(Nguồn ảnh: internet) |
VÔ LỐI, TẮC TỴ
HOÀNG VŨ THUẬT
Trong cuộc sống, nhà thơ Hoàng Vũ Thuật sống chân
tình chung thủy vợ con, cưu mang bạn bè, người thân; nhưng trong sáng tác thì
Hoàng Vũ Thuật rất làm hàng giả. Giả trong cách lập tứ, chọn từ, đặt câu, thi
tứ, mô phỏng. Cái giả nó đeo theo nhà thơ từ khi chập chững vào nghề cho đến
hôm nay đã thất thập cổ lai hy, đầu suy tứ chi!
(Tác giả Đỗ Hoàng) |
Nghĩ cho cùng không phải lỗi của Hoàng Vũ Thuật
mà nói như từ thông dụng bây giờ là lỗi cả một hệ thống. Cả thế hệ cứng như một
thỏi sắt (Lưu Quang Vũ). Nhiều lớp lớp làm
nhà ca học, hót học, hát học, cười học… Trùng trùng điệp điệp cổ động viên tự
giác và không tự giác.
Đến nỗi như nhà thơ Phạm Tiến Duật nổi tiếng nhất
trong thơ chống Mỹ cũng làm “nhà cười học” khi viết bài thơ tình Cái chao đèn duyên tình thế mà phải thêm hai câu kết rất dở hơi mới được
in và mới được phổ biến:
CÁI CHAO ĐÈN
Con trai đội nón
bao giờ
Vì mưa nên phải đi
nhờ nón em
Bấy lâu mũ sắt đội
quen
Buồn cười cái nón
tòn ten trên đầu.
Khoảng râm là ánh
sáng màu
Của tình yêu đội
trên đầu đó em.
Hông hồng khuôn mặt
xinh quen,
Nón bài thơ cái
chao đèn của anh!
Khi đưa in, nhà biên tập không đồng ý vì cả nước
đang đánh giặc mà nhà thơ lại làm thơ tình thuần túy. Bất đắc dĩ, Phạm Tiến
Duật phải viết thêm hai câu kết không ăn nhập gì để được in:
Mũ va vào mũ lanh
canh
Đường xa nhớ nón
che anh buổi nào!
Rồi tiếp đến nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ suốt thời
chống Mỹ nằm hầm ở thôn Phú Vinh (Trụ sở Hội Văn nghệ Quảng Bình đóng) cũng
phịa, tưởng tượng ra mình là bộ đội hoặc thanh niên xung phiong hành quân:
Đơn vị tôi hành
quân qua con đường mòn
Gặp hổ bom nhắc
chuyện người con gái
(Khoảng trời và hố
bom)
Và dùng nhiều câu đại ngôn, hô khẩu hiệu sáo mòn
để cổ động:
Em đã lấy tình yêu
Tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa.
(Bài đã dẫn)
Nhà văn Dương Thu Hương cũng vậy. Tưởng tượng
mình là chiến sỹ lái xe đi trên đường gặp nhiều hoa Trâm Lê (hoa phịa) hứa sẽ
làm tròn nhiệm vụ ngoài tiền tuyến cho hậu phương yên tâm sản xuất…
Thế hệ Hoàng Vũ Thuật là thế hệ chống Mỹ. Cả nước
gồng lên đánh một đế quốc giàu mạnh nhất thế gới nên văn chương cũng gồng lên
nhiều lần để phục vụ cho mục đích đánh giặc của nhà cầm quyền:
Ta lại viết bài thơ
báng
súng
Con đứng lên viết
tiếp thay
Người đứng dậy viết
tiếp người ngã xuống
Người hôm nay viết
tiếp người hôm qua.
(Hoàng Trung Thông)
Tố Hữu nhà thơ của Đảng Cộng sản Việt Nam
cũng viết:
Dẫu một cây chông
trừ giặc Mỹ
Hơn nghìn trang
giấy luận văn chương!
Cho nên cả nước từ văn chương, thơ ca, nhạc, họa
đều phải vót chông trước khi vót văn.
Hồi ấy in ấn rất khó khăn từ trung ương đến địa
phương. Văn thơ không nói về bom đạn, hỏa tuyến, đánh giặc, bắn máy bay, bộ
đội, thanh niên xung phong, ta thắng địch thua… thì rất khó in.
Hội văn nghệ Quảng Bình có tờ Văn nghệ Quảng
Bình, anh em phải xếp hàng nhiều năm mới có bài đăng.
Một lần Hoàng Vũ Thuật đưa bài “ Quả ổi trong
vườn chín sớm” đến Ban biên tập để duyệt.
