(Nguồn ảnh: Hoàng Thái Hùng) |
Thư đi thư lại:
ĐỌC SÁCH & CHUẨN... “VIỆT”
(NGUYỄN BÀNG,
VŨ LAI HẢI, LÊ VY)
Được tác gia, nhà giáo Nguyễn Bàng, hiện cư
trú tại thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ những trao đổi qua email của Ông với 2
Ông Lê Vy và Vũ Lai Hải, những quan tâm xoay quanh về “chuẩn hóa tiếng Việt” và
“chuyện đọc sách” thời internet.…. Trộm nghĩ, những “thư đi thư lại” của 3 Ông
sẽ hữu ích với nhiều bạn đọc …, vì thế, trang Đặng Xuân Xuyến đã biên tập lại và
trân trọng chia sẻ tới bạn đọc.
*
Ông LÊ VY
(Ông Lê Vy, cán bộ hưu trí) |
(Sài Gòn: 17.04.2018)
Mong
được nghe lời bàn:
(Ông Lê
Vy gửi kèm bài viết)
“MỘT
QUAN NIỆM RẤT SAI VỀ TIẾNG VIÊT
- Hữu
Đạt -
Báo Văn nghệ số 16 (năm 2014) có bài “Tiếng Việt chưa có
chuẩn” của tác giả Phạm Thuận Thành. Đây là một bài viết có nhiều lập
luận thiếu cơ sở khoa học, hơn nữa, về tư tưởng còn bộc lộ một thái độ
coi thường tiếng Việt, có tác động không tốt đến tầng lớp thanh thiếu niên. Vì
vậy, với thái độ thẳng thắn, chúng tôi thấy cần trao đổi với tác giả bài viết
một số vấn đề đáng chú ý sau đây.
Thứ nhất, bài viết này có những sai lầm cơ bản trong nhận
thức. Đó là sự nhầm lẫn trong việc nhận biết giữa cái toàn thể và cái bộ phận (trong
triết học còn gọi là quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa cái khái quát và
cái cụ thể), giữa hiện tượng và bản chất. Từ đó nêu ra những nhận định hồ đồ,
vội vã. Tuy chỉ là một phát biểu mang tính cảm tính, thiếu khách quan khoa học,
nhưng nó lại gây ra hoang mang không ít cho học sinh, sinh viên. Từ sự hoang mang
này, học sinh sẽ có thái độ coi thường không nghiêm túc trong việc học
tập và rèn luyện tiếng Việt. Hơn nữa nó còn tác động không nhỏ tới một bộ phận
giáo viên, nhất là giáo viên tiểu học.
Chúng ta đều biết, ngôn ngữ là sản phẩm của một loại vật
chất đặc biệt, đó là bộ óc con người. “Ngôn ngữ cũng cổ xưa như ý thức vậy.
Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng. Ngôn ngữ tồn tại cho người khách
và cho chính bản thân tôi” (Các Mác). Nói đến ngôn ngữ chính là nói đến tư duy
của một cộng đồng người nhất định. Vì vậy, ta mới có các khái niệm: Tiếng
Việt, tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Hán…Đây là cách gọi tắt của các cụm từ: Ngôn
ngữ của người/dân tộc Việt”, “Ngôn ngữ của người/dân tộc Nga”… Mặc dù khác
nhau, nhưng ngôn ngữ nào cũng có cái chuẩn riêng của mình. Không có chuẩn, ngôn
ngữ sẽ là một hệ thống rối loạn, không thể giao tiếp được. Nói một cách khác,
không có chuẩn thì khi nói hay viết, người ta không thể hiểu được nhau. Hơn
nữa, nhờ có chuẩn và sự bảo lưu được chuẩn mà các thế hệ sau mới hiểu được các thông
tin của các thế hệ trước để lại. Thử hỏi tiếng Việt không có chuẩn thì làm sao
đến thế kỷ thứ XXI, người Việt vẫn đọc và hiểu được Hồng Đức quốc âm thi tập
của Nguyễn Trãi, Truyện Kiểu của Nguyễn Du…? Không có chuẩn thì ngôn ngữ không
thể trường tồn. Dân tộc Việt hàng ngàn năm bị đô hộ của phong kiến phương Bắc,
gần trăm năm bị nô lệ bởi thực dân, nhưng không bị đồng hóa hay bị tiêu diệt
bởi chính sách xâm lược của ngoại bang (coi rẻ tiếng Việt, bắt dân ta phải dùng
chữ Hán và chữ Pháp làm văn tự chính thống) chính nhờ có sự đấu tranh sống còn
để bảo lưu cái chuẩn của tiếng nói dân tộc. Như vậy, nói tới chuẩn ngôn ngữ là
ta nói tới tính qui ước của cộng đồng và tính hành chính của bộ máy quản lý Nhà
nước. Chuẩn ngôn ngữ không do một cá nhân hay một nhóm người qui định mà do một
cộng đồng ngôn ngữ rộng lớn- tức cộng đồng dân tộc và những qui định mang tính
chế ước của Nhà nước quản lý nó qui định. Nếu những qui ước của cộng đồng và
qui định của Nhà nước ngược nhau thì nó kìm hãm không cho ngôn ngữ phát triển.
Ngược lại, nếu có sự phù hợp thì ngôn ngữ lại có cơ hội tiến triển và ngày càng
đạt được chuẩn mực cao. Trước năm 1945, do tiếng Việt bị chính quyền thực dân
coi rẻ, cho nên khi giành được độc lập rồi nhiều người bị ảnh hưởng nền giáo
dục Pháp đã còn cho rằng tiếng Việt không thể giảng dạy ở bậc đại học. Nhưng sự
thực là chính quyền cách mạng, sau tháng Tám, tiếng Việt đã được đưa vào giảng
dạy ở mọi cấp học. Ngày nay, tiếng Việt không những chỉ được dùng ở bậc đại học
mà còn được dùng ở bậc cao hơn để đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ. Tôn vinh tiếng
Việt, đưa vị trí của tiếng Việt từ địa vị thứ yếu (bị trị) sang địa vị chính
thống, độc tôn chính là ý thức bảo vệ văn hóa, tư duy của người Việt, cái làm
nên bản sắc của dân tộc Việt Nam.
Tác giả Phạm Thuận Thành rất sai lầm khi coi tiếng Việt
chưa có chuẩn, lại càng sai lầm hơn nữa khi coi một số hiện tượng tùy tiện
trong sử dụng ngôn ngữ là cách tân. Tác giả này viết “Trong ngôn ngữ mạng, giới
trẻ đang có xu hướng dùng chữ cái w thay cho phụ âm qu, chữ cái j thay cho phụ
âm ch… là sự cách tân rất đáng chú ý”. Chúng tôi rất lấy làm lạ trước cách lập
luận của tác giả. Bởi về mặt khoa học, ai cũng biết đó là những hiện tượng ngôn
ngữ chỉ có thể được xếp vào thứ “tiếng lóng” của một số ít người trong lớp trẻ
(không phải tất cả thanh niên Việt Nam đều dùng như vậy). Nó không thể đại diện
cho hệ thống ngôn ngữ của một cộng đồng. Hơn nữa, tác giả lớn tiếng để đả phá
cái gọi là “tiếng Việt không có chuẩn” nhưng những tri thức tối thiểu về ngôn
ngữ học tác giả lại tỏ ra không hiểu gì. Vậy làm sao có thể thuyết phục người
đọc? Chẳng hạn, trong tiếng Việt không có cái gọi là “phụ âm qu” như tác giả
quan niệm. Đó là một tổ hợp gồm phụ âm [k] kết hợp với bán nguyên [w] (còn gọi
là âm đệm [w]). Chính vì thiếu những tri thức cần thiết nên tác giả kêu lên “Dựa
vào chuẩn nào để nói người khác” lệc chuẩn đây”? Xin thưa, khi chúng ta chưa
chính thức có luật về ngôn ngữ thì vẫn có rất nhiều cơ sở cho phép ta có
thể dựa vào để xem xét về chuẩn. Chẳng hạn, dựa vào qui định, nghị định của các
cơ quan có thẩm quyền với chức năng đại diện cho Nhà nước về lĩnh vực mà mình
quản lý. Ví dụ, qui định về cách viết chính tả, cách phiên âm từ, thuật ngữ
tiếng nước ngoai của Ủy ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam trước đây (đã có nhiều văn
bản) và của Viện Hàn lâm Khoa Học Xã Hội ngày nay. Cũng có thể dựa vào các bộ
Từ điển tiếng Việt do Nhà nước đứng ra tổ chức biên soạn và ấn hành. Ngoài ra,
còn có thể dựa vào các tài liệu được sử dụng chính thống trong giáo dục. Chẳng
hạn, có thể dựa vào sách dạy tiếng Việt hiện đã được Nhà nước ban hành (tức
sách giáo khoa)…Có lẽ vì thiếu những hiểu biết này mà tác giả bài viết trên đã
nhầm lẫn coi những hiện tượng tùy tiện về sử dụng ngôn ngữ là các hiện tượng
cách tân và cổ súy cho nó. Nhận định này có tác dụng rất tai hại đối với việc
giáo dục tiếng mẹ đẻ cho tầng lớp thanh thiếu niên hiện nay.
