Ngày xuân kể chuyện về:
LUÂN HỒI, TÁI SINH,
ĐẦU THAI, CHUYỂN KIẾP
(Tác giả Võ Quế Lâm) |
Đáng ngạc nhiên là không phải chỉ Phật giáo mới có khái
niệm luân hồi và ý niệm về sự đầu thai, mà các khái niệm đó cũng tồn tại ở
nhiều nơi khác. Ý niệm về sự luân hồi xuất hiện trong đạo Hồi, đạo Do Thái, Ấn
Độ giáo, trong quan niệm của người cổ Hi Lạp, và nhiều vùng miền trên thế giới.
Điều đáng kinh ngạc là nhiều nhà nghiên cứu cho rằng quyển sách Bible của đạo
Thiên Chúa nguyên thủy có nhiều khác biệt so với hiện nay, trong đó
từng có cả những nội dung về sự luân hồi đầu thai, nhưng đã bị một số thế lực
chỉnh sửa và lược bỏ đi vào khoảng thế kỷ 4 và 5 vì những nguyên do bí ẩn.
Trường hợp tiêu biểu và nổi tiếng nhất về sự đầu thai và
luân hồi chuyển kiếp có lẽ là việc đi tìm Đạt Lai Lạt Ma hay Ban
Thiền Lạt Ma của Phật giáo Tây Tạng sau khi các Lạt Ma ấy qua đời.
Những vị sư phụ trách việc này tiến hành tìm kiếm đứa trẻ nào sinh ra đúng vào
thời điểm qua đời. Họ dựa vào những dấu hiệu và kiến thức đặc biệt của đứa trẻ
mà tương hợp với vị Lạt Ma đó khi còn sống, và cả những mô tả của vị Lạt Ma
trước khi viên tịch về kiếp sau của mình, để xác định xem đứa trẻ đó có phải là
vị Lạt Ma ấy đầu thai hay không.
Tại các quốc gia phương Tây, các nhà nghiên cứu đã bỏ
nhiều thời gian và công sức nghiên cứu hiện tượng luân hồi. Kết quả là: Không
ai giải thích nổi tại sao những người “kiếp sau” lại có cách cư xử, thói quen
rất giống những người đã khuất, thậm chí biết cả những bí mật riêng tư của họ,
có những vết bớt khi mới sinh tương hợp kỳ dị với những vết thương của người đã
khuất, hoặc những đứa trẻ đi còn chưa vững đã biết ngoại ngữ, biết làm toán,
biết chơi đàn… giống y như những người mà chúng nói là chính chúng trong tiền
kiếp, mặc dù không ai chỉ dạy chúng cả. Các kết quả thu được đó đã gây ra luận
chiến dai dẳng giữa một bên thừa nhận, và một bên cố gắng phủ nhận hiện tượng
luân hồi. Những người thừa nhận nói rằng, cách duy nhất để lý giải bí ẩn này là
khoa học buộc phải công nhận hiện tượng luân hồi như một thực tại khách quan
hiển nhiên mà thôi.
Trên thế giới đã có vô số trường hợp về sự đầu thai, gồm
những trường hợp lưu truyền trong dân gian, hay được lưu trữ trong các kho tài
liệu của các tu viện, các đền thờ, các thư viện và gần đây nhất là trong
các Viện nghiên cứu Hiện tượng Luân hồi ở Hoa Kỳ, Ấn Ðộ, Anh,
Pháp, Ý, Nga…
Sau đây là một số trường hợp Luân hồi đầu thai được ghi
chép trong lịch sử.
Trường hợp Đại tướng
George Smith Patton
Đại
tướng George Smith Patton (11/11/1885 -21/12/1945) là một trong
những viên tướng vĩ đại nhất lịch sử Hoa Kỳ, một nhà chiến lược kỳ tài lừng
danh thế giới. Một bộ phim đã được làm năm 1970 để vinh danh ông. Tính ông
nghiêm khắc và luôn luôn chủ trương “kỷ luật sắt, kỷ luật là sức mạnh của quân
đội”. Người hùng ấy, lạ lùng thay, rất tin vào sự luân hồi. Ông thường bảo: “Cuộc
đời và cuộc sống là một vòng tuần hoàn chuyển tiếp. Ðời tôi cũng nằm trong một
vòng tuần hoàn chuyển tiếp nào đó”.
Một sĩ quan cao cấp của quân đội Hoa Kỳ kể lại câu chuyện
mà ông nhớ mãi về tướng Patton:
Hôm đó tướng Patton đến thăm một địa danh lịch sử tại Ý.
Ðó là vùng đất nằm cạnh sông Métaure, nơi mà xưa kia, trong trận chiến ác liệt
giữa những đoàn quân dũng mãnh của đế chế Carthage và đế chế La Mã, đã để lại
trên chiến trường hàng ngàn tử thi, mặc dầu hai bên đều do những chiến lược gia
và danh tướng chỉ huy. Hình ảnh bi tráng ấy đã đi vào quá khứ, và cách thời của
tướng Patton đến hơn 1800 năm, nhưng khi tướng Patton cùng các tướng lĩnh và
một số nhà sử học đến thăm vùng đất này, và thử luận bàn về những chiến thuật
và chiến lược của trận đánh ấy thì điều kỳ dị đã xảy ra. Trong khi tướng Patton
nghe một viên Đại tá trình bày những địa điểm đóng quân của hai
phe Carthage và La Mã, ông nhiều lần tỏ ý không hài lòng. Sau cùng
tướng Patton cắt ngang lời viên Đại tá và nói:
“Xin lỗi Đại tá, mặc dù Ðại tá là chuyên gia nghiên cứu
các trận chiến trong cuộc chiến tranh La Mã, nhưng tôi khẳng định rằng đoàn kỵ
binh của tướng Hasdrubul trong trận này không phải đóng tại địa điểm đầu kia mà
Ðại tá đã trình bày. Tôi quả quyết điều này vì một lẽ rất dễ hiểu là vào lúc
ấy, chính tôi đã có mặt tại đó…”
Và rồi, tướng Patton nghiêm nét mặt, đưa cao chiếc can
cầm ở tay lên chỉ về một địa điểm trước mặt và nói thật chậm rãi, rõ ràng:
“Ðó là địa điểm mà đoàn kỵ binh của Hasdrubul đã đóng
quân, và tôi nhắc lại, lúc ấy tôi đã ở đó!…”
“Nó đây, chiến trường là đây. Những
người Carthage đã phòng thủ thành phố trước cuộc tấn công của 3 quân
đoàn La Mã. Người Carthage kiêu hùng và can đảm, nhưng họ đã không trụ vững
được. Họ đã bị tàn sát. Những người đàn bà A Rập đã lột quân phục, kiếm và
những ngọn giáo của họ. Những người lính đã nằm trần trụi dưới mặt
trời, 2.000 năm trước đây. Và tôi đã ở đó!”.
Trong những lần dừng chân nơi chiến trận hay những lúc
nghỉ ngơi, tướng Patto thường nói đến những địa danh và những chiến trường cổ
xưa mà ông đã từng có mặt, tuy những nơi đó đã đi vào quá khứ xa xăm hay chỉ
còn lại trong các pho sử liệu của các thư viện.
Trong nhật ký của mình, tướng Patton thường ghi lại những
cảm nghĩ lạ lùng của mình về kiếp trước. Có đoạn ông viết:
“Tôi tin là có tiền kiếp và hậu kiếp. Tôi tin, thật ra là
tôi biết, rằng tôi đã có ít nhất là một quãng đời trước đây trong binh nghiệp
và hiện nay tôi lại đầu thai lần nữa vào đời binh nghiệp”.
Về
sau, nhà văn đồng thời là nhà tư tưởng nổi tiếng Aldons Huxley (26/7/1894 –
22/11/1963) đã trình bày trường hợp của tướng Patton cùng câu chuyện lạ lùng
xảy ra trong lần đi thăm chiến trường La Mã cổ xưa ấy, trong một hội nghị quốc
tế có chủ đề “Ứng dụng của Khoa tâm lý học” tổ chức lần thứ 14 vào năm 1961.
Aldons Huxley phát biểu: “Không riêng gì tướng Patton mà ngay cả chúng
ta, đôi lúc ở những thời điểm nào đó trong đời bỗng ta có những cảm giác, những
suy nghĩ, cái nhìn kỳ lạ mà ý thức của chúng ta như bỗng nhiên hé mở, có khi ta
bắt gặp một hình ảnh, một sinh hoạt, một tiếng nói, một cảnh tượng, một con
người mà hình như ta có lần đã thấy, đã nghe, đã ở, đã đi qua, mặc dầu trong
cuộc đời chưa bao giờ gặp. Ðó là quá khứ, quá khứ ấy không phải trong một cuộc
đời hay nói khác đi là trong “một kiếp” mà là trước đó nữa. Cảm nhận ấy đôi khi
vượt ra khỏi những cảm nhận của các giác quan thông thường của con người chúng
ta, mà thuộc về quá khứ xa xăm, hay có thể gọi là tiền kiếp”.
Tờ báo Paris Match danh tiếng đã đăng
tải trường hợp của Đại tướng Patton vào ngày 23/3/1989.
Trường hợp
Chaokun Radzh-sutadzharn
Chaokun Radzh-sutadzharn, sinh ngày 12/10/1908 ở miền
trung Thái Lan, tên thường gọi là Choti. Cha cậu tên là Nai Pae, mẹ là Nang
Rieng. Ngay khi mới biết nói, cậu bé đã khẳng định mình là Nai Leng, người bác
ruột của cậu bé đã mất từ trước khi cậu bé ra đời. Đáng chú ý là cậu có thói
quen gõ bàn giống hệt như người bác trai, có thể nói và đọc được các thứ tiếng
mà người bác lúc sinh thời từng học, và biết chính xác từng chi tiết một trong
cuộc đời ông ta. Sau này Choti đi tu ở một ngôi chùa ở Bangkok và sau
đó xuất bản cuốn sách về cuộc luân hồi chuyển kiếp của chính mình.
Tại làng Nathul, phía bắc Myanmar, cô gái M Tin Aung
Myo sinh ngày 26/12/1953 trong một gia đình có 3 chị em gái. Ngay từ nhỏ, cô bé
luôn tự xem mình là con trai, và luôn miệng nói rằng mình là người lính Nhật đã
bị quân đồng minh bắn chết cách ngôi nhà của cha mẹ cô bé gần 100m. Cô bé rất
sợ máy bay, nhất định không chịu mặc quần áo con gái, nói tiếng Myanmar rất khó
khăn, thích ăn và nấu các món ăn theo khẩu vị của người Nhật, và luôn buồn nhớ
quê hương Nhật Bản. Ma Tin Aung Myo cho biết gia đình trước kia của “cô” ở miền
Bắc nước Nhật. Trước khi nhập ngũ, “cô” là chủ một cửa hiệu nhỏ nhưng khi vào
quân đội thì làm đầu bếp. Cô sống độc thân không chịu lập gia đình, bởi cô “là
đàn ông” và chỉ có thể kết hôn với phụ nữ mà thôi.
Nhà thôi miên
Arnall Bloxham
Arnall Bloxham là nhà thôi miên
nổi tiếng người xứ Wales sống
giữa những năm 1970, là chủ tịch Hội các nhà thôi miên Anh quốc. Ông đã sử dụng thuật thôi miên để
chữa bệnh, hoặc giúp người ta loại bỏ được những thói quen xấu chẳng hạn như
hút thuốc. Bằng cách thôi miên, Bloxham có thể giúp một người nhớ lại được thời
điểm khi mới sinh ra, và thậm chí trước thời điểm đó. Trong 20 năm, ông đã thôi
miên vài trăm người và đã ghi lại những miêu tả về các kiếp trước của họ.
Những gì diễn ra trong các cuộc thôi miên này làm đảo lộn
những quan niệm truyền thống về sự sống. Những người được thôi miên có thể
thuật lại, một cách tường tận chi tiết, về cuộc đời của những người đã từng
sống hàng trăm năm trước.
Bloxham đã ghi âm hơn 400 cuộn băng thu lại lời kể về các
cuộc đời trước của những người này trong các cuộc thôi miên. Hơn nữa, nhiều sự
việc đã được ghi lại một cách rất chi tiết, sau đó được kiểm tra lại trong thực
tế, và kết quả đều đúng như những gì họ mô tả. Theo Bloxham, tất cả những điều
đó đã chứng minh rõ ràng rằng: Luân hồi là có thật.
Một trong những trường hợp nổi tiếng nhất mà Arnall
Bloxham đã ghi lại là trường hợp của Jane Evans. Vào năm 1971, khi cô thấy một
tấm biển có dòng chữ: “Arnall
Bloxham nói rằng bệnh thấp khớp là do tâm lý” cô đã rất ngạc
nhiên để ý. Jane là một bà nội trợ xứ Wales 32 tuổi mắc bệnh viêm khớp, đã
quyết định tìm cách liên hệ với chủ nhân của tấm biển ấy. Cuối cùng cô đã liên
lạc được với Arnall Bloxham nhờ một người bạn của chồng cô. Qua các cuộc thôi
miên, cô đã nhớ lại được 6 cuộc đời trước đây của mình. Cô đã từng là: Vợ của
một gia sư vào thời La Mã; Một người Do Thái bị tàn sát vào thế kỷ thứ 12 ở
thành phố York, nước Anh; Người hầu của một thương gia giàu có thời trung cổ ở
Pháp; Một tỳ nữ của nữ hoàng Catherine của xứ Aragon (ngày nay thuộc Tây Ban
Nha); Một nông dân nghèo ở Luân Đôn dưới thời cai trị của nữ hoàng Anne; Và là
một nữ tu sĩ ở Mỹ vào thế kỷ 19.
Câu chuyện của Jane Evans và vài trường hợp luân hồi khác
đã được công bố trong cuốn sách tựa đề “Nhiều Hơn Một Kiếp?” của nhà sản xuất truyền
hình BBC – Jeffrey Iverson. Vào năm 1975, để kiểm nghiệm lý thuyết Luân hồi,
Iverson đã xin phép Jane để Bloxham thôi miên cô một lần nữa, lần này là trước
các máy quay phim và máy thu thanh của truyền hình BBC.
Iverson đã nghiên cứu kỹ lưỡng về những cuộc đời mà Jane
kể lại, và đã xác minh rằng những cuộc đời đó là có thực và các chi tiết được
mô tả là chính xác. Cuối cuốn sách, ông nói thành quả 20 năm nghiên cứu của
Bloxham đã cho thấy sự luân hồi là một hiện tượng thực tế khách quan. Ông còn
sản xuất một cuốn phim tài liệu BBC, có tên “Những cuốn băng ghi âm của Bloxham” dựa trên các tài
liệu này.
Nhà văn, bác sĩ
Arthur Guirdham
Arthur Guirdham (1905-1992) là một
nhà vật lý, bác sỹ tâm thần học, đồng thời là một nhà văn. Ông đã viết nhiều
cuốn sách về các Phương pháp trị liệu thay thế, về Tri giác ngoại cảm và về
Luân hồi. Ông từng sống tại Workington, Cumberland, và tốt nghiệp tại trường
đại học Oxford, Anh quốc.
Bác sỹ Authur Guirdham ghi lại nhiều trường hợp luân hồi
mà ông đã gặp trong những cuốn sách của mình, “Chúng ta là người khác,”“Những người Cathars
và sự Luân hồi”, “Một bàn chân trên cả hai thế giới”. Ông cũng khẳng định
rằng mình đã từng là một người theo tín ngưỡng Cathars trong những kiếp trước.
Cathars là tín ngưỡng đã tồn tại ở khu vực Languedoc thuộc Tây Nam nước Pháp
vào thế kỷ thứ 13.
Trong cuốn sách “Những người Cathars và sự Luân hồi” xuất bản năm 1970, bác
sỹ Guirdham đã kể lại tình huống kỳ lạ đã khiến ông bắt đầu quan tâm nghiên cứu
sự Luân hồi. Năm 1962, ông làm công việc của một bác sỹ tâm thần tại khu dành
cho bệnh nhân ngoại trú của bệnh viện. Một ngày nọ, bệnh nhân của ông là một phụ
nữ có tên thường gọi là Smith, nghi mắc bệnh động kinh. Người phụ nữ này gặp
một cơn ác mộng tái diễn nhiều lần từ hồi còn bé. Trong khoảng thời gian đi
bệnh viện ấy cô bị những 2 hoặc 3 lần một tuần. Cơn ác mộng đó rất rõ ràng, là
về một cuộc đời của cô vào thế kỷ 13 tại Toulouse, Pháp, trong một gia đình
quen thân với một thầy tu tên Rogiet de Cruisot. Khi ấy cô là một cô gái nông
dân. Cô đã bị thiêu sống trên cột, còn Rogiet de Cruisot thì bị bắt và chết ở
trong tù.
Mặc dù bác sỹ Guirdham vẫn giữ bình tĩnh, nhưng ông vô
cùng kinh ngạc bởi chính ông cũng bị một cơn ác mộng giống y như vậy ám ảnh
suốt hơn 30 năm qua, chỉ có khác là ông không biết được tên của người đàn ông
đó mà thôi. Nhưng ông không nói gì với bệnh nhân. Lạ kỳ thay, từ đó trở đi cô
không gặp ác mộng trở lại nữa, rồi cả bác sỹ Guirdham cũng thoát khỏi cơn ác
mộng dai dẳng ấy.
Mặc dù vậy họ vẫn tiếp tục gặp nhau. Bác sỹ Guirdham chắc
chắn nữ bệnh nhân này không có vấn đề về tâm thần và những hiểu biết về quá khứ
của cô làm ông tò mò. Sau đó cô cho ông một danh sách tên của những người mà cô
nói là đã sống vào thế kỷ 13 và mô tả những gì đã từng xảy ra với họ. Cô cũng
nói với bác sỹ Guirdham rằng, ông cũng sống vào lúc đó và chính là Rogiet de
Cruisot.
Là một bác sỹ tâm thần, bác sỹ Guirdham đã từng biết qua
về hiện tượng luân hồi, nhưng không mấy quan tâm. Tuy nhiên, lần này ông thực
sự tò mò, và quyết định bắt đầu nghiên cứu. Ông khám phá ra rằng những cái tên
mà người nữ bệnh nhân ấy cung cấp quả thật chính xác, mặc dù những người đó chỉ
được nhắc đến sơ sài trong các ghi chép lịch sử từ thời Trung cổ. Tuy nhiên,
những ghi chép này được viết bằng tiếng Pháp chứ chưa bao giờ được dịch sang
tiếng Anh. Ông đã xác nhận rằng, quả thực có một người đàn ông tên là Rogiet de
Cruisot đã bị giết vào năm 1242. Các chi tiết về gia đình từng quen thân với
ông ta cũng hoàn toàn khớp. Hơn thế nữa, tất cả những ghi chép riêng của bà
Smith chứa nhiều thông tin về các tín đồ và tín ngưỡng Cathar – mà cho đến lúc
ấy vẫn chưa học giả nào biết tới – về sau này đã được kiểm chứng là hoàn toàn
chính xác.
Tín ngưỡng Cathar rất hưng thịnh ở miền Nam nước Pháp và
miền Bắc nước Ý vào thời Trung cổ. Các tín đồ Cathar tin vào sự luân hồi. Theo
thời gian, bác sỹ Guirdham đã gặp được thêm nhiều người nữa, tổng cộng 11
người. Thật đáng kinh ngạc, tất cả họ đều có ký ức tiền kiếp rất khớp nhau, cho
thấy rằng họ đã cùng chung sống trong một nhóm tín đồ Cathar hàng trăm năm
trước.
Bác sỹ Guirdham cho biết: Không có đối tượng nào đã được
gây mê hoặc thôi miên; những cái tên và các sự kiện quá khứ chỉ đơn thuần xuất
hiện trong trí nhớ của họ. Ông cũng công bố một trong những bằng chứng đáng chú
ý nhất mà ông thu thập được. Đó là một tập tranh vẽ của một cô bé 7 tuổi, trong
đó có những hình vẽ về một thời quá khứ. Tập tranh vẽ cũng viết nhiều tên tuổi
các tín đồ Cathar. Quá kinh ngạc, bác sỹ Guirdham nói, “Tôi không thể tưởng tượng nổi, làm sao một
đứa trẻ 7 tuổi có thể biết những cái tên này, trong khi tôi chắc rằng không có
nhà sử học về thời trung cổ nào ở Anh quốc vào lúc đó biết về những người này”.
Những ký ức, tên tuổi và các mối liên hệ rõ ràng đã khiến
bác sỹ Arthur Guirdham buộc phải tin rằng ông và nhóm của ông đã cùng nhau sống
chung, không chỉ một, mà vài đời trước đó. Ông đã nói, “Với 40 năm kinh nghiệm trong y học, hoặc là
tôi biết được sự khác nhau giữa khả năng siêu nhiên và bệnh tâm thần phân liệt,
hoặc là chính tôi bị tâm thần. Không ai trong nhóm tôi khùng cả – và cũng không có bạn đồng
nghiệp nào của tôi cho rằng tôi mất trí”.
Giáo sư, bác sĩ
Lừng danh Ian Stevenson
Giáo sư Bác sỹ Ian Stevenson, thuộc khoa tâm thần học tại Đại
Học Virginia là một trong những nhà nghiên cứu hàng đầu thế giới về
lĩnh vực Luân hồi (xem phần
1). Ông đã đi khắp thế giới để điều tra nghiên cứu những báo cáo khác nhau
về sự luân hồi và đã phát minh ra phương pháp kiểm chứng khắt khe nhằm loại trừ
sự gian lận, hiện tượng tiềm ký ức, v.v… Trong 200 trường hợp nghi vấn luân
hồi, chỉ có 20 trường hợp qua được chế độ kiểm tra kỹ lưỡng của bác sỹ
Stevenson. Có 7 trường hợp xảy ra tại Ấn Độ, 3 trường hợp ở Sri Lanka, 2 trường
hợp ở Brazil, 1 trường hợp ở Lebanon và 7 trường hợp của những người da đỏ ở
Alaska, Hoa Kỳ.
Ở đây đơn cử trường hợp của bé gái rất nhỏ, sinh năm 1956
tại miền trung Sri Lanka tên là Gnantilleka Baddewithana. Ngay sau khi cô bé
bắt đầu tập nói, cô đã bắt đầu nhắc đến cha mẹ khác, hai anh trai và nhiều chị
gái khác của mình ở một nơi khác.
Từ những chi tiết mà cô bé diễn tả, cha mẹ mới của cô đã
tìm thấy một gia đình tại thị trấn cách đó không xa. Họ biết được rằng gia đình
này đã mất một đứa con trai vào năm 1954. Khi Gnantilleka được đưa đến thăm họ,
cô bé nói mình chính là đứa con trai đã mất của họ và đã nhận diện rất chính
xác 7 thành viên trong gia đình của người đã khuất. Cho đến tận lúc đó, hai gia
đình chưa bao giờ gặp nhau, thậm chí chưa từng đến thăm thị trấn của nhau.
Những người hoài nghi có thể phớt lờ và cho sự Luân hồi
là ảo tưởng, trong khi những người không tin sự Luân hồi có thể cho là mê tín
dị đoan vô căn cứ.
Từ thời xa xưa, Phật gia và Đạo gia; Do Thái giáo, Hồi
giáo, Ấn Độ giáo… đã luôn giảng về sự luân hồi. Họ hiểu rõ mối liên hệ giữa
nhân và quả. Họ tin rằng nhân cách của một người trong cuộc đời và tất cả những
việc làm tốt hay xấu của người ấy đều được ghi lại. Tính cách sẽ được lưu giữ
tới kiếp sau, sướng khổ đời sau sẽ tương xứng với việc làm của kiếp trước. Tri
thức của những chủng người cổ xưa vốn chưa thể đo lường được, và chúng ta chỉ
có thể sống thật tốt mà thôi.
Một trường hợp
đầu thai ở nước Anh
Bộ phim tài liệu mang tên “Cậu bé sống từ tiền kiếp” (The
boy who lived before) đã được phát sóng trên kênh truyền hình Five nổi tiếng
của nước Anh vào ngày 18/9/2006. Trong bộ phim này đoàn làm phim đã theo chân
cậu bé Cameron tìm về lại ngôi nhà xưa của bé trong tiền kiếp. Khi đó Cameron
mới 6 tuổi.
Như
mọi đứa trẻ lên 6 khác, bé Cameron Macaulay rất thích vẽ tranh. Tuy nhiên,
những bức tranh về tổ ấm thân yêu của em làm mẹ Norma không khỏi lạnh người:
một ngôi nhà màu trắng bên bờ biển của một hòn đảo nhỏ – khác xa căn hộ chung
cư trong thành phố Glasgow nơi họ đang sinh sống. Đó là nơi họ chưa
từng đặt chân đến bao giờ. Và bé bảo rằng người mẹ mà bé đang nói đến ấy là “mẹ
già” của bé. Tin chắc rằng mình đã từng sống trong gia đình ấy ở tiền kiếp,
Cameron lo lắng gia đình trước kia đang quá thương nhớ mình. Cậu bé bảo hòn đảo
nhỏ ấy tên là Barra. Hòn đảo cách xa nơi họ sống tới 260km.
Cameron cũng luôn miệng kể về người thân “cũ” của em: có
cha, mẹ, các anh trai và chị gái – cả một gia đình lớn lúc nào cũng xôn xao
tiếng nói cười, chứ không hiu quạnh như cuộc sống hiện tại với mẹ Norma và anh
trai Martin. “Kể từ lúc bắt đầu biết nói khi mới lên 2 tuổi, Cameron đã
cố gắng kể cho tôi nghe hẳn một câu chuyện về “quá khứ” trên đảo Barra” –
cô Norma, nhớ lại – “Bé phụng phịu rằng nhà bé hồi xưa có những 3 cái
toilet, trong khi căn hộ Glasgow hiện giờ chỉ có mỗi cái con con. Bé kể vanh
vách mọi chi tiết về các thành viên gia đình: bố Shane Robertson đã bỏ mạng vì
“không quan sát cẩn thận 2 bên đường” – tôi đoán ông ấy chết vì tai nạn ôtô,
mặc dù Cameron không bao giờ nói như thế cả; còn mẹ bé có mái tóc màu hạt dẻ
dài ngang hông, rất hay nhoẻn miệng cười… Lần nào nhớ lại thằng bé cũng khóc đỏ
hai mắt, rồi nằng nặc đòi tôi đưa trở về Đảo Barra để cho bố mẹ biết bé còn
sống khỏe mạnh như thế nào. Ban đầu người trong nhà ai cũng nghi Cameron bịa
chuyện, họ còn khen thằng bé có trí tưởng tượng phong phú bất ngờ. Tuy nhiên sự
việc trở nên nghiêm trọng khi càng lớn bé càng tỏ ra ủ rũ và sầu thảm, chẳng
thể làm cách nào giúp an ủi nguôi ngoai. Các cô giáo trường mầm non cũng tỏ ra
ái ngại khi nhìn chú bé con lúc nào cũng lưng tròng nước mắt. Ngay cả lúc chơi
đùa, bé cũng nhớ hồi trước đã chơi cút bắt với các chị gái trên bãi đá ven biển
ra sao…”.
Gia đình Macaulay không dư dả tài chính cho lắm, bởi một
mình mẹ Norma phải làm việc để nuôi nấng hai anh em Martin và Cameron. Do đó
mãi đến tháng 2/2006, ước nguyện về Đảo Barra của cậu bé mới thành hiện thực
nhờ sự tài trợ của một kênh truyền hình. Đi cùng chúng tôi có Giáo sư Tiến sĩ
Jim Tucker đến từ Đại học Virginia, Hoa Kỳ. Được biết ông đã nghiên cứu
khá nhiều trường hợp luân hồi tái sinh ở trẻ nhỏ như kiểu Cameron.
Norma nói: “Bé hỏi khuôn mặt bé có tươi sáng
không, bởi vì bé cảm thấy rất hạnh phúc. Khi chúng tôi hạ cánh trên một bãi
biển đúng như Cameron đã luôn mô tả, bé quay sang tôi và hỏi: “Bây giờ mẹ đã
tin con chưa?”. Bé nhảy xuống máy bay, tung đôi tay lên trời và la to: “Mình đã
trở về!”. Bé lại kể về người mẹ cũ của mình. Bé bảo tôi và bà ấy sẽ yêu mến
nhau lắm. Bé nóng lòng muốn chúng tôi gặp gỡ. Bé cũng nói về một “cuốn sách to”
bé từng đọc, và về Đức Giêsu. Chúng tôi không theo tôn giáo nhưng gia đình của
bé ở Barra thì có”.
Đặt chân lên vịnh Cockleshell, việc đầu tiên 3 mẹ con
cùng làm là tức tốc dò hỏi tung tích Robertson và “ngôi nhà trắng bên bờ biển”.
“Chúng tôi đã không kể gì với Cameron cả. Chúng tôi
chỉ lái thẳng xe về phía biển và chờ đợi xem điều gì sẽ xảy ra. Bé Cameron ngay
lập tức nhận ra và nhảy chồm lên khi trông thấy căn nhà. Nhưng khi chúng tôi
bước về phía cánh cửa, những nét mừng vui trên khuôn mặt bé chợt tan biến, bé
trở nên trầm lặng hẳn. Bé đã nghĩ rằng người mẹ già đang chờ đợi bé ở trong
nhà. Trông bé thật buồn. Không có ai ở đó cả”.
“Theo thông tin từ cơ quan quản lý địa phương, chủ nhà
trước đây đúng là mang họ Robertson, tuy nhiên sau khi ông ấy chết thì mọi
người trong gia đình cũng bỏ đi”.
Quả thật, ngôi nhà có 3 toilet, cửa sổ phòng ngủ nhìn ra
đường cất cánh sân bay, và sau vườn thì có 1 cánh cửa bí mật gần như không ai
biết – đó là những điều trước đây Cameron luôn hào hứng kể cho tôi. Duy chỉ có
điều, mọi tung tích về gia đình người chủ cũ dường như đã bị xóa sạch.
Trở về Glasgow, Cameron đã lấy lại bình tĩnh hơn. Bé
không kể về Barra nhiều như trước nữa, và dường như cũng an tâm hơn vì không ai
còn nghi ngờ bé bịa chuyện. “Cameron chưa bao giờ kể chuyện vì sao bé
đã rời bỏ “kiếp trước”. Nhưng có 1 lần tôi nghe bé nói chuyện với đứa bạn “đừng
sợ chết, bởi chết xong thì vẫn có cơ hội quay về”. Khi tôi hỏi: Con đã đến với
mẹ như thế nào, Cameron đã trả lời không chút ngại ngần: Con thấy mình rơi tõm
vào trong bụng mẹ thôi. Vậy kiếp trước con tên là gì? Cameron mẹ ạ. Con vẫn là
Cameron”.
Trường hợp của bé
James Leininger
Cha của James là Bruce C. Leininger, một thạc sỹ chuyên
ngành khoa học xã hội. Mẹ Andrea của cậu là một phụ nữ đa tài, giỏi về hội họa,
múa, và văn học. Cô từng theo học ba lê tại New York và San
Francisco. Sau khi tốt nghiệp trường trung học cô là một vũ công ba lê chuyên
nghiệp suốt 10 năm trước khi quyết định nghỉ ngơi để chăm sóc gia đình.
Cậu bé James từ khi còn rất nhỏ đã không chơi với thứ gì
khác ngoại trừ máy bay, cha mẹ cậu kể lại. Nhưng khi cậu bé lên 2 tuổi, những
chiếc máy bay mà cậu yêu thích lại thường xuất hiện trong những cơn ác mộng lặp
đi lặp lại tới 4 lần một tuần, làm James la hét và quẫy đạp dữ dội. Dường như
bé đang chiến đấu với một cái gì đó hoặc là đang bị nhốt trong lồng, và cố gắng
thoát ra ngoài. Cách duy nhất để bé thoát khỏi ác mộng là cha mẹ phải lay bé
dậy. Trong giấc mơ, cậu bé thường la lớn: “Máy bay rơi bốc cháy, người đàn ông trẻ không thoát ra
được”.
Andrea kể mẹ cô là người đầu tiên nghĩ rằng có thể James
đang nhớ lại kiếp trước của mình.
Ban đầu, Andrea nói, cô rất hoài nghi. Cha mẹ James cho
biết cậu bé chỉ xem các chương trình truyền hình thiếu nhi mà thôi, còn họ thì
không hề xem các phim tài liệu thời Thế chiến thứ II hay bàn luận gì về chiến
tranh cả. Trong một cuốn băng video thu vào năm James 3 tuổi, người ta thấy cậu
bé xem xét kỹ lưỡng một chiếc máy bay như thể viên phi công đang kiểm tra trước
khi bay vậy.
Một lần khác, Andrea mua cho cậu bé một chiếc máy bay đồ
chơi và chỉ cho cậu xem một thứ trông như một trái bom bên dưới. James đã chỉnh
cô ngay, bảo rằng đó là một drop tank (thùng chứa xăng phụ phía dưới thân máy
bay, có thể thả rơi xuống nếu cần thiết). “Tôi chưa từng nghe nói về drop tank. Tôi còn không biết
đó là cái gì nữa”.
Rồi những cơn ác mộng của cậu bé ngày càng tệ hơn. Mẹ của
Andrea bảo cô nên đến gặp tiến sỹ Carol Bowman, một bác sỹ chuyên khoa trong
lĩnh vực nghiên cứu luân hồi tái sinh. Bowman còn là tác giả của cuốn sách “Tiền kiếp của những đứa trẻ: Ký ức tiền kiếp
ảnh hưởng đến con bạn như thế nào”, viết sau khi chính
con trai của bà gặp phải những cơn ác mộng và những hồi tưởng lạ lùng tương tự
như thế.
Andrea đã gọi điện cho bà tiến sỹ ngay lập tức. Với sự
hướng dẫn của Bowman, Andrea bắt đầu khuyến khích James chia sẻ những kí ức của
bé ngay sau cơn ác mộng. Kết quả là, những cơn ác mộng đã giảm hẳn. James cũng
diễn đạt rõ ràng hơn về quá khứ của mình, Andrea kể lại.
Tiến
sỹ Bowman cho biết James đang ở một lứa tuổi có thể dễ nhớ lại về kiếp trước
nhất. Bà nói: “Chúng chưa gặp những tác động văn hóa, chưa bị những kinh
nghiệm sống của kiếp này lấn át, nên ký ức có thể trào dâng dễ dàng hơn... Việc
trẻ nhỏ mơ về tiền kiếp không phải là chuyện hiếm gặp. Chúng ta thường chú ý
tới ác mộng bởi vì chúng quấy phá giấc ngủ, và thường là những câu chuyện xúc
động và rất thực, giống như trường hợp của James vậy. Ác mộng thường tái diễn
luôn, khi đứa trẻ hồi tưởng lại những sự kiện đầy kịch tính ấy mãi. Ở một mức
độ nào đó, chúng đang tìm cách giải quyết cho những ký ức nhiễu loạn ấy. Khi
Andrea đã biết được sự việc mà James nhớ lại trong giấc mơ – là chiếc máy bay
rơi – điều đó đã giúp cậu bé vượt qua được chấn thương tinh thần”.
Nhưng tác dụng phụ của điều đó – đúng như tiến sỹ Bowman
đã dự đoán trước – những hồi ức của James về chiếc máy bay rơi và về người đàn
ông mà đã không thể thoát ra trở nên chi tiết hơn, thực tại hơn. James bắt đầu
hồi tưởng lại trong khi tỉnh, một cách rõ ràng, về việc máy bay của cậu cất
cánh khỏi mặt nước và quân Nhật đã bắn rơi nó như thế nào. James kể với cha là
cậu từng lái một chiếc máy bay hiệu Corsair. Cậu bé còn nói cậu đã phục vụ trên
chiếc hàng không mẫu hạm có tên là USS Natoma Bay trong cuộc chiến với Nhật
Bản. Những chi tiết rõ ràng và kỳ lạ này đã buộc Bruce tiến hành một cuộc điều
tra nghiên cứu với sự giúp đỡ của vợ để chứng minh tất cả chuyện này không phải
là sự thật. Cả 2 vợ chồng hoài nghi và không muốn tin vào điều đó.
Tuy nhiên cuộc nghiên cứu kéo dài suốt gần 5 năm trời với
hàng ngàn tài liệu, những cuộc phỏng vấn cá nhân và các nguồn tin của quân đội,
Bruce và Andrea cuối cùng đã phải chắc chắn một điều: con trai họ có mối liên
hệ kỳ lạ với một phi công Hải quân Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh thế giới thứ
II, có tên là James M. Huston con, đã hy sinh vào năm 1945 trong khi đang làm
nhiệm vụ, trên vùng trời Iwo Jima, Nhật Bản.
Những điều lạ lùng khi mới 20 tháng tuổi
Bruce và Andera kể rằng họ bắt đầu thấy những dấu hiệu lạ
thường ngay từ khi James hơn 1 tuổi rưỡi. Andrea kể cậu bé cứ luôn luôn quấn
quít bên những chiếc máy bay: Cậu chơi với máy bay đồ chơi suốt nhiều tiếng
đồng hồ không biết chán và reo lên mỗi khi trông thấy một chiếc máy bay nào đó
băng qua bầu trời.
Khi chuyển nhà từ Richardson, Texas,
tới Lafayette vào tháng 2 năm 2000, Bruce đã dẫn James tới Bảo tàng
Máy bay Cavanaugh tại Addison, Texas. Cậu con trai ông như bị thôi
miên bởi những chiếc máy bay tại Viện bảo tàng ấy. Chú bé cứ thơ thẩn quanh
quẩn lại khu vực Thế chiến II của Bảo tàng. Khi ông cố gắng đưa James trở về
nhà sau gần 3 tiếng ở đó, James gào khóc. Để thỏa mãn sự tò mò và vỗ về cậu,
Bruce đã mua cho cậu một băng video trình diễn máy bay Thiên thần Xanh Hải quân
(Navy Blue Angels) tại Bảo tàng. James đã xem nó nhiều đến nỗi cuộn băng gần
như nát cả ra.
Vào tháng 4 năm 2000, sau khi đã ổn định nơi ở mới
tại Lafayette, những cơn ác mộng của James bắt đầu xuất hiện. Bruce và
Andrea cho rằng ác mộng là do James chưa quen với ngôi nhà mới. Nhưng khi ác
mộng diễn ra triền miên, thì cha mẹ cậu bé đã phải quan tâm đặc biệt đến con
mình.
Trong lúc đó, thì những đồ dùng trong nhà đã phải hứng
chịu bộ sưu tập máy bay của James. Cậu bé thả những chiếc máy bay đồ chơi của
mình rơi đâm thẳng xuống mặt bàn và ghế. Andrea nhớ lại, vừa đưa tay chỉ vô số
những vết trầy xước trên mặt bàn phòng khách. Chiếc bàn đã là bãi đáp cho máy
bay của cậu bé. Máy bay đâm xuống mặt đất đã là một nỗi ám ảnh dai dẳng đối với
James, đến nỗi khi bất kỳ ai đề cập đến bay lượn, thì James lập tức buột miệng
kêu “Máy bay rơi cháy rồi”. Điều đó khiến Andrea rất lo lắng.
Từ tháng 7 cho tới tháng 9 năm 2000, James đã bắt đầu kể
với cha mẹ rằng chiếc máy bay trong những ác mộng ấy đã bị quân Nhật bắn rơi
sau khi cất cánh từ một con tàu trên mặt biển. Khi James được hỏi liệu cậu có
biết viên phi công ấy là ai không, cậu chỉ đáp gọn “James”.
Andrea hỏi James loại máy bay mà cậu đã lái trong những
giấc mơ, và cậu nói nó là một chiếc “Corsair”. Vậy là, sau nhiều lần cố lấy
thêm thông tin sau những ác mộng ấy, Bruce và Andrea đã nghe James nói
“Natoma“. Bất chợt nảy ý thử tìm hiểu thực hư, Bruce đã tìm kiếm trên mạng với
từ khóa “Natoma”. Kết quả là: có tồn tại một tàu sân bay mang tên USS Natoma
Bay, đóng tại Thái Bình Dương trong Thế chiến II. Bruce đã nghĩ rằng đó chỉ là
một trùng hợp ngẫu nhiên thôi.
Vào
tháng 10 năm 2000, lại thêm một mảnh câu đố đã được làm sáng tỏ. Sau một cơn ác
mộng khác, James đã nói với cha mẹ cái tên Jack Larsen, và cậu bảo đó là Larsen
mà cùng bay với James. Tháng sau, James lại có thêm một chút thông tin nữa làm
kinh hoàng người cha vốn luôn nghi ngờ. Bruce lướt xem một quyển sách tựa đề “Trận chiến giành Iwo Jima” của tác giả Derrick Wright mà ông vừa nhận được từ
một Câu lạc bộ sách lịch sử. Trong khi Bruce đọc, James đã nhảy vào lòng bố để
xem tranh vẽ. Khi chờ xem tranh thì James ngồi im nhìn vào trang sách. Thình
lình, James chỉ vào một bức tranh của Iwo Jima gần Chichi Jima và nói, “Bố, đó là nơi máy bay
của con bị bắn rơi”. Bruce choáng váng.
Vài tuần sau, với những cuộc tìm kiếm nhờ mạng Internet,
Bruce đã tới một trang web đề cập đến Hội Natoma Bay. Ông đã
liên lạc với Leo Pyatt, người về sau nhận mình đã từng là nhân viên điện đài
trên một máy bay chiến đấu Avenger thuộc phi đội VC-81. Bruce không thể cầm lòng,
và hỏi Pyatt liệu có chiếc phi cơ Corsair nào đã bay trên Vịnh Natoma không.
Pyatt bảo không – chỉ có những chiếc máy bay Avenger và Wildcat thôi. Rồi Bruce
hỏi Pyatt có người nào ở đó tên Jack Larsen không. Pyatt bảo ông biết Jack
Larsen, nhưng không biết điều gì đã xảy ra với ông ta cả.
Sau khi nhận ra nhiều chi tiết từ đứa con trai 2 tuổi của
mình không hiểu vì sao lại hiện thực như vậy, Bruce bị ám ảnh, ông cố gắng bác
bỏ bởi vì muốn tin rằng đó chỉ là những “trùng hợp ngẫu nhiên”. Ông bắt đầu lần
tìm được những hồ sơ của quân đội từ khắp nước Mỹ. Mục tiêu cuối cùng của ông
là để chứng minh việc này không phải là sự thật. Do đó, ông phải tìm Jack
Larsen.
Những mảnh câu đố ghép nối thành bức tranh hoàn chỉnh
Bruce không thể tìm được điều gì về Jack Larsen trong các
hồ sơ quân đội sau khi con trai họ đề cập đến cái tên ấy. Ông đã tìm kiếm từ
mọi danh sách mà ông có thể tìm được từ các Hồ sơ lưu trữ Quốc gia Hoa Kỳ về
những người đã chết trong khi phục vụ cho USS Natoma Bay và tất cả các tàu sân
bay khác trong suốt Thế chiến II. Có nhiều Larsen và Larson đã hy sinh, nhưng
không có Larsen nào ở USS Natoma Bay. Ông đã tìm kiếm hơn một năm, nhưng không
có kết quả. Ông suýt nữa đã bỏ cuộc.
Vấn đề là ở chỗ: Bruce đang tìm kiếm một người đã chết.
Sau khi dự Cuộc sum họp Vịnh Natoma vào tháng 9 năm 2002, Bruce mới khám phá ra rằng
Jack Larsen vẫn còn sống khỏe mạnh tại Springdale, Ark. Sau khi nói chuyện với
những cựu quân nhân của chiếc tàu sân bay USS Natoma Bay và gia đình họ, Bruce
được biết là có 21 người đã tử trận khi phục vụ cho USS Natoma Bay.
Một trong số những người đó là trung úy James McCready
Huston con, thuộc phi đội máy bay chiến đấu VC-81, bị bắn rơi khi mới 21 tuổi
trong một nhiệm vụ tấn công đặc biệt vào tàu vận chuyển tại bến cảng Futami Ko
ở Chichi Jima, theo như các báo cáo đã được giải mật. Huston đã tình nguyện
tham gia vào nhiệm vụ này. Anh là phi công duy nhất của tàu USS Natoma Bay bị
bắn rơi tại Chichi Jima.
Đôi vợ chồng nhà Leininger còn nhận ra rằng James đã ký
tên mình là “James 3″ trên những bức vẽ chì màu về các máy bay trong Thế chiến
II. Cậu thậm chí còn nói mình là “James 3″ – nhiều tháng trước cuộc đoàn tụ ấy
– ngụ ý rằng James Huston đã theo tên cha là James, và James Leininger là James
thứ 3.
Tới thời điểm đó, Bruce nói ông trở nên nản chí bởi vì nỗ
lực chứng minh rằng cậu con trai mình không có tiền kiếp nào cả đang đi nhầm
hướng. “Tất cả những bức vẽ của
nó đều là máy bay đang chiến đấu, và nó biết chủng loại của những chiếc máy
bay. Thậm chí nó còn vẽ cả lá cờ mặt trời đỏ của quân Nhật”, Bruce nói. “Nhưng sau khi nó vẽ “James 3″ lần đầu tiên, tôi mới hỏi
nó tại sao lại thế. James nói “Con là thứ 3. Con là James thứ 3″. Nó đã tự gọi
mình như thế khi chỉ mới có 3 tuổi. Tôi nghĩ nó đang vật lộn với chuyện gì đó
chưa được giải quyết, nếu không thì đã không vẽ mãi những bức tranh ấy…”.
Kiên quyết tìm cho ra ngọn nguồn, Bruce đã tới thăm
Larsen ở Akansas vào tháng 9 năm 2002 và hỏi ông về James Huston. Larsen không
rõ điều gì đã xảy ra với Huston, nhưng ông chắc chắn là máy bay của Huston đã
bị trúng đạn vào ngày 3/3/1945 – cái ngày mà Huston đã không trở về sau nhiệm
vụ và vì vậy không rõ là Huston đã chết hay là bị quân địch bắt. Larsen đã là
phi công yểm trợ cho Huston trong cái ngày tiến về Chichi Jima ấy.
Sau khi cố gắng kiểm tra các hồ sơ của phi đội VC-81, ông
khám phá ra là Huston đã bị bắn rơi trong một chiếc máy bay chiến đấu hiệu FM2
Wildcat chứ không phải là một chiếc Corsair, và không có ai trong Cuộc sum họp đó đề cập gì tới những
chiếc máy bay Corsair cất cánh từ USS Natoma Bay. Bruce nói điểm không chính
xác đó đã giúp ông nuôi hy vọng rằng tất cả chuyện này chỉ là một chuỗi trùng
hợp ngẫu nhiên mà thôi.
Hoài nghi tan biến
Để cho chắc, Bruce cố gắng tìm những thành viên của gia
đình Huston. Vào tháng 2/2003 ông đã liên lạc với Anne Huston Baron, là chị của
Huston, hiện đang sống tại Los Gatos, California. Qua nhiều cuộc điện
đàm, nhà Leininger và bà Barron đã trở thành bạn, và bà đồng ý gửi cho Bruce
những hình ảnh của người em trai khi trong quân ngũ. Những gói ảnh đã đến được
tay Bruce vào tháng 2 và tháng 3 năm 2003.
Trong một gói ảnh có một bức hình của Huston đang đứng
trước một chiếc máy bay chiến đấu Corsair – đúng loại mà James nhắc đi nhắc lại
mãi. Theo Bruce, các cuộc phỏng vấn với những thợ bảo dưỡng máy bay và các hồ
sơ quân đội đã giải mật, thì trước khi Huston gia nhập USS Natoma Bay và VC-81,
anh đã là thành viên của một phi đội ưu tú đặc biệt, là phi đội VF-301 Devil’s
Disciples, từ tháng 1 tới tháng 8 năm 1944. Phi đội ưu tú này đã bay thử những
chiếc Corsair dùng cho tàu sân bay, và chỉ có 20 phi công được tuyển chọn cho
trách nhiệm này. Tuy nhiên, phi đội VF-301 đã bị giải tán sau 8 tháng và Huston
được gửi về phi đội VC-81 vào mùng 8/10/1944.
Khi biết được việc này, Bruce nói, tất cả những hoài nghi
trong ông đã tan biến. “Tôi không có câu trả lời nào cho việc này, nên tôi
cũng không thể giải thích gì cả”, Bruce nói. “Tất cả những giấc mơ có thể là
ngẫu nhiên, nhưng có những nhân tố kỳ dị mà bạn buộc phải tính đến. Sét có thể
đánh trúng một lần, nhưng khi sét đánh 8 9 lần thì bạn không thể bảo đó là ngẫu
nhiên được”.
Bruce đã không kể cho bà Barron về câu chuyện siêu nhiên
của đứa con trai cho đến tận tháng 10 năm 2003. Khi cuối cùng ông kể với bà
rằng cậu em trai của bà có thể là James, bà nói rằng bà đã choáng. Sau đó, vào
ngày 15/10/2003, Bruce và Andrea nhận được một lá thư của bà Barron, cùng với
một số đồ đạc cá nhân của Huston. Trong thư bà nói rằng không những là bà cảm
thấy James gần gũi, mà còn thực sự tin câu chuyện này.
“Cậu bé không thể biết được những việc này – bé đơn giản
là không thể – cho nên tôi tin cậu bé là một phần của em trai tôi”, bà Barron nói. Giờ đây bà gọi cậu bé
6 tuổi là James 3. Và đến lượt mình, cậu cũng xem người phụ nữ 86 tuổi ấy là
chị của mình.
Khi Bruce khám phá thêm những thông tin về Huston, vợ
chồng nhà Leininger đã tìm thấy những mối liên hệ kỳ lạ khác nữa giữa Huston và
con trai của họ. James có 3 búp bê lính Mỹ và đặt tên chúng là Leon,
Walter và Billie – đúng tên của 3 phi công bạn của Huston. Theo hồ sơ của Hạm
đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ, Trung úy Leon Stevens Conner, Thiếu úy Walter John
Devlin và Thiếu úy Billie Rufus Peeler nằm trong số 21 người tử trận của USS
Natoma Bay. Họ cùng là các thành viên của phi đội máy bay VC-81 với Huston.
Bruce hỏi tại sao cậu lại đặt tên cho búp bê như vậy. Cậu bé trả lời: “Bởi
vì họ đã chào đón con khi con đến thiên đường”.
Sau khi nghe James nói, Bruce chỉ còn biết rời khỏi phòng
trong im lặng sững sờ.
James cũng giải thích cho cha mình rằng máy bay hiệu
Corsair thường có lốp phẳng và có xu hướng luôn nghiêng sang trái như thế nào.
Sau khi kiểm tra với các nhà sử học quân sự tại Viện bảo tàng Lone Star Flight
ở Galveston, Texas, Hoa Kỳ, lời cậu nói đã được xác minh là đúng sự thật.
Andrea nhớ lại lần đầu tiên khi cô làm món bánh mì thịt cho James ăn, James đã
nói với cô rằng cậu đã không ăn món bánh mì thịt kể từ khi
ở Natoma Bay. Vì vậy, Bruce và Andrea liên lạc với một số cựu chiến
binh của tàu sân bay USS Natoma Bay, và họ biết được rằng bánh mì thịt là một
món ăn chính của phi đoàn.
Ngày máy bay của James Huston bị bắn rơi
Sau khi phát hiện chi tiết về chiếc máy bay Corsair là
thật, vẫn còn một điểm cần phải được xác minh: máy bay của Huston bị bắn rơi
như thế nào. Có đúng là nó bị hỏa lực phòng không của quân Nhật bắn trúng động cơ,
trên vùng trời Iwo Jima như lời James nói hay không?
Tuy nhiên, không ai trong số các phi công yểm trợ của
Huston,gồm Jack Larsen, Bob Greenwalt hoặc William Mathson Jr.thuộc phi đội
VC-81 đã nhìn thấy máy bay của anh bị bắn rơi vào ngày 03 tháng 3 năm 1945.
Vào tháng 6 năm 2003, một cựu chiến binh khác đã giúp
Bruce. Đó là Jack Durham, thành viên của phi đội ném bom và phóng ngư lôi VC-83
của tàu USS Sargent Bay mà đã bay song song với phi đội của Huston vào ngày
định mệnh đó. Theo lời Durham, ông đã thấy máy bay của Huston bị bắn hạ bởi hỏa
lực phòng không của Nhật. Hơn thế nữa, điều này cũng được xác nhận bởi các báo
cáo của phi đội VC-83.
Sau khi nghiên cứu thêm nhiều hồ sơ của phi đội VC-83 và
đọc các nhật ký chiến tranh của họ, Bruce đã liên lạc với các thành viên của
phi đội VC-83 là Richardson, Bob Skelton và Ralph Clarbour. Tất cả họ đều
khẳng định rằng không những máy bay của Huston bị bắn hạ, mà họ còn thấy nó bị
trúng đạn ở động cơ, gây ra một tiếng nổ. Clarbour cho biết máy bay của ông đã
bay ngay sau chiếc máy bay của James M. Huston Jr. trong cuộc đột kích gần Iwo
Jima vào ngày 3/3/1945: “Tôi có thể nói rằng,
anh ấy đã bị bắn ngay vào chính giữa động cơ”. Sau đó máy bay của
Huston đâm xuống bến cảng Futami Ko, đúng nơi James đã chỉ ra trong cuốn sách
lịch sử mà 2 cha con xem vào tháng 11 năm 2000.
Thế là mọi chi tiết các giấc mơ của James đều đã được xác
minh là sự thật, và vợ chồng nhà Leininger đã toại nguyện. Thông qua nhiều nhân
chứng, nhiều cuộc phỏng vấn cá nhân và các hồ sơ quân đội, Bruce và Andrea tin
chắc con trai mình chính là James Huston. Không chỉ có họ, mà nhiều người từng
là thân nhân và bạn bè của Huston khi tiếp xúc với James đều đi đến kết luận:
James 3 là James Huston đầu thai trở lại.
James tiếp tục nhớ lại những kỷ niệm cuộc đời quá khứ của
mình, thậm chí tới tận ngày hôm nay, nhưng tiến sỹ Bowman cho biết trẻ em
thường bị mất khả năng nhớ những kỷ niệm về tiền kiếp kể từnăm lên 7. Khi được
hỏi tình cảm 2 vợ chồng dành cho đứa con trai có bị ảnh hưởng hay không khi
biết nó có thể là một người khác, Bruce trả lời: “Không có gì thay đổi cả. Tôi không nhìn con
mình và tự hỏi: “Có phải con trai mình đây không?” Đó là con trai của tôi”.
Glenn Ford
Glenn Ford tên thật là Gwyllyn Samuel Newton Ford,
sinh ra tại thành phố Quebec, Canada vào ngày 1 tháng 5 năm 1916. Năm lên 8
tuổi, ông theo gia đình chuyển tới Los Angeles sinh sống.
Vào năm Ford 54 tuổi, ông chuẩn bị đóng một bộ phim về
nhà tâm linh người Hà Lantên là Peter Hurkos. Ông quyết định trước tiên nên làm
một số nghiên cứu về chủ đề này. Ông đã xem những cuộc biểu diễn của Hurkos,
phỏng vấn các chuyên gia về chủ đề tâm linh. Trong tháng 12 năm 1975, ông trải
qua 3 buổi thôi miên. Trong những buổi thôi miên đó ông đã mô tả nhiều chi tiết
về các cuộc đời quá khứ.
Ford đã được tiến sĩ Maurice Benjamin tiến hành thôi miên
trước mặt nhiều nhân chứng, với băng ghi âm đang chạy.
Trong các cuộc thôi miên, Glenn Ford đã quay trở lại thời
thơ ấu, sau đó vượt qua thời điểm ấy, và mô tả các ký ức từ trước đó nữa, là
các ký ức từ tiền kiếp.
Chàng cao bồi miền Viễn Tây
Trong buổi đầu tiên, Ford nhớ lại tiền kiếp gần đây nhất
khi ông là Charlie Bill, một chàng cao bồi sống ở Colorado.
Trong thực tế, mặc dù Ford đóng vai chính trong 106 bộ
phim và nhiều loạt chương trình truyền hình khác nhau từ hài kịch cho tới những
câu chuyện chiến tranh, nhưng các vai diễn ở miền viễn Tây của ông có lẽ là vừa
nhiều lại vừa nổi bật nhất trong số đó. Rất có thể những ký ức tiền kiếp đã
giúp ông hóa thân vào các vai diễn một cách dễ dàng, sống động và hết sức tự
nhiên.
Giáo viên dạy nhạc
Ford tự mô tả mình là một giáo viên âm nhạc tên là
Charles Stewart ở Elgin, Scotland đã chết vào năm 1892 vì bệnh
phổi. Stewart yêu ngựa nhưng lại ghét công việc giảng dạy âm nhạc cho các nữ
sinh. Ford đã nói về việc giảng dạy “những đứa trẻ nông nổi” làm thế nào để
chơi piano. Phong cách nói của ông rất khác lạ, không giống
dân California gì cả mà quả thật có phong cách Scotland cổ.
Khi được hỏi về cuộc sống khi còn là Stewart, Ford đã
đồng ý thể hiện kỹ năng âm nhạc bằng cách chơi một vài đoạn nhạc của Beethoven,
Mozart, và Bach. Ford vốn không biết chơi đàn piano, nhưng trong cuộc thôi miên
ông đã chơi được dù có khó khăn.
Tỉnh dậy sau cuộc thôi miên, Ford đã nghe lại băng ghi âm
cuộc phỏng vấn của chính mình với thái độ vừa hoài nghi vừa quan tâm. Giống như
Stewart ông cũng rất thích ngựa, ngay từ những năm đầu đời.
Bản thân Ford cho rằng, ác cảm với âm nhạc cũng như tình
yêu dành cho ngựa của ông đều bắt nguồn từ Stewart.
Ngôi mộ của Charles Stewart về sau đã thực sự được tìm
thấy ở Elgin, Scotland. Ford xem một bức ảnh của
ngôi mộ, và nói, “Điều đó làm tôi chấn động tồi tệ. Tôi cảm thấy ngay
đó là nơi tôi đã bị chôn”.
Người Kỵ binh Pháp
Lần thôi miên hồi quy thứ hai khó khăn hơn, nhưng cuối
cùng đã thành công.
Nói tiếng Pháp trôi chảy bằng phương
ngữ Paris thế kỷ 17 (được tổ nghiên cứu của trường đại
học California xác nhận), Ford kể về cuộc sống của mình khi là một kỵ
binh ưu tú tên là Launvaux phục vụ cho vua Louis XIV nước Pháp. Bình thường
Ford không biết tiếng Pháp, và tất nhiên càng không hề biết gì về cách nói
chuyện bằng phương ngữ Paris cổ xưa như vậy.
Ford kể rằng, một quý tộc đã cáo buộc Launvaux về tội
ngoại tình với vợ ông ta, sau đó thuê một kiếm sĩ để thách đấu với Launvaux.
Launvaux lúc ấy 34 tuổi, giỏi hơn hẳn, đã giết chết tay kiếm kia trong cuộc
đấu.
Ðiều kỳ lạ là sau này, khi nam tài tử Glenn Ford còn
sống, ông thường hay bị đau nhức trong người. Chỗ đau này Glenn Ford cảm nhận
rõ ràng và ông thường than với bác sĩ riêng của mình về vết đau kỳ lạ đó. Chính
Glenn Ford đã viết trong tập hồi ký đời mình về vấn đề này như sau: “Vết
thương từ cuộc đấu kiếm tay đôi từ kiếp trước vẫn thỉnh thoảng làm tôi đau đớn
ngay trong cuộc đời hiện tại, và chỉ có mình tôi cảm nhận được điều đó”.
Launvaux đã mô tả chính xác nhiều chi tiết, bao gồm cả
thực tế rằng cung điện ở Versailles thời ấy đã được gọi là điện Chateau, và các
chuồng ngựa quân sự nằm ở phía bên tay trái đường tới cung điện, chưa kể đến
kiểu âm mưu hay gặp vào thời ấy mà đã được sử dụng để đưa ông vào chỗ chết.
Các cuộc đời khác
Tiếp tục cuộc nghiên cứu, Ford đã nhớ lại được các kiếp
khác nữa. Ông đã từng là một tín đồ Kitô trẻ tuổi tử vì đạo, bị sư tử giết chết
trong Đại hý trường La Mã vào thế kỷ thứ 3. Ông cũng đã từng là một thủy thủ
Hải quân Hoàng gia Anh thế kỷ 17 đã chết vì trận Đại Dịch hạch xảy ra ở London
vào giữa những năm 1660.
Glenn Ford đã qua đời vào năm 2006 ở tuổi 90.
*
Từ thời xa xưa, tất cả các chính giáo đều giảng về sự
luân hồi. Họ hiểu rõ mối liên hệ giữa nhân và quả. Họ tin rằng nhân cách của
một người trong cuộc đời và tất cả những việc làm tốt hay xấu của người ấy đều
được ghi lại. Tính cách sẽ được lưu giữ tới kiếp sau, sướng khổ đời sau sẽ
tương xứng với việc làm của kiếp trước.
Trong kho tàng văn hóa của nhiều dân tộc toàn thế giới
đều có lưu truyền những câu chuyện về sự luân hồi. Sau nhiều năm tiếp cận, các
nhà nghiên cứu đã ghi nhận được hàng ngàn trường hợp đầu thai, và họ không thể
tìm được cách giải thích nào ngoài việc chấp nhận chúng.
Dẫu Luân hồi có thật hay không thì điều dễ nhận thấy
nhất, là khi biết về Luân hồi người ta trở nên tốt hơn, nội tâm hướng tới tương
lai tươi sáng, hòa bình và hy vọng.
*
Mời thư giãn với nhạc phẩm XUÂN NÀY CON KHÔNG VỀ
của Trịnh Lâm Ngân qua tiếng hát Duy Khánh:
*
VŨ QUẾ LÂM giới thiệu
Địa chỉ: Thôn Thanh Thủy, xã Đông Xuân,
huyện Sóc Sơn, tỉnh Hà Nội.
…………………………………………………………………………
- Cập nhật theo nguyên bản tác giả gửi qua email ngày 17.01.2018.
- Bài viết không thể hiện quan điểm của trang Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng
lại.
Bài tổng hợp rất kỳ công! Cám ơn tác giả Vũ Quế Lâm
Trả lờiXóa