Nội dung là tả trái ổi trong vườn bị bị viên bom
bi găm vào nên nó chín sớm. Ban biên tập mới phê rằng: “Sự việc có thật nhưng
người viết đã chọn không điển hình nên nó thành giả. Bom đạn Mỹ ném bom, bắn
súng hàng ngày để bao nhiêu người chết, súc vật chết không viết, mà viết quả ổi
bị bom bi chín sớm vừa sến, vừa nhẹ tênh, gượng gạo thế nào! Có sự việc không
có thật nhưng nhà thơ điển hình hóa nó lên thì đọc như là thật.”
Từ đó Hoàng Vũ Thuật đi tìm cái điển hình hóa
không thật để làm cho nó thật. Nhưng tai hại thay, sau khi văn chương cổ động
tuyên truyền qua đi thì những cái giả nó lại lai hoàn giả, không thể chấp nhận
được:
Qua ải Bắc, đèo Nam
Qua Trường Sơn nắng
mưa dằng dặc
Anh thành người con
trai suốt đời đi đánh giặc
(Cây Nhạc ngựa)
Hoàng Vũ Thuật thì không một ngày mặc áo lính,
không biết khẩu AK lắp đạn như thế nào, một băng đạn có mấy viên và bắn liên
thanh hay bắn ba phát một thì địch mới sợ nhưng Hoàng Vũ Thuật hay thay lời
người ra trận làm thơ cổ động chiến đấu, hay đánh giặc trên giường(!). Điều này
cũng không vấn đề gì, xưa nay mọi người vẫn làm, miễn là hay xúc động là được.
Đằng này bài Cây nhạc ngựa vừa giả vừa dở, vừa không có một chút gì gọi là thi pháp
nên nó rất phản cảm. Mặc dầu bài này được giải thưởng thơ báo Văn nghệ đâu năm
1986. Rồi tập Tháp nghiêng cũng
được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam . Giải thưởng dù giải địa
phương, dù giải trung ương đều đáng trân trọng. Nhưng lấy giải thưởng mà đo
chất lượng một đời thi ca là một việc hoàn toàn sai lầm. Vì giải thưởng chỉ
phục vụ cho một giai đoạn, một hoàn cảnh nhất định, một chính thể cụ thể. Bài Cây
nhạc ngựa vừa giả dối, vừa kém thi pháp, vừa
gần như mô phỏng nhiều câu của Phạm Ngọc Cảnh trong bài thơ Lý
ngựa ô ở hai vùng đất:
Mai xa rồi, em nhớ
anh không?
Trăng lại tròn vầng
trăng biên cương
Ngựa tung bờm trắng
thảo nguyên gió.
….
Cỏ vô tận cho lòng
anh rong ruổi
(Cây nhạc ngựa –
Hoàng Vũ Thuật)
Ngựa tung bờm bay
qua biển lúa
Ngựa ghìm cương nơi
sông xòe chín cửa
…
Gặp câu hát bền
lòng rong ruổi mãi
(Lý ngựa ô ở hai
vùng đất - Phạm Ngọc Cảnh)
Cha ông ta đã từng viết về người lính suốt đời
đánh giặc một cách nghệ thuật tài tình:
Ban Siêu quy thời mấn dĩ hoa
Chàng Siêu mái tóc
điểm sương mới về
(Chinh phụ ngâm - Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm)
Là biết chàng Siêu suốt đời đánh giặc rồi, cần gì
mà nói:
Anh thành người con
trai suốt đời đánh giặc!
Viết thế, vừa không thơ, vừa không thật, vừa ảnh
hưởng thơ người khác:
Cái giả của Hoàng Vũ Thuật đi vào cả đề tài tình
yêu:
…Rồi em làm quan
tòa
Đưa anh ra xử án
Và có thể cao hơn
Đem pháp trường xử
bắn.
Mặc tất anh chẳng
cần
Sợ gì giấy xích sắt
Nếu đạn bắn vào
anh
Sẽ làm em chết
mất!...
(Không đề)
Lúc đầu Hoàng Vũ Thuật viết câu kết
Nếu đạn bắn vào
anh/ Sẽ làm em chết ngất
Anh em góp ý là chết ngất là chết giả. Hoàng Vũ
Thuật sửa lại chết mất cũng là chết giả nốt. Mình như thế nào, là vua chăng, là
thượng đế chăng mà người tình có thế chết(!). Vua và thượng đế đầy quyền lực
đấy nhưng người tình chưa chắc đã thèm chết. Ngay thần Juipite bá chủ Olempơ mà
đã có người tình nào chết đâu!