Thực ra, cách nói “chuẩn ngôn ngữ” là cách nói chung
chung. Trên thực tế, chuẩn ngôn ngữ là cái được thể hiện trên nhiều bình diện
cụ thể. Chính vì thế, trong cuốn “Phong cách học tiếng Việt hiện đại” (*),
chuẩn ngôn ngữ được bàn đến từ nhiều bình diện: Chuẩn ngữ pháp, chuẩn ngữ âm,
chuẩn từ vựng, chuẩn phong cách. Cơ sở đê xác định chuẩn là những qui tắc cơ
bản của tiếng Việt, trong đó cần phải xem xét cả mối quan hệ giữa tiếng toàn
dân (ngôn ngữ phổ thông) và tiếng địa phương ( phương ngữ). Ví dụ, ta có cặp từ
chính phủ/chánh phủ thì “chánh phủ” được coi là tiếng địa phương, còn “chính
phủ” được coi là tiếng toàn dân và là chuẩn ( được dùng chính thức trong các
văn bản hành chính, ngoại giao…mang tính quốc gia). Với cặp vào/vô thì “vào”
được coi là chuẩn. Về cách viết, nếu viết “nghành giáo dục” sẽ là lệch
chuẩn, là sai vì âm [ng] trong tiếng Việt được thể hiện dưới 2 dạng chứ viết
là: ng, ngh tùy theo nó kết hợp với âm nào sau nó. Nếu nó kết hợp với các
nguyên âm dòng sau và nguyên âm dòng giữa (a, u, ơ) thì phải viết là ng: nga,
ngành, ngả, ngu, ngư, ngô, ngơ, ngớ…. Nếu nó kết hợp với các nguyên âm dòng
trước (i,e,ê) thì phải viết là ngh: nghe, nghi, nghỉ, nghê (ngô nghê); nếu
viết là ngi, ngỉ, nge phải coi là lệch chuẩn, là sai.
Tương tự như vậy, âm [k] trong tiếng Việt được thể hiện
bằng 2 chữ cái là c và k. Nếu sau nó là nguyên âm dòng sau hay dòng giữa thì
dứt khoát phải viết là c: ca, có, cốc, cưng (viết: ka, kó, kốc là sai, là lệch
chuẩn)...; nếu sau nó là nguyên âm dòng trước phải viết là k: kỷ, kiệt, kẻ, kế,
kể ( viết: cỉ,ciệt, cẻ, cể là sai là lệch chuẩn)… Vì sao lại như vậy? Vì
đó là qui ước của những nguời sáng lập ra chữ Quốc ngữ - một thứ văn tự dùng
chữ cái La tinh để ghi âm tiếng Việt. Đó là thứ văn tự đã được Chính phủ, Quốc
hội nước Việt Nam Dân chú Cộng hòa chọn làm văn tự chính thống của quốc gia
ngay từ khi thành lập và được toàn dân ủng hộ. Đây chính là cơ sở pháp lý mà
tác giả Phạm Thuận Thành không nhận ra. Chính vì thế, tác giả mới hồ đồ cho
rằng “lấy J thay cho ch, z thay cho tr…” là sự cách tân. Trái lại, cần coi đây
là hiện tượng lệch chuẩn vì nó chỉ là thứ tiếng lóng do một bộ phân thanh thiếu
niên tạo ra. Nó không thể đại diện cho một cộng đồng ngôn ngữ, cũng không thể
thay thế cho hệ thống chữ viết được thừa nhận chính thống về mặt Nhà nước.
Đành rằng, trong hệ thống chữ Quốc ngữ không khỏi có chỗ
bất hợp lý, nhưng việc cải tiến chữ Quốc ngữ là một câu chuyện lớn lao và lâu
dài. Muốn cải tiến nó phải nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc nếu không cải
tiến sẽ trở thành thụt lùi. Bởi tiếng Việt là ngôn ngữ rất phong phú, đa dạng
về cách phát âm nên không phải ngẫu nhiên, hệ thống chữ cái La tinh là một hệ
thống chữ cái khá hoàn chỉnh, được nhiều ngôn ngữ Âu châu sử dụng (tiếng Anh,
Pháp, Đức) nhưng khi dùng là văn tự ghi âm tiếng Việt, các nhà sáng lập phải
tạo thêm các dấu phụ để ghi lại cách phát âm mang tính đặc trưng của người
Việt. Thế cho nên, tuy cùng dùng hệ chữ cái La tinh để ghi âm, nhưng chỉ trong
tiếng Việt mới có các nguyên âm mang dấu mũ. Bài học vui dạy viết cho trẻ có
câu: O tròn như quả trứng gà, ô thì đội mũ ơ thì thêm râu…được sáng tạo để ghi
dấu nét đặc trưng đó.
Mấy điều vừa nói ở trên là nói về chuẩn chính tả. Còn
chuẩn ngữ âm thì sao? Một câu chuyện mất khá nhiều giấy bút trên báo mạng trong
năm trước là câu chuyện lẫn lộn n / l. Tại sao có nhiều vị quan chức khi xuất
hiên trên truyền hình, khi diễn thuyết người nghe - xem phải phì cười? Vì họ có
những cách phát âm lệch chuẩn lẽ ra không nên có với cương vị công tác của
mình. Ví dụ, “làng tôi có rất nhiều nhà cao tầng” thì lại phát âm thành “nàng
tôi có rất nhiều nhà cao tầng”; “Nó nói lắm lại hay lẫn lộn” lại phát âm thành
“ló nói nắm nại hay ní nuận”…
Trong sử dụng từ vựng, sự lệch chuẩn cũng không kém phần
phong phú. Ở một số địa phương người nông dân thường nói “Con tôi mới được
lên chú ý rồi” trong khi cần phải nói “Con tôi mới được lên thiếu úy
rồi”, Hoặc nói: “Nó bàng quang lắm” thay vì phải nói “Nó bàng quan lắm”…
Nói đến chuẩn ngữ pháp hay chuẩn phong cách cũng còn vô
vàn những ví dụ sinh động khác.
Có thể nói hiện tượng lệch chuẩn là hiện tượng làm vẩn
đục ngôn ngữ và là hiện tượng rất cần được khắc phục, Tuy nhiên, hiện tượng
lệch chuẩn cũng rất đa dạng và có nhiều nguyên nhân khác nhau. Có những hiện
tượng lệch chuẩn là do thói quen phát âm của tiếng địa phương, biệt ngữ hay thổ
ngữ. Có những cách phát âm phổ biến trong một vùng phương ngữ rộng lớn như
tiếng Nghệ Tĩnh chẳng hạn, có thể vẫn được coi là những nét bản sắc miền vùng.
Nó có thể được sử dụng rộng rãi trong các hoạt động giao tiếp khẩu ngữ, thậm
chí được dùng trên đài phát thanh truyền hình địa phương nhưng không được dùng
làm ngôn ngữ chuẩn trên phương tiện truyền thông quốc gia. Những hiện tượng
lệch chuẩn do cá nhân hay một nhóm người tự đặt ra (gọi là tiếng lóng) vẫn có
thể được dùng giao tiếp trong phạm vi hẹp và được dùng trong sáng tác văn học
với ý nghĩa là một phong cách chức năng, nhưng nó không bao được coi là chuẩn
trong giao tiếp chính thức. Điều này không hề hạn chế đến khả năng sáng tạo của
cá nhân hay nhóm người trong quá trình sáng tạo. Vì rằng, chuẩn không phải là
cái bất biến, không biến đổi. Trái lại, chuẩn là cái mang tính thời đại và có
tính khả biến cao. Nhưng chuẩn chỉ chấp nhận những gì là thực sự sáng tạo, hợp
qui luật và phù hợp với tâm thức của người bản ngữ và được cộng đồng ghi nhận.
Cách dùng ngôn ngữ của Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
nhiều trường hợp chính là sự sáng tạo để tạo ra chuẩn mới cho tiếng Việt.
Từ trước đến nay, có nhiều bài viết bàn về tiếng Việt, về
từ vay mượn tiếng nước ngoài (nhất là tiếng Hán), về chuẩn đã làm cho ngôn ngữ
của ta rối rắm thêm vì: một là họ không hiểu rõ bản chất của ngôn ngữ cũng như
qui luật vận hành, tiếp xúc của ngôn ngữ; hai là, có không ít người có
nhầm lẫn tai hại là đồng nhất ngôn ngữ với văn tự, hoặc đồng nhất ngôn ngữ với
cách phát âm. Những sự nhầm lẫn này dẫn đến nhiều suy lý sai và hiểu không đúng
về bản chất cũng như tính năng động của tiếng Việt./.”
------------------------------
(*)
Xem thêm, Hữu Đạt “Phong cách học tiếng Việt hiện đại”, Nhà xuất bản Giáo Dục,
2009
Nhà giáo NGUYỄN BÀNG
(Sài Gòn: 18.04.2015)
(Tác gia, nhà giáo Nguyễn Bàng) |
Kính hai
bác Vy Le và Hai Vu.
Thật cảm
kích khi bác Vy Le liên tiếp chuyển cho rất nhiều trang để cùng đọc. Có những
trang bác đọc trước, có những trang chuyển tiếp từ người khác gửi cho bác,
nhiều nhất là từ bác Khôi Nguyễn.
1/. Trừ mấy bài có thể dễ tìm thấy trên các trang Kiến thức, Việt báo, Báo
mới…còn có bài của ông Lai Quang Nam và ông Nguyễn Quốc Trụ, hai cây
bút hải ngoại xuất hiện trên net đã khá lâu. Ông Lại Quảng Nam có rất nhiều bài
đăng tải trên Việt Văn mới NewVietart do Từ Vũ sáng lập ngày 18/8/2004 tại
Pháp. Ông Nguyễn Quốc Trụ, chủ biên tờ Tin Văn với sự
cộng tác của Nguyễn Tiến Văn, Jennifer Trần.
Ông Lại
Quảng Nam thì không có điều tiếng gì nhưng ông Nguyễn Quốc Trụ thì bị một số tờ
như Tiền vệ, Gió O cho là có những lời mạ lị, vu khoát người khác vô căn cớ.
Đặc biệt Nguyễn Quốc Trụ bày tỏ thái độ ghét trang mạng văn học Talawas do Phạm Thị Hoài chủ trương
với năm tôn
chỉ hoạt động: Thứ nhất, vì lợi ích chung; Thứ hai, đa nguyên đa chiều không áp
đặt; Thứ ba, hoạt động độc lập không phe nhóm; Thứ tư, đối thoại trung thực,
thẳng thắn nhưng ôn hoà và thứ năm là chú trọng chất lượng. Có lẽ
bởi những mục tiêu to tát và ít nhiều nhạy cảm đối với Hà Nội như vậy nên từ
cuối tháng 5 năm 2004, chính quyền Việt Nam đã kiểm soát trang web này và thiết
lập tường lửa để ngăn chặn sự truy cập từ trong nước. Talawas được
rất nhiều người yêu thích, hàng ngày có cả ngàn độc giả trong suốt 9
năm hoạt động, vậy mà Ông Trụ miệt thị những người viết và người đọc Talawas
là “đám Yankee mũi tẹt” trong nước từng “xẻ dọc Trường Sơn, chỉ để ăn
cướp miền Nam”, nay không “nói được một lời ân hận về cái chuyện ăn cướp miền
Nam”. Ông còn gọi Talawwas là diễn đàn tà ma ác quỷ… Tư cách đó của ông Nguyễn Quốc Trụ đã khiến một nhà thơ
hải ngoại, ông Nguyễn Tôn Hiệt phải lên tiếng liền trong hai bài: 2
bài: "Khi một con người không còn biết tự trọng" và "Bất cần nhân cách, thì không còn gì để nói" .
2/. Hôm
nay, bác Vy Le lại gửi cho bài Một quan niệm rất sai về tiếng Việt của Hữu Đạt phê phán Phạm Thuận Thành và mong
có lời bàn. Thật khó nghĩ quá. Không bàn thì phụ lòng bác mà bàn thì đâu có am
tường cho lắm về tiếng Việt, lại là chuẩn tiếng Việt nữa!
Hai ông
Hữu Đạt và Phạm Thuận Thành đều là người có danh có giá. Ông Thuận
Thành, nguyên là Sĩ quan quân đội, Cán bộ giảng dạy môn Chính Trị ở Trường
Sĩ Quan Lục Quân 1, hội viên Hội Văn học - Nghệ thuật Bắc Ninh, hội viên
Hội Ngôn ngữ học Việt Nam. Ông Hữu Đạt tốt nghiệp K16 Khoa Ngữ văn trường
Đại học Tổng hợp Hà Nội sau đó ở lại trường làm cán bộ giảng dạy từ 1976 đến
nay. Đã từng là nghiên cứu sinh tại Liên Xô cũ, được phong học hàm
Phó giáo sư vào năm 2005, hiện là phó Chủ nhiệm bộ môn Việt ngữ học, Khoa Ngôn
ngữ học (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc Gia Hà Nội.)
Giờ hai
ông tranh cãi nhau về cái sự hiểu đúng sai tiếng Việt, không có trọng tài, chưa
đến hồi kết. Vây mà bác Vy Lê bảo tôi và ông Hải Vũ có lời bàn, không biết ông
Hải Vũ ra sao, còn tôi thấy như gà mắc tóc vậy. Nhưng cảm kích trước nhiệt tình
muốn chia sẻ bài đọc của ông Vy Lê với bạn bè, lại được ngày thứ Bảy không bận
việc, tôi chỉ tạm xin nêu vài ý nhỏ của riêng tôi:
Bài
viết Tiếng Việt chưa có chuẩn của Thuận Thành rất ngắn, không phải là
bài nghiên cứu mà chỉ là “Vài lời
trao đổi lại với bài viết của tác giả Nguyễn Đình Ánh, mong được mọi người bổ
khuyết thêm”, như lời mào của tác giả.
Khi bàn
thế nào là chuẩn tiếng Việt, Thuận Thành cũng rất có lý:
“Chuẩn của Hội Truyền bá quốc ngữ ư? Hay
chuẩn ở vùng thủ đô? Xin thưa, Hội Truyền bá quốc ngữ không có tính pháp lí. Mà
vùng thủ đô bây giờ không còn thuần nhất như trước nữa. Cũng có khi người ta
viện dẫn đến những quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Nhưng đây là văn bản
dưới luật và không có chế định xử lí vi phạm trong phạm vi cả nước. Nghĩa là ta
đang thiếu Luật về ngôn ngữ làm chuẩn”.
Nhưng
Hữu Đạt không thừa nhận cái lý đó. Vì vậy, mà mới vào bài viết Một
quan niệm rất sai về tiếng Việt, Hữu Đạt đã đao to búa lớn ngay với bài
viết của Thuận Thành: “Đây là một
bài viết có nhiều lập luận thiếu cơ sở khoa học, hơn nữa, về tư tưởng còn
bộc lộ một thái độ coi thường tiếng Việt, có tác động không tốt đến tầng lớp
thanh thiếu niên”. Ngay sau đó, ông ta viện dẫn đến đủ triết học Mác
Lê, lịch sử, các qui định, nghị định của các cơ quan có thẩm quyền với chức
năng đại diện cho Nhà nước về lĩnh vực mà mình quản lý, như qui định về cách
viết chính tả, cách phiên âm từ, thuật ngữ tiếng nước ngoai của Ủy ban Khoa Học
Xã Hội Việt Nam trước đây (đã có nhiều văn bản) và của Viện Hàn lâm Khoa Học Xã
Hội ngày nay, các bộ Từ điển tiếng Việt do Nhà nước đứng ra tổ chức biên soạn
và ấn hành, các tài liệu được sử dụng chính thống trong giáo dục như sách dạy
tiếng Việt hiện đã được Nhà nước ban hành (tức sách giáo khoa) để dựa vào đó
làm chuẩn cho tiếng Việt.
Hữu
Đạt cũng không quên nói rằng: “chuẩn
không phải là cái bất biến, không biến đổi. Trái lại, chuẩn là cái mang tính
thời đại và có tính khả biến cao”. Và rồi khẳng định: “Cách dùng ngôn ngữ của Nguyễn Du, Nguyễn
Trãi, của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong nhiều trường hợp chính là sự sáng tạo để
tạo ra chuẩn mới cho tiếng Việt.”
Không
xem hết những cái Hữu Đạt dựa vào để đòi hỏi chuẩn tiếng
Việt. Chỉ nhìn một cái: dựa vào các tài liệu được sử dụng chính
thống trong giáo dục. Chẳng hạn, có thể dựa vào sách dạy tiếng Việt hiện đã
được Nhà nước ban hành (tức sách giáo khoa…để xem ngay chính những người làm
giáo dục trong đó có Hữu Đạt đã chuẩn tiếng Việt ra sao trong công việc, trong
nói và viết của họ.
Ngày
20/11 năm 2014, giáo viên cả nước đã thất kinh khi đọc lá thư kinh dị của ông
bộ trưởng Bộ Giáo dục. Một bức thư không biết là ông bộ trưởng tự
biên hay thư ký biên hộ. Nhưng câu cú, văn vẻ, ngữ nghĩa, xưng hô và thông điệp
truyền tải, thậm chí ngữ pháp cơ bản,... thì không khác gì văn phong của anh
cán bộ văn hóa xã. Ông ta gọi thầy giáo, cô giáo là đồng chí mà sự thực có
đến hơn 80% không phải là đảng viên, và những người này chưa bao giờ là
"đồng chí" với ông ta cả. Bức thư từ kính gửi đến ghi chức danh chỉ
có 395 tiếng mà có đến 2 câu dài đến thất kinh: Một câu
144 tiếng với 8 từ "và", cả câu không có một thông điệp gì cả, mà chỉ
là những lời nói sáo rỗng như một con vẹt tập đánh vần văn bản. Một câu dài 116
từ, cũng không thấy một thông điệp gì truyền tải đến các thầy cô giáo, mà lại
là những lời sáo rỗng hô hào theo văn bản Nghị quyết 29/NQQ-TW…
Ấy
là chuẩn tiếng Việt của ông Giáo sư Tiến sĩ bộ trưởng Bộ Giáo dục. Còn chuẩn
tiếng Việt như sách giáo khoa ư? Khỏi nhọc công đọc tất cả các loại sách giáo
khoa, nhất là sách giáo khoa cho các lớp học cao. Xin chỉ đọc hết sách giáo
khoa Tiếng Việt lớp Một.
Trong
tập một, suốt 27 bài học vỡ lòng, tên người đều viết thường (dì na, bé hà, chị
kha, bé nga...), mãi đến bài 28 trở đi mới viết hoa tên người, liệu các cháu có
đủ nhận thức để sửa đổi hay lại theo quán tính để sau này sinh ra tính tùy
tiện?
Mà không
phải các cháu sẽ sinh ra tính tùy tiện đâu. Chính các nhà soạn sách đã đi đầu
tùy tiện. Từ bài 28 trở đi, tên các con vật cũng bắt đầu được viết hoa, nhưng
không nhất quán, có chỗ viết hoa, chỗ viết thường. Khi thì: tép, cua, hoẵng,
nai, gà mái, chim chào mào, cò..., khi thì: Tép, Sóc Bông, Gà Trống, Rùa, Thỏ,
Sư Tử..., Thậm chí có khi còn dùng dấu gạch nối tùy tiện: Chuột - Nhắt và
cũng không theo quy tắc số ít số nhiều.
Lại còn
thêm các lỗi về chính tả nữa, như: cái xoong, thùng giác…
Nhiều
vị phụ huynh học sinh xem xong sách Tiếng Việt 1 thấy choáng váng. Trong số họ,
có người là cử nhân, người là thạc sĩ chuyên ngành ngữ văn, ngôn ngữ từ những
trường đại học tên tuổi nhưng lại không dạy được con mình về đọc - viết lớp
1? Vì nó là một chương trình quá lạ, quá khó như hiện nay.
Trước
khi bàn về ngôn ngữ mạng của giới trẻ ngày nay, Thuận Thành đã rào trước bằng
câu: “Trước hết ta hãy chia tiếng Việt làm hai bộ phận: tiếng Việt
bác học và tiếng Việt bình dân”. Theo Thuận Thành thì, ngôn ngữ mạng của giới
trẻ ngày nay nằm trong hệ tiếng Việt bình dân, là tiếng nói giao tiếp hàng ngày
của nhân dân. Và: “Một bộ phận dân
chúng nói với nhau mà vẫn hiểu thì người ta sẽ tạo ra từ mới, nếu được đa số
dân chúng sử dụng thì từ mới đó sẽ thành thuần Việt, bất chấp mọi thứ chuẩn nào
đó, kể cả khi đã có luật. Trong ngôn ngữ giao tiếp thì nguyên tắc rút gọn luôn
luôn được mọi người ưu tiên”.
Hữu
Đạt không chỉ bỏ qua ý kiến đó mà đốp ngay vào mặt Thuận
Thành: “những tri thức tối thiểu về
ngôn ngữ học tác giả lại tỏ ra không hiểu gì”. Và lớn tiếng phê
phán: “Có lẽ vì thiếu những hiểu
biết này mà tác giả bài viết trên đã nhầm lẫn coi những hiện tượng tùy tiện về
sử dụng ngôn ngữ là các hiện tượng cách tân và cổ súy cho nó. Nhận định này có
tác dụng rất tai hại đối với việc giáo dục tiếng mẹ đẻ cho tầng lớp thanh thiếu
niên hiện nay”.
Sự thực
không chỉ ở Việt Nam mới có tiếng nói giao tiếp của cư dân trẻ trên mạng mà ở
mọi nước trên thế giới đều có. Ở Trung
Quốc, không chỉ thanh thiếu niên dùng từ lóng của dân mạng mà
rất nhiều người lớn tuổi cũng dùng để tránh sự kiểm duyệt của nhà nước. Họ
không chỉ dùng ngôn ngữ chat mà còn dùng những biểu tượng cảm xúc, được
biết dưới tên gọi emoji (ký hiệu hình ảnh) hay emoticon (biểu tượng cảm xúc),
xuất phát từ Nhật Bản nhưng giờ đã lan rộng ra toàn thế giới, bởi sự tiện lợi
của nó. Họ coi “mặt cười”, “trái tim”... như một công cụ giao tiếp để thể
hiện cảm xúc của người sử dụng, làm cho cuộc trò chuyện trở nên sinh động, vui
vẻ hơn, đồng thời cũng tránh sự hiểu lầm và tiết kiệm thời gian đánh chữ.
Các
nước Âu Mỹ, hay Anh và Nga có cái nhìn khoan dung hơn Việt Nam và Trung Quốc về
ngôn ngữ chát. Từ điển Oxford danh tiếng đã đưa vào lòng nó ngôn ngữ
chat. Thủ tướng Nga Medvedev nói: ngôn ngữ chat nên được đối xử một cách bình
thường và chân thành.
Hữu
Đạt thừa nhận, chuẩn không phải là bất biến. Nhưng xem ra trong mắt
ông ta, phi Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh thì không còn mấy ai sáng tạo
ra chuẩn mới cho tiếng Việt!
Nhưng
chính ông Hồ Chí Minh đã từng cách tân tiếng Việt khi viết: Đường kách
mệnh, nhân dzân, dzân chủ, bộ đội gái,…
Và biết
bao người đã tụng ca sự cách tân đó của ông Hồ, trong đó chắc có Hữu
Đạt!
Đã nói
chuẩn nhưng không phải là bất biến thì phải hiểu rằng, có cái mới sẽ được chấp
nhận, có cái sẽ tự đào thải.
Một ví
dụ: Chữ 'k' có nghĩa là 1000. Theo đó: 10k = 10.000. 100k = 100.000.
Chữ 'k'
xuất phát từ ngôn ngữ teen sau trở thành ngôn ngữ quảng cáo. Đây là 1 dạng ngôn
ngữ không chính thức, nhưng phạm vi sử dụng của nó thì rất rộng rãi, không chỉ
ở Việt Nam mà trên thế giới người ta dùng ký hiệu "k" rất nhiều. Trên
mặt báo tiếng Anh, hay là các quảng cáo giới thiệu việc làm, người ta cũng hay
sử dụng ký hiệu này khi cần viết gọn, thí dụ như là "8k salary" nghĩa
là luơng tháng $8000.
Tôi rất
tán thành ý kiến của một giáo sư đại học ở Manila: “Việc các sinh viên chat bằng “jejemon” hay
nói tiếng lóng với nhau là quyền của họ, miễn là nó đừng ảnh hưởng đến nếp sống
văn hoá và chỉ dùng trong bối cảnh riêng. Nó không được sử dụng trong nhà
trường và trong các bài thi”.
Nghĩa
là, rất cần chuẩn hóa tiếng Việt. Nhưng chỉ cần chuẩn hóa trong giấy tờ
văn bản, sách báo, bài thi… chứ trong ngôn ngữ giao tiếp thì tùy nhóm người họ
có tiếng nói riêng của nhóm họ. Trẻ có ngôn ngữ trẻ, già có ngôn ngữ già, như
ca dao nói:
Xềnh xoàng đánh bạn xềnh xoàng
Trẻ vui bạn trẻ, già choang bạn già.
Thà chấp
nhận cách nói vui của các cháu teen hay cách nói
choang của các bạn già còn hơn cách nói văng mạng của các
quan chức phát ngôn ‘thay mặt’ đất nước, chính
quyền khiến người dân phải choáng váng thất kinh. Họ không chỉ nói
lệch chuẩn tiếng Việt mà còn dẫm đạp lên cái khó, cái khổ của người dân,
khiến người dân không chỉ không hiểu mà còn mất lòng tin
vào họ vào chế độ.
Thế là
xong một buổi sáng thứ Bẩy !
Chúc hai
bác Vy Le và Hai Vu ngày cuối tuần vui vẻ hạnh phúc. Mong nhận được nhiều bài
chia sẻ của hai bác và các ý kiến phản hồi của hai bác về các bài đó!
Ông LÊ VY
(Sài Gòn: 18.04.2018)
Hết sức
cảm kích và hết sức hoan nghênh bác Nguyễn Bàng. Không những rộng kiến
văn mà còn hết sức nhiệt tình, bác Bàng đã giúp tôi được sớm thỏa mãn điều
mong mỏi nhận được những lời bình giá trị. Chắc bác Vũ Lai Hải cũng đồng ý với
tôi phần nào.
Ông VŨ LAI HẢI
(Sài Gòn: 18.04.2018)
(Ông Vũ Lai Hải, cán bộ hưu trí) |
Vì chưa
đi sâu vào vấn đề chuẩn mực của tiếng Việt nên tôi không dám bình luận... Đọc
bài viết của bác Bàng Nguyễn tuy ngắn, nhưng với sự thận trọng liên kết nhiều
cứ liệu, bác đã chuyển tải một thông điệp "Thà chấp nhận cách nói vui của các cháu teen hay cách nói choang của
các bạn già còn hơn cách nói văng mạng của các quan chức phát
ngôn ‘thay mặt’ đất nước, chính quyền khiến người dân phải
choáng váng thất kinh...". Tôi đồng ý! Gần đây qua các phương
tiện thông tin đại chúng, ta đã thấy loạn từ điển dởm, truyện cổ tích dởm và cả
sách giáo khoa "dởm" khiến chúng ta phiền lòng. Vậy nên các nhà
" tu thư", các nhà xuất bản hãy có trách nhiệm hơn với công việc của
mình...chắc sẽ góp phần không nhỏ vào việc làm trong sáng và chuẩn mực tiếng
Việt! Cám ơn hai bác, chúc ngày cuối tuần an vui..!
Ông LÊ VY
(Sài Gòn: 18.04.2018)
Thưa hai
Tiên sinh,
Về vấn
đề chuẩn tiếng Việt, tôi không thể không hoan nghênh và đồng ý với hai Tiên
sinh. Với tôi, đúng là chúng ta có chuẩn tiếng Việt: đó là cách viết, cách nói
của những người viết và nói ... chuẩn, đó là cách viết, cách chấm câu trên một
vài tạp chí, một vài tờ báo trong những khoảng thời gian ... theo đúng chuẩn.
Trong gần ba chục năm làm biên tập và duyệt tin bài, những khi cần tham khảo
chuẩn, tôi đã theo chuẩn của báo NHÂN DÂN và Tạp chí CỘNG SẢN. Và tôi cũng chấp
nhận tiếng lóng, phương ngữ, ngôn ngữ 'chat' tuy đó không phải là chuẩn. Tôi
cũng không chấp nhận cách phát âm ngọng, cách viết "vô ngữ pháp" của
những người không được học ngữ pháp một cách căn bản kể cả những người có cương
vị và chức vụ cao.. Tôi cũng tiếc là ở ta thời gian qua ngữ pháp đã quá bị coi
nhẹ, không được dạy và học một cách hệ thống, chặt chẽ và nghiêm túc, đầy đủ
như trong chương trình và cách dạy, cách học ở hệ thống trường Pháp từ tiểu học
đến trung học trước đây ở nước ta. Tôi nghĩ như vậy, có gì cần chỉ giáo thêm,
nhờ hai quí Tiên sinh tham góp.
Vấn đề
hôm nay là như thế này:
(Ông Lê
Vy gửi kèm bài viết)
“CÓ THẬT
CHÚNG TA ĐANG ĐỌC?
Chúng ta đang đọc mọi lúc mọi nơi đó chứ. Lúc nào chúng
ta cũng đang đọc cái gì đó nhưng thật ra... chẳng đọc gì cả!
Một nghiên cứu về tác động của marketing lên con người
hiện đại nói đại ý rằng mỗi ngày, một người sống ở thành phố có thể đã tiếp
nhận thụ động hàng chục ngàn slogan và thông tin từ các sản phẩm qua truyền
hình và các phương tiện quảng cáo nơi công cộng. Với người Việt Nam, có lẽ việc
“đọc thụ động” còn nhiều hơn thế, bởi ngày nay bước ra đường hay mở tivi lên, chúng
ta đâu chỉ bị bủa vây bởi các bảng quảng cáo mà còn bị nhấn chìm trước trùng
vây của những khẩu hiệu, băng-rôn khác, trong số đó chẳng phải khẩu hiệu nào
được giương lên cũng tốt cho khả năng nhận thức lẫn phương diện sinh học của
não bộ con người.
Cộng thêm vào đó là mạng xã hội, tin nhắn, là lướt web
đọc tin, đọc báo cáo ở công sở, đọc tổng kết ở cơ quan... đủ thứ đọc trên đời.
Lúc nào mắt ta cũng phải căng ra để đọc một thứ gì đó. Đọc mọi nơi mọi lúc. Đọc
trước lúc ngủ, đọc khi mới thức dậy, đọc ở bàn ăn, đọc khi uống cà phê, đọc
tranh thủ lúc chờ thanh toán tiền ở quầy thu ngân, đọc trên xe, đọc ở công
viên, đọc cả trong khi... đi toilet, lúc nào trước mắt và trong đầu óc chúng ta
cũng đầy chữ là chữ. Não chúng ta có vẻ như lúc nào cũng đang vận động hết công
suất để thu nạp chữ nghĩa nhập nhằng trên màn hình, trên giấy, trên đơn từ,
công văn, trên mạng xã hội, trên hóa đơn điện, nước, nhà hàng. Chúng ta chăm
chỉ đọc và nghiện đọc. Bạn có thấy không, chúng ta không thể nào chấp nhận được
tình trạng nhàn rỗi cho đôi mắt, dù chỉ vài phút. Thay vì ngồi ngắm một bông
hoa ngậm sương buổi sáng, chúng ta tranh thủ chụp hình và ghi status; thay vì
ngồi uống ly cà phê ven đường và nghĩ ngợi về một điều gì đó, chúng ta tranh
thủ lên mạng đọc, viết comment; thay vì tập trung thưởng thức một món ngon trên
bàn và trò chuyện với những người thân trong gia đình, chúng ta mỗi người cầm
một điện thoại thông minh hay máy tính bảng, đọc và đọc.
Đọc như thể ngừng đọc là lập tức lăn ra chết.
Chúng ta làm đầy đời sống của mình bằng chữ. Cho đến một
ngày, có ai đó nói rằng ở cái nơi mà chúng ta đang sống, những cuốn sách bị bỏ
rơi; rằng, ở nơi chúng ta đang sống, mỗi năm mỗi người chỉ đọc hết 0,8 quyển
sách. Ồ, con số đó là một sự xúc phạm. Và vì thế, bạn và tôi sẽ phản ứng kịch
liệt. Chúng ta phải nói cho những kẻ đã đẻ ra con số ấy biết rằng các vị nói
sai rồi, số liệu không phản ánh được một thực tế là hằng ngày chúng tôi, những
người Việt, vẫn đọc, đọc không ngừng nghỉ, đọc cật lực, đọc liên tục, đọc mọi
nơi mọi lúc đây này. Và chúng ta biện hộ rằng đọc thì đâu nhất thiết phải đọc
sách.
Nhưng rồi, khi cơn tự ái đi qua, khi con số 0,8 cuốn
sách/năm/mỗi người Việt trở về với vẻ trung tính của nó, chúng ta sẽ tự hỏi cái
sự đọc nhiều của chúng ta có thực sự là đọc khi chúng ta rời xa những văn bản
kích hoạt năng lực tri thức để tiếp nhận những loại văn bản đáp ứng nhu cầu
thông tin đóng gói dễ dãi nhất thời, khi chúng ta rời bỏ niềm say mê khám phá
và mở rộng tư duy qua những trang sách thử thách để chấp nhận những chữ nghĩa
thông báo mà bản thân chúng không cần người tiếp nhận phải nghĩ ngợi gì thêm,
khi chúng ta chối từ sự phiêu lưu theo đuổi và truy cầu sự mới lạ của tri thức
trên những văn bản phức tạp để hồ hởi chào đón những xác chữ vật vờ không cần
đến khả năng phê phán hay tưởng tượng ở người tiếp nhận?
Một nhà hiền triết đã nói rằng chúng ta đừng mơ từ bỏ
những cuốn sách giấy, chỉ vì cuốn sách cũng như cái muỗng hay bánh xe, nó được
phát minh ra, về mặt vật chất là căn bản hoàn thiện để thực hiện cái công năng
truyền tải tri thức cho con người. Sách như một dạng phát minh bánh xe tri thức
và trí tưởng tượng của con người.
Cách mà một người chìm đắm trong thế giới một cuốn sách
đầy thử thách với bản thân anh ta rất khác với cái cách đọc hàng ngàn chữ nghĩa
thông tin trên các bảng quảng cáo hay theo dõi những dòng status rời rạc, phân
mảnh trên các trang mạng xã hội. Cảm giác về một cuốn sách, trước hết là bảo
chứng khả tín về một chiều sâu nhận thức và nó đòi hỏi một sự gắn bó sâu sắc
hơn về mặt thời gian cũng như trí tưởng. Một cuốn sách đòi hỏi độ dấn thân của
người đọc tương tự như một ngọn núi hiểm trở đòi hỏi bản lĩnh và sự nhập cuộc
của người chinh phục. Và cũng như nhà leo núi, người đọc sách hân hoan thấy
mình khác đi, mới mẻ hơn sau một hành trình với mỗi cuốn sách. Đó chính là cảm
giác kỳ thú về một hành trình mở rộng biên giới của hiểu biết, khám phá vẻ đẹp
ngữ nghĩa và bao trùm là khát vọng được hiểu về ngoại giới và nội tâm.
Điều đó hoàn toàn khác với cái cách mà chúng ta tiếp nhận
những câu chữ, ý tưởng rời rạc trên mạng xã hội, trên các biển quảng cáo hay
những băng-rôn tuyên truyền sặc sỡ trên đường. Đọc để chủ động sống sẽ rất khác
với việc đọc để bị tác động. Đó là chưa nói, chính thói quen đọc tản mát hời
hợt kia sẽ lấy đi của chúng ta niềm đam mê chinh phục những cuốn sách và nỗ lực
khám phá những giá trị tinh thần tinh tế và ngầm ẩn bên trong đời sống.
Đã đến khi cần phải nhìn lại sự đọc. Cần đặt lại câu hỏi:
Chúng ta tiếp nhận nhiều chữ hằng ngày nhưng có thật sự chúng ta đang đọc?
Sài Gòn, nhân Ngày sách Việt Nam (21-4), Ngày sách và Bản quyền
thế giới (23-4)
Theo thống kê của các thư viện gửi về Bộ Văn hóa - Thể
thao và Du lịch vào năm 2013, mỗi năm trung bình 1 người Việt đọc không hết 1
cuốn sách (0,8 cuốn), tỉ lệ sách bình quân đầu người tại các thư viện công cộng
là 0,38.
Nguyễn Vĩnh Nguyên”
Ông VŨ LAI HẢI
(Sài Gòn: 18.04.2018)
Kính hai
bác Lê Vy và Bàng Nguyễn..!
Sau khi
đưa ra những ý kiến về chuẩn mực của tiếng Việt, bác Vy lại nêu một vấn đề mới
qua bài viết “Có thật chúng ta đang đọc…?” nhân ngày “Sách Việt Nam” 21-4. Đây
là một vấn đề rất đáng quan tâm. Với sự hiểu biết có hạn, tôi không dám luận
bàn nhiều chỉ xin được nêu vài ý kiến nhỏ…
Trong
bài viết, tuy tác giả nêu câu hỏi để rộng đường tranh luận. Nhưng thật ra tác
giả đã chủ động nêu rõ ý kiến của mình. Ngay phần đầu tác giả đã viết: “Với người Việt Nam, có lẽ việc “đọc thụ
động” còn nhiều hơn thế, bởi ngày nay bước ra đường hay mở tivi lên, chúng ta
đâu chỉ bị bủa vây bởi các bảng quảng cáo mà còn bị nhấn chìm trước trùng vây
của những khẩu hiệu, băng-rôn khác, trong số đó chẳng phải khẩu hiệu nào được
giương lên cũng tốt cho khả năng nhận thức lẫn phương diện sinh học của não bộ
con người…”, để rồi sau một loạt viện dẫn chính tác giả đã kết luận: “Đọc để
chủ động sống sẽ rất khác với việc đọc để bị tác động. Đó là chưa nói, chính
thói quen đọc tản mát hời hợt kia sẽ lấy đi của chúng ta niềm đam mê chinh phục
những cuốn sách và nỗ lực khám phá những giá trị tinh thần tinh tế và ngầm ẩn
bên trong đời sống.Đã đến lúc cần phải nhìn lại sự đọc. Cần đặt lại
câu hỏi: Chúng ta tiếp nhận nhiều chữ hằng ngày nhưng có thật sự chúng ta đang
đọc?”
Văn hóa
đọc đang đứng trước nguy cơ bị mai một bởi sự lấn át của các phương tiện nghe
nhìn quá nhiều, quá hấp dẫn. Khác với vài chục năm về trước, thị trường sách
hiện nay vô cùng phong phú về nội dung cũng như hình thức. Giới trẻ ngày nay
lười đọc hay họ không biết chọn sách? Có một thời gian những cuốn sách như “Mãi
mãi tuổi 20”, “Nhật kí Đặng Thùy Trâm” làm mưa, làm
gió trên thị trường sách…Rất có thể họ không thích, không hiểu nhưng vẫn chạy
đi mua những cuốn sách mà mọi người đang đọc để chứng tỏ mình không phải là
người lạc hậu. Rồi có những cuốn “sách đen” vẫn được giới trẻ truyền tay nhau
đọc hăng say. Một thực trạng đáng báo động, đó là việc các bạn trẻ đang phụ
thuộc quá nhiều vào các loại hình truyền thông. Họ sử dụng rất sành điệu ipad,
máy tính bảng, smatphone…Phải thừa nhận các công cụ này rất thuận tiện trong
việc mang theo và có rất nhiều tiện ích, lại rất hợp mốt. Bởi vậy ta cũng không
thể “lên án” họ! Chỉ có điều khuyên họ nên dành thêm thời gian cho việc đọc
sách. Vì sách là nguồn tri thức, là kết tinh tất cả những học thuyết có
giá trị nhất, sách ghi lại toàn bộ lịch sử loài người. Sách là người thầy, là
di huấn của người đời trước để lại cho người đời sau. Sách không chỉ ghi lại
quá khứ, phản ánh hiện tại mà còn là cương lĩnh của tương lai. Nhờ có sách mà
con người đã tiếp thu được tất cả tri thức của nhân loại được tích luỹ trong
suốt quá trình lịch sử lâu dài.
Cùng một
thông tin tiếp nhận, nhưng mắt đọc và mắt nhìn có sự khác nhau. Bởi lẽ, mắt đọc
buộc trí tưởng tượng và khả năng tập trung cao hơn, còn với mắt nhìn thì
chỉ lướt qua nên những ấn tượng được lưu lại không nhiều. Đọc sách là một
sự liên hệ qua lại giữa người đọc và tác giả, người ta thường nói: “Đọc những cuốn
sách hay khác nào đàm đạo với những bậc hiền nhân quân tử”, giúp chúng
ta suy ngẫm những ý tưởng cao siêu, những chân lý vĩ đại. Suy ngẫm trong quá
trình đọc sách sẽ bồi dưỡng trí nhớ và tư duy, mở mang kiến thức và hình thành
thế giới quan cho người đọc.
Chúng ta
phải thừa nhận, bấy lâu nay nhà trưỡng cũng như các tổ chức xã hội và gia đình
chưa thật sự quan tâm đến việc hướng dẫn cặn kẽ việc lựa chọn sách, cách đọc
sách và hình thành thói quen thích đọc sách. Nhớ lại thời thiếu niên, bọn trẻ
chúng ta nhiều khi dành tiền ăn quà để mua sách…Còn đâu tình cảnh cắt nhật
trình những truyện dài kỳ, rồi đóng lại thành tập để đọc, có khi chui vào gầm
phản để đọc truyện…Đó là cái “thú” của một
thời!
Theo
tôi, hiện nay chúng ta còn nặng về hình thức. Rất nhiều phong trào, nhưng chỉ
là “tháng…” là “năm…” sau đó lại bỏ bẵng đi. Thành phố đã khai trương “Đường
Sách” ở khu vực bên cạnh Bưu điện. Nhưng không rõ có lâu dài không? Biết đến
khi nào ta sẽ phục hồi các nhà bán sách cũ… Do vậy, đối với thế hệ trẻ
hiện nay, cần phải giáo dục cho họ lòng đam mê đọc sách, rèn luyện kỹ năng đọc
sách và đọc sách một cách có chọn lọc. Một cuốn sách hay tràn đầy nhiệt tình sẽ
nhen nhóm và đốt nóng lòng nhiệt tình cho lớp trẻ, giúp họ trưởng thành và tự
hoàn thiện mình một cách tự nhiên.
Sáng thứ
hai, dành một ít phút chia sẻ với bạn bè về những vấn đè bức xúc trong đời sống
xã hội…Âu cũng là một niềm vui! Xin gửi kèm theo một bài viết về Văn hóa đọc
của người Nhật
Xin gửi
tới hai bác lời chào sáng đầu tuần. Chúc hai bác luôn khỏe, gia đình an
vui..!
“NHẬT
BẢN - “VƯƠNG QUỐC”
CỦA
NHỮNG NGƯỜI YÊU SÁCH
Cách đây không lâu, khi hẹn phỏng vấn một chuyên gia bình
luận thời sự người Nhật Bản, tôi cảm thấy băn khoăn vì không biết nên chuẩn bị
món quà gì thật ý nghĩa để tặng ông nhân lần đầu gặp gỡ. Người Nhật vốn rất kỹ
tính và cầu kỳ trong giao tiếp, nên tôi lo ngại món quà của mình nếu không vừa
ý có thể sẽ ảnh hưởng đến chất lượng của buổi phỏng vấn.
Đang trong lúc rối trí thì một người bạn đang học tập và
làm việc ở Nhật Bản nhiều năm đã gợi ý cho tôi là nên tặng ông ấy một cuốn
sách. Tôi đã làm theo lời khuyên của bạn. Quả thật, cuộc phỏng vấn đã thành
công ngoài ý muốn. Sau này, khi hỏi lý do vì sao bạn tôi khuyên như vậy, cô ấy
nói rằng người Nhật yêu mến tri thức và những giá trị tinh thần nên đối với họ,
những món quà dù có đắt tiền đến đâu cũng không thể sánh được với một cuốn sách
hay.
Bề dày về văn hóa đọc
Nhật Bản là đất nước có chặng đường lịch sử dài với nhiều
cuộc chuyển mình thần kỳ. Công cuộc “văn minh khai hóa”, “thoát Á - nhập Âu”
dưới thời đại Minh Trị Duy Tân (1868) đã đưa nước Nhật từ một quốc gia phong
kiến đứng trước họa xâm lăng của thực dân, đế quốc ngoại bang trở thành cường
quốc có trình độ phát triển về khoa học kỹ thuật và kinh tế sánh ngang với
phương Tây.
Tuy là quốc gia bại trận trong Chiến tranh Thế giới thứ
hai, nhưng Nhật Bản đã đứng dậy trên đống tro tàn và một lần nữa dân tộc này
lại lập nên kỳ tích trong giai đoạn phát triển thần kỳ (1960 - 1973) mà đỉnh
cao là kỳ Thế vận hội mùa hè năm 1964. Động lực cho sự hồi sinh đến kinh ngạc
của Nhật Bản không gì khác hơn là đội ngũ trí thức hùng hậu mà đất nước này đã
có được từ nhiều thế kỷ theo học phương Tây. Có thể nói, thái độ cầu thị, khiêm
nhường và tinh thần ham học hỏi vốn có của người Nhật đã mang lại cho họ một
phương tiện vô cùng hiệu quả để tái thiết và dựng xây đất nước - đó là tri
thức.
Điều khiến tôi khâm phục hơn cả là văn hóa đọc đã tồn tại
ở Nhật Bản từ rất lâu. Ngay từ thế kỷ 17, số lượng người biết đọc biết viết ở
Nhật Bản đã ở mức cao so với các quốc gia khác đương thời. Trong giai đoạn
Genroku (1688 - 1704), được coi là thời kỳ phát triển cực thịnh của mạc phủ
Tokugawa (1600 - 1868), Nhật Bản đã có một hệ thống xuất bản sách hiện đại với
sự xuất hiện của nhiều nhà xuất bản lớn và các nhà văn tên tuổi. Lượng xuất bản
trung bình là hơn 10.000 bản, một con số thực sự ấn tượng ở thời kỳ này. Trong
giai đoạn này, do nhu cầu đọc sách tăng mạnh trong khi lượng phát hành không
đủ, phong trào “thuê sách đọc” trở nên thịnh hành ở các thành phố lớn của Nhật
Bản.
Sau giờ làm việc, nhiều người thường rẽ vào các hiệu sách
để “đọc ké” hoặc tìm mua một cuốn sách ưng ý.
Cuối thế kỷ 18, các cửa hàng cho thuê sách xuất hiện khắp
nơi ở Edo (Tokyo ngày nay). Dân số của Edo khoảng hơn 1 triệu nhưng có tới 70%
người dân biết chữ và số lượng các cửa hiệu cho thuê sách tăng khá nhanh, từ
650 cửa hiệu năm 1808 lên con số 800 năm 1832. Bước vào thời kỳ Minh Trị, sách
đã trở thành phương tiện quan trọng để truyền bá tri thức Tây học và duy tân
tới tất cả người dân, góp phần làm gia tăng đội ngũ trí thức vốn đã chiếm một
số lượng đông đảo cùng một nền tảng văn hóa đọc vững chắc được hình thành từ thời
kỳ mạc phủ Tokugawa.
Ở đâu cũng có “tín
đồ” của sách
Với bề dày về văn hóa đọc như vậy, không có gì đáng ngạc
nhiên khi ở bất cứ đâu trên đất nước “Mặt trời mọc” như công viên, quán cà phê,
tàu điện, sân ga, bến đỗ xe buýt, siêu thị, cửa hàng tiện lợi (combini)... bạn
đều có thể bắt gặp những người ở mọi độ tuổi đang cầm trên tay một quyển sách
và say sưa đọc.
Trong xã hội công nghiệp hối hả như Nhật Bản, thời gian
làm việc và nghỉ ngơi được tính sát đến từng phút và khó có thể tin nổi là ai
đó có thể dành thì giờ vàng ngọc của mình để nghiền ngẫm một vấn đề, thu thập
thông tin hay hòa mình vào một cuốn tiểu thuyết nào đó qua từng trang sách. Thế
nhưng, điều tưởng chừng như phi lý ấy lại đang tồn tại hàng ngày ở Nhật Bản.
Người Nhật sẽ đọc sách vào lúc nào khi mà hầu như tất cả
thời gian trong ngày của họ bị phủ kín bởi công việc và các hoạt động sống? Câu
trả lời là họ tận dụng những khoảng thời gian trống để đọc sách. Người ta đã
tận dụng tối đa những khoảng thời gian đi lại trên các phương tiện giao thông
như trên tàu điện, trên xe buýt hay khi phải xếp hàng dài để mua một món đồ gì
đó... Chẳng có gì là lạ nếu bạn bắt gặp cảnh tượng trên một toa tàu ở Tokyo mà
các hành khách đều im lặng bởi nhiều người trong số họ đang mải đọc một cuốn
sách, một tờ báo, sử dụng smartphone hay thậm chí tranh thủ chợp mắt sau những
giờ làm việc căng thẳng.
Do phải thường xuyên đi lại trên các phương tiện giao
thông công cộng và tranh thủ thời gian trống cho thói quen đọc sách, người Nhật
đã phát minh ra những cuốn sách nhỏ gọn chỉ tương đương kích cỡ một gang bàn
tay, có thể dễ dàng bỏ vào túi xách hay túi áo. Các cuốn sách nhỏ này có cỡ chữ
vừa đủ để đọc trong khi các trang giấy được gia công mỏng tới mức một cuốn vài
trăm trang cũng có thể nằm gọn trong lòng bàn tay.
Bên cạnh sách in, người Nhật cũng tiếp cận với văn hóa
đọc qua nhiều phương tiện như smartphone, máy tính bảng, sách điện tử e-book...
Thay vì mang một quyển sách vướng víu, người đọc chỉ cần cài đặt một ứng dụng
đọc sách trên điện thoại hoặc sắm sách điện tử là có thể tìm đọc bất kỳ cuốn
nào trong kho sách số hóa hàng nghìn, thậm chí hàng triệu cuốn.
Tuy nhiên, dù công nghệ có phát triển đến đâu, sách in ở
Nhật Bản vẫn có một chỗ đứng nhất định trên thị trường. Những cuốn sách mới
đương nhiên là thu hút nhiều bạn đọc nhưng sách cũ lại càng được trân trọng
hơn. Đó là lý do mà khu phố Kanda Jimbocho gần ngôi đền Yasukuni được biết đến
như là “Thủ đô sách” của Nhật Bản. Với diện tích chỉ nửa cây số vuông, Kanda
Jimbocho là nơi tụ hội của 160 tiệm sách và có tới hơn 10 triệu đầu sách. Đây
là chợ sách lớn nhất thế giới xét về mật độ tập trung của các hiệu sách, số đầu
sách và nội dung của sách. Nhiều người đã đến từ khắp nơi ở Nhật Bản hy vọng
tìm thấy một quyển sách và các “tín đồ” của văn hóa đọc sẵn sàng đứng xếp hàng
vài giờ đồng hồ trước một tiệm sách chỉ để mua một cuốn sách mà họ yêu thích.
Người Nhật luôn trân trọng tri thức, nâng niu những gì
thuộc về quá khứ và những cuốn sách cũ dù đã sờn gáy vẫn luôn được xếp trang
trọng và ngay ngắn trên giá tại những tiệm sách như ở khu Kanda Jimbocho. Và
quả thật chẳng ngoa khi gọi Nhật Bản là “vương quốc” của những người yêu mến
văn hóa đọc.
Hữu Thắng (P/v TTXVN tại Nhật Bản)”
Nhà giáo NGUYỄN BÀNG
(Sài Gòn: 24.04.2015)
Vậy là
bác Lê Vy vẫn chưa chịu tha chúng tôi ra khỏi cái vòng tiếng Việt và bác đã
cuốn được bác Hải vào sâu thêm. Nhưng cũng phải qua gần 3 ngày đầu tuần, tôi
mới hầu chuyện hai bác được.
1./ Chúng ta có chuẩn tiếng Việt. Bác Lê Vy nói đúng: Và, thưa bác,
đây là định nghĩa về nó của Từ điển Bách khoa mở:
“Ngôn ngữ chuẩn (hay tiếng
chuẩn, phương ngữ chuẩn, phương ngữ đã được chuẩn hóa) là một loại
ngôn ngữ được sử dụng bởi một nhóm người trong các thảo luận nghiêm túc và
chính thức chung của họ.Ngoài ra, ngôn ngữ còn trở thành chuẩn qua quá
trình chuẩn hóa,
trong đó nó được miêu tả trong ngữ pháp, từ điển, và được mã hóa trong các công
trình tham khảo tương tự như vậy. Nói chung, ngôn ngữ trở thành ngôn ngữ chuẩn
là thổ ngữ địa phương
được nói ở trung tâm thương mại và chính quyền, nơi nhu cầu loại ngôn ngữ được
mở rộng vượt ra khỏi tầm địa phương.”
Vì vậy,
nếu bác nói: “Trong gần ba chục năm
làm biên tập và duyệt tin bài, những khi cần tham khảo chuẩn, tôi đã theo chuẩn
của báo NHÂN DÂN và Tạp chí CỘNG SẢN” thì đó
cũng chỉ là chuẩn tiếng Việt được được sử dụng bởi một nhóm người phụ
trách hai cơ quan ngôn luận đứng trên đầu mọi báo chí Việt
Nam thời Cộng Sản này mà thôi.
Một ví
dụ điển hình cho cái chuẩn này là từ Trung Ương được viết tắt là
TW chứ không phải TƯ.
Điều này
được giải thích là do trước đây, hầu hết các máy đánh chữ dùng ở Việt Nam đều
không có chữ "Ư", nên để cho tiện, các văn bản hành chính của nhà
nước đều dùng "TW" mặc định ngầm cho từ "Trung Ương". Và
thói quen này được duy trì đến ngày nay.
Vậy thời
nay, chúng ta đã có chữ "Ư" trên các máy "đánh chữ" và bàn
phím hiện đại rồi, vì sao không trả Trung Ương về với cách viết tắt phù hợp là
"TƯ"? Cách giải thích hợp lí nhất là, ngoài thói quen khó thay
đổi, để khỏi nhầm lẫn giữa Trung Ương với chữ "tư" (trong từ riêng
tư).
Chuẩn
này hiển nhiên không có trong tiếng Việt thời Nguyễn Trãi, Nguyễn Du và ngay cả
thời Hội truyền bá quốc ngữ do cụ Nguyễn Văn Tố làm hội trưởng.
Tiếng
nói chính là hình ảnh chân thực của con người. Vì vậy con người của thời đại
nào cũng sẽ tìm cách để có tiếng nói của mình, của nhóm mình.
Thời đầu
thuộc Pháp, các nhà dịch thuật Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi ảnh hưởng của ngôn
từ Hán Việt nên hầu như các tên riêng trong các tác phẩm Âu Tây đều được Hán
Việt hóa cho dễ nghe dễ đọc, như:
Tiểu
thuyết Ivanhoe của Derek Alton Walcott dịch
là Y-vân-hoa, Anna Karenina (tiếng Nga: Анна Каренина), tiểu thuyết của nhà văn Nga Lev Nikolayevich Tolstoy dịch
là An-na-Kha lệ-ninh, Tristan và Iseult, một chuyện tình
dân gian từ thế kỷ thứ XII tới nay đã có hàng trăm tác giả khác nhau ở khắp
Châu Âu, nhất là ở Pháp, Đức, Ý, đã đưa ra các sách thuật lại khác nhau dịch
là Tiễu Nhiên và Mỵ Cơ.
Thời
thuộc Pháp, cũng là thời của các “Ông Tây An Nam” như
tên một vở kịch của Nam Xương gần tám mươi năm trước, những ông người An
nam nhưng sau khi nhập làng Tây lại quay sang khinh bỉ dân
tộc mình, không từ cả cha mẹ, không nói tiếng Việt mà chỉ nói tiếng Pháp, bắt
người hầu phiên dịch cho người khác nghe. Với một hình tượng nhân vật
độc đáo, vở kịch đã gây tiếng vang lớn trong đời sống văn học nghệ
thuật Việt Nam đầu thế kỷ XX. Từ đó tới nay, cụm từ "ông tây An Nam" đã trở thành một
điển tích mới trong văn học hiện đại, có đời sống riêng trong tâm thức người
Việt, mà nhắc tới nó, thì ai cũng hiểu đó là cụm từ chỉ một kẻ "Tây
hoá" đến mức mất hết "gốc Việt”.
Một hạng người Việt khác là các cậu công tử bột
trong các bộ âu phục thời thượng, các ông bếp, các chị con sen thằng ở cho nhà
Tây, các cậu bồi, các mẹ me Tây, chữ quốc ngữ có khi mù đặc nhưng mở mồm ra là
khoe tài cái thứ tiếng Tây bôi, ghép từng tiếng một lại thành câu nói, đôi khi
pha thêm cả tiếng Việt với những giọng điệu ngô nghê mà lại rất ngông nghênh.
Hãy xem một công tử bột hỏi mua bò của một ông lão
nhà quê:
Mõa vợt át-sờ-tê bớp (moi veux acheter boeuf: Tôi
muốn mua bò).
Sau một hồi chủ giá cao, khách giá thấp, cuộc mua
bán không thành, chàng công tử nhìn đồng hồ, nói:
Đã lông tăng, ông giơ đít mi nút rồi, về. (Đã
longtemps, onze heures dix minuttes rồi, về thôi: Đã lâu rồi, mười giờ mười
phút rồi, về) khiến ông già nhà quê hiểu lầm cậu nói rằng sẽ giơ đít ra đút ông
vào rồi về.
Và đây, lời ru con củSa một me Tây khi anh chồng Tây
về nước:
Cút-xê
đồng, mông se pơ-tí
Manh-tơ-nằng,
phi-ní pa-pa!
(Ngủ đi,
con yêu của mẹ/ Giờ đây hết cha rồi)
Hiển
nhiên cái thứ tiếng Tây bồi ấy không được dân ta chấp nhận, vì nó là hình ảnh
chân thật của những hạng người kể trên chứ không phải là hình ảnh chân thật của
người bình dân. Trong khi người bình dân gọi Bức điện tín là Dây Thép hay
là Tê-Lê-Gầm, Sở cảnh binh Commissariat de Police là sở Cẩm, cảnh binh người
Việt Nam cũng gọi là ông cò… thì những ngôn từ ấy trở thành tiếng
nói thông dụng của cả cộng đồng.
Có những nhà văn thực tài, khi viết sai chính tả lại
trở thành cách viết đúng như Giông tố, tên cuốn tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng
mà viết đúng ngữ
vựng phải là Dông tố. Ông vua phóng sự Bắc Kỳ còn có hai
cum từ khác trở thành những cụm từ hóm hỉnh, sâu sắc, đầy ẩn nghĩa, có thể áp
dụng trong nhiều hoàn cảnh, và chúng đã trở nên những thành ngữ trong
tiếng Việt như Em chã! Em chã! và Biết rồi! Khổ lắm nói mãi.
Thơ Bút Tre chính gốc hay trường phái Bút Tre về sau, nếu
xét về ngữ vựng, đặt câu, chấm câu, sửa dấu ép vần pha lẫn chút mỉa mai dung
tục rõ ràng là lệch chuẩn. Vậy mà nhiều người Việt, dù ở bất cứ nơi nào trên
thế giới tự dưng đều thuộc dăm ba câu thơ Bút Tre, thuộc mà không biết vì sao
thuộc:
Chị em nô nức đặt vòng
Hoa mồ liệt sĩ tỏ lòng biết ơn
Về dịch
thuật hay còn gọi là chuyển ngữ, ta thấycùng một truyện ngắn của Pautovsky
nhưng năm 1953 trong Hà Nội tạm chiếm, Thái Duy dịch qua bản tiếng Pháp là Mưa
về sáng. Năm 1961, trong Hà Nội giải phóng, Vũ Thư Hiên dịch theo
bản tiếng Nga là Bình minh mưa. Cả hai tên dịch đều đúng nghĩa và đều hay, sao
gọi là loạn chuẩn dịch!
Xem vậy,
có năm bảy loại Tiếng Việt trong cùng một thời đại. Nhưng qua sàng lọc, chỉ
những tiếng Việt nào trở thành ngôn ngữ đại chúng thì mới được hoan
nghênh, có thời gian sống lâu dài thậm chí là bất tử.
Trở
lại hiện tượng loạn chuẩn trong cách dùng tiếng Việt hiện nay trong nói và
viết. Theo tôi, đó là sự thế không thể khác được, in như câu nói “Đã thế thế thời thời phải thế”.
Bởi
lẽ, người Việt có đặc tính rất ham chạy theo “thời trang” ngôn
ngữ. Chào hỏi nhau, khi ảnh hưởng văn hóa Trung hoa thì “nỉ hảo”, khi
thuộc Pháp thì “bonjour”, giờ tiếng Anh phổ biến toàn cầu thì
“hello”. Chia tay nhau cũng thế, hết thời “tái kiến” thì sang “au
revoir” và bây giờ là “goodbye”. Lời cảm ơn cũng vậy, không “đa tạ”
theo anh Tàu nữa thì “mét xi” theo anh Tây và giờ đây “thanh kiu” bắt chước cho
đúng thời trang Ăng lê !
Đối
với một số người Việt, đặc biệt là giới trẻ, nói được vài câu tiếng nước
ngoài hay nói tiếng Việt pha trộn tiếng nước ngoài là một cách thể
hiện “đẳng cấp” dù sự thật đắng lòng đẳng cấp đó chính là một
sự là sự lai căng, đúng như một ca từ trong nhạc Trịnh:
Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu
Một trăm năm đô hộ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngày
Gia tài của Mẹ, một bọn lai căng
Gia tài của Mẹ, một lũ bội tình
Teen
(Teenager) không phải là lớp tuổi đang có xu hướng dùng tiếng Việt theo
cách giản tiện nhất như pha thêm tiếng Anh và bớt các thành tố như: iu (yêu),
pùn (buồn), mún (muốn), lam wen all member (làm quen với mọi người)... tạo
ra những tiếng lóng lệch chuẩn tiếng Việt mà những từ tiếng Anh đó lại xuất
hiện khá thường xuyên trên báo Việt Nam! Mà giới báo chí cũng không
phải là những người duy nhất truyền bá loại ngôn ngữ nửa ta nửa tây
đó. Những tiếng như tv, shoping ,“đi shopping”, mail thì
hầu như cả ông già bà cả nghe cũng hiểu và cũng đã nói quen miệng. Nhà báo Kim
Dung Kỳ Duyên, trên trang blog được khá nhiều người truy cập hàng ngày của
mình, cũng luôn luôn dùng từ “iu” thay cho tiếng “yêu” khi đăng tải một bài của
bạn bè gửi lên với lời mào đầu:
Kim Dung: Bạn
bè iu quí gửi cho bài thơ này của nhà thơ…
Ngay
giữa Bờ Hồ, cạnh đền Ngọc Sơn: Thăng Long - Hà Nội viết thành Thăng long, Hà
nội, tên báo Vietnamnet, cũng không viết hoa tên nước
Rồi
đặt tên là VTC News, InfoTV. Rồi gọi là MC… Và hàng ngàn câu chữ
viết sai chính tả sai ngữ pháp trên báo giấy, báo mạng, các bản biên tập của
các nhà đài.
Trên
mạng hiện đã hình thành một nhóm chủ trương viết lách theo ngôn từ BỰA và các
trang của họ rất được rất đông người đọc và tham gia phản hồi cũng rất bựa.
Nhưng lọc bỏ những cái gọi là bựa ấy đi có thể tìm thấy bên dưới nó khá nhiều
điều bổ ích và lý thú.
Cho
nên, bác Vy cương quyết “không chấp
nhận cách phát âm ngọng, cách viết "vô ngữ pháp" của những người
không được học ngữ pháp một cách căn bản kể cả những người có cương vị và chức
vụ cao”, thì chỉ còn cách tốt nhất là bác không đọc gì nữa, không nghe gì
nữa mà thôi !
2/ Tôi thấy hai bác có vẻ như tâm đắc với bài viết của Nguyễn Vĩnh Nguyên?
Nguyễn
Vĩnh Nguyên, nhà văn-nhà báo sinh năm 1979, tốt nghiệp ngành Ngữ văn Sư phạm,
Đại học Đà Lạt năm 2001. Được biết đến nhiều hơn khi có quyết định thu hồi tập
truyện ngắn “Ở lưng chừng nhìn xuống đám đông” với lý do: Truyền bá lối sống
dâm ô trụy lạc, không phù hợp với thuần phong mỹ tục Việt Nam” mà
thực ra đây chỉ là một tập truyện ngắn khó đọc.
Bài viết
của Nguyễn Vĩnh Nguyên chỉ là một bài báo viết cho Ngày sách Việt Nam (21-4), cho
nên không lấy làm lạ khi tác giả tung việc đọc sách lên tận chín tầng mây. Tác
giả có đưa ra một nhận định khá chính xác về tình trạng đọc của người Việt hiện
nay:
“Đọc mọi lúc mọi nơi qua thiết bị di động đã
trở thành trào lưu phổ biến”
Nói theo
ngôn từ của teen, nhận định đó chuẩn"CMNR" (chuẩn con mẹ nó
rồi). Nhưng sau cái chuẩn “CMNR” đó, tác giả đã hạ một câu hơi bị cường điệu:
“Đọc như thể ngừng đọc là lập tức lăn ra chết”
Và có
phần thái quá khi miệt thị chữ nghĩa trên các thứ không phải là sách in trên
giấy, gọi chúng là những dòng status rời rạc, phân mảnh, không đem lại cho
người đọc “vẻ đẹp ngữ nghĩa và bao
trùm là khát vọng được hiểu về ngoại giới và nội tâm”. Rồi bỉ bai
những người đọc những thứ đó: “Chúng
ta đang đọc mọi lúc mọi nơi đó chứ. Lúc nào chúng ta cũng đang đọc cái gì đó
nhưng thật ra... chẳng đọc gì cả!”
Hai bác
thử nghĩ lại xem trong khoảng 10 năm trở lại đây, hai bác đã đọc được bao nhiêu
cuốn sách in mang lại cho mình cái vẻ đẹp ngữ nghĩa và những khát vọng được
hiểu về ngoại giới và nội tâm. Hai bác cũng điểm lại xem đã đọc bao nhiêu bài
trên các trang mạng, bao nhiêu cuốn sách được đưa lên mạng, những trang mạng
rất hữu ích như Vn thư quán, Ebook, Gác sách… Và gần hơn là trang vanhaiphong.com mà tôi rất cần khi đọc lại các tác giả
nước ngoài như Lỗ Tấn, Alexander Pushkin, Anton Chekop, Pautovsky… Đọc những cái này, các bác có thấy tốn thì giờ vô bổ
không?
Sách in
đâu phải cuốn nào cũng dễ mua vì giá cả quá cao so với túi tiền eo hẹp của
số đông độc giả không chỉ người nhà quê ở nông thôn mà kể cả đội ngũ trí thức ở
thành thị.
Sách
cũng đâu phải cuốn nào cũng đem lại cho người đọc những cái đẹp lý tưởng như
Nguyễn Vĩnh Nguyên đã nêu. Hàng loạt sách có nội dung
không lành mạnh đang là văn hóa độc hại gián tiếp xâm nhập tâm
hồn người đọc, cả người lớn lẫn trẻ em. Nhiều loại “sách dạy làm
người” nhưng lại khuyến khích trẻ làm điều ác; truyện cổ tích nhưng lại vẽ hình
kinh dị, phản cảm; trắc nghiệm IQ cho trẻ nhưng câu hỏi và đáp án đều nhảm
nhí...
Tôi
không phủ nhận giá trị của việc đọc sách. Nhưng tôi cũng không tán thành việc
chê bai lướt web đọc tin, đọc báo, đọc mọi lúc mọi nơi qua thiết bị di
động, Nhiều người đã nhờ máy tính, đọc trên máy tính qua Google, Youtube,
Facebook…mà tích lũy được rất nhiều kiến thức, sáng tạo được nhiều sản phẩm làm
giàu cho mình và cho xã hội.
Chiếc
điện thoại đơn giản rẻ tiền chỉ giúp người ta a lô và nghe a lô. Nhưng cái
Smartphone lại có nhiều ứng dụng hữu ích cho người dùng.Thấy người ta chúi
mắt vào smart phone ở đâu đó đừng nói rằng người ta đang “đọc thụ động” một cái gì đó nhưng thật ra... chẳng
đọc gì cả!
Nguyễn
Vĩnh Nguyên chắc chắn cũng có Máy tính và Smarphone! Và anh ta cũng nhờ chúng
để làm ăn viết lách.
Cũng
phải chiều ngày thứ tư của tuần này, tôi mới có thì giờ TRAO ĐỔI DÀI…DÀI với
hai bác những ý nghĩ của riêng tôi về vấn đề bác Vy tung và bác Hải đã hứng.
Chúc hai
bác đọc được nhiều sách hay, bất kỳ là sách trên net hay sách in, đọc say sưa
và đáng yêu như người đẹp đọc sách trong ảnh này !
Mời thư giãn với nhạc phẩm ĐẤT NƯỚC LỜI RU
của Văn Thành Nho, qua tiếng hát Nghệ sĩ Nhân dân Thu Hiền:
*
NGUYỄN BÀNG
Địa chỉ: Thành phố Sài Gòn
Email: bnguyen37@gmail.com
.
.
........................................................................................
- Cập nhật theo nguyên bản tác
giả gửi qua email ngày 02.04.2018.
- Bài viết không thể hiện quan
điểm của trang blog Đặng Xuân Xuyến.
- Vui lòng ghi rõ
nguồn dangxuanxuyen.blogspot.com khi trích đăng lại.
.
0 comments:
Đăng nhận xét