TÍNH NHẠC TRONG THƠ
Xưa nay người ta
thường nói trong thơ phải có nhạc bởi vì tính nhạc trong thơ hỗ trợ khá đắc lực
cho nhà thơ thể hiện ý tưởng. Bây giờ người làm thơ thì quá nhiều mà người hiểu
được nhạc trong thơ thì ít dẫn đến các bạn đang tập làm thơ như tôi thường
tranh luận đôi khi là gay găt về một vài câu thơ thất niêm, sai luật (nhất là
các tác giả có tuổi, đạo mạo, nắm chắc luật các thể thơ).
(Tác giả Trần Kế Hoàn) |
Cái vốn âm nhạc
trong đầu một lão nông như tôi thì lại chẳng có là bao song vì yêu thơ mà mạnh
dạn tìm tòi, đưa ra vài ý kiến nhỏ về tính nhạc trong thơ theo ý hiểu của mình
mong cùng chia sẻ với các thi huynh, thi hữu. Có chi khiếm khuyết xin được chỉ
giáo và bổ sung.
Trong cuốn:
"ĐỔ RÊ MI TỰ HỌC" của hai nhạc sĩ Lê Yên và La Thăng (Nhà XBVH- 1976)
có định nghĩa về âm nhạc như sau: Âm nhạc là các âm thanh được lựa chọn và
tổ chức theo những quy tắc riêng...
Nhạc có ba tính
chất sau:
1 - Khi bổng khi
trầm là ÂM ĐIỆU.
2 - Khi nhanh khi
chậm là NHỊP ĐIỆU.
3 - Khi to, khi nhỏ
hoặc to dần, nhỏ dần, khi ngắt gọn, khi buông dài là SẮC THÁI của nhạc (trang
15).
Xét theo những tiêu
chí ấy chúng ta nhận thấy bản thân mỗi bài thơ là tập hợp của nhiều âm tiết đã
được sắp xếp theo những quy tắc để có một nhịp điệu và âm điệu riêng tùy từng
thể loại (thơ tự do, thơ luật đường, thơ bốn chữ, thơ năm chữ, thơ lục bát ...
) Vậy thì hiển nhiên mỗi bài thơ đã là một bản nhạc.
Song một bài thơ có
giàu tính nhạc hay chỉ là một bản nhạc sơ sài, đơn điệu lại là một chuyện khác.
Bây giờ chúng ta lần
lượt tìm hiểu về ba tính chất trên của âm nhạc có trong một số thể thơ.
1/ ÂM
ĐIỆU Khi bổng, khi trầm đấy là âm điệu
Trong tiếng Việt
chúng ta thấy âm điệu thường được thể hiện bằng các thanh bằng trắc theo
các dấu huyền, sắc, nặng, hỏi, ngã. Các nhà thơ thường tận dụng các thế mạnh
biểu cảm của sắc thái các âm tiết cho câu thơ của mình thêm ấn tượng.
Khi phát âm một âm
tiết i chẳng hạn:
- Với cao độ trung
bình vẫn là i. (bình thường).
- Hạ thấp giọng
xuống lại là ì (nhẹ nhàng)
- Cao giọng lên lại
là í (véo von thanh thoát)
- Khi nhấn mạnh lại
là ị (nằng nề, u uất)
- Khi gấp giọng lại
là ỉ hoặc ĩ (gồ ghề, trúc trắc)
Ta hãy nghe cụ
Nguyễn Du diễn tả chiếc xe ngựa trên đường
"Vó câu khấp
khểnh, bánh xe gập gềnh"
Các âm tiết khi
xướng lên nghe đã gợi sự trúc trắc, gồ ghề.
Hồ Chủ Tịch day
dứt, trăn trở cho vận nước, nằm đếm thời gian ở trong tù:
"Một canh, hai
canh... lại ba canh"
Dòng sông thời gian
đang trôi đều đều bỗng khựng lại như bị một con đập chắn ngang bằng một âm trắc
ở giữa thật đắc địa.
