(Nguồn ảnh: internet) |
BỘ NHẬT - NGUYỆT VÀ
NHỮNG THẬN TRỌNG KHI LUẬN
GIẢI
“Khi xem lá số, điều quan trọng là phải tìm xem sao NHẬT - NGUYỆT đóng ở vị trí nào để phối hợp luận giải cùng các
cung khác. Vì hai sao này tượng trưng cho ảnh hưởng của cha, mẹ, chồng, vợ và
hai giòng nội, ngoại (Thái Dương biểu tượng cho người cha, người chồng,
họ nội còn THÁI ÂM tượng trưng cho người mẹ, người vợ và họ ngoại) nên
khi xem số phải được cân nhắc để bổ túc cho những ý nghĩa được thể hiện trong
các cung Phụ Mẫu, Phu Thê, Thân, Mệnh...
Đây là hai sao tối quan trọng của khoa Tử Vi vì thông qua hai sao Nhật
(Dương), Nguyệt (Âm), người xem số có thể thấy được một số nét chính về gia
đình và cuộc đời của đương số.
Chẳng hạn: Cả hai sao Âm Dương đều miếu vượng tất lúc nhỏ đương số
được bố mẹ chăm sóc chu đáo, cuộc sống có nhiều thuận lợi, nếu hãm địa thì tiên
quyết đương số có tuổi thơ vất vả, hoặc khắc cha khắc mẹ. Hay với nữ số, khi
NHẬT hãm địa thì tiên quyết rằng cuộc sống gia đạo sẽ gặp nhiều trắc trở, nhất
là khi NHẬT hãm lại gặp sát tinh: muộn lập gia đình, làm lẽ, cô đơn, khắc
chồng… Điều này càng chính xác khi NHẬT an tại cung Phu Thê hoặc Thân, Mệnh.
Thông qua vị trí của hai sao Nhật, Nguyệt trên lá số, người xem số còn có
thể phần nào đoán được tiền tài, sự nghiệp và hạnh phúc gia đạo của đương
số nên việc nghiên cứu kỹ thế đứng của Nhật - Nguyệt trên lá số
là điều tối cần với người xem số.”
Bạn đọc tham khảo trên trang Đặng Xuân Xuyến ở 2 bài sau:
Hôm nay, tôi xin giới thiệu với bạn đọc bài viết BỘ NHẬT NGUYỆT VÀ NHỮNG
THẬN TRỌNG KHI LUẬN GIẢI của tác giả Thiên Lương, bổ sung thêm những kiến thức
mà tác giả Đặng Xuân Xuyến chưa phản ánh trong bài viết của ông.
Bộ Tử Phủ trong 14 chính tinh được xem trọng như là tốt đẹp quí giá nhất.
Công bằng mà nói đó là bộ mặt tượng hình cho cao sang hiền hậu, nhưng bất lực
phải nhờ đến phụ tá tài danh mới nên việc. Phân tách 6 cung cho cả 12 cung (2
cung 2 cách giống nhau): Tử Vi Tí Ngọ và Dần Thân tối cần Tả Hữu. Ở Tỵ Hợi,
luôn luôn có Thất Sát đứng kèm, ở Thìn Tuất không thể xa rời Thiên Tướng. Còn
Mão Dậu Sửu Mùi là cảnh triều đình Lê Chiêu Thống hay Trần Nghệ Tôn không thể
thống gì là chính dinh oai nghiêm. Ngoài ra Vũ Tướng, Sát Phá Liêm Tham và Đồng
Lương Cơ Cự chỉ là văn ban võ bá 2 hàng, một khi đắc cách phải không nên sự
nghiệp.
Riêng Nhật Nguyệt là bộ âm dương của số, biểu tượng cho Thiên Địa cần sự
phân tích thận trọng từng vị trí phải làm sao cho hợp lý, không thể bao gồm căn
cứ từ Dần đến Thâm là thuộc địa của Thái Dương, từ Thân đến Dần là nơi sang tỏ
của Thái âm.
Thái Dương ở Ngọ, Thái âm Thân. Thái dương ở đây kể như là tuyệt đối với
người dương Hoả mệnh nếu được thêm là tuổi Dần Ngọ Tuất. Thái âm kể như là thất
bại cho cả 2 hạng âm và dương, bị Thiên Cơ lợi dụng.
Thái Dương ở Tỵ thất cách đối với người Dương, chỉ là nhất thời tam bợ.
Thái âm ở Dậu đắc cách hoàn hảo cho tuổi âm mệnh thuỷ.
Thái Dương ở Thìn phò trợ đắc lực cho người dương Thổ. Thái âm ở Tuất không
tương xứng gì cho cả 2 tuổi âm và dương.
Thái Dương ở Mão nhờ Thiên Lương một phần lớn tương sinh vẫn không lợi bao
nhiêu cho người dương so với người âm trường hợp Mệnh ở Mùi vô chính diệu được
Thái âm ở Hợi quá sáng tỏ đồng chiếu.
Thái Dương ở Dần người dương được hưởng tương lai hậu vận bởi Cự Môn bao
phủ lúc ló rạng. Thái âm ở Tí, kể là hay thêm Thiên Đồng phụ lực, nhưng vẫn là
nghịch cảnh của người tuổi âm mà người tuổi dương cũng không mấy thuận lý.
Sửu là mộ địa tận trung, cũng như cung Mùi, cả hai là căn cứ thuộc âm. Thái
Dương đứng ở đây bị xút kém ở 2 nơi là vì luật âm dương, mà Thái âm cũng không
tốt đẹp vì luật ngũ hành. Hai cung Sửu Mùi là chỗ tập trung để chuyên chế từ
Thái âm sang Thiếu Dương (Sửu) và từ Thái Dương sang Thiếu âm (Mùi) thành tranh
tối tranh sang. Vậy cần phải có phép thần thông tách rời Thái Dương lui sang
Ngọ, Thái âm chuyển sang Thân cũng như Thái âm về Tí và Thái Dương bước sang
Dần.
Thái Dương ở Tí là nghịch cảnh sa lầy ghê sợ cho người tuổi dương. Thái âm
không mấy tốt đẹp hơn Thái Dương chỉ là hợp tình. Thái âm ở Mão với người tuổi
Âm, nghịch cảnh của Thái Dương ở Ngọ nhưng tương lai không phải là không thuận
bước cho người dương, Thái âm ở Dần cùng trường hợp ở Thân, người dương mộc rất
thuận lợi.
Thái Dương ở Hợi là sa lầy ghê sợ cho người tuổi dương, Thái âm không mấy
tốt đẹp hơn Thái Dương chỉ là hợp tình Thái âm ở Mão với người tuổi âm.
Thái dương lâm Tuất là cảnh u tối, người tuổi dương hợp cách và hy vọng có
tương lai. Thái âm ở Thìn là đáng ngại.
Thái Dương ở Dậu là sôi hỏng bỏng cũng không, nhờ Thiên Lương phò trợ lại
bị cung khắc mất. Thái âm ở Tỵ có bề hợp cảnh.
Cự Nhật ở Thân là bước đuờng đời của tuổi dương gặp nhiều trở lực, Đồng âm
ở Ngọ là vị trí cân phân, vẫn là hình bóng của trường hợp Đồng âm ở Tí cho cả 2
tuổi.
Nhật Nguyệt ở 12 vị trí sự thiết yếu bao giờ Nhật cũng phải ở dương cung mà
Nguyệt phải ở âm địa. Nhật đắc cách là tuổi Hoả, Nguyệt phải là tuổi Thuỷ. Sáng
sủa hay lạc hãm chỉ là phụ, trường hợp mập mờ “lại cái “ không bao giờ hợp
cách, cho nên Nhật Nguyệt tối cần bộ tam minh là Đào Hồng Hỉ. Nhật Nguyệt rất được
kể là quang minh lộng lẫy. Ngoài Đào Hồng Hỷ, Nhật Nguỵệt rất nên gặp 1 trong 3
bộ Xương Khúc Long Phượng Quang Quí và Hoá Khoa có công dụng như tam minh, nhất
là Long Phượng nâng cao phẩm giá Nhật Nguyệt lên hang danh dự anh minh chính
đính.
Nhật Nguyệt được những bộ trên tô điểm sáng rực rỡ bao nhiêu, trái lại rất
cần xa lánh tứ hung Kình Đà Hình Kỵ. Chúng bao vây che lấp Nhật Nguyệt mất cả
ánh sáng, mổ xẻ cắt cứa hành hạ theo nghề nghiệp vốn sẵn là thiện nghệ .
Bộ Nhật Nguyệt có 2 trường hợp cần phân tách chu đáo ở 2 vị trí Sửu Mùi nơi
tập trung để chuyển hướng rất cần Tuần Triệt, Khoa Tài đóng vai trò trọng tài
phân phối âm dương đường ai nấy đi. Đó là 4 cái chìa khoá để điều chỉnh bộ âm
dương rất kiến hiệu.
Vậy đặc biệt của Nhật Nguyệt khác với chính tinh do lý chính bất như chiếu
(chiếu đẹp hơn chính). Ngọn đèn bật sáng lên xung quanh thấy rõ hơn là chân
đèn, như vô chính diệu ở Mùi được Nhật Mão Nguyệt ở Hợi chiếu lên (Nhật Nguyệt
chiếu hư không). Nếu thêm Hoá Kỵ thì Hoá kỵ phải ở Mùi. Đây là cảnh trí khánh
vân (mây ngũ sắc biểu hiện thái bình thịnh trị) tuyệt hoa.
Ba nhà đại văn hào:
a/ - Nguyễn Khuyến tuổi Ất Mùi sanh ngày 6 tháng 4 giờ Mão
b/ - Huỳnh Thúc Kháng tuổi Bính Tí sanh ngày 3 tháng 10 giờ Thìn
c/ - Nguyễn Đình Chiểu tuổi Nhâm Ngọ sanh ngày 13 tháng 5 giờ Dậu
Cả 3 cụ có số chịu ảnh hưởng bộ Nhật Nguyệt rất nhiều, cùng vị trí nghịch
lý âm dương nên cuộc đời chan chứa một mối ưu tư bất mãn hầu tương tợ. Ba cụ
nổi danh trên văn đàn do văn tinh Đồng Lương Khôi Việt Xương Khúc. Riêng 2 cụ
Nguyễn Khuyến, Nguyễn Đình Chiểu vướng Hình Riêu Hà Sát nên mục tật tối tăm
vĩnh viễn. Cụ Huỳnh Thúc Kháng được Hồng Loan khai thông chỉnh đốn: Nhật Nguyệt
trở nên xuất sắc hơn người.
Đã mang danh tu mi đứng trong trời đất thà chấp nhận Thái Dương lâm Tuất Tí
còn hơn ở cảnh nhất thời Mão Tỵ chỉ là phù vân không xứng phận nam tử, những ai
phấn son tô điểm sơn hà dẫu có yên vui với Thái âm ở Tuất Tí nên đành ưng chịu
ở Mão Tỵ là nơi hợp cách đào tơ liễu yếu dầu gặp nhiều nỗi trái ngang.
Nơi đây cho thấy định mệnh là bất khả kháng, khiến cái Thân phải có một
phần trách nhiệm xử thế cuộc đời.
*.
Hải Phòng, 25.10.2017
ĐỖ VIỆT PHƯƠNG
Địa chỉ: Khu tập thể đóng tàu Bạch Đằng
Ngã tư An Dương, Lê Chân, Hải Phòng.
Email: dovietphuong118@yahoo.com.vn
.............................................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 13.10.2016.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang blog Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
0 comments:
Đăng nhận xét