Hoàng Vũ Thuật rất chủ quan, rất không thực chút nào. Thật ra nhà thơ chẳng hiểu gì quy luật tâm lý. Chín con chưa thật mặt chồng, huống gì mới tình tang đôi lứa ngoài đường, người con trai trộm yêu người con gái. Việc này vô cùng giả dối.
Hoàng Vũ Thuật rất chủ quan, rất không thực chút nào. Thật ra nhà thơ chẳng hiểu gì quy luật tâm lý. Chín con chưa thật mặt chồng, huống gì mới tình tang đôi lứa ngoài đường, người con trai trộm yêu người con gái. Việc này vô cùng giả dối.
Giang Nam thật tình hơn:
Hôm nay nhận được
tin em
Dù không tin đó là
sự thật
Giặc giết em rồi
quăng mất xác
Chỉ vì em là du
kích em ơi.
Đau xé lòng anh
chết nửa con ngươi!
(Quê hương – Giang Nam )
Chết nửa con người của Giang Nam là chủ thể, nó thực nên thuyết
phục người đọc, đọc xúc động đến hôm nay.
Hoàng Vũ Thuật viết đã giả lại quá cũ như hai
nghìn năm trước:
Giữa bãi cát vàng
em là cây
Bóng em đổ xuống
hai vai gầy
Anh ngồi trưa nắng
như thiêu đốt
Mỗi chiếc lá xanh
một bàn tay…
(Em là)
Minh nguyệt cao cao khắc lậu trường
Trân châu liêm bạc yểm lan đường
Hoành thùy bảo ác đồng tâm kết
Bán phất quỳnh diên tô hợp hương…
(Đảo thiên y – Lý
Bạch)
Trăng sáng cao vời
giờ điểm đây.
Nhà lan châu ngọc
ánh vơi đầy.
Tấm lòng cùng kết
bên màn liễu,
Phảng phất chiếu
quỳnh hương ngất ngây!...
(Đỗ Hoàng dịch)
Gần bảy mươi tuổi, nhà thơ Hoàng Vũ Thuật tự lột
xác mình, cố gắng đổi mới, phá bỏ cách viết cũ và giả của mình gần 60 năm qua.
Nếu thế thì đáng quý biết bao, dù còn sống một giây cũng phải đổi mới, nhưng
tiếc thay Hoàng Vũ Thuật chẳng có đổi mới gì mà chỉ sa đà vào tắc tỵ, bí hiểm,
cầu kỳ rắc rối, tù mù, hủ nút, không còn một chút rung động thi ca. Chỉ có rặt
những kiểu nói tắc tỵ, bí hiểm, đánh đố mình, đánh đố người đọc vì một kiến văn
thiển cận, kiến thức hạn hẹp, rất nhiều chỗ hỏng trong học vấn, ít từng trải,
sai cả quy luật tâm lý, quy luật tự nhiên, xã hội…
Được các bác sỹ đỡ đẻ hải ngoại quanh năm ngồi
trong phòng sản phụ đỡ con Mỹ đen, các học giả, học thật, tiến sỹ bò tung hô …
nên Hoàng Vũ Thuật càng dấn sâu vào quái thai, kỳ quặc, lởm khà lởm khởm, tắc
tỵ…
Đặt tựa đề một cách tù mù, đánh đố:
Mãi viên trà, K,
Ly, Hoàng An, Lá, Đo, Cõi, Ngược, Màu, Kiến
Cầu kỳ, rắc rối:
Mưa trên mười ngón
tay dài, Trưa lệch phai…
Những câu vô lối như bị tâm thần, nhạt nhẽo vô
vị, không ai hiểu mô tê răng rứa, viết cho bạn mà như viết cho kẻ không ăn ngũ
cốc, cho kẻ ở ngoài hành tinh hoặc quỷ dạ xoa dưới Long cung:
ngày mẹ đưa chúng
mình xuống sông quẫy đạp
tình yêu dội lên
hai bờ vai
đẫm vào da thịt
tia chớp sáng của
ngọn sao khuya
chúng mình đứng như
trời trồng khi tình yêu tới
những câu thơ vọt
máu phát cuồng quất vào bức tranh
đớn đau khát cháy
(Viết cho bạn)
tù mù, vô nghĩa:
giờ thì anh trồng
thêm gốc cây
thuộc loài bạch
dương chờ đông sang phủ tuyết
nào có gì ổn định
rồi con sóng tiếp
xô đổ anh
lúc anh là cát
những con sóng siêu
hình lau sạch gương mặt cũ
như chén rượu đêm
ấy
chặng cuối
(Hoàng An)
Viết sai cả quy luật tâm lý, quy luật xã hội,
tình cảm:
nguời di gan không
buồn
chỉ biết hát
nhiệt cuồng và mê
loạn
nguời di gan không
đau
chỉ biết múa
vũ điệu ngã nghiêng
phố xá
rạch ríu làm xiếc
diễn tuồng
nguời di gan không
khóc
chỉ biết cười
chào mời đổi chác
giơ tay xin giơ tay
vẫy mặt trời
(người Di gan)
Đáng khóc mà ta vẫn
hát tràn
(Hồ Chí Minh)
Người Di gan phải như thế chứ mà thật như thế.