Tố Hữu diễn tả
tiếng chim:
"Chim chiều
chiu chít, ai nào kêu ai"
Bốn âm tiết
"chim chiều chiu chít" mới xướng lên đã réo rắt
Tác giả Triệu Sức ở
CLB Thơ văn Thiên bản (Nam Định) lại có cặp lục bát rất giàu tính nhạc để diễn
tả tiếng chim:
"Trời trong
veo, nắng trong veo
Tiếng chim va vách
đánh vèo ríu ran"
Hàn Mạc Tử dùng
cách gieo vần lưng bằng hai thanh trắc "trắng, nắng" khiến câu thơ
nhói lên trong mạch cảm xúc mà nhiều thế hệ người viết sau còn ca ngợi và học
tập:
"Chị ấy năm
nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng
nắng chang chang"
Trong cặp lục bát
sau tác giả cố tình để thất luật, ưu tiên cho sức gợi của các âm tiết. Câu lục
được chia làm hai vế tiểu đối và có tới năm âm tiết trắc. nhất là cách gieo vần
lưng: "sóng, bóng" khiến hình ảnh thơ lung linh sống động:
Cá đớp sóng, bóng
lá khoai
Cua nhe hí hóp một
hai cánh bèo
Nếu đọc là:
"Cá đùa sóng" thì hiệu quả diễn tả hình ảnh của câu thơ kém sinh
động.
Trong cặp lục nói
về tấm bia mộ:
Dòng tên cũng lắm
trở trăn
Nhờ trán đá giữ nếp
nhăn cho người
Nếu viết cho đúng
luật có thể thay từ "trán" bằng từ "gan" thì câu thơ cũng
giảm ý nghĩa đi rất nhiều.
Diễn tả cách nghĩ
của thiếu nhi về dòng điện trong đoạn lục bát sau có là một độc đáo?:
Dòng Điện chỉ ở
trong dây
Có mấy chân vậy mà
mày chạy nhanh?
Tách một cái: Đèn
sáng xanh
Tách một cái: Quạt
quay nhanh ào ào
Dây đặc chui vào
làm sao?
Cha mẹ mày ở nơi
nào Điện ơi?
Cái nhí nhảnh trẻ
trung trong suy nghĩ của trẻ con sẽ không diễn tả được nếu ta cứ khư khư bắt
câu thơ phải theo đúng niêm luật?
Để diễn tả cảnh
trùng điệp của đường đèo bà Huyện Thanh Quan cũng sẵn sàng phá niêm của thơ
Đường vốn là một thể thơ chặt chẽ nhất về luật:
"Một đèo, một
đèo lại một đèo"
Trong ngữ pháp
tiếng Việt các từ diễn tả âm thanh được gọi là các từ tượng thanh. Trong một
câu thơ hoặc một đoạn thơ không nên để các âm tiết trùng vần hoặc trùng thanh
tránh cho độc giả sự tẻ nhạt bởi câu thơ kém tính nhạc.
Thơ một vần là một
trể thơ rất khó làm. Thể thơ này yêu cầu nhà thơ phải có tài. Tôi thấy Nguyễn
Bính đã có tới hai bài trăm câu một vần (mỗi bài gồm một trăm câu) nhưng rất
hay.
2/ NHỊP ĐIỆU
Nhịp điệu = thời
gian lặp lại ít nhất của một âm thanh mạnh và một âm thanh yếu.(sách đã dẫn
trang 21).
Khi đọc thơ đôi khi
ta thấy chỉ một âm tiết đã chiếm hết thời gian của một nhịp và cũng có thể phải
ba hoặc bốn âm tiết mới hết thời gian của một nhịp. Người đọc phải có sự cảm
thụ tôt để khi đọc nhanh, khi đọc chậm, ngắt đúng nhịp thì mới thể hiện được
hết ý tưởng biểu cảm của câu chữ.
Đối với thể thơ lục
bát truyền thống là loại giàu nhịp điệu nhất, phổ biến là nhịp 2/4... Hai âm
tiết (hai phách), ứng với hai nốt trắng (bốn nốt đen) được xếp vào trong một ô
nhịp. Trải qua hàng ngàn năm chắt lọc tinh túy của cả một dân tộc thơ lục bát với
nhịp điệu nhịp nhàng, uyển chuyển thực sự đã là hồn cốt của người Việt. Ngưòi
ta hát ru, hoặc chuyển thành rất nhiều làn điệu dân ca bằng thể thơ này. Thừa
hưởng tinh hoa ấy các nhà thơ chỉ việc sắp xếp sao cho các con chữ nằm đúng vị
trí các nốt nhạc có sẵn là xong. Khi câu thơ đã chuyển sang các nhịp khác
thường là dụng công của tác giả nhằm nhấn mạnh ý trong mỗi văn cảnh:
Mải mê / đuổi một /
cánh diều/
Củ khoai nướng / để
cả chiều / thành tro
(Đồng Đức Bốn)
Chiều nay / dưới
bến / xuôi đò
Thương nhau / qua
cửa / tò vò/ nhìn nhau
Anh đi đấu / anh về
đâu
Cánh buồm nâu /
cánh buồm nâu.../ cánh buồm...
(Nguyễn Bính)
Rạ rơm / chất phác
/ nhà quê
Con ra / tỉnh học /
bộn bề/ tiễn đưa
Giật mình: / Nắng!
/ giật mình: / Mưa!
Giật mình / trở gió
/ nồm trưa / may chiều
Thật thà ít / giối
gian nhiều
Con đi/ để lại /
bao nhiêu / giật mình
(tác giả)
Ngậm vào đắng / nhả
ra cay
Cơm đời / ốm lửa. /
Sượng. / Tay vẫn và
(tác giả)
Trời cao / mây vũ
vần. / Xanh
Tháng giêng / cơn
gió đông lành lạnh. / Xuân
(tác giả)
Những câu thơ trên
chúng ta thấy nhịp điệu (kể cả âm điệu) của thơ lục bát ngày nay được biến thể
rất da dạng nhưng vẫn giữ trong cái khuôn truyền thồng.. Khi đọc ngắt đúng nhịp
ta cảm nhận ngay được những ý mà tác giả muốn nhấn mạnh. Vai trò biếu cảm của
các cách ngắt nhịp này rất lớn. Tôi cho đây là một sáng tạo của các nhà
thơ
Bây giờ ta hãy nghe
Trần Đăng Khoa dùng nhịp điệu diễn tả một trận mưa rào
"Sắp mưa /Sắp mưa / những con mối / bay ra /
mối trẻ bay cao / mối già bay thấp / gà con rối rít / tìm nơi ẩn nấp /ông trời
mặc áo giáp đen / ra trận / Muôn / nghìn cây mía / múa gươm / Kiến hành quân /
đầy đường / lá khô / gió cuốn / bụi bay cuồn cuộn / cỏ gà rung tai / bụi tre
tần ngần gỡ tóc / hàng bưởi đu đưa / bế con / đầu trọc lóc. / Sấm ghé xuống sân
khanh khách cười /cây dừa sải tay bơi / Ngọn mùng tơi nhảy múa /Mưa / Mưa /ù ù
như xay lúa / Lộp bộp / lộp bộp / Rơi / Rơi... "
Khi đọc bài thơ
này, chúng ta rất dễ dàng cảm nhận được sụ dồn dập, xối xả của trận mưa.
Ngược lại những bài
thơ thể hiện tình cảm sâu lắng thiết tha, câu thơ có thể kéo dài, dàn trải. để
người đọc ngắt nhịp tự do theo mạch cảm xúc của mỗi người ví như bài thơ:
"Người đi tìm hình của nước" của nhà thơ Chế Lan Viên:
"Đất nước đẹp
vô cùng / nhưng Bác phải ra đi
Cho tôi làm sóng /
dưới con tàu đưa tiễn Bác"
Cũng có thể ngắt
nhịp cách khác:
"Đất nước /
đẹp vô cùng / nhưng Bác / phải /ra /đi
Cho tôi làm sóng /
dưới con tàu/ đưa/ tiễn/ Bác"
Loại thơ này cũng
rất dễ "thôi miên" độc giả bởi nhịp điệu tự do khoáng đạt. Người đọc
có thể thả hồn mình vào một "mê hồn trận" của nhịp điệu mặc dù đoạn
thơ sau có thể tạm gọi là thơ không vần:
"Các anh yêu
Tổ quốc đến cháy lòng.
Là củ sắn hạt ngô,
là bát cháo sẻ nửa húp với nhau trong hầm tọa độ, là đêm trắng trũng sâu tròng
mắt, đuổi giặc rồi sáng ra cười ha hả trong rừng.
Những năm đất nước
mang thai các anh gầy xanh mà hồng hào giữa bao nhiêu gian lao và khát vọng.
Những lòng đất,
lòng rừng, lòng sông rất rộng...
Đất nước in đầy dấu
dép cao su...
Có làm thơ đâu mà
gọi các anh là thi sỹ
Chiến trường các
anh ở những vùng rất sâu
Sâu ở rừng sâu vốn
đã sâu rồi
Sâu ở chiếc gùi
đồng bào Pa Cô vượt mấy thung sâu đem
nắm rau rừng cho bộ
đội
Sâu ở nỗi nhớ mùa
mưa có thằng bạn đất chèo vẫn hát sắp mưa ngâu..."
(Những thi sỹ không làm thơ -
Hoàng Nhuận Cầm)
3/ SẮC THÁI CỦA
NHẠC
Khi to, khi nhỏ
hoặc to dần nhỏ dần, khi ngắt gọn, khi buông dài không phải việc của người viết
thơ mà là của nghệ sĩ ngâm thơ, đọc thơ. Cùng một bài thơ nếu ta đọc thật diễn
cảm sẽ thấy hay hơn. Một bài thơ được phổ nhạc, ca sĩ hát lên thì sức biểu cảm
của nó là vô cùng. Chính vì vậy người ta thường ví von rằng nhạc sĩ là người
chắp cánh cho thơ.
4/ KẾT LUẬN
Qua những phân tích
và dẫn chứng trên đây chúng ta thấy:
- Tính chất nhạc
trong thơ được thể hiện qua nhịp điệu và âm điệu
- Vai trò biếu cảm của
nhạc trong thơ là rất lớn. Một khi câu thơ phá vỡ niêm luật truyền thống mà
giàu ý nghĩa hơn thì ta cứ lựa chọn. Những độc giả tinh tường sẽ sẵn sàng chấp
nhận thậm chí còn ca ngợi
- Không nắm chắc
sắc thái biếu cảm của âm ngữ thì sao viết được câu thơ giàu tính nhạc
- Những bài thơ
giàu tính nhạc là những bài thơ biết tận dụng tối đa sức biểu cảm của âm ngữ,
chỉ thay đổi nhịp điệu, âm điệu truyền thống khi cần thiết.
- Trong thực tế có
những bài văn giàu nhịp điệu, giàu hình ảnh cũng có thể gọi là thơ như tùy bút:
"Cây tre Việt Nam" của Thép Mới, "Rừng Xà Nu" của Nguyễn
Trung Thành, "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân... Nếu có ai còn
thích viết thơ không vần (không có âm điệu, hay thơ văn xuôi) thì ít nhất cũng
nên cố gắng sắp xếp sao cho câu thơ giàu nhịp điệu, sức truyền cảm sẽ lớn hơn
nhiều
Thật tẻ nhạt biết
bao khi đọc một bài thơ dài hàng chục, hàng trăm câu rất đúng niêm luật, đã
chẳng có những cách nói khác thường mà nhịp điệu, âm điệu lại cứ đều đều trong
tất cả mọi văn cảnh.
*
Mời thư giãn với nhạc phẩm GIẬN MÀ THƯƠNG
của Trần Hoàn, thơ Phùng Ngọc Hùng qua tiếng hát Việt Hoàn - Lê Mận:
*
TRẦN KẾ HOÀN
Địa chỉ: Tây Côi Sơn, thị trấn Gôi,
huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định
Email: trankehoan55@gmail.com
Điện thoại: 0165.860.67.81
.
…………………………………………………………………………
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 25.11.2016.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang blog Đặng
Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi
trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét