôn một.”
“Ví lại có người trải trăm ngàn kiếp tự tay cầm dao khoét đôi mắt mình,
luyện làm thang thuốc chữa bệnh mẹ cha như thế cũng là chưa trả được ân kể
trong muôn một.”
“Ví lại có người trải trăm ngàn kiếp vì tội mẹ cha, trăm nghìn vòng đao, băm
vằm thân thể, thịt nát xương tan như thế cũng chưa trả được ân đức cha mẹ kể
trong muôn một.”
“Ví lại có người trải trăm ngàn kiếp vì báo ơn mẹ, lấy mình đốt đèn cúng
dường chư Phật như thế cũng chưa trả được ân kể trong muôn một.”
“Ví lại có người trải trăm ngàn kiếp vì bệnh mẹ cha, đập xương lấy tủy để
làm thang thuốc chữa bệnh cho cha mẹ như thế cũng chưa trả được ân kể trong
muôn một.”
“Ví lại có người trải trăm ngàn kiếp vì cứu mẹ cha, nuốt viên sắt nóng sém
cả mình như thế cũng chưa trả được ân đức cha mẹ kể trong muôn một.”
Các trích dẫn trên cho thấy đạo Phật ngoài việc hướng
dẫn con cái hiếu dưỡng cha mẹ về đời sống vật chất, cần phải biết cách hiếu
dưỡng cha mẹ về đạo đức và tinh thần. Nói khác hơn, hiếu thảo về vật chất là
thứ yếu trong khi hiếu dưỡng về tinh thần là trọng yếu nhất.
Hiếu thảo về phương diện tâm thức hay
tinh thần
Về phương diện này, trước nhất, người con hiếu thảo phải
tự nỗi lực gột bỏ các bợn nhơ của tâm lý như tham lam, sân hận, si mê, từ bỏ sự
giết chóc, gạt người cướp của, không quan hệ tình cảm bất chính, không nói láo,
không uống rượu và các chất kích thích tố có hại cho sức khỏe và tâm trí, nỗ
lực làm các việc thiện đem lại lợi ích cho mình và tha nhân. Nói chung hiếu
thảo trước nhất là biết cách hoàn thiện nhân cách đạo đức cho chính mình, để
cha mẹ an tâm, hoan hỷ và hãnh diện: “Làm con hiếu thảo theo lời kinh dạy là cố gắng tu trì,
diệt trừ tội chướng, thanh tịnh hành vi, cha mẹ hiện tiền sống lâu trăm tuổi,
tổ tiên quá khứ rũ sạch oan khiên.”
Nói cách khác theo đức Phật một trong những cách sống có
hiếu thảo với cha mẹ là làm điều thiện và phước báu cho mình và người: “Tất cả mọi người nên phát tâm làm mọi phước đức để báo
đáp ân sâu, cha mẹ hiện tiền, cha mẹ quá khứ đều nhờ công đức ấy mà được vãng
sinh về Tịnh độ.”
Ngoài ra, Sám pháp này còn dạy chúng ta, một mặt hiếu
dưỡng song thân, một mặt cúng dường ba ngôi báu để gieo phúc, giữ gìn đời sống
đạo đức và tô bồi công đức bằng cách làm các việc lành. Đây mới là cách báo
hiếu có giá trị đạo đức cao: “Tất cả đại chúng nên phát tâm thành, cúng dường tam bảo, hiếu thuận mẹ cha,
thọ trì Phật giới, tu mọi hạnh lành, cúng dường cha mẹ như cúng dường Phật,
mong báo thâm ân.”
Mặt khác, người con hiếu thảo còn phải biết tích tập các
công đức làm được để hồi hướng cho cha mẹ đã quá cố để đền đáp thâm ân: “Nên phát hiếu tâm làm mọi việc lành, dựng nên đạo tràng,
cúng dường tam bảo, tụng kinh lễ sám, sám hối phát nguyện, tu các công đức, hồi
hướng cha mẹ, hiện tại và quá khứ.”
Hay,
“Làm con hiếu thảo phải thuận kính cha mẹ, báo đáp ân sâu, quy y tam bảo,
kiên trì trai giới, thiết lập đạo tràng, siêng tu sám pháp, cầu xin sám hối
thay cho cha mẹ, mong độ cha mẹ thoát khỏi huyết bồn, sanh về cõi trời hưởng
mọi an lạc.”
Kế đến, người con hiếu thảo ngoài việc hoàn thiện nhân
cách đạo đức, tìm con đường giác ngộ, giải thoát cho chính mình, còn phải biết
khéo léo hướng cha mẹ bỏ tà về chính, khuyên cha mẹ làm các việc lành để giúp
cha mẹ loại trừ các nghiệp ác, thành tựu nhân tố giác ngộ, để cha mẹ có thể tự
mình an lạc và giải thoát: “Hiện tiền đại chúng thiện nam tín nữ phải phát hiếu tâm cúng dường cha mẹ,
khuyên tu thập thiện, cùng chứng đạo quả, cùng thành bồ-đề, đời này an vui, đời
sau hạnh phúc.”
Nói cách khác, theo đức Phật, người con có hiếu thảo
không phải là người con “cha mẹ đặt đâu thì ngồi đó” hay chỉ biết “vâng dạ
nuông chiều.” Trái lại, người con hiếu phải đầy đủ bản lĩnh, sẵn sàng và khéo
léo hướng dẫn cha mẹ trở về con đường chân chính, lợi ích, để cha mẹ thật sự an
lạc: “Nếu cha
mẹ ương ngạnh, si mê tà kiến, không tin Tam Bảo, hung hiểm bạo ngược, tàn ác
bất nhân, gây nhiều nghiệp dữ, người con có hiếu phải biết khuyên can cha mẹ,
khiến sinh tín tâm, quay về chính đạo, gần gũi bạn lành, mở lòng bồ-đề, tu
thiền niệm Phật, làm cho cha mẹ thường được an ổn.”
Trong kinh Tăng Chi đức Phật cũng dạy tương tự: “Những ai đền ơn cha mẹ bằng cách nuôi dưỡng dâng cúng với
của cải vật chất tiền bạc thì không bao giờ đủ để đáp đền ơn cha mẹ. Nhưng này
các Tỳ-kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin Tam bảo thì khuyến khích cho
có lòng tin Tam bảo, đối với cha mẹ sống tà giới, thì khuyến khích vào chính
giới, đối với cha mẹ sinh khởi tham, thì khuyến khích bố thí, đối với cha mẹ tà
kiến thì khuyến khích vào chính kiến. Cho đến như vậy, này các Tỳ-kheo, là làm
đủ và đáp ơn đủ cho mẹ và cha.”
Như vậy, hiếu thảo trong đạo Phật không chỉ đơn thuần
đáp ứng cho cha mẹ đời sống vật chất, tiền bạc, sự cung phụng và vâng lời. Hiếu
trong Phật giáo được đặt vào trong mục tiêu hướng đến đời sống đạo đức và trí
tuệ của cha mẹ và bản thân. Hiếu như vậy thật sự là một thiện pháp, một sự giới
thiệu, một sự tương duyên, một thiện tri thức để cha mẹ và con cái cùng bước đi
trên con đường chân thiện mỹ, an lạc và hạnh phúc trong chính pháp của đức
Phật. Như vậy, hiếu phải được thực hiện trong ánh sánh chân lý của đức Phật,
trên nền tảng bát chính đạo, trên cơ sở của đạo đức, thiền định và trí tuệ. Đây
là cách trang bị cho cha mẹ đầy đủ giới, định, huệ để cùng hướng đến giải
thoát, như đoạn kinh dưới đây mô tả: “Có con đường đưa đến từ bỏ, vượt qua sợ hãi của sinh già
bệnh chết, không làm chia rẽ mẹ con, đó là con đường thánh gồm tám nhánh, chính
kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng, chính tinh tấn, chính
niệm, chính định.”
Nói tóm lại, hiếu trong kinh điển Phật giáo phải thể
hiện trọn vẹn cả hai phương diện hiếu dưỡng vật chất và hiếu dưỡng tinh thần.
Để hiếu dưỡng cha mẹ về vật chất, người con phải tận tụy nuôi nấng, chăm sóc,
tôn kính cha mẹ đúng pháp, phục vụ cha mẹ bằng mồ hôi và tài sản có được từ nếp
sống lành mạnh, chân chính, làm cho cha mẹ sống an vui, thoải mái với những tình
cảm tốt đẹp nhất.
Để hiếu dưỡng cha mẹ về phương diện tinh thần, người con
trước hết phải tự trau dồi tốt bản thân mình, làm tất cả những gì tốt đẹp nhất,
xa lánh những điều xấu xa, tội lỗi, đem tiếng thơm về cho gia đình, để cho cha
mẹ có thể tự hào và hãnh diện với mọi người. Kế đến nếu cha mẹ chưa biết Tam
bảo thì phải khéo léo hướng dẫn cha mẹ trở về quy y và sống dưới ánh sáng của
chính pháp, trau dồi chính kiến, đức hạnh chân chính, làm hành trang cho một
đời sống an lạc và hạnh phúc hiện tại và về sau. Nội dung hiếu dưỡng cha mẹ về
đời sống tinh thần chính là mục tiêu giáo dục của đức Phật. Đây chính là điểm
vượt trội của Phật giáo so với ca dao Việt Nam cũng như chữ Hiếu trong các tôn
giáo và học thuyết khác từ trước đến giờ.
Chữ Hiếu trong Phật giáo xây dựng chính yếu trên nền
tảng lợi ích thiết thực hiện tại và lợi ích an lạc giải thoát. Chữ Hiếu như vậy
thực chất đã trở thành một phương tiện thể hiện hành “lợi hành và đồng sự” cùng
cha mẹ kết làm thiện tri thức, l trên con đường thực hành chính pháp của đức
Phật, tại đây và bây giờ. Hiếu như vậy đã trở thành một phương tiện của đạo đức
và giải thoát cho mình và người.
Hy vọng những điều trên đây sẽ có thể giúp cho bạn đọc
hình dung trọn vẹn tinh thần hiếu đạo, báo ân cha mẹ trong Phật giáo và từ đó
để mỗi chúng ta sẽ thể hiện nếp sống hiếu đạo phù hợp với lời Phật dạy, trong
một chiều kích lợi ích lớn hơn. Đạo hiếu trong Phật giáo mang nhiều giá trị
giáo dục đạo đức. Do đó, phàm làm con, bất luận là người xuất gia hay tại gia,
phải có ý thức trách nhiệm đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ một
cách đúng pháp và trọn vẹn không chỉ trong mùa Vu-lan mà phải ở mọi lúc và mọi
nơi. Đó là cách gây dựng hạnh phúc cho bản thân mình, gia đình mình, cha mẹ
mình cũng như tha nhân. Hiếu hạnh như vậy không chỉ có giá trị giáo dục cho bản
thân mà còn là điểm nương cho tha nhân noi theo.
*
Thượng tọa THÍCH NHẬT TỪ
Địa chỉ: Chùa Giác Ngộ, 92
Nguyễn Chí Thanh,
phường 3, quận 10, thành phố
Sài Gòn.
Email: thichnhattu@yahoo.com
.
.............................................................................................................
- Cập
nhật từ email tranchicuong27@yahoo.com.vn ngày 01.11.2016.
- Bài
viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui
lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
TÀ SƯ
Trả lờiXóaHôm nay mình buộc phải chỉ đích danh một tà sư.
Đó là thượng tọa, tiến sĩ Phật học Thích Nhật Từ mà mình đã có lần đề cập, một "hành giả" nắm giữ nhiều chức vụ trong giáo hội, một sư "đại gia" trụ trì chùa trăm tỉ (mấy chùa liền), một MC của PTBH (ngoại cảm)...
Là người giảng Duy Thức học mà không hiểu Duy Thức là gì.
Là người giảng về Tịnh Độ mà không hiểu gì về Tịnh Độ.
Những "pháp ngôn" đáng khinh bỉ của ngài dựa theo chính trị, tuyên giáo, đám đông... mà uốn lưỡi.
Núp dưới danh nghĩa đạo Phật, tận dụng mọi cơ hội để bài xích tự do dân chủ, nhân quyền của Mĩ và phương Tây, phục vụ mục đích chính trị của bọn thân Tàu...
Đó là tâm địa nham hiểm, đầy tội lỗi của một tà sư, là sự u tối, vô minh của một tiến sĩ phá pháp...
Trích sau đây một phần "pháp ngôn" của ông ta:
"Chúng tôi xin trình bày chín chiến lược chính, mà hiện nay được xem là những mũi nhọn, dẫn đến thành quả cải đạo rất thành công của Công giáo và Tin Lành trên toàn cầu: Một - Núp sau các chiêu bài của phương Tây, nếu không khéo, chúng ta sẽ bị sập bẫy của các chủ nghĩa phương Tây, của các cường quốc phương Tây Âu, Mĩ. Ngoài ra các chiêu bài khác đó là họ đề cao tự do dân chủ, nhân quyền, mà các nước phương Tây đứng đầu là Mĩ, xem nó như là một bình phong rất đáng ngại, để tấn công những nước nghèo như Việt Nam và các nước khác ở châu Á, mở cửa cho phương Tây vào. Chúng ta mất đi rất nhiều các giá trị gốc..."