Sao người Di gan lại không khóc, chỉ biết cười. Hoàn toàn khiên cưỡng!
Bí hiểm không ra bí hiểm, mù mịt, tâm thần không
ra tâm thần, ngớ ngẩn, rất thiểu năng trí tuệ:
Một nghìn ba trăm
năm mươi mét cao ly hồng nở
đôi mắt bồ câu
vô biên im lặng
cơn mưa đồng phạm
con chó thảo hiền
không biết sủa dẫn tôi đi cùng
bài thơ tình ăn
theo mưa
ly thơm vào trưa
xấu hổ tôi cúi mặt
(Ly)
Viết về một quán Mãi viên trà chỉ có bà mẹ và cô
con gái mà Hoàng Vũ Thuật chế biến ra ba người là một thiếu nữ, một cô gái, một
bà mẹ. Ai cũng biết đã dùng thiếu nữ thì thôi dùng cô gái, mà dùng cô gái thì
thôi dùng thiếu nữ. Không hiểu ra làm sao:
nấp dưới cánh lá bồ
đề màu phật
một cô bé một thiếu
nữ một người mẹ
cô bé vắt tuổi thơ
qua đồi sim
thiếu nữ mười sáu
lần trăng đỏ
người mẹ đội nước
lên chùa
(Mãi viên trà)
Viết rất điên rồ:
xóa đi rồi vẽ lại
ngẹt thở
thêm một nét gầy
thêm một nét
chết lặng dưới chân
cầu thang
nàng khóc
(Họa sỹ)
Mượn cái gọi là hậu hiện đại, cách tân, siêu
thực, xuống dòng một cách vô lối, bệnh hoạn tùy tiện:
thỏi hình hài bẹp
dí
long lóc
thở
ẩn dụ giữa rừng khô
héo
bày bán cùng
hoa
(trong tập Màu)
tìm nơi di trú
bằng chìa khóa
mẹ
trao
(tiếng chim)
nhôm nhoam nhiều câu viết lớm khởm, tối nghĩa,
kiểu cách lên gân giả vờ, điệu đàng, sống sượng, triết lý vặt:
chẳng thể bắt níu
những sợi tóc vào mùa
không người tuốt
chải gặt hái
anh cắt dán cánh
đồng lên thân thể em
điều phối cơn mưa
vá víu vết thương
cuối hạ.
(hoàng an)
rừng mọc dưới bờ mi
(viết dưới tượng
Exenhin)
đếm tiếng trái tim
khuya
(điều ấy có ý nghĩa
gì)
huyền ảo uốn cong
hiện thực
nhịp cầu tượng
trưng gãy vụn
ẩn dụ giữa rừng khô
héo…
(ý nghĩ vụt hiện)
Kể mãi không bào giờ hết.
Rồi Hoàng Vũ Thuật sa đà mượn hệ đếm, con số, thuật
ngữ toán học nhét vào các bài vô lối phá hỏng thơ ca:
nằm dưới kia
một ông vua một
hoàng hậu một người hầu
một thanh gươm một
tuấn mã một mê nón
một lệnh truyền một
trống giục một lời van
nằm dưới kia
một hộp sọ một ống
xương một đốt lóng tay
một trung thực một
đớn hèn một điên loạn
một ngọn lửa một
đêm tối một chiều tà
một vận hạn một
thức thời một nguyền rủa…
(lăng tẩm)
Hoàng Vũ Thuật đã dùng đến 21 chữ một để diễn tả
một sự việc chỉ cần một con số một là đủ:
Dưới kia có một đế
vương
Tàn tro bụi bặm
lóng xương chẳng còn.
(Đỗ Hoàng phóng
dịch)
Trong thơ cổ kim có dùng con số, nhưng dùng khéo
thì làm cho bài thơ hay lên rất nhiều:
MƯỜI THƯƠNG
Một thương bỏ tóc
đuôi gà
Hai thương ăn nói
mặn mà có duyên
Ba thương má lúm
đồng tiền
Bốn thương răng
nhánh hạt huyền kém thua
Năm thương cổ yếm
đeo bùa
Sáu thương nón
thượng quai tua dịu dàng
Bảy thương tính nết
đoan trang
Tám thương ăn nói
lại càng thêm xinh
Chín thương em ở
một mình
Mười thương con mắt
có tình với anh!
(Ca dao)
Một canh, hai canh
lại ba canh
Trằn trọc băn khoăn
giấc chẳng thành
Canh bốn, canh năm
và chợp mắt
Sao vang năm cánh
mộng hồn quanh.
(Hồ Chí Minh)
Không chỉ nước ta mà nhiều nước, nhất là Trung
Quốc nhiều nhà thơ dùng con số để diễn ý, diễn tình. Từ con số khô khan biến
hóa muôn vẻ làm nên thi phẩm lung linh, bất hủ:
LÃO SƯ KHỐN
Nhất thân bình giả bố
Lưỡng tụ phấn bút khôi
Tam xan ngật bất bảo
Tứ quý thường sô mi
Ngũ canh tựu khởi sàng
Lục đườngyếm nhĩ ngật
Thất thiên nhất tinh kỳ
Bát phương cuồng kỷ hồi
Cửu thiên bất phát hưởng
Thập gia giai đoạn xuy.
(Khuyết danh)
ĐỜI GIÁO VIÊN XƯA
Một thân áo quần bố
Hai tay áo phấn đầy
Ba bữa ăn không đủ
Bốn mùa ủ mặt mày
Năm canh đã trở dậy
Sáu giờ mới ăn chay
Bảy ngày tròn tuần
lễ
Tám phương biết gì
đây
Chín ngày lương
không có
Mười nhà đói lắt
lay!
(Đỗ Hoàng dịch)
TUYỆT CÚ
Lưỡng cá hoàng ly minh thúy liều
Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên
Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết
Môn bạc Đông Ngô vạn lý thuyền
(Đỗ Phủ)
Hai cái oanh vàng
kêu liễu biếc
Một hàng cò trắng
vút trời xanh
Nghìn năm tuyết núi
sông in sắc
Muôn dặm thuyền Ngô
cửa rập rình.
(Dịch – Khuyết
danh)
Bài trên có các con số: Hai, một, vạn, nghìn.
Trong những người làm Vô lối, Hoàng Vũ Thuật cũng
là người dùng một cách lạm phát từ ngữ nước ngoài nhất là âm Hán Việt ít Việt
hóa như: điều phối, thảo
hiền, hiển lộ, mê lộ, tẩy trần, trùng phùng, mãi viên trà, di trú, vô chủ, tấu
khúc, miền hiển thủy, miền thiên hư,vô cư, vũ điệu, di hài, thuần khiết, tạ từ,
nguyên thủy,cuồng thảo, mãn nguyện, nguyện cầu, hoan lạc, hoang phế, biến thể… hằng hà vô số. Đọc vô cùng khó chịu!
Tôi đã từng viết tặng nhà thơ Hoàng Vũ Thuật để
nói lên cái “việc làm tốt nghĩa vụ của người công dân thì người thi sỹ rất đau
khổ” của anh (ý của nhà thơ Nhê ka rê xốp - Nga)::
Anh là nhà thơ Nhà
nước
Có việc làm ăn hẳn
hoi
Thế mà đời thật cơ
cực
Thơ anh nén khóc để
cười…
(Lang thang chiều
Huế)
Và nhà thơ Hoàng Vũ Thuật cũng khắc họa chân dung
của mình một cách đúng nhất:
như người điên đi
trong dầm dã
hai mươi năm sau
không biết nơi nào
để dừng
(mưa trên mười ngón
tay dài)
Cần gì đến hai mươi năm, ngay bây giờ kiểu viết
vô lối, tắc tỵ, bệnh hoạn của Hoàng Vũ Thuật đã không chốn nương thân, bị loại
bỏ ra khỏi tâm hồn Việt như bao loại Vô lối khác!!.
*.
Hà Nội,
ngày 16.02.2013
ĐỖ HOÀNG
Quê quán: Cao Vân, Lệ Thủy, Quảng
Bình.
Hiện sống và làm việc tại Hà Nội.
Email: donguyenhn@yahoo.com
Điện thoại: 091.336.96.52
.............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi q email ngày 10.07.2017
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang blog Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét